TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tỷ giá luôn luôn là một chính sách vĩ mô rất quan trọng bởi phạm vi tác
động lớn, nhưng tác động khó lường trước và thường phải đánh đổi giữa nhiều mục tiêu
vĩ mô. Trên thực tế thường có quá nhiều mục tiêu được đặt ra cho chính sách tỷ giá, trong
khi đó các công cụ thực thi chính sách và dư địa thực hiện chính sách lại khá hạn hẹp.
Việc giảm giá đồng nội địa có thể thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán,
nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra trong những điều kiện nhất định. Một số nghiên cứu đã
chỉ ra rằng giữa mục tiêu ổn định tỷ giá thực dựa trên tiêu dùng và mục tiêu điều chỉnh
điều kiện thương mại đôi khi mâu thuẫn do tác động của tỷ giá đến các mức giá cả của
hàng tiêu dùng và hàng hóa là đầu vào cho sản xuất là khác nhau.
Điều đó cũng cho thấy tác động của tỷ giá đến lạm phát là không hề đơn giản vì
trong một nền kinh tế mở, tỷ giá thực ảnh hưởng đến giá cả tương đối giữa các hàng hóa
sản xuất trong nước và mặt hàng nhập khẩu. Tỷ giá có thể tác động trực tiếp đến lạm phát
do việc thay đổi giá cả tính bằng đồng bản địa của các mặt hàng nhập khẩu và qua đó ảnh
hưởng đến chỉ số giá cả. Do đó, lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp để ổn định
kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng dài hạn được coi là một ưu tiên trong quản lý kinh tế
hiện nay. Việc đánh giá diễn biến và nguyên nhân biến động của tỷ giá, đồng thời phân
tích mối liên hệ giữa chính sách tỷ giá và tăng trưởng xuất khẩu là một chủ đề mà các đại
biểu Quốc hội và các nhà hoạch định chính sách hiện rất quan tâm.
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
-1-
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
I. LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Khái niệm
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, khi thực hiện thanh toán giữa các nước
với nhau, cần thiết phải sử dụng đồng tiền nước này hay nước khác, nói chung là phải sử
dụng đến ngoại tệ cũng như các phương tiện có thể thay cho ngoại tệ.
⇒ Tỷ giá hối đoái: là sự so sánh mối tương quan giá trị giữa hai đồng tiền với
nhau. Hoặc người ta có thể nói tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này
thể hiện bằng số lượng đơn vị tiền tệ nước khác.
2. Các loại tỷ giá hối đoái
2. 1 Căn cứ vào đối tượng xác định tỷ giá, có thể chia làm tỷ giá chính thứcvà tỷ giá thị
trường.
- Tỷ giá chính thức là tỷ giá do Ngân hàng trung ương của nước đó xác định.
Trên cơ sở của tỷ giá này các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ ấn định tỷ
giá mua bán ngoại tệ giao nghy, có kỳ hạn, hoán đổi.
- Tỷ giá thị trường là tỷ giá được hình thành trên có sở quan hệ cung cầu trên thị
trường hối đoái.
2. 2 Căn cứ vào kỳ hạn thanh toán, có thể chia làm tỷ giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn.
- Tỷ giá giao ngay (SPOT) là tỷ giá do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm
giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận nhưng phải đảm bảo trong biểu độ do Ngân hàng
nhà nướcquy định. Việc thanh toán giữa các bên phải được thực hiện trong vòng hai ngày
làm việc tiếp theo, sau ngày cam kết mua hoặc bán.
- Tỷ giá giao dịch kỳ hạn (FORWARDS) là tỷ giá giao dịch do tổ chức tín dụng
tự tính toán và thỏa thuận với nhau nhưng phải đảm bảo trong biên độ qui định về tỷ giá
kỳ hạn hiện hành của Ngân hàng nhà nướctại thời điểm ký hợp đồng.
2. 3
Căn cứ vào giá trị của tỷ giá, có thể chia làm tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực.
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá của một loại tiền tệ được biểu hiện theo
giá hiện tại, không tính đến bất kỳ ảnh hưởng nào của lạm phát.
- Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá có tính đến tác động của lạm phát và sức mua
trong một cặp tiền tệ phản ảnh giá cả hàng hóa tương quan có thể bán ra nước ngoài và
hàng tiêu thụ trong nước. Tỷ giá này đại diện cho khả năng cạnh tranh quốc tế của nước
đó.
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
-2-
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
2. 4 Căn cứ vào phương thức chuyển ngoại hối, có thể chia làm tỷ giá điện hối và tỷ
giá thư hối.
- Tỷ giá điện hối là tỷ giá thường được niêm yết tại ngân hàng. Đó là tỷ giá
chuyển ngoại hối bằng điện. Tỷ giá điện hối là tỷ giá cơ sở để xác định các loại tỷ giá
khác.
- Tỷ giá thư hối, tức là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư. Tỷ giá điện hối thường
cao hơn tỷ giá thư hối.
2. 5
Căn cứ vào thời điểm mua/bán ngoại hối
-
Tỷ giá mua là tỷ giá của ngân hàng mua ngoại hối vào.
-
Tỷ giá bán là tỷ giá của ngân hàng bán ngoại hối ra.
Tỷ giá mua bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán và khoản chênh lệch đó là lợi nhuận
kinh doanh ngoại hối của ngân hàng.
Thông thường thì ngân hàng không công bố tất cả tỷ giá của các hợp đồng đã ký
kết trong một ngày mà chỉ công bố tỷ giá của hợp đồng ký kết cuối cùng trong ngày đó,
người ta gọi đó là tỷ giá đóng của. Tỷ giá đóng cửa được coi là chỉ tiêu chủ yếu về tình
hình biến động của tỷ giá trong ngày hôm đó. Tỷ giá được công bố vào đầu giờ của đầu
ngày giao dịch được gọi là tỷ giá mở cửa.Trong nghiệp vụ mua bán ngoại hối của ngân
hàng còn chia ra tỷ giá tiền mặt và tỷ giá chuyển khoản. Tỷ giá chuyển khoản bao giờ
cũng cao hơn tỷ giá tiền mặt.
Trong khuôn khổ chế độ quản lý ngoại hối ở các nước kém phát triển, ngoài thị
trường ngoại hối chính thức c òn tồn tại thị trường ngoại hối tự do, do đó bên cạnh tỷ giá
chính thức do nhà nước quy định còn có tỷ giá chợ đen do quan hệ cung cầu ngoại hối
trên thị trường này quyết định.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá
3.1 Cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh tình hình thu – chi thực tế bằng ngoại tệ của
một số nước so với các nước khác trong giao dịch quan hệ quốc tế lẫn nhau. Cán cân
thanh toán quốc tế thể hiện vị thế tài chính của quốc gia thâm hụt hoặc thặng dư.
Nếu cán cân thanh toán thường xuyên thâm hụt ( chi>thu) thì dự trữ ngoại hối của
quốc gia có thể giảm, tình hình ngoại tệ căng thẳng, từ đó tạo ra nhu cầu ngoại tệ tăng lên,
giá ngoại tệ tăng.
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
-3-
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
Nếu cán cân thanh toán thặng dư ( thu>chi), dự trữ ngoại hối có thể tăng, cung
ngoại tệ trên thị trường tăng, giá ngoại tệ có khuynh hướng giảm
3.2
Lạm phát
Lạm phát là sự suy giảm sức mua của nội tệ và được đo lường bằng chỉ số giá cả
chung ngày càng tăng lên. Để chứng minh mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát, Gustav
Cassel (1772-1823) đã đưa ra lý thuyết ngang giá sức mua- Purchasing Power Parity
Theo lý thuyết này, giả thiết trong một nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo và cước
phí vận chuyển, thuế hải quan được giả định bằng không. Do đó, nếu các hàng hóa đều
đồng nhất thì người tiêu dùng sẽ mua hàng ở nước nào mà giá thật sự thấp.
3.3
Lãi suất
Phần lớn các nhà đầu tư với quy mô lớn trên thị trường như các tập đoàn, các công
ty đa quốc gia có thể chuyển đổi đầu tư một cách dễ dàng giữa các đồng tiền khác nhau
khi tỷ giá và lãi suất các đồng tiền này có chuyển hướng thay đổi. Vấn đề quan trọng
được đặt ra là cần phải so sánh đối chiếu thu nhập đầu tư từ các đồng tiền khác nhau để có
thể chắc chắn rằng họ có thể thu được kết quả đầu tư tốt nhất. Thông thường, các nhà đầu
tư có xu hướng đầu tư vào đồng tiền có lãi suất cao, được thực hiện một cách khá phổ
biến là đi vay đồng tiền có lãi suất thấp chuyển đồi sang đồng tiền có lãi suất cao, sau đó
đầu tư đồng tiền có lãi suất cao bằng nhiều hình thức nhằm hưởng lợi nhuận chênh lệch
suất của hai đồng tiền. Điều này sẽ tạo nên sự thay đổi cung cầu ngoại tệ trên thị trường,
từ đó ảnh hưởng đến tỷ giá. Vì thế các nhà đầu tư ngày càng quan tâm so sánh giữa thu
nhập do chênh lệch lãi suất mang lại phải lớn hơn sự gia tăng tỷ giá trong suốt thời gian
đầu tư. Đối chiếu, so sánh lãi suất của các đồng tiền khác nhau theo phương cách như trên
là kỹ thuật quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trên thị trường.
Tuy nhiên, trong suốt thời gian đầu tư hay cho vay, tỷ giá biến động tăng hoặc
giảm sẽ tác động đến gia tăng thu nhập hoặc lỗ, nhà đầu tư bị rủi ro do sự gia tăng tỷ giá
lớn hơn thu nhập do chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền. Thực tế, thông thường đồng
tiền có lãi suất cao có khuynh hướng lên giá, bởi vì sẽ có nhiều nhà đầu tư mua đồng tiền
có lãi suất cao để cho vay nhằm thu lãi nhiều hơn.
3.4 Một số nhân tố khác
Sự điều chỉnh các chính sách tài chính tiền tệ, các sự kiện kinh tế, xã hội, chiến
tranh , thiên tai, sự biến động của các chỉ số thống kê về việc làm-thất nghiệp-tăng trưởng
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
-4-
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
kinh tế. Đặc biệt là các chỉ số và các sự kiện tại Mỹ sẽ ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái trên
thị trường thế giới. Cụ thể là các nhân tố:
-
Chỉ số thất nghiệp tăng, giảm trong tháng
-
Chỉ số bán lẻ
-
Kết quả các hội nghj G7,EU, Asian…
-
Sản lượng công nghiệp, GDP, GNP…
Ngoài ra, khi thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi thì tỷ giá rất nhạy cảm với các sự kiện
kinh teea, chính trị, xã hội, chiến tranh kể cả các yếu tố tâm lí…
Tóm lại, những biến động của các nhân tố nêu trên có thể tạo ra những tác động
riêng lẻ hoặc đồng thời tác động lên cung hoặc cầu ngoại tệ, từ đó, tác động đến tỷ giá.
Việc hiểu và phần tích tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá rất quan trọng vì nó
giúp chúng ta dự báo và hình thành kỳ vọng hợp lý về tỷ giá để từ đó làm cơ sở ra quyết
định liên quan đến giao dịch ngoại tệ.
4. Các biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái
Dưới tác động của tỷ giá xuất hiện những biểu hiện bất lợi cho quá trình phát triển
kinh tế. Chủ động can thiệp của Nhà nước nhằm bình ổn tỷ giá trên thị trường là điều kiện
quan trọng để thực hiện mục tiêu chiến lược kinh tế. Bao gồm các biện pháp chủ yếu sau
đây:
4.1 Chính sách lãi suất tái chiết khấu
Khi tỷ giá biến động, NHTW với vai trò quản lý vĩ mô điều chỉnh lãi suất tái chiết
khấu, sẽ làm thay đổi lãi suất tín dụng trên thị trường. Điều này có tác dụng kích thích đối
với việc di chuyển các luồng vốn ngoại tệ ngắn hạn từ nước này sang nước khác, từ đó
dẫn đến sự thay đổi cung và cầu ngoại hối làm cho tỷ giá được bình ổn. Cụ thể:
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu dẫn tới lãi suất
tiền gửi sẽ tăng lên. Thu hút vốn ngắn hạn chạy vào trong nước, làm tăng khả năng cung
ngoại tệ và giảm bớt sự căng thẳng của tình hình cung đang nhỏ hơn cầu trên thị trường
4.2 Chính sách hối đoái
Nguyên lý cơ bản của biện pháp này là NHTW thông qua việc thực hiện các
nghiệp vụ mua-bán ngoại hối tạo ra khả năng trực tiếp thay đổi quan hệ cung cầu ngoại
hối trên thị trường để điều chỉnh tỷ giá. Cụ thể như sau:
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
-5-
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
Khi tỷ giá hối đoái tăng, NHTW sẽ tung ngoại hối ra bán, cung ngoại hối trên thị
trường tăng lên và làm giảm bớt căng thẳng về cung cầu ngoại hối trên thị trường ( cầu
đang lớn hơn cung), dẫn tới tỷ giá từ từ giảm xuống.
Khi tỷ giá hối đoái giảm, NHTW mua vào ngoại hối, sẽ tăng nhu cầu ngoại hối
trên thị trường và làm giảm bớt căng thẳng quan hệ cung cầu trên thị trường (cung đang
lớn hơn cầu), dẫn tới tỷ giá hối đoái từ từ tăng lên.
Tuy nhiên, biện pháp này chỉ có tác dụng tạm thời, với điều kiện NHTW phải có
một khối lượng dự trữ ngoại hối lớn. Trong trường hợp cán cân thanh toán quốc tế thiếu
hụt NHTW tung ngoại hối ra bán có thể làm tăng thêm sự hao hụt dự trữ ngoại hối mà
thôi
Đối với một số quốc gia đã thiết lập được quỹ bình ổn hối đoái thì có thể sử dụng
để điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
4.3 Phá giá tiền tệ
Nhà nước chủ động giảm giá trị tiền tệ trong nước làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên.
Trong trường hợp cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt, hoặc do yêu cầu chính sách
ngoại thương của quốc gia, Chính phủ có thể thực hiện chính sách phá giá tiền tệ. Phá giá
tiền tệ sẽ làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên, qua đó khuyến khích xuất khẩu hay hạn chế
nhập khẩu bên cạnh đó đòi hỏi Nhà nước phải tìm mọi biện pháp để phát triển kinh tế,
kiểm soát lạm phát.
4.4 Nâng giá tiền tệ
Nhà nước chính thức nâng giá tiền tệ trong nước, nên giá ngoại tệ có xu hướng
giảm xuống, nâng giá tiền tệ xuất phát từ áp lực của một số quốc gia khác trong cạnh
tranh thương mại quốc tế nhằm, hoặc do yêu cầu thực hiện chính sách tiền tệ.
Với nhiều biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái, tùy theo tình hình cụ thể mà mỗi
quốc gia cần cân nhắc lựa chọn biện pháp hợp lý cho mình, bên cạnh đó Nhà nước cần
kết hợp với các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế, tiết kiệm, đầu tư, tiêu dùng,
thuế quan…
5. Chính sách tỷ giá
Khái niệm: Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ( mà đại diện
thường là NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định( hay cơ chế điều hành tỷ giá) và
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
-6-
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ
giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Vì là một bộ phận của chính sách tiền tệ nên mục tiêu của chính sách tỷ giá theo
nghĩa rộng cũng phải phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ.
- Về mục tiêu ổn định giá cả: Với các yếu tố khác không đổi, khi tỷ giá tăng làm
cho giá hàng hoá nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng. Giá hàng hoá nhập khẩu tăng làm cho
mặt bằng giá cả chung cảu nền kinh tế tăng, tức gây lạm phát. Tỷ giá tăng càng mạnh và
tỷ trọng hàng hoá nhập khẩu càng lớn thì tỷ lệ lạm phát càng cao. Ngược lại, khi tỷ giá
giảm làm cho giá hàng hoá nhập khẩu tính bằng nội tệ giảm, tạo áp lực giảm lạm phát.
Muốn duy trì giá cả ổn định NHTW phải sử dụng chính sách tỷ giá ổn định và cân bằng.
- Về mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm: Khi các yếu khác
không đổi, tỷ giá tăng sẽ kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, trực tiếp làm
tăng thu nhập quốc dân và tăng công ăn việc làm. Ngược lại, với các yếu tố khác không
đổi, khi tỷ giá giảm sẽ tác động làm giảm tăng trưởng kinh tế và gia tăng thất nghiệp.
- Về mục tiêu cân bằng cán cân vãng lai: Có thể nói chính sách tỷ giá tác động
trực tiếp đến cán cân vãng lai. Với chính sách tỷ giá định giá thấp nội tệ sẽ có tác dụng
thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, giúp cải thiện được cán cân vãng lai từ trạng
thái thâm hụt trở về trạng thái cân bằng hay thặng dư. Với chính sách tỷ giá định giá cao
nội tệ sẽ có tác dụng kìm hãm xuất khẩu và kích thích nhập khẩu, giúp điều chỉnh cán cân
vãng lai từ trạng thái thặng dư về trạng thái cân bằng hay thâm hụt. Với chính sách tỷ giá
cân bằng sẽ có tác dụng làm cân bằng xuất khẩu và nhập khẩu, giúp cán cân vãng lai tự
động cân bằng.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ TỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.Thực trạng vấn đề tỷ giá ở Việt Nam hiện nay
• Giai đoạn trước 1989: cố định và đa tỷ giá
• Giai đoạn 1989-2005:
-
1989-1991: “thả nổi” tỷ gia hối đoái
-
1992-1994: tỷ giá chính thức được hình thành trên cơ sở đấu thầu tại trung tâm
giao dịch ngoại tệ
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
-7-
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
-
Năm 1994: tỷ giá chính thức giữa ngoại tệ với VND theo tỷ giá mua bán trên thị
trường chỉ giao động trong biên độ cho phép là +/- 0.5% so với tỷ giá chính thức.
-
1995-1999: tỷ giá được hình thành trên cơ sở tỷ giá liên ngân hàng.
-
Năm 1996 thì biên độ giao động được nâng lên +/- 1%.
-
1997-1998: Ngân hàng nhà nướcmở rộng biên độ giao dịch từ 1% lên 5%
-
Ngày 13/10/1997: tăng biên độ dao động lên 10%.
• Giai đoạn 1999-2011: thả nổi có điều tiết
-
1999-2006: chuyển từ cơ chế tỷ giá cố định sang cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết.
- Năm 2007: thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, nới rộng biên độ tỷ giá từ 0.25%
lên 0.5% vào đầu năm, và tới 12/12/2007 tiếp tục nới rộng biên độ lên 0.75%.
- Năm 2008: được giới phân tích tài chính coi là “ năm bất ổn của tỷ giá” với những
biến dộng tỷ giá phức tạp. Trước tình hình suy thoái kinh tế ảnh hưởng mạnh đến Việt
Nam, các dòng vốn vào Việt Nam bị hạn chế Ngân hàng nhà nướcđã chủ động điều chỉnh
tỷ giá liên ngân hàng để tăng tính thanh khoản trên thị trường ngoại tệ. Tính đên ngày
26/12/2008 Ngân hàng nhà nướcđã điều chỉnh biên độ tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng 2%
lên 3%.
- Năm 2009: Ngân hàng nhà nướcthực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/- 5% khiến
cho tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng đã có đợt tăng đột biến. Tỷ giá giữa USD/VND trong
năm 2009 đã trải qua 2 lần điều chỉnh, một lần vào tháng 3 tăng biên độ giao dịch từ 3%
lên 5% và lần gần nhất là vào tháng 11 (+3,4%). Ngày 26/11/2009 tỷ giá bình quân liên
ngân hàng được điều chỉnh tăng thêm 5.44% so với hôm trước.Đồng thời biên độ tỷ giá
giảm từ 5% xuống còn 3%. Mặc dù, sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên
kịch trần nhưng tỷ giá thị trường tự do vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của NGÂN
HÀNG NHÀ NƯớC.
- Năm 2010 -2011: ngày 10/02/2010, Ngân hàng nhà nướcquyết định điều chỉnh
tăng tỷ giá liên ngân hàng từ mức 17.941 đồng/USD lên 18.544 đồng/USD tăng khoảng
3,3%. Ngày 17/08/2010, Ngân hàng nhà nướcViệt Nam thực hiện điều chỉnh tỷ giá bình
quân liên ngân hàng tăng 2%, biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/- 3%. Ngày 11/02/2011,
thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2011 và nhằm tăng tính thanh khoản của thị
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
-8-
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
trường ngoại hối, Ngân hàng nhà nướcđã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ
18.932 lên mức 20.693 VND/USD và thu hẹp biên độ giao dịch từ +/- 3% xuống +/- 1%.
Việc điều chỉnh tỷ giá trong năm 2011 có nhiều tác động tích cực đến nền kinh tế,
cụ thể nó có thể đưa tỷ giá chính thức sát với tỷ giá thị trường, tổ chức kinh tế và cá nhân
sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng nhiều hơn, giao dịch ngoại tệ sẽ dễ dàng hơn, tính minh
bạch của thị trường cao hơn, sẽ không còn cảnh tổ chức kinh tế và ngân hàng mua bán
chui ngoại tệ, gây ra nhiều hệ quả xấu cho cả các ngân hàng và khách hàng. Mặc dù động
thái của Ngân hàng Nhà nước được nhiều chuyên gia đánh giá cao. Tuy nhiên, việc duy
trì và giữ tỷ giá chính thức sát với tỷ giá thị trường là vấn đề rất khó cho cơ quan quản lý,
khi mà tỷ giá biến động do nhiều nguyên nhân như lạm phát cao, thâm hụt cán cân
thương mại lớn, lãi suất thay đổi liên tục và đặc biệt là việc các tổ chức kinh tế, cá nhân
đầu cơ găm giữ ngoại tệ, làm cho cân đối cung cầu ngoại tệ bị mất cân đối nghiêm trọng,
gây áp lực lớn lên tỷ giá.
2. Tác động của tỉ giá đến nền kinh tế
2.1. Tỷ giá với lạm phát:
Trên lý thuyết, khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối
đoái không đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nước ngoài. Theo
quy luật cung cầu, người dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì
giá rẻ hơn; điều tất yếu xảy ra là nhập khẩu sẽ tăng, kéo theo cầu ngoại tệ tăng, làm cho tỷ
giá hối đoái cũng tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập
khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút, làm cho cung ngoại tệ trên thị trường giảm; đây
cũng là nguyên nhân làm tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy, lạm phát ảnh hưởng đến cả cung
và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái
tăng nhanh hơn. Trên thị trường tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ
chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá
hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ
phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát
cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng.
Đối với nước ta hiện nay, lạm phát đang ở mức cao nên việc tăng tỷ giá là điều không thể
tránh khỏi.
Tuy nhiên, áp lực lạm phát ở Việt Nam trong năm 2011 chủ yếu đến từ các nguồn
khác chứ không phải từ việc điều chỉnh tỷ giá vừa rồi:
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
-9-
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
Thứ nhất, việc điều chỉnh giá điện (tăng 15.28% so với mức giá năm 2010) bắt đầu
từ 1.3.2011 và việc cho phép các hàng hóa năng lượng quan trọng như xăng, dầu, than
“vận hành theo cơ chế thị trường” chắc chắn sẽ là một cú hích đáng kể đối với lạm phát.
Thứ hai, xu thế giá thế giới của các hàng hóa cơ bản (đặc biệt là năng lượng, thực
phẩm, vật tư nông nghiệp và kim loại) tiếp tục tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mặt bằng giá
trong nước vì nền kinh tế của chúng ta đã trở nên rất mở. Không những thế, như một hiện
tượng có tính quy luật, giá hàng hóa cơ bản ở các nước đang phát triển (trong đó có Việt
Nam) một khi đã tăng thì thường tăng cao hơn nhiều so với các nước phát triển. Chẳng
hạn như trong năm 2010, chỉ số giá hàng hóa cơ bản ở các nước đang phát triển là 31%
trong khi trên toàn thế giới chỉ là 19%.
Thứ ba, trong năm 2010, với tốc độ tăng cung tiền và tín dụng đều ở mức trên 25%
và tỷ lệ đầu tư trên 40% trong khi tốc độ tăng trưởng GDP thực chỉ là 6,8% thì lạm phát
tiền tệ sau một độ trễ nhất định sẽ được thể hiện trong chỉ số giá. Điều chỉnh tỷ giá và
tăng giá điện đều là những việc không thể không làm để giảm sự méo mó trong giá thị
trường, vốn là một điều kiện cần để nền kinh tế có thể giảm chi phí giao dịch và phân bổ
nguồn lực một cách hiệu quả. Tuy nhiên, nếu không thay đổi phương thức điều hành
mang tính đối phó và thiếu phối hợp như hiện nay thì doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ
tiếp tục phải “chịu trận” trước một loạt các cú sốc lớn và dồn dập. Rõ ràng là để đạt mục
tiêu ổn định vĩ mô thì cách tư duy và điều hành vĩ mô của Chính phủ phải được thay đổi
một cách cơ bản.
PGS-TS Trần Hoàng Ngân, cho rằng tỷ giá tăng chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến CPI,
tác động đến lạm phát bởi các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu được tính theo tỷ giá mới,
thậm chí xuất hiện những loại hàng hóa “ăn theo” đà tăng của tỷ giá. Áp lực lên lạm phát
là một trong những lo ngại, vì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam lên đến trên
150% so với GDP với nhiều mặt hàng nguyên liệu thiết yếu phải nhập khẩu từ bên ngoài.
Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua các nhà nhập khẩu của Việt Nam đều phải mua
USD với tỷ giá thị trường chợ đen. Vì vậy, việc điều chỉnh lần này trên sẽ không ảnh
hưởng đáng kể tới chi phí thực sự của những nhà nhập khẩu. Giá hàng hóa có thể tăng lên
nhưng áp lực sẽ không quá lớn.
2.2. Tỷ giá với cán cân thương mại:
Cán cân thương mại của một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim
ngạch nhập khẩu. Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được ngoại
tệ. Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 10 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
hàng hoá dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ
tăng, làm tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập
khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành động
này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai hiện tượng trên là ngược
chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm
phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân tố, đó chính là cán cân thương
mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối
đoái sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng
nội tệ giảm giá (đây là trường hợp ở nước ta hiện nay).
Về lý thuyết, việc tăng tỷ giá USD/VND sẽ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, làm
tăng khả năng cạnh tranh của hàng việt xuất đi nước ngoài. Chẳng hạn hàng thủ công mỹ
nghệ, hàng nông lâm thủy hải sản. Trong tháng 1/2011, Việt Nam xuất khẩu gạo thu về
được 194 triệu USD. Với tỷ giá mới, số tiền VND tăng thêm là 269,5 tỷ đồng. Tương tự,
cao su xuất được 337 triệu USD, số tiến tăng thêm nhờ tỷ giá mới tới 468,3 tỷ đồng; Thủy
sản xuất được 400 triệu USD, số tiền tăng thêm nhờ tăng tỷ giá tới 586 tỷ đồng. Nhờ vậy,
doanh nghiệp có thể nâng giá mua cho nông dân hoặc điều chỉnh linh hoạt giá bán ra thị
trường nước ngoài. Tất nhiên, tỷ giá tăng có hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu nhưng để
tăng xuất khẩu doanh nghiệp còn phải và tìm kiếm bạn hàng, quảng bá sản phẩm và bảo
đảm chất lượng sản phẩm chứ không chỉ dựa vào lợi thế do tỷ giá đem lại. Vì vậy, việc
tăng tỉ giá USD/VND có tác động làm cải thiện cán cân thương mại. Thâm hụt thương
mại hàng hóa 2010 lên tới 12,4 tỷ USD (chiếm 12%GDP), bằng 17.3% kim ngạch xuất
khẩu. Cán cân thương mại của Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với tỷ giá, và việc điều
chỉnh tỷ giá lần này sẽ có tác dụng tích cực trong việc cải thiện thâm hụt thương mại.
Đồng nội tệ giảm giá sẽ làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu gặp nhiều thuận lợi hơn khi
hàng hóa sản xuất có sức cạnh tranh hơn, trong khi đó nhập khẩu sẽ giảm đi và cán cân
thương mại được cải thiện.
Việc tăng tỷ giá với tỉ lệ khá cao vào tháng 2/2011 có thể là một biện pháp đau
đớn, song cần thiết và bất khả kháng trong tình hình hiện nay nhằm làm cho nhập khẩu
trở nên đắt đỏ hơn, xuất khẩu có thể thuận lợi hơn và qua đó, có thể giảm nhập siêu ở
mức độ nhất định. Xuất khẩu có thể có lợi nếu tỉ lệ giá trị gia tăng của sản phẩm cao (như
gạo, hải sản) trong khi tác động thúc đẩy hạn chế hơn đối với các sản phẩm lắp ráp điện
tử vì tỉ lệ hàng nhập lên đến 90% giá thành. Tuy nhiên, những hệ lụy đối với mục tiêu ổn
định kinh tế vĩ mô thì cần phải bàn thêm.
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 11 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
Trước hết, với mức nhập khẩu lên đến 84 tỉ USD trên GDP 102 tỉ USD năm 2010
(chiếm 82%GDP), trong đó chỉ 10% là hàng tiêu dùng, 20% là trang thiết bị, máy móc,
còn lại khoảng 70% là đầu vào cho hoạt động kinh tế như xăng dầu, sắt thép, bông sợi...,
nền kinh tế nước ta quá phụ thuộc vào nhập khẩu và việc điều chỉnh tỉ giá mạnh như lần
này sẽ dẫn đến tăng giá đáng kể các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu kể trên và qua đó tác
động tới giá thành sản phẩm và giá mua của người tiêu dùng. Những mặt hàng không
thuộc loại thiết yếu như mỹ phẩm, ô tô sang trọng có thể giảm nhập khẩu ở mức độ nhất
định, song tỉ lệ các mặt hàng này không quá lớn, trong khi các nguyên vật liệu cơ bản của
nền kinh tế vẫn phải tiếp tục nhập với mức giá nhập khẩu cao hơn. Người tiêu dùng sẽ
phải gánh chịu mức tăng giá, ước tính khoảng 3% từ sự điều chỉnh tỷ giá này. Giá một số
mặt hàng đã tăng lập tức, như gas, ô tô và khó tránh khỏi việc tăng giá các mặt hàng khác
trong thời gian tới do giá đầu vào nhập khẩu tăng lên khoảng 10%. Cho nên, tác động của
tỷ giá tới cán cân thương mại không đến mức như nhiều người kỳ vọng.
Ngoài ra, việc tăng tỉ giá cũng có các tác động không tốt như: Tạo ra sự đắt đỏ hơn
cho những hàng hóa nhập khẩu và những mặt hàng nhập khẩu này sản xuất và bán trong
nước, nếu sản xuất và bán trong nước nhiều. Về nguyên tắc, các doanh nghiệp hay cộng
tăng tỷ giá vào giá bán như vậy sẽ tạo ra một cái giá bán mới của mặt hàng nhập khẩu.
Nếu mặt hàng nhập khẩu mà tỉ trọng lớn trong mặt bằng giá xã hội thì sẽ tạo ra mặt bằng
giá mới. Điều này thì chưa ai dám chắc chắn nhưng nó tác động là điều đương nhiên.
Nhưng nó cũng có tác động tích cực như nếu mặt hàng đó có giá trị cao, người tiêu dùng
sẽ từ chối mua. Lúc đó các doanh nghiệp sẽ phải chuyển sang sản xuất các mặt hàng
khác, hoặc các mặt hàng tiêu dùng trong nước ví dụ như ôtô nhập khẩu, các doanh nghiệp
nhập khẩu cộng dồn đẩy giá lên cao khách hàng sẽ từ chối và sử dụng ôtô sản xuất trong
nước. Điều này có tác động đến việc giảm nhập siêu, thực tế đã chứng minh khi giá xăng
dầu tăng cao và thiếu ngoại tệ nhập khẩu, Nhà máy lọc dầu Dung Quất là lựa chọn của
khách hàng trong nước và đến giờ không có hàng để bán. Đợt điều chỉnh lần này hướng
đến kích cầu sản xuất trong nước như một mục tiêu, đây là điểm mới. Trong bất kỳ một
doanh nghiệp nhập khẩu nào cũng có những dự phòng rủi ro về tỉ giá. Doanh nghiệp nào
lơ là cũng phải dự phòng đến 50%, thì mức tăng 9,3% nằm trong mức đó.
Cũng bàn về xuất - nhập khẩu, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành cho rằng
“Không phải tăng tỉ giá là tăng giá trị xuất khẩu”. Tỉ giá liên tục được điều chỉnh, mới đây
nhất là lần điều chỉnh tăng thêm 9,3% (11.2.2011). Ông Bùi Kiến Thành cho rằng: Các
nhà nghiên cứu, cũng như các chuyên gia đã nhiều lần nói về việc muốn cạnh tranh xuất
khẩu thì phải hạ giá tiền VND xuống. Để cho VND rẻ đi và giá hàng xuất khẩu của Việt
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 12 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
Nam rẻ hơn để thúc đẩy xuất khẩu. Nhưng theo ông, đó là những bài học này có tính chất
giáo điều, không áp dụng cho Việt Nam được. Bởi vì, tại Việt Nam chỉ nhìn hai ngành
xuất khẩu chủ lực là da giày và may mặc thì hơn 90% là nguyên liệu nhập khẩu. Theo số
liệu của Tổng cục Hải quan, trong 11 tháng đầu năm 2010, da giày xuất khẩu 4,56 tỉ
USD, dệt may xuất khẩu được 5,52 tỉ USD. Tổng cộng lại là 10,8 tỉ USD. Trong khi đó,
nhập khẩu của hai mặt hàng này là 8,8 tỉ USD. Như vậy, xuất ròng của hai sản phẩm
chiến lược trên chỉ còn 1,2 tỉ USD thôi. Đây là vấn đề của nền kinh tế gia công chủ yếu
nhập khẩu, còn phần giá trị gia tăng chủ yếu là lao động. Vì thế, nếu đồng bạc VN rẻ đi
thì nguyên liệu nhập khẩu sẽ đắt lên. Như vậy giá thành sản phẩm sẽ tăng lên chứ không
phải giá thành sẽ rẻ hơn để xuất khẩu. Tỉ giá chỉ ổn định khi cán cân thanh toán cân bằng
và cán cân thương mại nghiêng về xuất chứ không phải nhập.
2.3.Tỷ giá với đầu tư nước ngoài
Theo Thống đốc NHNN, tháng 2/2011 là thời điểm thích hợp và thuận lợi để điều
chỉnh tỷ giá do nguồn ngoại hối dồi dào, các khoản vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp, ODA
cũng đang giải ngân tốt... qua đó, sẽ giúp thị trường ngoại hối ổn định, không bị xáo trộn.
Thế nhưng, cũng tồn tại một thực tế khác. Đó là từ hơn nửa năm nay, tỷ giá trên thị
trường phi chính thức luôn luôn vượt trần, có khi tới trên 10%. Bên cạnh đó, dòng vốn
nước ngoài (FDI, ODA và kiều hối) tuy lớn nhưng không đủ bù đắp thâm hụt thương mại
cũng như khoản “sai số và thiếu sót” (mà nguyên nhân là do người dân và doanh nghiệp
chuyển danh mục tiền tệ sang vàng và đô la). Kết quả là cán cân thanh toán luôn bị thâm
hụt và dự trữ ngoại hối tụt xuống mức thấp nhất kể từ năm 2005 dù tính theo con số tuyệt
đối hay tính theo số tuần nhập khẩu. Như vậy, áp lực giảm giá tiền đồng tích tụ suốt nhiều
tháng qua đã buộc NHNN phải “buông” tỷ giá.
Phá giá là liều thuốc đắng mà Việt Nam phải uống vì đang bị bệnh. Giúp giảm
gánh nặng chi tiêu cho người nghèo trong cơn bão này, đầu tư thêm vào các cơ sở giáo
dục, y tế dịch vụ công... là cần thiết song song với cắt giảm chi tiêu công không hiệu quả.
Mối liên hệ này khá phức tạp. Về nguyên tắc nếu phá giá để đưa tỷ giá về mức bền
vững thì nền kinh tế sẽ ổn định hơn dù trong ngắn hạn tốc độ tăng trưởng có thể bị ảnh
hưởng. Trong trường hợp này đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng vì các nhà đầu tư được giải
toả rủi ro tỷ giá trong tương lai. Tuy nhiên nếu phá giá không đủ mạnh và uy tín của ngân
hàng Trung ương không cao thì các nhà đầu tư có thể vẫn ngần ngại.
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 13 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
Trong hoàn cảnh thiếu thốn số liệu và các nghiên cứu nghiêm túc như ở Việt Nam,
việc phá giá chỉ có ý nghĩa “đánh tiếng” với các nhà đầu tư. Trong lần phá giá vừa rồi,
ngân hàng Nhà nước đã đưa ra hai tín hiệu rõ ràng: phá giá khá mạnh (9,3%) và chuyển
sang chính sách điều hành tỷ giá mềm dẻo hơn. Cả hai tín hiệu này “đánh tiếng” cho các
nhà đầu tư rằng ổn định vĩ mô sẽ được coi trọng. Một đợt thắt chặt tiền tệ mới (bằng
chính sách lãi suất hoặc phi lãi suất) sẽ càng củng cố tín hiệu này.
Cần lưu ý rằng tỷ giá chỉ là một trong những nhân tố gây thâm hụt thương mại cao
tại Việt Nam. Yếu tố chính vẫn là các dòng tiền từ bên ngoài đổ vào Việt Nam như FDI,
FPI, ODA, kiều hối và các chính sách thương mại khác. Đợt điều chỉnh tỷ giá này sẽ thúc
đẩy thu hút thêm các dòng vốn đầu tư gián tiếp, và giúp khối nhà đầu tư nước ngoài tự tin
hơn trong việc giải ngân, nhờ sự ổn định tỷ giá có thể tiên đoán được trong thời gian tới.
Đối với đầu tư ra nước ngoài, người dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở nước
ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp (xây dựng nhà máy, thành lập các doang nghiệp...) hay
đầu tư gián tiếp (mua cổ phiếu, trái phiếu...). Những nhà đầu tư này muốn thực hiện hoạt
động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ trên thị trường, luồng vốn
ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ tăng. Ngược lại một nước nhận đầu tư từ
nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá
hối đoái giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và luồng vốn
chảy vào một nước. Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy vào trong nước
nhỏ hơn dòng vốn chảy ra nước ngoài,tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong
trường hợp ngược lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật tối ưu hoá, luồng vốn
sẽ chảy đến nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất sinh lời cao nhất. Một nền kinh tế sẽ thu
hút được các luồng vốn đến đầu tư nhiều hơn khi nó có môi trường đầu tư thuận lợi, nền
chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ, nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị
trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và sự thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư
nước ngoài của Chính phủ.
Điều chỉnh tỷ giá lần này là một bước nhằm lành mạnh hóa thị trường ngoại tệ,
giúp tăng tính thanh khoản, cân bằng cung cầu ngoại tệ từ đó hỗ trợ việc thực thi chính
sách tiền tệ. Tuy nhiên, kèm theo đó phải là một loạt biện pháp mạnh mẽ kiên quyết hạn
chế đầu tư công, cơ cấu lại kinh tế theo hướng hiệu quả hơn từ đó tăng năng suất, giảm
chỉ số ICOR hơn nữa…Những biện pháp như vậy mới làm tăng giá trị nội tệ nhờ tăng
trưởng kinh tế một cách chắc chắn, thực chất. Đó là cách lâu dài ổn định tỷ giá, ổn định
giá trị đồng tiền Việt Nam.
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 14 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
2.4.Lãi suất
Lãi suất và tỷ giá hối đoái là 2 trong số những công cụ quan trọng để Chính phủ
điều hành nền kinh tế vĩ mô của một nước. Tuy là 2 công cụ khác nhau nhưng giữa chúng
có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau.
Xét trường hợp đồng VND và USD (các yếu tố khác không đổi):
Khi lựa chọn nắm giữ đồng tiền nội tệ và đồng ngoại tệ, người ta sẽ xem xét mức
lãi suất thực tế của 2 đồng tiền này:
Khi lãi suất của VND cao hơn lãi suất của USD, người ta sẽ có xu hướng chuyển
từ nắm giữ USD sang nắm giữ VND. Điều này làm cho nhu cầu VND tăng lên, cầu về
USD giảm đi, từ đó giá USD sẽ giảm đi so với VND, hay tỷ giá giảm tới một mức mới
mà cung cầu USD - VND trở nên cân bằng. Khi đó, lãi suất thực tế của VND và USD
tương đương nhau (điều kiện ngang bằng lãi suất và không tính tới lạm phát).
Khi có ảnh hưởng của lạm phát, mặc dù lãi suất danh nghĩa tăng, nhưng lãi suất
thực tế giảm, lúc này ngược lại - VND sẽ giảm giá so với USD, dẫn tới tỷ giá tăng.
Ngược lại, khi đồng USD tăng giá, để tạo cân bằng trên thị trường ngoại hối, NHTW sẽ
chủ động tăng lãi suất VND thông qua đẩy mạnh lượng cung ngoại tệ ra nền kinh tế đồng
thời hút bớt đồng nội tệ về. Điều này làm cho cung cầu ngoại hối trở nên cân bằng.
Ở nước ta hiện nay, lãi suất huy động bằng VND khó có thể giảm xuống do tác
động của việc tăng tỷ giá VND/USD và lãi suất tiền gửi USD, do tác động của các hành
vi và lực đẩy đưa đến ngang bằng lãi suất giữa lãi suất VND và lãi suất USD trong nền
kinh tế Việt Nam đang bị đô la hóa trầm trọng:
Lãi suất VND = lãi suất USD + độ điều chỉnh kỳ vọng (%) của tỷ giá VND/USD.
Lấy thí dụ của việc điều chỉnh tỷ giá 9,3% của NHNN ngày 11/2/2011 (thay đổi tỷ
giá liên ngân hàng từ 18.932 đồng đổi một đô la lên 20.693 đồng) ta có thể thấy công thức
trên dự đoán khá chính xác mức thay đổi của tỷ giá từ vài tháng qua:
Lãi suất huy động VND (14%) = lãi suất USD (4%-5%) + điều chỉnh tỷ giá đã xảy
ra (9,3%).
Một cách gián tiếp, ta cũng có thể hiểu rằng lãi suất VND phụ thuộc lãi suất USD
và kỳ vọng về mức lạm phát vì khi lạm phát cao hơn có nghĩa là VND sẽ phải mất giá và
USD lên giá. Lạm phát ở mức 11,75% ở Việt Nam năm 2010 đã cao hơn lạm phát ở Mỹ
khoảng 10% và điều chỉnh tỷ giá 9,3% là suýt soát mức khác nhau về lạm phát.
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 15 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
Lãi suất đang được NHNN định hướng giảm, nhằm khuyến khích các DN vay với
mức lãi suất thấp hơn để bảo đảm tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, lãi suất huy động VND
khó có thể giảm xuống do tác động của việc tăng tỷ giá VND/USD và lãi suất tiền gửi
USD, do luật ngang bằng lãi suất giữa lãi suất cho VND và lãi suất cho USD. Khi NHNN
muốn tăng cung tiền và tín dụng nhanh chóng như mấy tháng vừa qua để làm giảm lãi
suất VND, tác dụng thực tế lại ngược lại, vì tăng tiền lại làm tăng kỳ vọng lạm phát cũng
như gây thêm áp lực lên tỷ giá trên thị trường tự do. Ngoài ra, lãi suất huy động trên USD
lại tăng trong những tháng đầu năm 2011 do nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đô la hóa
đang rất cao, kết quả là lãi suất huy động trên VND vẫn khó giảm xuống ở hiện tại.
Ngoài ra, việc sử dụng vốn không hiệu quả và các khó khăn tài chính của các tập
đoàn lớn trong thời gian qua làm suy giảm lòng tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Điều này cũng làm cho lãi suất trái phiếu khó điều chỉnh giảm.
Nói chung nếu áp lực lên tỷ giá không được ngăn chặn bởi sự giảm bớt tăng cung
tiền và tín dụng sẽ khó lòng giải quyết được các bế tắc hiện tại của thị trường tín dụng và
hệ thống lãi suất để "khai thông" cho các thị trường chứng khoán và nhà đất cũng như của
cả nền kinh tế năm 2011. Chưa kể là tỷ giá của VND nếu lại vượt qua xa mức tâm lý
21.000 đồng/USD có thể làm niềm tin của dân cư, nhất là giới đầu tư, sa sút và có thể tạo
ra các thiệt hại tài chính lớn hơn nhiều do "dòng xoáy" lạm phát - tỷ giá gây ra.
Việc thay đổi tỉ giá cũng có tác động tới lãi suất USD. Nhìn lại lần tăng giá ngày
18/8/2010, sau khi tỉ giá USD/VND liên ngân hàng (NH) tăng thêm 2,09%, tỉ giá ngoại tệ
tại các NH tăng hết biên độ cho phép 3%, cán mức 19.500 đồng/USD, lập tức lãi suất
USD của một số NH bắt đầu tăng theo tỉ giá. Tình hình tương tự khi tỉ giá mới được công
bố (2/2011), tuy nhiên điều này làm cho thị trường sẽ dần ổn định, nguồn cung USD sẽ
thông thoáng hơn. Thực tế khi tăng lãi suất là đã hỗ trợ giá trị tiền Đồng, trong khi lượng
ngoại tệ đang được nắm giữ trong người dân và doanh nghiệp được cho là khá lớn, việc
thu hút lượng ngoại tệ này đưa vào lưu thông trên thị trường sẽ giải tỏa lớn được căng
thẳng ngoại tệ như hiện nay. Chính vì vậy, khi giá trị tiền Đồng được ổn định, lãi suất tiền
gửi hấp dẫn thì lượng lớn ngoại tệ trên sẽ được cung ra thị trường để nắm giữ tiền Đồng,
mục tiêu ổn định tỷ giá, thỏa mãn nguồn ngoại tệ phục vụ thanh toán quốc tế.. Doanh
nghiệp sẽ mạnh tay bán USD rồi gửi tiết kiệm bởi lãi suất tiền gửi VND lên tới 14%/năm,
cao hơn lãi suất USD 8% (hiện tại lãi suất tiết kiệm USD cao nhất là 6%/năm). Từ đó,
nguồn cung USD lẫn huy động vốn bằng VNĐ của các NH sẽ tăng lên. Mặt khác, tỉ giá
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 16 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
được điều chỉnh phù hợp với diễn biến thị trường cũng kích thích vốn đầu tư nước ngoài
đổ vào VN, tăng thêm nguồn vốn USD.
Có thể thấy rằng lãi suất là công cụ giúp các nhà quản trị tài chính dự đoán và xác
định tỷ giá trong tương lai để hoạch định chiến lược phòng chống rủi ro và chiến lược
kinh doanh hiệu quả. Lãi suất đóng vai trò quan trọng trên thị trường hối đoái bởi vì các
khoản tiền gởi lớn được buôn bán tại đó đều được trả lãi, mỗi khoản có một lãi suất, tùy
theo đồng tiền mà nó được định danh.
Lợi tức của các khoản tiền gởi được mua bán trên thị trường hối đoái phụ thuộc
vào lãi suất và các thay đổi dự kiến của tỷ giá hối đoái. Sự cân bằng thị trường hối đoái
đòi hỏi sự ngang bằng về tiền lãi, điều kiện mà theo đó lợi tức dự kiến của các khoản tiền
gởi của hai loại tiền bất kỳ là tương đương thì được đo bằng một loại tiền (nghĩa là đo
bằng các đơn vị có thể so sánh với nhau được). Chỉ khi tất cả các tỷ suất lợi tức dự kiến
đều bằng nhau, tức là khi đó điều kiện ngang bằng tiền lãi, thì sẽ không có tình trạng dư
cung về một số dạng tiền gởi nào đó và cũng không có tình trạng dư cầu về một số loại
tiền gởi khác. Thị trường hối đoái sẽ cân bằng khi không một loại tiền gởi nào ở trong
tình trạng dư cầu hoặc dư cung. Do vậy, có thể nói rằng thị trường hối đoái sẽ cân bằng
khi có điều kiện ngang bằng về tiền lãi.
2.5. Tỉ giá với tâm lý số đông
Nhân tố cuối cùng và cũng là nhân tố quan trọng nhất tác động đến tỷ giá hối đoái
đó là tâm lý số đông. Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh
doanh ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động
mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối
bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều này giải thích tại
sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu
mọi người kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô đi mua
ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá ngoại tệ rất nhạy cảm với
thông tin cũng như các chính sách của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán
ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng.( khi thâm hụt thương mại giảm, thì cầu
về USD giảm, giá USD sẽ giảm trong tương lai).
Việc điều chỉnh tỷ giá vào tháng 2/2011 về sát với thị trường tự do sẽ khiến người
dân và doanh nghiệp có ngoại tệ sẽ mạnh tay bán ngoại tệ cho ngân hàng. Trước đây, bán
100 USD cho ngân hàng thiệt hơn vì tỷ giá thấp hơn thị trường tự do, nay chênh lệch chỉ
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 17 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
còn vài chục ngàn đồng nên người có ngoại tệ đỡ thiệt hơn. Nên có thể hy vọng ngân
hàng sẽ mua được nhiều ngoại tệ hơn. Bằng việc kéo tỷ giá sát thị trường, tâm lý kỳ vọng
đồng nội tệ mất giá sẽ được giải quyết, từ đó nhu cầu ảo mua để găm giữ ngoại tệ sẽ giảm
bớt làm giảm sức ép lên quan hệ cung cầu ngoại tệ. Cung cầu cân bằng hơn, tính thanh
khoản ngoại tệ tăng lên, thị trường ngoại hối sẽ ổn định hơn. Trong quý 4/2010, do chênh
lệch tỷ giá chính thức và thị trường tự do tới 10% đã phát sinh tình trạng 2 tỷ giá trong
các ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp có nhu cầu mua ngoại tệ đã không thể mua
được theo tỷ giá chính thức mà phải chấp nhận thêm chi phí để có được ngoại tệ. Tính ra
cũng sát thị trường tự do nhưng khoản chi phí phát sinh lại không được hạch toán vào
đâu. Việc kéo tỷ giá chính thức sát với thị trường lần này đã giúp cho việc mua bán ngoại
tệ ở ngân hàng minh bạch hơn, lành mạnh hơn. Với việc điều chỉnh lần này, ít nhất tỷ giá
VND/USD sẽ ổn định trong một thời gian.
Hơn nữa, việc thay đổi tỷ giá theo hướng giá trị đồng nội tệ hạ thấp sẽ khuyến
khích dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp đổ vào Việt Nam, giúp cải thiện
trước mắt cán cân thanh toán quốc gia. Khi cán cân thương mại được cải thiện (do tỷ giá
ngoại tệ cao hỗ trợ xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu) cùng với cán cân thanh toán vững lên
sẽ củng cố dự trữ ngoại tệ quốc gia, từ đó tạo yếu tố tâm lý cũng như kỹ thuật ổn định giá
trị đồng nội tệ của Việt Nam.
Theo ông Hồ Bá Tình, điều chỉnh tỷ giá là một việc làm cần thiết để ổn định tâm lý
và kỳ vọng của người dân. Hiện nay, tỷ giá trần đã cao hơn khá nhiều so tỷ giá đang giao
dịch trên thị trường phi chính thức. Như vậy, tỷ giá sẽ được giao dịch dựa trên cung cầu
của thị trường và người dân sẽ không còn tâm lý đầu cơ, tích trữ USD. Do đó, cầu ảo về
ngoại tệ sẽ giảm xuống. Ngoài ra, việc điều chỉnh này còn "giải thoát" tâm lý người dân
và ngân hàng lúc nào cũng phải nơm nớp lo sợ vì phải lách luật. Quy mô thị trường chợ
đen cũng được thu hẹp, các giao dịch USD trở nên minh bạch hơn. Thực tế, ba đợt điều
chỉnh tỷ giá gần đây đều đã có tác dụng tích cực, giúp kéo giảm tỷ giá trên thị trường phi
chính thức.
2.6. Tỉ giá với tình trạng đô la hóa
Việc biến động tỷ giá hối đoái có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên
nhân ấy gắn với tình trạng "đô la hóa" ở nước ta hiện nay. Mặc dù Chính phủ theo đuổi
chính sách quản lý ngoại hối theo định hướng nhất quán "trên thị trường Việt Nam chỉ
giao dịch bằng đồng Việt Nam", nhưng thực tế, ngoại tệ và vàng được sử dụng khá phổ
biến như các phương tiện thanh toán trong giao dịch mua bán bất động sản, hàng hóa đắt
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 18 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
tiền, vay, trả nợ, cất trữ. Những hàng hóa này thường là những hàng hóa mà doanh nghiệp
Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu từng liên kiện, nên giá của chúng phụ
thuộc hoàn toàn vào USD, do vậy để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, các DN buộc phải niêm
yết giá bằng USD. Mỗi khi có biến động về tỷ giá thì các ngoại tệ, nhất là USD gia tăng
vai trò trên thị trường.
Ngày 11/2/2011 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên
ngân hàng lên mức 20.693 VND/USD và thu hẹp biên độ giao dịch từ dao động 3%
xuống dao động 1%. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đang điều hành tỷ giá bình quân
liên ngân hàng tương đối linh hoạt trong thời gian gần đây.
Việc điều chỉnh tỷ giá này lập tức có hiệu ứng đối với thị trường tự do, nâng giá
mua bán USD lên mức 21.350 - 21.500 đồng (11/2/2011). Sự điều chỉnh tỷ giá cũng ít
nhiều tạo xung lực tăng giá vàng trong nước. Cùng với sự biến động của USD, giá vàng
cũng tăng gần 200.000 đồng mỗi lượng, tuy vậy thời gian sau đó giá vàng trong nước
giảm nhẹ theo giá vàng quốc tế. Xu hướng tăng giá USD trên thị trường tiền tệ quốc tế đã
và đang hỗ trợ tích cực cho sự ôn hòa của giá vàng trong thời gian gần đây. \
Có thể nói việc điều chỉnh linh hoạt tỷ giá là động thái cần thiết, bình thường trong
đời sống kinh tế thị trường đầy biến động, nhất là trong bối cảnh có sự gia tăng cuộc
chiến tiền tệ với sự dịch chuyển liên tục thị giá các đồng tiền trên thế giới thời kỳ hậu suy
thoái toàn cầu và chấm dứt bản vị vàng trong chính sách tiền tệ quốc gia và quốc tế.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đã bị đô la hóa ở mức đáng kể, vàng và USD
không chỉ được sử dụng như phương tiện cất giữ mà còn được tham gia vào quá trình
thanh toán thì việc ổn định kinh tế vĩ mô và tăng niềm tin vào đồng tiền VN đòi hỏi phải
có các biện pháp hữu hiệu, đồng bộ trong chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ như
giảm bội chi ngân sách, cắt giảm các công trình đầu tư kém hiệu quả, tăng hiệu quả đầu tư
Nhà nước, minh bạch cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước... Chính bội chi ngân sách,
đầu tư công kém hiệu quả đã gây ra hậu quả mà chính sách tiền tệ, tín dụng phải gánh
chịu, dẫn đến lạm phát và giảm sức mua của đồng tiền VN. Như vậy, có thể thấy do chính
sách tài khóa khập khiểng, không hợp lí dẫn tới chính sách tiền tệ phải điều chỉnh liên tục,
chồng chéo, mâu thuẫn đã gây các hiệu ứng tâm lý không tốt dẫn tới nhiều bất cập trong
nền kinh tế hiện nay. Điều người dân đang mong đợi ở Chính phủ là kiềm chế lạm phát và
nâng cao hiệu quả nền kinh tế sẽ trở thành hiện thực sớm.
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 19 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
3.Nguyên nhân và giải pháp cho thực trạng về tỉ giá ở VN hiện nay
3.1.Nguyên nhân về thực trạng tỉ giá bất cập ở VN
Khác với những lần trước, mặc dù lần này tỷ giá chính thức giữa đô la và tiền đồng
tăng tới 9,3% (2/2011) nhưng chỉ một tuần sau khi điều chỉnh, chênh lệch giữa tỷ giá
chính thức và tỷ giá thị trường gần như trở về trạng thái trước khi điều chỉnh.
Nguyên nhân đầu tiên khiến tỷ giá tăng trở lại là do sự điều hành của Ngân hàng
Nhà nước (NHNN). Thông thường, sau mỗi lần NHNN tăng tỷ giá, thị trường sẽ điều
chỉnh “quá mức” so với tỷ giá chính thức. Thế nên, để hạn chế và đảo ngược trạng thái
điều chỉnh quá mức này, qua đó bảo vệ tỷ giá mới, NHNN phải can thiệp vào thị trường
ngoại hối sau khi tăng tỷ giá. Tuy nhiên lần này mặc dù tỷ giá tăng tới 9,3% nhưng
NHNN lại không có bất kỳ một nỗ lực can thiệp đáng kể nào. Điều này được thị trường
diễn giải là do dự trữ ngoại hối thấp nên NHNN không có khả năng can thiệp để bảo vệ tỷ
giá. Thêm vào đó, với trần tỷ giá mới thấp hơn tỷ giá trên thị trường, việc giảm biên độ
giao dịch từ 3% xuống 1% không những không giúp tăng tính linh hoạt cho chính sách
của NHNN mà còn làm cho tỷ giá chính thức hoàn toàn mất hiệu lực đối với cả thị trường
liên ngân hàng cũng như thị trường phi chính thức.
Nguyên nhân thứ hai xuất phát từ tình trạng ba đồng tiền có tính cố hữu của nền
kinh tế. Khi tiền đồng mất giá, một cách tự nhiên người ta có xu hướng chuyển sang nắm
giữ đô la và vàng. Cũng tự nhiên như thế, khi giá đô la trên thị trường cứ tiếp tục tăng,
nhiều người sẽ muốn chuyển sang nắm giữ vàng. Nhu cầu vàng tăng đẩy giá vàng lên
cao, từ đó khuyến khích việc nhập vàng (kể cả qua con đường không chính thức). Hai
điều này làm tăng thêm nhu cầu đô la và làm xấu thêm tình trạng khan hiếm đô la trên thị
trường, và vòng xoáy giá đô la và giá vàng cứ thế tiếp tục leo thang.
Nguyên nhân thứ ba là trong khi giá vàng, giá đô la đua nhau tăng như vậy thì
thông tin về những đợt điều chỉnh giá lớn về điện, nước, xăng, dầu, cũng như lo lắng về
tình trạng giá lương thực sẽ tăng cứ dồn dập đưa tới. Hệ quả là lạm phát kỳ vọng vốn đã ở
mức cao càng trở nên cao thêm, đồng thời người ta cũng nghĩ tới khả năng về một đợt
điều chỉnh tỷ giá mới, khiến cho hành vi chuyển sang nắm giữ vàng và đô la càng được
tăng cường. Điều này thường được lý giải như là một hiện tượng “tâm lý”.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng để ổn định tỷ giá, điều then chốt là
NHNN phải làm tăng sự hấp dẫn của tiền đồng một cách tương đối so với vàng và đô la.
Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu chênh lệch lãi suất giữa tiền đồng và đô la đủ lớn.
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 20 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
Cụ thể là mức chênh lệch này trong ngắn hạn phải lớn hơn mức kỳ vọng giảm giá tiền
đồng, còn trong trung và dài hạn phải lớn hơn mức chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và
Mỹ.
3.2.Một số giải pháp
- Thực hiện sự đánh đổi trong năm 2011 là để đạt mục tiêu ổn định vĩ mô, chúng ta
phải chấp nhận tăng trưởng kinh tế chậm lại. Cần phải có sự phối hợp đồng bộ nhiều
chính sách chứ không thể hy vọng vào một biện pháp kỹ thuật đơn lẻ làm cứu cánh.
- Chính phủ cần cung cấp cho thị trường những thông điệp chính sách kịp thời, rõ
ràng và nhất quán. Tuyên bố và hành động chính sách phải đi đôi với nhau.
- Cần phải duy trì chính sách tỷ giá cao để bình ổn giá cả thị trường và ngăn chặn
tình trạng bán ra VND. Từ đó mới điều hành tỷ giá một cách linh hoạt và đối phó với tình
trạng nhập siêu thay vì áp dụng chính sách tỷ giá cố định trong thời gian dài.
- Cần giảm ngay lãi suất USD tránh tình trạng đầu cơ.
- Điều hành linh hoạt tỷ giá phù hợp với Cung - Cầu ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu
ngoại tệ cho nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, ban hành các cơ chế, chính sách đồng bộ
nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và của NHTM.
- Có các giải pháp phát triển thị trường, sử dụng các công cụ phái sinh nhằm góp
phần điều hành tỷ giá linh hoạt, hỗ trợ cho thực thi chính sách tiền tệ chủ động; tạo điều
kiện cho doanh nghiệp và ngân hàng chủ động cân đối và phòng ngừa rủi ro ngoại tệ.
- Thực hiện chặt chẽ các biện pháp về quản lý, sử dụng ngoại tệ, kiểm soát chặt
chẽ cả việc cho vay và bán ngoại tệ để thanh toán cho nhập khẩu các mặt hàng thuộc
Danh mục các mặt hàng nhập khẩu không thiết yếu, không cấp bách.
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 21 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
KẾT LUẬN
Có thể nói, một nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế phải dựa trên nền tảng thể
chế kinh tế thị trường theo nguyên tắc tự do hóa các hoạt động kinh tế - thương mại và
được hỗ trợ bởi các thể chế chính trị tương thích là rất cần thiết, song phải có những bước
đi, lộ trình cụ thể để đảm bảo sự ổn định vĩ mô. Vấn đề lựa chọn cơ chế điều hành tiền tệ,
cơ chế điều hành tỷ giá nào là thích hợp trong quá trình hội nhập kinh tế luôn là những
vấn đề hóc búa. Sự lựa chọn sai lầm rất có thể dẫn đến sự bất ổn tiền tệ, bất ổn kinh tế vĩ
mô. Trong tình hình hiện nay, NHNN nhấn mạnh vai trò của tỷ giá như một công cụ quan
trọng để ổn định vĩ mô và ổn định thị trường tài chính là rất đúng hướng.Với một cơ chế
điều hành tỷ giá khống chế biên độ và điều hành thận trọng của NHNN hiện nay là giải
pháp hữu hiệu nhất để ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tuy nhiên, trong dài hạn, khi nền kinh tế đã đạt được những điều kiện nhất định,
như tiềm lực tài chính của quốc gia đã đủ mạnh; thị trường tài chính phát triển đầy đủ và
vận hành ổn định; tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế được kiểm soát mức thấp; lạm
phát ở mức ổn định; cơ cấu xuất nhập khẩu có sự thay đổi căn bản, theo hướng xuất khẩu
các mặt hàng tinh chế, tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thô giảm, giá trị hàng xuất được
hình thành chủ yếu bằng nguyên, vật liệu trong nước thì việc điều hành tỷ giá sẽ nhấn
mạnh tầm quan trọng của tỷ giá là công cụ hỗ trợ tích cực trong việc cải thiện cán cân
thương mại, tăng khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu, từ đó đảm bảo tính bền vững của
cán cân thanh toán nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung.
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 22 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
NỘI DUNG CHÍNH.........................................................................................................2
I. LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.............................................2
1. Khái niệm...................................................................................................................... 2
2. Các loại tỷ giá hối đoái.................................................................................................2
2.1. Căn cứ vào đối tượng xác định tỷ giá, có thể chia làm tỷ giá chính thứcvà tỷ giá thị
trường................................................................................................................................ 2
2.2. Căn cứ vào kỳ hạn thanh toán, có thể chia làm tỷ giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn..2
2.3. Căn cứ vào giá trị của tỷ giá, có thể chia làm tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực..........2
2.4. Căn cứ vào phương thức chuyển ngoại hối, có thể chia làm tỷ giá điện hối và tỷ giá
thư hối................................................................................................................................ 3
2.5. Căn cứ vào thời điểm mua/bán ngoại hối...................................................................3
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá............................................3
3.1.Cán cân thanh toán......................................................................................................3
3.2. Lạm phát.....................................................................................................................4
3.3. Lãi suất....................................................................................................................... 4
3.4. Một số nhân tố khác....................................................................................................4
4. Các biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái....................................................................5
4.1. Chính sách lãi suất tái chiết khấu...............................................................................5
4.2.Chính sách hối đoái.....................................................................................................5
4.3.Phá giá tiền tệ..............................................................................................................6
4.4.Nâng giá tiền tệ............................................................................................................6
5. Chính sách tỷ giá..........................................................................................................6
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 23 -
Lớp : QT6C
TIỂU LUẬN MÔN : KINH TẾ HỌC
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ TỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..........................................................7
1.Thực trạng vấn đề tỷ giá ở Việt Nam hiện nay...........................................................7
2. Tác động của tỉ giá đến nền kinh tế............................................................................9
2.1. Tỷ giá với lạm phát.....................................................................................................9
2.2. Tỷ giá với cán cân thương mại.................................................................................10
2.3.Tỷ giá với đầu tư nước ngoài....................................................................................13
2.4. Lãi suất.................................................................................................................... 15
2.5. Tỉ giá với tâm lý số đông..........................................................................................17
2.6. Tỉ giá với tình trạng đô la hóa.................................................................................18
3.Nguyên nhân và giải pháp cho thực trạng về tỉ giá ở VN hiện nay........................20
3.1.Nguyên nhân về thực trạng tỉ giá bất cập ở VN........................................................20
3.2.Một số giải pháp.......................................................................................................21
KẾT LUẬN...................................................................................................................22
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày sinh : 18/03/1990
- 24 -
Lớp : QT6C