Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và hướng phát triển của nó trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.33 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
CHƯƠNG 1.......................................................................................................................3
NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ SỨ MỆNH lịch sử.............................................................3
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN.......................................................................................3
CHƯƠNG 2.....................................................................................................................12
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA..........................................................................................................12
B. KẾT LUẬN................................................................................................................23
C. Tài liệu tham khảo......................................................................................................25


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đấu tranh giai cấp để xây dựng một xã hội văn minh hạnh phúc và
giàu mạnh qua các thời kỳ để chứng tỏ giai cấp Công nhân là giai cấp tiên tiến
nhất, đại diện cho các giáo tầng khác trong xã hội.
Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên
Xô, nhiều người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân. Bọn cơ hội và các thế lực chống cộng có cơ hội mới để phủ nhận
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy vấn đề là sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, nhất là trong bối cảnh lịch sử mới đang được đặt ra một cách bức thiết trên
cả phương diện lý luận lẫn thực tế.
Trong công cuộc hiện nay, công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa diễn
ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở thời kỳ thoái trào, thời đại ngày
nay vẫn đang là thời đại quá độ từ Chủ nghĩa Tư Bản lên Chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới còn đang có nhiều biến động và tiêu cực. Thì vấn đề làm
sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra càng bức thiết hơn
bao giờ hết, kể cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn.


Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử vô cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ,
lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải
phóng toàn nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Ngày nay đứng trước tình hình
phát triển mới của đất nước và thế giới, nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới,
nhiều ý kiến đặt ra cho việc xây dựng và phát triển giai cấp công nhân. Đảng ta
khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước. Vì thế, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc mà đây còn là mộ trong những đề tài nghiên cứu khoa học
của nhiều nhà lý luận, nhà nghiên cứu lịch sử và của nhiều thế hệ công nhân,

1


sinh viên. Vì vậy, bản thân tôi mạnh dạng chọn đề tài “sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân và hướng phát triển của nó trong quá trình công nghiệp hóahiện đại hóa ở nước ta hiện nay”
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ nhận thức và tầm hiểu biết của sinh viên về lý luận
về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và hướng phát triển của nó trong quá
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.
Đi sâu phân tích, nghiên cứu có hệ thống các quan điểm và liên hệ thực tế
tình hình giai cấp công nhân ở Việt Nam trong sự nghiệp CNH-HĐH
3. Giới hạn của đề tài
Đề tài nằm trong phạm vi nghiên cứu sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
trong sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tìm hiểu, khái quát đề tài.
Sưu tầm sách báo nói về sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân trong sự
nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa.

Kết hợp phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
5. Đóng góp của đề tài
Thông qua đề tài này chúng ta sẽ thấy rõ hơn nhiệm vụ, vai trò cũng như
sứ mệnh trọng đại của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
6. Kết cấu đề tài
Đề tài gồm 2 chương , 5 tiết.

2


CHƯƠNG 1
NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là
xóa bỏ chế độ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng
hoàn toàn giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại thoát
khỏi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản văn minh.
Ph.Ănghen viết: “Thực hiện sứ mệnh giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh
của giai cấp vô sản hiện đại”. V.I.Lênin cũng chỉ rõ: “Điểm chủ yếu trong học
thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới giai cấp vô sản
là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”.
Theo lý luận của C.Mác, giai cấp công nhân trước hết phải là sản phẩm của
nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Sự trưởng thành của giai cấp công nhân phải
gắn liền với sự phát triển của nển sản xuất đại công nghiệp, với ý nghĩa đó, giai
cấp công nhân phải là những người thực sự có trình độ chuyên môn và năng lực
trí tuệ cao, bộ phận ưu tú và là lực lượng tiên phong nhất so với giai cấp và các
tầng lớp khác của xã hội. Có thể hiểu một cách tổng quát, đó là giai cấp công
nhân trí thức. Chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, do quy luật phát triển
không đồng đều của chủ nghĩa tư bản gắn đặc điểm của thời kỳ này. V.I.Lênin

đã phát hiện ra qui luật đặc thù của cách mạng vô sản. Người chỉ ra rằng cách
mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi thậm chí ở một nước công nghiệp chưa
phát triển trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, ngay sau khi cách mạng
vô sản giành thắng lợi, để thiết lập nền chuyên chính ấy không thể là của toàn bộ
giai cấp công nhân nói chung, nó là của bộ phận công nhân ưu tú và tiên tiến
nhất: công nhân công nghiệp, công nhân thành thị, Người viết: “Nhân tố đảm
bảo thắng lợi của chuyên chính vô sản, xét đến cùng, chính là ở năng suất lao

3


động cao và tiêu chí về một nền dân chủ kiểu mới hơn hẳn, vượt trội so với chủ
nghĩa tư bản”.
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi
nữa thì theo Mác và Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
- Về phương thức lao động,phương thức sản xuất, đó là những người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp
ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
- Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ yếu, đó là những người lao
động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà
tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Tiêu chí thứ hai này nói lên một trong những
đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản nên Mác và
Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
* Định nghĩa giai cấp công nhân
Xuất phát từ khái niệm của Mác và Ăngghen có thể định nghĩa giai cấp
công nhân như sau: Giai cấp công nhân là tập đoàn người ổn định, hình thành và
phát triển gắn liền với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và nền kinh
tế tri thức ngày càng phát triển với trình độ xã hội hóa cao và rộng lớn; là lực
lượng sản xuất cơ bản và tiên tiến của thời đại nay là giai cấp thống trị về chính

trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự
nghiệp sáng tạo ra xã hội mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu toàn bộ
các giai cấp…
Từ cách tiếp cận như trên có thể định nghĩa giai cấp Việt Nam như sau:
Giai cấp công nhân Việt Nam là một tập đoàn người, mà lao động của họ gắn
với sản xuất kinh doanh, dịch vụ công nghiệp hiện đại, thu nhập chủ yếu của họ
bằng làm công ăn lương, là lực lượng sản xuất chủ yếu và là lực lượng lãnh đạo
sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa gắn liền với sự phát triển nền kinh tế trí

4


thức vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
1.2. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân :
Một trong những phát hiện vĩ đại của Mác, Ăngghen là đã sớm biết tách
riêng giai cấp vô sản ra đời từ khối quần chúng bị áp bức, phát hiện ra vị trí đặc
biệt và những xu hướng lịch sử của nó. Từ đó khẳng định sứ mệnh lớn của Giai
cấp vô sản và chỉ ra những phương pháp thực hiện sứ mệnh đó.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử của Giai cấp công nhân là một trong những vấn
đề chủ yếu nhất của chủ nghĩa Mác- Lênin. Nó đã được Mác, Ăngghen luận
chứng một cách khoa học xuyên suốt trong nhiều tác phẩm và được Lênin tiếp
tục phát triển trong những điều kiện lịch sử mới.
Ngay từ cuối năm 1944, trong tác phẩm “góp phần phê phán triết học”
Pháp quyền của Hê-Ghen, lần đầu tiên Mác đã nêu lên vấn đề sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản là những điều kiện mà qua đó nó xóa bỏ mối quan hệ bóc lột
Tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ xã hội mới. Đến bản “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản” và bộ “Tư bản” thì lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
đã phát triển đến một mức độ nhất định. “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” là
một khái quát về lý luận phong trào Tư bản chủ nghĩa vạch rõ cơ sở kinh tế của

cơ cấu xã hội và những xu hướng tiếp tục phát triển của nó, đặt cơ sở cho việc
giải thích vai trò của giai cấp công nhân trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đến thời kì này, nhiều phạm trù, khái niệm cơ bản nhất đã được xác lập và sau
đó được tiếp tục phát triển.
Trong điều kiện mới Lênin đã phát triển lý luận Maxit về giai cấp công
nhân như là: “điều chủ yếu của học thuyết Mác”. Trong tất cả mọi giai đoạn đấu
tranh vì một thế giới mới, vì chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân là lãnh tụ
của phong trào cách mạng, là người lãnh đạo của nhân dân lao động”. Lênin đã
cụ thể hóa sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong điều kiện của cách mạng vô
sản và chuyên chính vô sản.

5


Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
được thể hiện ở một số luận điểm cơ bản sau:
+ Giai cấp công nhân là người đào mộ chôn chủ nghĩa tư bản và người sáng
tạo ra xã hội mới.
+ Giai cấp công nhân là lãnh đạo trong phong trào cách mạng giải phóng
của quần chúng bị áp bức trong xã hội hiện tại.
+ Lợi ích giai cấp tư sản và vô sản là đối lập và không điều hòa được. Cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là tất yếu và sẽ dẫn đến
chuyên chính vô sản.
+ Giai cấp vô sản phải hiểu rõ sứ mệnh của mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin là
điều kiện ắt có, cơ bản để giai cấp vô sản từ giai cấp “tự nó’ chuyển thành giai
cấp”vì nó”.
+ Sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu khách quan, Đảng Cộng sản là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và là
nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản” vai
trò, sứ mệnh của giai cấp vô sản” luôn là vấn đề trung tâm trong suốt một cuộc

đấu tranh chính trị- tư tưởng lâu dài và quyết liệt từ khi chủ nghĩa Mác- Lênin ra
đời và các giai đoạn phát triển sau đó.
Hình thức khá phổ biến của sự phủ nhận vai trò của giai cấp vô sản là sự
công kích khái niệm khoa học của Mác, Ăngghen về giai cấp và giai cấp vô sản.
Một số người nêu lên tư tưởng “phi kinh tế” về giai cấp để xóa mờ quan niệm
của chủ nghĩa Mác cho rằng giai cấp vừa là phạm trù kinh tế vừa là một phạm
trù xã hội. Không thể khẳng định giai cấp vô sản một cách tủy tiện, không tính
đến vấn đề chiếm hữu – sở hữu tư liệu sản xuất, hơn nữ lại chỉ coi đó là một
hiện tượng tâm lý. Một số người khác lại cho rằng không có một giai cấp công
nhân được xác định rõ rang. Điểm tựa của những luận điểm xuyên tạc phạm trù
giai cấp nói trên là ở chỗ không xem quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất như là một
tiêu chuẩn khách quan để xem xét sản xuất.

6


Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học – kỹ thuật
và những hệ quả mà nó tạo ra, một lập luận phổ biến chống lại sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân cho rằng lý luận Mác – Lênin về vấn đề này là lỗi thời, giai
cấp vô sản sẽ bị xói mòn, thậm chí tiêu vong trước sự phát triển của cách mạng
Khoa học kỹ thuật. Theo họ, cuộc cách mạng Khoa học kỹ thuật đã và đang tạo
ra những biến đổi sâu sắc trong sự phân công lao động xã hội, hiện tượng “trí
thức hóa lao động” phát triển mạnh tỷ lệ lao động ngày càng tăng cao hơn so với
lao động chân ta, cơ cấu xã hội chủ nghĩa xã hội sẽ thay đổi mạnh.
Họ cũng cho rằng vai trò kinh tế của giai cấp công nhân sẽ giảm dần và
trong tương lai, giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà lý luận tư sản khác
tuy không đồng ý rằng giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà lý luận tư sản
khác tuy không đồng ý rằng giai cấp công nhân sẽ biến mất, nhưng lại cho rằng
giai cấp công nhân không còn là nhân vật chủ yếu của lịch sử.
Cách mạng khoa học kỹ thuật có đem đến những biến đổi trong phân công

lao động xã hội trong nội dung, phương thức lao động, trong thành phần giai cấp
vô sản. Thế nhưng điều đó hoàn toàn “không xóa mờ” quan hệ sản xuất Tư bản
chủ nghĩa và mâu thuẫn giữa lao động với tư bản. Trí thức không là một giai cấp
mà chỉ là một tẩng lớp đặc biệt thuộc nhiều giai cấp khác. Sự ngăn cách giữa lao
động chân tay và lao động trí óc là một sai lầm về lý luận. Cách mạng khoa học
kỹ thuật làm cho thành phần giai cấp công nhân thêm đa dạng, bao gồm cả lao
động chân tay và lao động trí óc, lao động trong khu vực sản xuất vật chất và
dịch vụ…. Quá trình trí thức hóa phát triển sẽ có thể đưa tới một tầng lớp đặc
biệt trong giai cấp công nhân chứ không hề xóa bỏ giai cấp công nhân. Nhìn
chung cách mạng Khoa học kỹ thuật sẽ làm cho giai cấp công nhân phát triển cả
về số lượng lẫn chất lượng.
Ngày nay, sau sự sụp đổ của mô hình Chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước, các
nhà lý luận tư sản lại một lần nữa cao giọng cho rằng họ đang nói “những lời
cuối cùng cho Mác” (“the last words to Mark”) và cho lý luận về sứ mệnh lịch

7


sử của giai cấp công nhân. Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở một số
nước vừa qua không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác và lý luận về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. Trái lại, ở nhiều nguyên nhân của cuộc khủng
hoảng sự sụp đổ đó là xuất phát từ chỗ không nắm vững vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân và không thực hiện chuyên chính vô sản một cách đúng đắn, mơ
hồ về mâu thuẫn giai cấp trên bình diện thế giới.
1.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.3.1 Những điều kiện khách quan cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.
- Nền Công Nghiệp ngày càng hiện đại ở cả trong Chủ nghĩa tư bản và Chủ
nghĩa xã hội đã tạo ra một cách khách quan cho giai cấp công nhân có những
đặc điểm cơ bản mà không giai cấp tầng lớp nào có được, kể cả trí thức. Chủ

nghĩa Mác- Lênin nhận định rằng, giai cấp công nhân vừa là sản phẩm của công
nghiệp hiện đại, vừa là chủ thể cơ bản nhất là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của
xã hội hiện đại.
- Nền Công Nghiệp hiện đại vừa đòi hỏi giai cấp công nhân nâng cao trình
độ không ngừng, vừa là điều kiện trực tiếp cung cấp ngày càng nhiều nhận thức
văn hóa, khoa học, công nghệ, công tác- xã hội…cho giai cấp công nhân.
- Nền Công nghiệp hiện đại ngày càng phát triển, làm biến đồi cơ cấu kinh
tế, kỹ thuật của từng bộ phận, nông nhân, trí thức tiến bộ…cũng biến đổi theo
hướng ngày càng gắn bó với giai cấp công nhân, “gia nhập” giai cấp công nhân,
làm cho giai cấp công nhân ngày càng đông đảo và hiện đại hơn.
- Trong chế độ Tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn khách quan giữa lực lượng
sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân Tư bản chủ
nghĩa về Tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này biều hiện ra thành mâu thuẫn ngày
càng ngay gắt, không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ chế độ Tư bản chủ
nghĩa. Điều này tất yếu dẫn đến Cách mạng Xã hội chủ nghĩa, thay đổi chế độ
xã hội về bản chất thì mới giải quyết triệt để mâu thuẫn nói trên. Lãnh đạo tổ

8


chức và thực hiện Cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Từ sự phân tích nêu trên cho thấy từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội
là tất yếu lịch sử. Tuy nhiên, những nước chưa qua chế độ Tư bản chủ nghĩa
chưa có nền Công nghiệp hiện đại, chưa có Lực lượng sản xuất phát triển cao thì
những nước này vừa nằm trong tính tất yếu chung của thời đại – thời đại quá độ
từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội , vừa có tính quy luật đặc thù- tính tất
yếu từng bước thực hiện quá độ lên Chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ Tư bản chủ
nghĩa”. Tính tất yếu đặc thù này không chỉ được quy định bởi nhiều yếu tố khác
mông tính tổng hợp sau đây:

+ Trong điều kiện thời đại ngày nay, thời đại cách mạng Khoa học - Công
nghệ, làm cho lực lượng sản xuất xã hội xã hội hóa cao theo xu hướng “Quốc tế
hóa” một cách phổ biến, các nước Xã hội chủ nghĩa chậm phát triển về mặt kinh
tế có cơ hội hợp tác quốc tế ngày càng lớn.
+ Đã có những nước có nền công nghiệp hiện đại thực hiện thắng lợi cách
mạng Xã hội chủ nghĩa, bước đầu Chủ nghĩa xã hội…như một trào lưu thế giới
mới, có cả những kinh nghiệm lịch sử về thành tựu và về sai lầm.
+ Có phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc
ngày càng cao, giải quyết mâu thuẫn giữa Chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc bị
áp bức.
+Hệ tư tưởng Mác – Lênin đã ảnh hưởng sâu rộng đối với mỗi dân tộc và
đối với toàn cầu. Đã hình thành Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nề tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, được cả dân tộc tin cậy, thừa
nhận là lãnh tụ chính trị. Do đó, Đảng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi
đến thắng lợi hoàn toàn chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.

9


1.3.2 Nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
- Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về nội dung sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và
thực tiễn. Bởi vì, những nguyên lý cơ bản đó được chủ nghĩa Mác – Lênin khái
quát từ thực tiễn sản xuất, kinh tế và phát triển trong Chủ nghĩa tư bản gắn với
sự phát triển của nền công nghiệp ngày càng hiện đại, có thể khái quát nội dung
cơ bản sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân qua mấy điểm sau đây :
* Một là, ngay trong Chủ nghĩa tư bản hàng thế kỷ nay, cũng như trong
Chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân trước hết phải được đảm nhận sứ mệnh
trực tiếp là chủ thể lao động sản xuất công nghiệp để đóng góp cho xã hội những

sản phẩm vật chất và tinh thần ngày càng hiện đại hơn. Tách rời sản xuất công
nghiệp, giai cấp công nhân không còn là mình nữa. Những thành tựu to lớn về
sản xuất Chủ nghĩa tư bản hàng thế kỷ nay và những thành tựu bước đầu trong
xây dựng Chủ nghĩa xã hội đều có sự đóng góp rất to lớn và quyết định nhất của
giai đoạn công dân. Số lượng và chất lượng giai cấp công nhân ngày càng tăng.
Cả trong Chủ nghĩa tư bản và trong chủ nghĩa xã hội, nếu để giai cấp công nhân
không có việc làm, không phát triển sản xuất công nghiệp hiện đại thi công là
gạt bỏ một nội dung cơ bản nhất của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nghiệp. Chủ
nghĩa xã hội đang và sẽ từng bước khắc phục tình trạng thất nghiệp, thiếu việc
làm và nghèo khổ của giai cấp công nhân, điều mà do bản chấ của mình, chế độ
Tư bản chủ nghĩa qua 4 thế kỷ nay đã không giải quyết được.
* Hai là, giai cấp công nhân phải có những hoạt dộng chính trị, tư tưởng, tổ
chức để thông qua Đảng của mình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền,
xóa bỏ chế độ kinh tế - chính trị và xã hội cũ, bảo vệ chính quyền mới của mình.
* Ba là, giai cấp công nhân thông qua Đảng của mình lãnh đạo toàn xã hội
trên lĩnh vẹc chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội … nhất là về kinh tế, để từng
bước hình thành và phát triển xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Đây là nội dung cơ bản nhất quyết định nhất, phức tạp và lâu dài nhất

10


trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Không thể nhận thức và hoạt
động chủ quan, duy ý chí, giản đơn, nóng vội … cũng không thể mơ hồ, hữu
khuynh dẫn đến tự phát Tư bản chủ nghĩa.
* Bốn là, giai cấp công nhân ở mỗi nước luôn luôn mở rộng và tăng cường
hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở tất cả các nước vì
hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây là nội dung thể hiện bản
chất quốc tế của giai cấp công nhân.
* Năm là, giai cấp công nhân và Đảng cộng sản thường xuyên đấu tranh

chống mọi thứ chủ nghĩa cơ hội, bọn phản động, đấu tranh chống lại mọi thế lực
thù địch của nhân dân với Chủ nghĩa xã hội.

11


CHƯƠNG 2
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
ĐẤT NƯỚC ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
2.1. Thực trạng Giai cấp Công nhân Việt Nam trong sự nghiệp Công nghiệp
hóa- Hiện đại hóa
Giai cấp công nhân nước ta hiện nay có khoảng 4.53 triệu người chiếm 6%
dân số. Về cơ cấu thành phần kinh tế, công nhân trong các doanh nghiệp Nhà
nước từ chỗ là đại diện cho toàn bộ giai cấp công nhân trong thời kỳ trước đổi
mới nay chỉ giữ một số lượng và tỉ lệ thấp hơn (1.83 triệu, chiếm 40%) so với
công nhân ngoài nhà nước (2.86 triệu, chiếm 59.2%). Tỷ lệ công nhân Nhà nước
tỷ lệ nghịch với tốc độ và quy mô đổi mới, doanh nghiệp Nhà nước đang diễn ra
mạnh mẽ trong những năm gần đây dưới sức ép của nhu cầu nâng cao hiệu quả
kinh doanh và năng lực cạnh tranh của kinh tế quốc tế. Hiệu quả tất yếu nhưng
không mong muốn của tiến trình này là hiện có hơn 150.000 người vốn là công
nhân Nhà nước nay thuộc dạng dư dôi thất nghiệp. Cơ cấu thành phần của công
nhân rất phức tạp, có những người vừa làm Nhà nước vừa làm tư nhân mang
danh là công nhân nhưng lại sống bằng nghề phụ, kinh tế hộ cá thể.
Về cơ cấu ngành nghề: giai cấp công nhân nước ta thường làm việc trong
ngành nghề truyền thống: luyện kim, cơ khí, điện. Trong thời kỳ đổi mới, công
nhân làm trong các ngành dịch vụ (giao thông vận tải, bưu điện viễn thông, ngân
hàng) đã tăng lên nhanh cùng với tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đáng chú ý là đã xuất hiện một bộ phận mới dù chiếm tỷ lệ nhỏ đó là công
nhân tri thức, những người có tri thức và có kỹ năng cao, tạo ra những sản phẩm

dịch vụ có hàm lượng giá trị tăng cao như tư vấn thiết kế, quản lý chất lượng

12


đồng bộ. Số lượng công nhân có trình độ đại học, cao đẳng ở nước ta chiếm trên
150.000 người (khoảng 33%).
Về kinh tế: ngoài bộ phận nhỏ công nhân tri thức có thu nhập cao, bộ phận
công nhân trong các doanh nghiệp Nhừ nước có một sô lĩnh vực có tính độc
quyền có mức thu nhập khá, còn lại phần lớn công nhân nước ta có mức thu
nhập thấp.
Về chính trị - xã hội: công nhân có địa vị bằng tầng lớp tri thức, tầng lớp
công chức. Ngay trong doanh nghiệp Nhà nước, quyền lực và vai trò của công
nhân còn bị hạn chế. Trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, tổ chức Đảng và các tổ chức thiếu hụt hoặc bị hạn chế hoạt động,
công nhân thường bị giới chủ chèn ép, quản lý chặt chẽ, hoặc rất ít khả năng đấu
tranh với các ông chủ dù chỉ là bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Tuy nhiên, hiện nay giai cấp công nhân còn một số hạn chế. Đó là sự phát
triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng cơ cấu và trình
độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ
thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân hành nghề. Tác phong công nghiệp và kỹ
thuật lao động còn nhiều hạn chế. Đa phần công nhân từ nông dân mà ra, chưa
được đào tạo cơ bản và có hệ thống.
Một số bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Địa vị
chính trị của giai cấp công nhân chưa được thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân
còn hạn chế và phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân chưa đồng đều, sự
hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ Đảng viên và cán bộ

lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp.
Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt
động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Nhìn tổng quát, lợi ích một bộ phận

13


công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi
mới và những đóng góp của chính mình, việc làm, đời sống vật chất tinh thần
của công nhân đang có nhiều khó khăn, đặc biệt ở bộ phận công nhân lao động
giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
Nguyên nhân của chính tình hình trên: quá trình đổi mới phát triển kinh tế
xã hội đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của giai cấp công
nhân. Tuy nhiên những hạn chế yếu kém trong phát triển kinh tế xã hội cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống và tư tưởng, tình cảm của công nhân.
Đảng có chú trọng đến giai cấp công nhân nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa
ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới. Nhà nước
ban hành nhiều chính sách pháp luật xây dựng giai cấp công nhân, nhưng những
chính sách pháp luật này vẫn nhiều hạn chế bất cập.
Công cuộc đổi mới đất nước, định hướng Xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi
xướng và đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Giai cấp
công nhân đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là việc xây dựng xã hội
mới, nhất là việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Đó là bằng chứng chỉ rõ năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân
nước ta, vai trò không có lực lượng xã hội nào có thể thay thế được trong sự
nghiệp…. “lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng một xã hội mới, trong đó
nhân dân lao động làm chủ đất nước phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc”.
2.2. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm củng cố và phát triển giai cấp

công nhân hiện nay.
Xuất phát từ lịch sử, truyền thống và thực trạng của giai cấp công
nhân Việt Nam, từ yêu cầu mới của sự nghiệp Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải xác định phương hướng
giải pháp chủ yếu nhằm củng cố, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam một

14


cách toàn diện và đồng bộ, Công nghiệp hóa- hiện đại hóa cũng không đơn
thuần chỉ là vấn đề thay đổi kỹ thuật sản xuất, mà là một quá trình phát triển đất
nước một cách toàn diện và bền vững. Điều đó thể hiện trong các quan điểm,
chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam nhất là từ nghị quyết hội nghị giữa nhiệm kỳ (khóa VII) của Đảng, nghị
quyết hội nghị lần thứu VII, BCH TW khóa VII và nghị quyết đại hội VIII của
Đảng. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ để thực hiện thắng lợi mục tiêu "đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại", mục
tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020 là:
Theo Nghị Quyết Số 20-NQ/TW Ngày 28/1/2008 Hội Nghị Lần
Thứ Sáu Ban Chấp Hành Trung Ương Khóa X: Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước
1- Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp
công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
Đổi mới tổ chức, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân, hướng vào giải đáp những
vấn đề thực tiễn đặt ra: về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; về vấn đề trí thức hoá giai
cấp công nhân; về công nhân tham gia sở hữu doanh nghiệp; về mối quan hệ

giữa giai cấp công nhân với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, đặc biệt là
trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; về
sự phân hoá và mối quan hệ trong nội bộ giai cấp công nhân; về vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thời kỳ mới; về tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng, các tổ chức chính
trị - xã hội trong các doanh nghiệp; về vai trò làm chủ của giai cấp công nhân,
quan hệ giữa người sử dụng lao động và nguời lao động; về mối quan hệ đoàn

15


kết, hợp tác giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân các nước
trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế; về những âm mưu, thủ
đoạn "diễn biến hoà bình" và tuyên truyên phản động của các thế lực thù địch
đối với giai cấp công nhân;... Qua đó cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để đề
ra chủ trương, giải pháp xây dựng giai cấp côngnhân phát triển toàn diện trong
thời kỳ mới.
2- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá
giai cấp công nhân
Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ,
công nhân từ nông dân, công nhân nữ, nhằm phát triển về số lượng, bảo đảm về
chất lượng, hợp lý về cơ cấu, để nước ta có một đội ngũ công nhân có trình độ
học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao, có khả năng tiếp thu
nhanh và làm chủ công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những nhà kinh doanh có tài, có
đức, các nhà quản lý giỏi và các cán bộ khoa học - kỹ thuật xuất thân từ công
nhân có trình độ cao, có khả năng tiếp cận với công nghệ và phương thức kinh
doanh hiện đại trong nền kinh tế thị trường, hội nhập. Quy hoạch nguồn nhân

lực, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có trình độ cao để đáp ứng
yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp mới, hiện đại. Chú trọng đào tạo đội
ngũ công nhân trong các dân tộc thiểu số, ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chú
trọng đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề. Có chính sách
để các thành phần kinh tế tham gia đầu tư các cơ sở đào tạo nghề với phương
tiện kỹ thuật hiện đại. Có chính sách khuyến khích liên kết các cơ sở đào tạo
nghề và các doanh nghiệp trong đào tạo, đào tạo lại.
3- Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh
thần dân tộc cho giai cấp công nhân

16


Cần nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính trị, ý thức
công dân, tinh thần dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tinh thần phấn đấu vươn lên
ngang tầm thời đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế
quốc tế, quyết tâm chiến thắng trong cạnh tranh, tinh thần đấu tranh xây dựng,
tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp,... cho công
nhân.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và hoạt động của tổ chức
công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đối với công tác tuyên
truyền, giáo dục trong công nhân; đảm bảo định hướng thống nhất nội dung và
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục từ Trung ương đến địa
phương, cơ sở.
Nhà nước đầu tư và có chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư (được tính vào giá trị đầu tư và hạch toán vào chi phí sản xuất) xây dựng
và hoạt động của các nhà văn hoá lao động, nhà văn hoá thanh niên, câu lạc bộ
công nhân, hệ thống truyền thông đại chúng, nơi sinh hoạt của tổ chức đảng, tổ

chức công đoàn, thanh niên, phụ nữ ở các khu công nghiệp tập trung.
4- Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách,
pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân;
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân
Rà soát, bổ sung, sủa đổi, xây dựng các chính sách, pháp luật về lao động,
việc làm và đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao thể chất cho công nhân; tập
trung trước hết vào những chính sách liên quan trực tiếp đến những vấn đề bức
xúc đang đặt ra về việc làm và đời sống của công nhân.
Bổ sung, sửa đổi, xây dựng các chính sách để phát huy các nguồn lực và
trách nhiệm của cả Nhà nước, người sử dụng lao động, các tổ chức chính trị - xã
hội, của toàn xã hội và của công nhân trong việc chăm lo cải thiện đời sống vật

17


chất, tinh thần cho công nhân tương xứng với năng suất lao động và những đóng
góp của công nhân. Nhà nước có chính sách đầu tư cho các tỉnh, thành phố để
xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi công cộng cho công nhân.
Đề cao trách nhiệm của nguời sử dụng lao động trong việc chăm lo lợi ích,
đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân; tính tự giác của người sử dụng lao
động và của công nhân trong thực hiện chính sách, pháp luật. Đồng thời tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước, tổ chức công đoàn và các tổ
chức chính trị - xã hội khác trong doanh nghiệp; có chế tài xử lý nghiêm các tổ
chức và cá nhân vi phạm.
5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công
đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng trong xây dựng giai cấp
công nhân.
Khẩn trương xây dựng và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả chiến lược về giai
cấp công nhân gắn với chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm các chủ trương,chính sách
lớn về đào tạo, trí thức hoá công nhân; về chuyển một bộ phận lớn lao động từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ; về vấn đề xuất khẩu lao động, kể cả ở
các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư kinh doanh ở nước ngoài; vấn đề tạo nguồn
để phát triển đảng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống
chính trị, trong quản lý sản xuất kinh doanh xuất thân từ công nhân; vấn đề nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân...
Phát huy mạnh mẽ vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà
nước để giai cấp công nhân là nòng cốt, cùng với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức, tăng cường liên minh công nhân - nông dân - trí thức, thực sự là nền
tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng giai cấp công
nhân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

18


Tăng cường lãnh đạo Nhà nước trong xây dựng và thực thi các chính sách,
pháp luật để xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh; giải quyết có hiệu quả
những vấn đề bức xúc của giai cấp công nhân.
Chú ý hơn nữa công tác bồi dưỡng, phát triển đảng trong công nhân. Có cơ
chế, chính sách đẩy mạnh việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng những
cán bộ ưu tú xuất thân từ công nhân, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất, tăng
dần tỉ lệ cán bộ xuất thân từ công nhân trong bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng,
Nhà nước, Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Chú trọng công tác
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tạo cơ hội phát triển cho những cán bộ công
đoàn trẻ, cán bộ thanh niên có năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức tốt xuất
thân từ công nhân.
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước các cấp phải thường xuyên tiếp xúc, lắng
nghe ý kiến của công nhân và công đoàn, tôn trọng và phát huy vai trò chủ động,

sáng tạo của tổ chức công đoàn. Chú trọng lãnh đạo, tạo điều kiện để công đoàn
phát huy tốt vị trí, vai trò của mình.
Tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp.
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và chỉ đạo thực
hiện kiên quyết; bổ sung quy định chế tài cụ thể, đủ mạnh trong các luật để thực
hiện nghiêm việc thành lập, hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức
chính trị - xã hội tại các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; đồng thời
coi trọng tuyên truyền, vận động, thuyết phục, khuyến khích các chủ doanh
nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đồng tình, ủng
hộ, tạo điều kiện để tổ chức đảng và các tổ chức chính trị - xã hội thành lập, hoạt
động thuận lợi.
Đẩy mạnh bồi dưỡng phát triển đảng trong các trường phổ thông, trường
đại học, cao đẳng, các trường đào tạo nghề và trong công nhân, chú trọng phát

19


triển đảng ở những doanh nghiệp không có hoặc còn ít đảng viên để tạo nguồn
thành lập tổ chức cơ sở đảng trong phần lớn các doanh nghiệp.
Có chính sách động viên về vật chất, khuyến khích về tinh thần đối với đội
ngũ cán bộ đảng ở doanh nghiệp. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao năng lực, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, nhiệt tình, tâm huyết và kỹ
năng công tác cho cán bộ đảng ở doanh nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của tổ chức đảng, góp phần xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh, xây dựng doanh nghiệp thịnh vượng.
Có nhiều hình thức tăng cường và phát triển đảng viên tại các doanh nghiệp
của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, làm nòng cốt xây dựng
tổ chức cơ sở đảng, công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội
Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.

Xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh, phát huy vai trò của công đoàn
trong xây dựng giai cấp công nhân.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn
các cấp. Nghiên cứu việc quy định cơ cấu đại diện công đoàn vào thường vụ cấp
uỷ ở những nơi có nhiều khu công nghiệp, đông công nhân.
Các cấp công đoàn cần hướng mạnh hoạt động về cơ sở, lấy cơ sở làm địa
bàn hoạt động chủ yếu, lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận
động, lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân,
viên chức, người lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội làm mục tiêu hoạt động.
Công đoàn cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng
cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tự lực, tự cường, tinh thần cảnh
giác cách mạng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa cho công nhân; tập hợp
trí tuệ của công nhân để tham gia xây dựng, bổ sung, sửa đổi và thực hiện chính
sách, pháp luật.

20


Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn cơ sở, nhất là chủ tịch công
đoàn cơ sở ở doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, về trình độ chính trị, hiểu biết chính sách, pháp luật lao động và kỹ năng
công tác.
Sớm sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn để phù hợp, tương thích với các quy
định của Hiến pháp, Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp và cảc văn bản pháp
luật có liên quan; xác định rõ vị trí, chức năng, quyền và cơ chế đảm bảo để
công đoàn thực hiện tốt chức năng trong thời kỳ mới. Việc thu kinh phí công
đoàn tại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện theo quy định của
Luật Công đoàn và của Chính phủ; sử dụng cho việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao trình độ chính trị, chuyên môn, sinh hoạt văn hoá, thi đua, khen thưởng,

phúc lợi xã hội và các hoạt động khác của công nhân tại chính doanh nghiệp đó,
kể cả việc trả lương hoặc phụ cấp lương cho cán bộ công đoàn tại doanh nghiệp.
Đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ
công đoàn. Củng cố, nâng cao chất lượng dạy và học của Trường Đại học Công
đoàn, Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Tăng cường và mở rộng quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp
công nhân và công đoàn các nước trên toàn thế giới.
Đổi mới mạnh mẽ tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức
công đoàn tại các doanh nghiệp.
Không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của công đoàn cơ
sở, để công đoàn thực sự là chỗ dựa vững chắc của công nhân tại doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, có sức hấp dẫn đối với người lao động và tạo
được sự đồng tình, ủng hộ của người sử dụng lao động.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam để nâng cao hiệu quả công tác nữ công của công đoàn tại các
doanh nghiệp và khu công nghiệp.

21


Sớm bổ sung cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ công đoàn cơ sở và chế độ
phụ cấp trách nhiệm cho cán bộ công đoàn cơ sở.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam
trong các doanh nghiệp.
Đổi mới nội dung và phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ
chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam trong các doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động, đa dạng hoá các loại hình, hình thức tập hợp, vận động thanh niên

làm việc trong các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tham gia hoạt động Đoàn và Hội.
Hoạt động Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp
Thanh niên Việt Nam trong các doanh nghiệp cần tập trung vào việc tạo điều
kiện, không ngừng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề
nghiệp, cổ vũ và khơi dậy tiềm năng sáng tạo trong thanh niên công nhân;
thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng để phối hợp với tổ chức công đoàn
bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích, tư vấn, hỗ trợ về mặt pháp lý và bảo vệ
thanh niên công nhân khi quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng bị xâm phạm.

22


B. KẾT LUẬN
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ Tư bản
chủ nghĩa , xóa bỏ chế độ người bóc lột người giải phóng giai cấp công nhân ,
nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức bóc lột, nghèo nàn, lạc
hậu, xây dựng Xã hội Cộng sản Chủ nghĩa văn minh.
Ở nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải là cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách
mạng đó thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng Sản Việt Nam, đấu
tranh giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân. Trong
giai đoạn Cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo
nhân dân lao động xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, không còn người bóc
lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi sự áp bức bóc lột, , bất công. Nhờ
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo, đất nước ta đang đứng trước vận hội mới to lớn hơn bao giờ
hết.
Cội nguồn tạo nên vận hội đó là đường lối sáng tạo của Đảng và lòng yêu
nước, yêu xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.Nhân tố trực tiếp là sự phát triển

nhanh chóng và không ngừng đi lên của nền kinh tế.
Đó là món quà quý giá nhất, đáng trân trọng nhất mừng ngày chiến thắng
của dân tộc và ngày hội của những người lao động Việt Nam và quốc tế.
Là lực lượng nòng cốt, chủ yếu và tiền phong của dân tộc, giai cấp công
nhân ta có vinh dự và trách nhiệm nặng nề là nhân lên vận hội mới của dân tộc
bằng đẩy nhanh hơn nữa nhịp độ phát triển nền công nghiệp và dịch vụ với năng
suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, nhằm đáp ứng thỏa mãn yêu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu,đặt biệt là đứng vững đi lên trên con đường hội nhập
kinh tế và cạnh tranh quyết liệt của thị trường thế giới, làm cơ sở cho tự chủ về
kinh tế. Giai cấp công nhân là Người thực hiện sứ mệnh Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của nước ta đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp

23


Để giai cấp công nhân là tròn sứ mệnh vẻ vang đó, cùng với tự học tập
nâng cao kiến thức và năng lực nghề nghiệp, rèn luyện tác phong và kỷ luật
công nghiệp, Đảng và Nhà nước , công đoàn cần làm tốt hơn nữ trách nhiệm đối
với giai cấp công nhân.
Là một sinh viên trong ngành quản trị kinh doanh, qua thời gian học tập
phần chủ nghĩa xã hội khoa học, cũng như qua việc nghiên cứu, tham khảo
nhiều tư liệu trên cơ sở lý luận và thực tiễn của phong trào, bản thân em rất tâm
đắc với đề tài : “sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và hướng phát triển
của nó trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta hiện nay". Đây
là đề tài bổ ích kiến thức cho bản thân, nó vừa mạng tính lý luận vừa mang tính
thực tiễn sau khi ra khỏi ghế nhà trường, áp dụng trong công việc tốt hơn.
Đề tài được hoàn thành là nhờ sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo phụ
trách môn những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo điều
kiện cho em trong quá trình thực hiện đề tài. Bên cạnh đó là sự cố gắng tìm tòi,
nghiên cứu, tập hợp của chính bản thân mình.

Tuy vậy, trong quá trình thực tiễn đề tài, vẫn không tránh khỏi những thiếu
sót do đề tài quá rộng, vốn kiến thức kinh nghiệm còn hạn hẹp nên sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót, bản thân em cần có sự nghiên cứu tiếp theo.Rất
mong nhận được sự giúp đỡ của quý thầy cô để chuyên đề này đạt được yêu cầu
đặt ra.
Cuối cùng xin cảm ơn quý thầy cô, bạn bè giúp em hoàn thành đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!

24


×