Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.58 KB, 85 trang )

LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp là mốc son quan trọng của đời sinh viên trước khi tạm biệt
giảng đường Đại học mến yêu, bước ra thực tiễn với bao kỳ vọng và khát khao cống hiến.
Bản thân em khi được chọn làm khóa luận đã vô cùng tự hào, luôn nhủ lòng phải cố gắng
hết sức.
Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài khóa luận của mình, ngoài
những nỗ lực bản thân, em còn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, ủng hộ, quan tâm tạo
điều kiện của nhiều cá nhân, nhiều cơ quan, tổ chức. Em xin chân thành bày tỏ lòng biết
ơn vô cùng của mình đến:
Ban lãnh đạo Đại học Luật Huế đã luôn tạo điều kiện để em có thể thực hiện tốt
bài Khóa luận của mình. Cùng với tất cả quý thầy, quý cô, đặc biệt là các thầy cô trong
Bộ môn Luật Hình sự đã tận tình dạy dỗ và truyền trao tri thức cho em – những kiến thức
quý báu ấy chính là nền tảng, là hành trang quý giá giúp em có thể vững vàng nghiên
cứu, vận dụng và hoàn thành đề tài khóa luận.
Xin cảm ơn các anh, chị, cô, chú đang làm việc tại TAND tỉnh Thừa Thiên Huế đã
tạo điều kiện thuận lợi cho em trong việc tiếp cận, thu thập số liệu, tìm hiểu thông tin
phục vụ cho chuyên đề khóa luận.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành đến thầy giáo – Phó Chánh
án Bùi Quốc Hiệp, người đã trực tiếp hướng dẫn cho em, luôn tận tâm giúp đỡ, bảo ban
và động viên em trong suốt thời gian em thực hiện đề tài. Em sẽ không bao giờ quên những
chỉ dẫn quý báu tận tình của thầy - đó là kim chỉ nam, là động lực để em có thể sáng tỏ
được nhiều vấn đề sâu sắc trên hành trình nghiên cứu và cả trên bước đường mai sau.
Em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè trong thời gian qua đã cổ vũ, giúp em
có thêm động lực thực hiện chuyên đề khóa luận được tốt hơn.
Dù đã rất nỗ lực và nghiêm túc thực hiện nhưng vì thời gian hạn hẹp nên chuyên đề
khóa luận sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong nhận được sự góp ý tận
tình của quý thầy, quý cô để đề tài nghiên cứu này được hoàn thiện hơn.
Lời cuối cùng, xin gửi đến quý thầy, quý cô, người thân và bạn bè lời chúc sức
khỏe, luôn vui vẻ, hạnh phúc và thành đạt. Em xin chân thành cảm ơn!

Huế, ngày 10 tháng 4 năm 2015


Sinh viên thực hiện


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp
Mai Thị Diệu Hòa

MỤC LỤC

MỤC LỤC.................................................................................................................
BẢNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT...................................................................................

PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................7
1. Tính cấp thiết của đề tài...........................................................................7
1.1. Cơ sở lý luận.....................................................................................7
1.2. Cơ sở thực tiễn..................................................................................7
2. Mục đích nghiên cứu đề tài......................................................................9
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu đề tài..........................................9
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài........................................................................9
5. Điểm mới về mặt khoa học....................................................................10
6. Ý nghĩa của đề tài..................................................................................10
7. Bố cục của đề tài....................................................................................11
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................12
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI PHẠM RỬA TIỀN.............12
1.1. Một số vấn đề tổng quan về hành vi rửa tiền......................................12
1.1.1. Khái niệm về hành vi rửa tiền......................................................12
1.1.2. Chu trình và cách thức rửa tiền....................................................15
1.1.3. Tác động của hành vi rửa tiền đối với sự phát triển xã hội..........16
1.1.4. Mối quan hệ giữa hành vi rửa tiền với các tội phạm nguồn........17

1.1.5. Vị trí, vai trò của công tác phòng, chống rửa tiền đối với đời sống
xã hội......................................................................................................19
1.2. Pháp luật quốc tế về rửa tiền...............................................................20
1.2.1. Các văn bản pháp lý quốc tế........................................................20
1.2.1.1. Các Công ước của Liên Hợp Quốc.......................................20

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

2

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

1.2.1.2. Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF)...23
1.2.2. Đối với pháp luật của một số quốc gia........................................24
1.2.2.1. Pháp luật của Liên Bang Nga...............................................24
1.2.2.2. Pháp luật của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa......................25
1.2.2.3. Pháp luật tại một số nước khác.............................................26
1.3. Pháp luật Việt Nam về rửa tiền...........................................................26
1.4. Lịch sử hình thành các quy phạm pháp luật Hình sự Việt Nam về tội
phạm rửa tiền.............................................................................................30
1.4.1. Giai đoạn trước khi BLHS năm 1999 ra đời................................30
1.4.2. Giai đoạn từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực đến trước khi được
sửa đổi, bổ sung năm 2009....................................................................31
1.4.3. Giai đoạn từ khi BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm
2009.......................................................................................................32

1.5. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội Rửa tiền...............33
1.5.1. Khái niệm tội Rửa tiền.................................................................33
1.5.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội Rửa tiền.........................34
1.5.2.1. Mặt khách quan của tội phạm...............................................34
1.5.2.2. Chủ thể của tội phạm............................................................37
1.5.2.3. Khách thể của tội phạm........................................................37
1.5.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm...................................................38
1.6. Trách nhiệm pháp lý của người có hành vi rửa tiền...........................38
1.7. Phân biệt Tội Rửa tiền và Tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có quy định tại Điều 250 BLHS.........................42
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH XÉT XỬ TỘI PHẠM RỬA TIỀN TẠI VIỆT
NAM..............................................................................................................44
2.1. Vài nét cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội và xu hướng hội nhập ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay............................................................44

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

3

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

2.2. Việt Nam với kế hoạch thực hiện chương trình phòng, chống tội phạm
rửa tiền.......................................................................................................46
2.3. Tình hình tội phạm rửa tiền tại Việt Nam...........................................46
2.4. Điều kiện xảy ra tội phạm rửa tiền.....................................................49

2.5. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm Rửa tiền và các tội phạm
nguồn.........................................................................................................52
2.5.1. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội Rửa tiền............................52
2.5.2. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm nguồn................53
2.6. Những vấn đề vướng mắc từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ
án liên quan đến tội phạm rửa tiền và tội phạm nguồn..............................60
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ CÁC KIẾN NGHỊ TRONG CÔNG
TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM RỬA TIỀN................62
3.1. Một số nhận xét về thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền
...................................................................................................................62
3.1.1. Những thành quả đáng ghi nhận..................................................62
3.1.2. Những vấn đề cần lưu ý...............................................................64
3.2. Các kiến nghị trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa
tiền.............................................................................................................68
3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về tội Rửa tiền............................68
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền.............................................74
3.2.3. Tăng cường sự chỉ đạo, quản lý của các cơ quan nhà nước trong
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền............................74
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan....75
3.2.5. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử...........................76
3.2.6. Các biện pháp liên quan đến cán bộ, công chức..........................76
3.2.7. Nâng cao nghiệp vụ của nhân viên ngân hàng.............................77

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

4

Lớp: K35G - Luật Hình Sự



Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

3.2.8. Hoàn thiện các thiết chế thực thi hoạt động phòng, chống rửa tiền
...............................................................................................................77
3.2.9. Trang bị cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật.............................77
3.2.10. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật................................77
3.2.11. Tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng chống hoạt động rửa
tiền.........................................................................................................78
3.2.12. Xây dựng chiến lược quốc gia về phòng, chống rửa tiền..........79
PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................82

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

5

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

BẢNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT
1. BLHS

:


Bộ luật Hình sự

2. NHNN

:

Ngân hàng Nhà nước

3. TAND

:

Tòa án nhân dân

4. TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

5. UBND

:

Ủy ban nhân dân

6. VKSND

:


Viện kiểm sát nhân dân

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

6

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên những cơ sở lý luận sau:
Thứ nhất, về mặt khoa học luật hình sự, lý luận về tội phạm rửa tiền còn mờ
nhạt, chưa có hệ thống quan điểm nhất quán khiến nhiều người chưa hiểu rõ và
chưa nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm của loại tội phạm này, từ đó chưa có cơ sở
khoa học vững chắc trong việc giải quyết vụ án trên thực tiễn.
Thứ hai, về mặt luật thực định, những quy phạm về tội Rửa tiền chưa phản
ánh hết được sự nghiêm trọng, đa dạng, phức tạp và những tác hại nguy hiểm của
hoạt động rửa tiền đối với nền kinh tế. Do đó, cần thiết nghiên cứu và đưa ra mô
hình lý luận mới trong đó mở rộng phạm vi chủ thể, hành vi khách quan của tội
này nhằm tránh bỏ lọt tội phạm. Bởi lẽ pháp luật Hình sự là một trong những công
cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần đắc lực vào
việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Thứ ba, trong giai đoạn hội nhập toàn cầu hiện nay, các tội phạm về kinh tế,

các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm về ma tuý, mại dâm...trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng đang ngày một gia tăng và phức tạp, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Mà các tội phạm này,
thường gắn liền với một loại tội phạm khác – tội phạm rửa tiền. Đây là một tội
phạm khá đặc biệt - bởi lẽ với tư cách là một tội phạm phát sinh, rửa tiền có tính
phụ thuộc tự nhiên vào tội phạm nguồn.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Đề tài được thực hiện dựa trên các cơ sở thực tiễn sau:
Thứ nhất, Rửa tiền là một trong những tội phạm tài chính đang ngày càng gia
tăng trên thế giới và tại Việt Nam. Nó là một trong những loại tội phạm phát sinh, có
tính toàn cầu và đe dọa nghiêm trọng sự phát triển lành mạnh của các nền kinh tế.
Thứ hai, Việt Nam là nơi có nhiều điều kiện lý tưởng để tội Rửa tiền xâm
nhập, tồn tại và phát triển. Vì vậy, cần thiết phải quan tâm đến tội Rửa tiền để ngăn
SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

7

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

chặn và xử lý hiệu quả các hành vi rửa tiền phát sinh trong nước, để Việt Nam
không trở thành đích ngắm cho các tổ chức tội phạm quốc tế lợi dụng tẩy rửa tiền,
tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp.
Thứ ba, các tội phạm tạo ra các nguồn tiền, thu nhập bất hợp pháp như tham
nhũng, buôn lậu, cờ bạc, mại dâm ở Việt Nam còn nhiều và việc ngăn chặn chưa
đạt được những kết quả cần thiết. Vì vậy, những khoản thu nhập này sẽ có nhu cầu

được “làm sạch” và do đó sẽ làm gia tăng hoạt động rửa tiền ở Việt Nam.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội Rửa tiền có ý nghĩa
cực kì quan trọng đối với công cuộc phòng, chống các loại tội phạm có tính chất
kinh tế và một số loại tội phạm khác. Vì rửa tiền không chỉ giúp cho tội phạm che
giấu được nguồn gốc của những khoản tiền bất hợp pháp mà còn tạo ra cơ sở cho
chúng hưởng thụ và sử dụng những đồng tiền đã được tẩy rửa để phục vụ cho
những hoạt động tội phạm khác.
Thứ năm, Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong đấu tranh phòng và chống tội
Rửa tiền. Thực tiễn cho thấy loại tội phạm này vẫn chưa được nghiêm trị đúng
đắn, còn nhiều vấn đề vướng mắc tranh cãi, còn thiếu kinh nghiệm và sự cảnh giác
trong việc đấu tranh phòng, chống loại tội này.
Thứ sáu, nền kinh tế các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và các loại tội
phạm xuyên quốc gia xuất hiện ngày càng phức tạp. Việc hội nhập nền kinh tế thế
giới và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế lớn, Việt Nam đã phải cam kết thực
hiện nhiều vấn đề, trong đó có việc chỉnh sửa hệ thống pháp luật, tham gia vào các
tổ chức quốc tế trong đó có tổ chức về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố như FATF.
Nếu không tham gia vào cuộc chiến mang tính quốc tế về chống rửa tiền, Việt Nam
sẽ mất đi sự tôn trọng của cộng đồng quốc tế và trở thành nơi để các tổ chức tội
phạm quốc tế lợi dụng làm địa điểm tẩy rửa tiền, tài sản có nguồn gốc phi pháp.
Việc quy định tội Rửa tiền trong BLHS Việt Nam là một trong những cơ sở tất yếu
giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế trong hội nhập và toàn cầu hóa.
Từ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đó, là một sinh viên luật học - tác
giả nhận thấy việc nghiên cứu sâu rộng hơn nữa về tội Rửa tiền là một đòi hỏi bức
thiết, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm cấp bách hiện nay. Vì thế,

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

8

Lớp: K35G - Luật Hình Sự



Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

cùng với sự định hướng của giáo viên hướng dẫn, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài
“Đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện nhằm các mục đích sau:
- Nghiên cứu, phân tích các khía cạnh pháp lý của tội Rửa tiền như cấu thành
tội phạm, hình phạt, TNHS v.v..
- Nghiên cứu thực trạng tội Rửa tiền và thực tiễn giải quyết các vụ án này tại
Việt Nam trong những năm qua.
- Làm rõ bản chất, mức độ nguy hiểm và những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt
động rửa tiền đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam.
- Đánh giá về mặt thực tiễn, qua đó rút ra những vướng mắc, đưa ra một số
kiến nghị hoàn thiện nhằm ngăn chặn, xử lý hiệu quả đối với hành vi rửa tiền, góp
phần nâng cao công tác đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền nói riêng và các
tội phạm nguồn của nó nói chung.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu đề tài
• Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề lý luận của tội phạm rửa tiền và
thực tiễn phòng, chống tại Việt Nam.
• Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề tội phạm nói chung, các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật
của Nhà nước về quan điểm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật Hình sự và
logic học như: phương pháp thống kê Hình sự, phương pháp lịch sử, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Về thời gian: nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội Rửa tiền tại Việt Nam
từ trước khi ban hành BLHS năm 1999 đến nay và xu hướng phát triển loại tội này
trong thời gian tới.
SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

9

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

Về không gian: nghiên cứu tội Rửa tiền tại Việt Nam trong sự so sánh, liên
hệ với loại tội này trên thế giới.
5. Điểm mới về mặt khoa học
Vấn đề “tội phạm rửa tiền” là vấn đề khá rộng và phức tạp về lý luận nhưng
lại hạn chế tư liệu về thực tiễn. Về mặt khoa học luật Hình sự, lý luận về tội này
còn mờ nhạt, chưa có hệ thống quan điểm nhất quán nên dễ dẫn đến tình trạng
nhiều người chưa hiểu rõ, chưa nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm của nó. Từ đó,
việc giải quyết vụ án trên thực tiễn chưa có cơ sở vững chắc, nhiều trường hợp bị
bỏ lọt tội phạm, số liệu về công tác thực tiễn xét xử đối với tội này vô cùng hạn
chế. Về mặt luật thực định, việc quy định tội danh tội Rửa tiền đã phần nào phản
ánh được sự nghiêm trọng, đa dạng, phức tạp và những tác hại nguy hiểm của hoạt
động rửa tiền đối với đất nước.

Trước những khó khăn và thách thức đó, tác giả đã cố gắng nghiên cứu đề
tài này một cách sâu sát nhất, nếu đề tài được thực hiện thành công và đạt các
mục đích đề ra sẽ có đóng góp mới về mặt khoa học như sau: Làm rõ bản chất
của tội Rửa tiền; xây dựng mô hình lý luận hoàn thiện hơn về tội Rửa tiền trong
BLHS của Việt Nam; góp phần kiện toàn khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền
ở Việt Nam.
Tác giả hy vọng công trình khóa luận này sẽ mang lại ý nghĩa thiết thực, hữu
ích cho công cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này nói riêng và các tội
phạm nguồn của nó nói chung, tránh bỏ lọt tội phạm.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý
nghĩa về mặt thực tiễn đối với công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền
tại Việt Nam nói chung và địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng.
Về mặt lý luận: Đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định về tội phạm
rửa tiền trong BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 bằng cách nghiên cứu,
mở rộng phạm vi chủ thể, hành vi khách quan của tội này. Điều này lại càng có ý
nghĩa khi mà nước ta đang trong giai đoạn thực hiện tổng kết, nghiên cứu sửa đổi
cơ bản, toàn diện BLHS.

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

10

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp


Về mặt thực tiễn: Những kiến nghị mà tác giả đề cập trong chuyên đề sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả không chỉ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền
mà còn có ý nghĩa thiết thực trong đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm nguồn
có liên quan. Từ đó, không chỉ giúp đảm bảo việc xét xử được nghiêm minh, đúng
người đúng tội mà còn tránh bỏ lọt tội phạm.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, bảng kê chữ viết tắt và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của khóa luận gồm 3 chương sau:
Chương 1: Khái quát chung về tội phạm rửa tiền
Chương 2: Tình hình xét xử tội phạm rửa tiền tại Việt Nam
Chương 3: Một số nhận xét và các kiến nghị trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm rửa tiền

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

11

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI PHẠM RỬA TIỀN
1.1. Một số vấn đề tổng quan về hành vi rửa tiền
1.1.1. Khái niệm về hành vi rửa tiền
Đồng tiền - như một tục ngữ phương Tây đã từng nói, vốn không có mùi, có

nghĩa là dù bẩn dù sạch, nó vẫn được mọi người quý trọng vì đều có quyền năng
như nhau khi thực hiện chức năng trao đổi. Nhưng đồng tiền thu được từ những
hoạt động phi pháp, là những đồng tiền đã nhuốm bẩn tội ác. Kẻ phạm tội khi có
được những đồng tiền đó, thường tìm mọi cách “rửa” chúng, biến chúng thành
những đồng tiền “sạch”.
Hoạt động rửa tiền vốn đã xuất hiện từ lâu, thậm chí theo nhiều sử gia, hơn ba
ngàn năm trước các thương gia Trung Quốc đã biết “rửa tiền” để tránh thuế của triều
đình. Tuy nhiên, thuật ngữ "rửa tiền" chỉ chính thức ra đời ở thế kỷ XX, xuất phát từ
các Mafia Mỹ trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Với vai trò
là một thuật ngữ pháp lý, "rửa tiền" lần đầu tiên xuất hiện tại Mỹ vào năm 1982 khi
Tòa án Mỹ xử vụ án rửa tiền số 551F Supp.314 ở New York. Thuật ngữ “rửa tiền”
lần đầu tiên xuất hiện và được nhắc đến trong cáo trạng đối với một công ty có tên
Laundromats - công ty kinh doanh chuyên nhận tiền mặt, do một tội phạm có tên Al
Capon mua lại và sử dụng để hòa trộn tiền bẩn với tiền sạch tại Mỹ và bị xử về tội
trốn thuế như sau: “ Rửa tiền được gọi như vậy vì nó miêu tả một cách hoàn hảo
những gì diễn ra - tiền bẩn hoặc bất hợp pháp được đưa vào một vòng các giao dịch,
hoặc được rửa sạch sao cho nó ra đằng kia như là tiền hợp pháp hay tiền sạch.”.
Còn theo Công ước Vienna (1988) và Công ước Palermo (2000) của Liên
Hợp Quốc, thì rửa tiền là các hoạt động (1) chuyển hoán hoặc chuyển nhượng tài
sản khi biết tài sản đó có nguồn gốc từ các hành vi phạm tội, hoặc (2) tham gia vào
hành vi nhằm mục đích giấu giếm hoặc che đậy nguồn gốc phi pháp của tài sản
hoặc tiếp tay cho bất kỳ cá nhân nào tham gia vào hành vi này, hoặc (3) giấu giếm

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

12

Lớp: K35G - Luật Hình Sự



Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

hoặc che đậy bản chất thực, nguồn gốc, địa điểm, việc định đoạt, sự chuyển dịch,
các quyền liên quan đến tài sản hoặc quyền sở hữu tài sản khi biết rằng tài sản đó
có được từ hành vi phạm tội, hoặc (4) có được, chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản khi
tại thời điểm tiếp nhận nó đã biết rằng tài sản này có được từ hành vi phạm tội.
So với một số nước trên thế giới thì khái niệm về hành vi rửa tiền tại Việt
Nam được hình thành khá muộn. Năm 1997, mặc dù thuật ngữ “rửa tiền” chưa
được sử dụng nhưng trách nhiệm của các tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền
có nguồn gốc bất hợp pháp lần đầu tiên được quy định trong Luật các tổ chức tín
dụng. Tiếp đó, trong BLHS năm 1999, tuy chưa có điều luật nào quy định trực tiếp
về tội Rửa tiền nhưng bản chất của tội phạm này lần đầu tiên được phản ánh qua
Điều 251 về tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Như vậy, mặc dù những hành vi rửa tiền về bản chất đã được quy định trong
BLHS năm 1999 nhưng thuật ngữ “rửa tiền” mới chỉ được đề cập đến trong một số
bài viết của một số tác giả vào những năm đầu của thế kỷ 21 và chính thức được
đưa vào sử dụng trong văn bản pháp lý đầu tiên về phòng chống rửa tiền: Nghị
định số 74/2005/NĐ-CP ngày 06/5/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền.
Khoản 1 Điều 3 Nghị định này nêu rõ:
“ Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hoá tiền, tài sản
do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau đây:
a) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài
sản do phạm tội mà có;
b) Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận
chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;
c) Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp
hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản
chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản

do phạm tội mà có.”
Đến năm 2009, BLHS Việt Nam năm 1999 được sửa đổi bổ sung, theo đó đã
sửa Điều 251 về “Tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có” thành “Tội
Rửa tiền”. Khoản 1 Điều 251 về Tội Rửa tiền quy định:

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

13

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ một
năm đến năm năm:
a) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc
giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có nhằm che
giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó;
b) Sử dụng tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có vào việc tiến hành các
hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác;
c) Che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di
chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có hoặc
cản trở việc xác minh các thông tin đó;
d) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản này
đối với tiền, tài sản biết rõ là có được từ việc chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển
đổi tiền, tài sản do phạm tội mà có”.
Năm 2012, để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, Quốc hội nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật phòng, chống rửa tiền; theo đó Khoản 1
Điều 4 của Luật nêu rõ:
“1. Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc
của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm:
a) Hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự;
b) Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh
trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có;
c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do
phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản”.
Đó là về luật thực định, còn trong khoa học pháp lý, rửa tiền vẫn là một khái
niệm mới và chưa được thống nhất. Hiện tồn tại một số quan điểm sau đây về khái
niệm “rửa tiền”:
Quan điểm của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm: “Rửa tiền là hoạt động tội phạm
nhằm mục đích che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản cho phép chủ nhân
của tài sản được hưởng dụng tài sản một cách hoàn toàn hợp pháp, để kinh doanh
kiếm lời hoặc để cung cấp tàichính cho các hoạt động phạm tội khác.”

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

14

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

Quan điểm của PGS.TS Nguyễn Hoà Bình: “Rửa tiền là quá trình hợp pháp
hoá những khoản tiền thu được từ hoạt động tội phạm”.

Từ những phân tích trên, có thể kết luận rửa tiền (tiếng Anh: money
laundring) là thuật ngữ dùng để chỉ một hành vi chuyển hóa đồng tiền được thu
nhập bất minh thành những đồng tiền có vỏ bọc hợp pháp, là sự “làm sạch đồng
tiền” phù hợp theo luật pháp.
Khái niệm “Tiền” trong thuật ngữ "rửa tiền" cần được hiểu theo nghĩa rộng,
bao gồm cả tiền và tài sản do phạm tội mà có chứ không phải chỉ bao gồm tiền là
phương tiện lưu thông, thanh toán. Dưới khía cạnh tài chính hay pháp lý, rửa tiền
đều là hành vi che giấu hoặc đánh lừa việc nhận biết tiền do phạm tội mà có, làm
cho tiền này có bề ngoài hợp pháp.
1.1.2. Chu trình và cách thức rửa tiền
Để có được vỏ bọc hợp pháp, những đồng tiền bất chính phải trải qua một quá
trình chuyển đổi và được đưa vào lưu thông trong đời sống kinh tế xã hội mà không
gây ra sự nghi ngờ cho cơ quan thực thi pháp luật hoặc không làm lộ tội phạm
nguồn. Theo mô tả của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),
hoạt động rửa tiền phổ biến trên thế giới thường tiến hành theo 3 bước chính:
- Giai đoạn đầu tiên, phân phối (placement): các đối tượng sẽ đưa tiền do
hoạt động phạm pháp mà có vào các định chế tài chính. Thủ đoạn phổ biến để
tránh bị phát hiện là thực hiện đầu tư phân tán bằng cách chia các khoản “tiền bẩn”
thành nhiều khoản tiền nhỏ dưới mức quy định, thay đổi hình thái tồn tại của “tiền
bẩn” để đi vào hệ thống tài chính, ngân hàng. Giai đoạn này là giai đoạn dễ bị phát
hiện nhất trong quy trình rửa tiền.
- Giai đoạn tiếp theo, dàn trải (layering): đây là giai đoạn bước đầu cắt đứt
mối quan hệ với tội phạm gốc thông qua các thao tác nghiệp vụ tài chính, kế toán
để che giấu nguồn gốc tài sản. Thực chất đây là quy trình tạo ra một chuỗi các giao
dịch nhằm mục đích che đậy các nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp và làm cho
chúng ngày càng xa nguồn gốc ban đầu.
- Giai đoạn cuối, hội nhập (integration): sau một quá trình tẩy rửa, đồng tiền
trở về với người phạm tội trong vỏ bọc hợp pháp, chúng có thể đầu tư vào các hoạt

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa


15

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

động kinh doanh thương mại, trộn lẫn “tiền bẩn” “tiền sạch” để tiếp tục một chu
trình khác và khép lại chu trình trước.
Cùng với các công đoạn đó, những phương pháp kỹ thuật tinh vi được sử
dụng để rửa tiền càng làm cho vấn đề này thêm phức tạp. Những phương pháp tinh
vi như vậy có thể liên quan đến các loại tổ chức tài chính khác nhau; các giao dịch
tài chính nhiều tầng; việc sử dụng các tổ chức trung gian như các nhà tư vấn tài
chính, kế toán viên, các công ty trá hình và các nhà cung cấp dịch vụ khác; chuyển
ngân tới, thông qua và từ các nước khác nhau; cùng với việc sử dụng các công cụ
tài chính khác nhau và các loại tài sản có giá trị cất trữ khác.
Có thể nói, rửa tiền là một quá trình xử lý công phu - bằng các phương thức
khác nhau, qua các kênh hợp pháp - tiền, tài sản do phạm tội mà có nhằm che đậy
nguồn gốc bất hợp pháp của chúng, tạo ra một vẻ bên ngoài hợp pháp cho những
món lợi thu được một cách bất chính từ hành vi phạm tội.
1.1.3. Tác động của hành vi rửa tiền đối với sự phát triển xã hội
Tội phạm rửa tiền, tài trợ khủng bố đang là vấn đề mang tính toàn cầu, mỗi
năm tội phạm này đã tiến hành rửa từ 1.000-1.500 tỷ USD trên toàn thế giới, gây
ra những tác hại khôn lường đối với kinh tế, xã hội và an ninh thế giới. Tội phạm
này có tác động, ảnh hưởng tiêu cực bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống như
kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng,... chúng vươn “những chiếc vòi
bạch tuộc” ra ngoài biên giới các quốc gia.

Rửa tiền không chỉ giúp người phạm tội che giấu được nguồn gốc của những
khoản tiền bất hợp pháp mà còn tạo ra cơ sở cho chúng hưởng thụ và sử dụng
những đồng tiền đã được tẩy rửa để phục vụ cho hoạt động tội phạm khác. Bởi nếu
việc rửa tiền thành công thì người phạm tội xem như đã có thể làm sinh lợi từ số
tài sản phạm tội mà có, tạo được nơi ẩn náu an toàn cho số tài sản có được từ
nguồn thu nhập bất hợp pháp, từ đó làm gia tăng nhiều tội phạm nguồn hơn nữa.
Đây cũng chính là động lực thôi thúc cho việc phạm tội, nhất là tội tham nhũng vì ý
muốn một tương lai “tốt đẹp hơn”, “hy sinh đời bố củng cố đời con”. Từ đó, một
quốc gia hoạt động rửa tiền gia tăng sẽ là nơi ẩn náu an toàn cho những tên tội phạm
và tài trợ khủng bố, gây bất lợi cho phát triển kinh tế cũng như an toàn xã hội.

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

16

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

Các định chế tài chính nước ngoài có thể hạn chế, ngừng hoặc kiểm soát gắt
gao các giao dịch liên quan của quốc gia có hoạt động rửa tiền, làm giảm cơ hội
kinh doanh và khả năng hấp thụ được các nguồn vốn của các nhà đầu tư tư nhân
nước ngoài. Việc rửa tiền cũng sẽ làm cho các tổ chức tài chính, tín dụng, ngân
hàng và các định chế tài chính nói chung phải chịu nhiều rủi ro về uy tín, nghiệp
vụ, pháp lý và gia tăng những chi phí tiêu cực. Rửa tiền còn làm tổn thương khu
vực tư nhân và tổn hại đến nỗ lực tư nhân hóa nền kinh tế vì bọn rửa tiền có thể
thành lập công ty làm bình phong để hợp pháp hóa tài sản hoặc số tiền phạm tội có

được thông qua các chiêu bài đầu tư, mua bán sản phẩm, hợp đồng kinh tế...
Những hoạt động kinh tế ngầm này sẽ tác động xấu đến hướng đầu tư, làm giảm
tính hiệu quả của các công cụ tiền tệ của Chính phủ, kích thích các hành vi tội
phạm kinh tế như trốn thuế, mua bán nội gián, gian lận thương mại, tăng tính bất
ổn của nền kinh tế.
Vậy rõ ràng, tác hại của rửa tiền đối với xã hội và nền kinh tế là rất rõ và
nguy hiểm vì nó làm gia tăng tội phạm (trước rửa tiền là tội phạm nguồn), ảnh
hưởng tới an ninh quốc gia và uy tín quốc tế của quốc gia, làm suy yếu nền kinh tế,
cũng như lũng đoạn hệ thống tài chính, bóp méo hoạt động ngoại thương, ngăn cản
hội nhập quốc tế, làm giảm uy tín và đầu tư nước ngoài. Chính những tác hại to lớn
như trên, tội phạm rửa tiền đã được nhận định là vấn nạn nghiêm trọng mang tính
quốc tế, được cộng đồng thế giới rất quan tâm.
Trong khi đó, tại Việt Nam, vấn đề phòng, chống rửa tiền là một trong những
vấn đề còn tương đối mới mẻ và công cuộc đấu tranh vẫn chưa hoàn thiện. Chúng
ta cần đề cao công tác phòng ngừa loại tội phạm này hơn nữa để góp phần đảm bảo
an ninh, chính trị, trật tự an toàn, lành mạnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
1.1.4. Mối quan hệ giữa hành vi rửa tiền với các tội phạm nguồn
Tội phạm nguồn của tội Rửa tiền là hành vi phạm tội chính, từ đó tạo ra
những đồng tiền “bẩn” mà khi được rửa sẽ dẫn tới hành vi phạm tội rửa tiền.
Những đồng tiền “bẩn” ấy thường có được từ những lao động siêu lợi nhuận bất
hợp pháp như buôn lậu, mua bán ma túy, vũ khí, mại dâm, mua bán hàng hoá bị
cấm; từ hoạt động làm tiền giả, tống tiền, tổ chức đánh bạc; do tham nhũng, nhận

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

17

Lớp: K35G - Luật Hình Sự



Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

hối lộ, tham ô hoặc do lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước mà có như
lợi dụng việc biết trước các thông tin về chủ trương, chính sách, quy hoạch v.v...
để trục lợi; tiền có được do trốn thuế dù thu nhập là hợp pháp;...
Ở Việt Nam, khi nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường, cùng với xu
thế hội nhập về kinh tế thì tội phạm cũng có chiều hướng gia tăng, với tính chất,
mức độ ngày càng tinh vi hơn. Hoạt động tẩy rửa tiền thường được phát hiện sau
khi khởi tố và điều tra các vụ án nguồn, thông qua các biện pháp điều tra nghiệp
vụ, cán bộ điều tra đã phát hiện ra hoạt động tẩy rửa tiền của bọn tội phạm. Đơn cử
như các vụ án tham nhũng, trong quá trình điều tra, cán bộ điều tra đã phát hiện
các “ông quan tham” thường có trong tay vài ngôi biệt thự, tài khoản bí mật ở ngân
hàng nước ngoài. Những tài sản đó trị giá lên đến hàng triệu USD. Và không ai có
thể chắc chắn rằng, trong các khu chung cư, biệt thư cao cấp hiện đại ở các thành
phố lớn có bao nhiêu ngôi nhà được mua bằng những đồng tiền hợp pháp. Bởi hiện
nay, những kẻ hở trong pháp luật về thị trường bất động sản, kiểm soát thu nhập cá
nhân đang là điều kiện để bọn tội phạm tiến hành hoạt động tẩy rửa tiền.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, rửa tiền là một tội phạm tương đối đặc
biệt. Với tư cách là một tội phạm phát sinh, rửa tiền có thuộc tính phụ thuộc tự
nhiên vào tội phạm nguồn. Có thể nói không có tội phạm nguồn thì không có tội
phạm rửa tiền.
Xét ngược lại, thực hiện rửa tiền thành công là cái kết mong muốn của những
cá nhân và tổ chức khi thực hiện hành vi phạm tội nguồn. Trong một xã hội, khi
một cá nhân có hành vi phạm tội, dù là hành vi xâm phạm thân thể hay xâm phạm
lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, dù đã bị những hình phạt tương xứng
của pháp luật nhưng những khoản thu được từ những hành vi phạm tội đó nếu
không bị niêm phong, phong tỏa, tịch thu thì những hình phạt hình sự đó cũng
không mang lại hiệu quả như mong muốn. Vì chính những khoản thu này mới là

mục tiêu, là động lực thúc đẩy cho hoạt động bất hợp pháp tiếp diễn theo sau. Nói
cách khác, công tác phòng, chống rửa tiền nếu không niêm phong, phong tỏa, tịch
thu được tài sản phạm tội sẽ đồng nghĩa với việc làm mà không có chủ đích, làm
không hiệu quả, thậm chí còn gây tốn kém cho nền kinh tế.

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

18

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

1.1.5. Vị trí, vai trò của công tác phòng, chống rửa tiền đối với đời sống
xã hội
Trên thế giới, hiện có rất nhiều các tổ chức chính phủ và phi chính phủ được
phân công thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền như: Ngân Hàng Thế Giới
(WB), Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), Ủy Ban Giám Sát Ngân Hàng Basel, Lực
Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính (FATF), v.v. Ở các nước phát triển như Mỹ, Anh,
Nga, Úc, Pháp, Luật Phòng, chống rửa tiền đã được hình thành và triển khai một
cách hiệu quả. Điều này cho thấy tầm quan trọng của công tác phòng, chống rửa
tiền đang được toàn cầu ghi nhận.
Xét về mặt thời gian, công tác phòng, chống rửa tiền gồm hai giai đoạn: giai
đoạn phòng và giai đoạn chống; mỗi giai đoạn đều có vai trò nhất định của nó và
có mối liên hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau, bổ trợ cho nhau.
Giai đoạn phòng ngừa thường “đi trước” và được thực hiện trước giai đoạn
chống. Công tác phòng ngừa hoạt động rửa tiền bao gồm những biện pháp được

triển khai nhằm hạn chế lượng lớn tiền bẩn, không cho “xâm nhập” hay hòa trộn vào
các loại nguồn vốn sạch khác trong nền kinh tế. Đồng nghĩa với điều này, công tác
phòng ngừa tội phạm rửa tiền sẽ góp phần bảo vệ những nhà đầu tư chân chính, đảm
bảo hiệu quả khai thác và sự cạnh tranh lành mạnh của những nguồn vốn sạch.
Giai đoạn chống được coi là giai đoạn sau của công tác phòng, chống rửa tiền.
“Chống” đồng nghĩa với việc “xử lý” khi tiền bẩn đã nằm trong các quy trình rửa
tiền nhưng bị các cơ quan chức năng phát hiện. Việc xử lý chính là việc tiến hành
các thủ tục điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, buộc chúng phải chịu hình phạt thích
đáng của pháp luật và các biện pháp tư pháp triệt để như kê biên, tịch thu tài sản
phạm tội. Việc xử lý như vậy nhằm mục tiêu không cho tội phạm thụ hưởng những
khoản thu do các hành vi phạm tội được chính người phạm tội nguồn hoặc người
khác thực hiện tội phạm nguồn mang lại. Và như vậy, công tác chống tội phạm rửa
tiền sẽ là bước triệt để nhất tạo nên hiệu quả của công tác phòng, chống tội phạm rửa
tiền. Công tác chống tội phạm rửa tiền sẽ mang lại sự công bằng cho xã hội, một mặt
trừng trị thích đáng những người vi phạm pháp luật, mặt khác răn đe những kẻ có ý
định thực hiện hành vi phạm tội, tạo tiền đề cho những yếu tố lành mạnh phát triển.

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

19

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

Xét về mặt cơ chế, công tác phòng, chống rửa tiền đòi hỏi một hệ thống
thống nhất từ Trung ương xuống địa phương, từ cơ quan quản lý đến các tổ chức,

cá nhân chịu sự quản lý, từ các cơ quan lập pháp đến các cơ quan hành pháp và tư
pháp, từ sự phối kết hợp trong nước đến việc hỗ trợ, giúp đỡ, phối hợp giữa các đối
tác, các chủ thể, các quốc gia khác nhau. Tội phạm rửa tiền nói riêng, tội phạm nói
chung thông thường tìm nơi trú ẩn trong những khu vực ít có sự kiểm soát nhất,
nơi pháp luật yếu kém, lỏng lẻo nhất, nơi hệ thống hành pháp dễ bị mua chuộc, dễ
bị thao túng nhất vì nếu có bị phát hiện thì cũng không đáng lo ngại quá so với
mức lợi nhuận thu được từ hoạt động phạm pháp mà chúng đã, đang và sẽ thực
hiện. Vì vậy, công tác phòng, chống rửa tiền ở khía cạnh này sẽ là công cụ hữu
hiệu để chống tham nhũng một cách có hiệu quả. Hay nói cách khác, công tác
phòng, chống rửa tiền sẽ minh bạch hóa, lành mạnh hóa bộ máy nhà nước của một
quốc gia, làm gia tăng sự bền vững của hệ thống tài chính thế giới và tăng cường
sự phối kết hợp, tương trợ nhau giữa các quốc gia trên thế giới.
Cơ chế phòng, chống rửa tiền trên thế giới hiện nay vô cùng chặt chẽ. Vì vậy,
nếu một quốc gia được coi là nơi ẩn náu của tội phạm rửa tiền hoặc là “thiên
đường” để chu chuyển các luồng vốn bất hợp pháp thì quốc gia đó phải đối mặt
với những khó khăn trong mọi quan hệ với cộng đồng quốc tế. Đối với một quốc
gia vẫn còn phụ thuộc nhiều vào việc tiếp nhận viện trợ phát triển và tiếp nhận đầu
tư như Việt Nam thì việc nỗ lực phòng, chống rửa tiền lại càng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Chính vì vậy, công tác phòng, chống rửa tiền có hiệu quả sẽ làm gia
tăng uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, từ đó củng cố được lòng tin của các
nhà đầu tư và thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn.
1.2. Pháp luật quốc tế về rửa tiền
1.2.1. Các văn bản pháp lý quốc tế
1.2.1.1. Các Công ước của Liên Hợp Quốc
1.2.1.1.1. Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma
túy và các chất hướng thần (Công ước Viên năm 1988)
Mãi cho tới những năm 80 của thế kỷ XX, cộng đồng quốc tế mới quan tâm
nhiều hơn đến khái niệm rửa tiền khi bàn tới những biện pháp cần thực hiện để

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa


20

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

chống tội phạm ma túy, không cho chúng được sử dụng, được hưởng lợi từ những
khoản thu có nguồn gốc từ việc buôn bán ma túy. Kết quả, tuy thuật ngữ “rửa tiền”
không được sử dụng trong Công ước Liên hợp quốc về chống buôn lậu ma túy và
các chất hướng thần (Công ước Viên năm 1988), nhưng nội hàm hành vi tẩy rửa
những khoản thu được từ tội phạm ma túy đã được miêu tả đầy đủ trong Mục b, c
Khoản 1 Điều 3 của Công ước này.
Tuy nhiên, trong điều kiện của mình, Công ước Viên chỉ quy định các tội
phạm nguồn của tội buôn bán bất hợp pháp ma túy. Vì vậy, những hành vi phạm
tội không liên quan đến buôn bán bất hợp pháp ma túy như lừa đảo, bắt cóc và
trộm cắp thì không cấu thành tội Rửa tiền theo Công ước Viên.
1.2.1.1.2.Công ước của Liên Hiệp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia (Công ước Palermo năm 2000)
Trước bối cảnh nền kinh tế các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và các
loại tội phạm xuyên quốc gia xuất hiện ngày càng phức tạp, Liên Hợp Quốc đã
thông qua Công ước Palermo nhằm tăng cường nỗ lực chống tội phạm có tổ chức.
Công ước Quốc tế về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công uớc
Palermo năm 2000) khuyến nghị các quốc gia tham gia Công ước cần hình sự hoá
các hành vi có tính chất “rửa tiền” là hành vi phạm tội.
Công ước bàn đến việc trừng trị những hành vi tẩy rửa các khoản thu được từ
tội phạm trong một điều khoản riêng biệt (Điều 6 Công ước của Liên hợp quốc

năm 2000 về chống tội phạm xuyên quốc gia - Công ước Palermo), đồng thời đưa
ra khái niệm “tội phạm nguồn” là tất cả những loại tội phạm nào mang lại nguồn
thu và có thể là đối tượng của tội phạm nêu tại Điều 6 Công ước này. Điều 6 có tên
“Hình sự hóa hành vi tẩy rửa các khoản thu tội phạm” (Criminalization of the
laundering of proceeds of crime) quy định:
“1. Trên cơ sở phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia,
mỗi quốc gia thành viên sẽ ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác
để quy định thành tội phạm hình sự những hành vi sau đây nếu những hành vi này
được thực hiện một cách cố ý:

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

21

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

(a) Chuyển đổi hay chuyển giao tài sản, dù biết rằng những tài sản này do
phạm tội mà có, nhằm mục đích che đậy hoặc che giấu nguồn gốc bất hợp pháp
của tài sản hoặc nhằm tiếp tay cho người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm
nguồn lẩn tránh những hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội;
(ii) Che đậy hoặc làm thay đổi bản chất đích thực, nguồn gốc, nơi cất giữ,
việc định đoạt, vận chuyển của tài sản hoặc quyền sở hữu hay những quyền khác
có liên quan đến tài sản mặc dù biết rằng tài sản đó là do phạm tội mà có;
(b) Không trái với những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật quốc gia,
mỗi quốc gia thành viên có thể quy định thành tội phạm hình sự các hành vi sau:

Mua, cất giữ hoặc sử dụng tài sản, mặc dù vào thời điểm nhận tài sản biết rằng tài
sản đó là do phạm tội mà có; tham gia thực hiện một trong những hành vi tội phạm
theo quy định tại điều này hoặc tham gia vào mọi hình thức liên kết, thỏa thuận, ý
đồ hoặc âm mưu phạm tội bằng cách hỗ trợ, xúi giục, tạo điều kiện và hướng dẫn
thực hiện hành vi phạm tội đó”.
Công ước Palermo có thể nói là một văn bản đề cập đầy đủ nhất các khía
cạnh liên quan tới khái niệm “rửa tiền”, và các điều khoản của nó chấp nhận cùng
một cách tiếp cận mà Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) đã
thông qua trong “Bốn mươi khuyến nghị về rửa tiền” của mình.
1.2.1.1.3. Công ước của Liên Hiệp Quốc về chống tham nhũng
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn đó để vụ lợi. Đây là hiện tượng tiêu cực có ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sự phát triển của mỗi quốc gia và nền kinh tế thế giới. Tham nhũng làm tha
hóa bộ máy nhà nước, là trở lực lớn đối với sự giàu mạnh đất nước và làm xói mòn
lòng tin của nhân dân, khiến cho xã hội trở nên bất an, bất ổn, tiềm ẩn những mâu
thuẫn, xung đột. Theo đánh giá của Tổ chức minh bạch quốc tế (TI), Việt Nam
thuộc nhóm nước tham nhũng nghiêm trọng. Tham nhũng đang trở thành vật cản
lớn cho thành công của công cuộc đổi mới của nước ta, là quốc nạn cần phải bài
trừ và phòng, chống mạnh mẽ.
Trong những năm gần đây, cùng với xu hướng toàn cầu hóa, tham những
ngày càng phát triển nên đã có hơn 100 quốc gia tham gia Công ước về chống

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

22

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp


GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

tham nhũng. Công ước gồm 8 chương và 71 điều, trong đó có 02 điều (điều 14 và
điều 23) quy định trực tiếp về rửa tiền.
Điều 14 quy định các biện pháp phòng chống rửa tiền mang tính định hướng
và phòng ngừa là chủ yếu. Theo đó, các quốc gia cần thiết thành lập cơ chế giám
sát toàn diện đối với ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng, các cơ quan khác
đặc biệt dễ phát sinh rửa tiền, nhằm ngăn chặn, phát hiện mọi hình thức rửa tiền;
áp dụng các biện pháp khả thi nhằm kiểm soát, phát hiện việc di chuyển tiền mặt
và tài sản qua biên giới nhưng không được gây trở ngại với các dòng vốn hợp
pháp; tăng cường hợp tác nhằm đấu tranh chống rửa tiền.
Cùng với việc đưa ra các biện pháp chống rửa tiền mang tính định hướng,
Công ước về chống tham nhũng của Liên Hợp Quốc đặt ra cho các quốc gia thành
viên nghĩa vụ hình sự hóa các quy định từ Điều 15 đến Điều 25 của Công ước. Đối
với việc hình sự hoá hành vi làm giàu bất hợp pháp (Điều 20) và hành vi tẩy rửa
tiền và tài sản do phạm tội mà có (Điều 23), Công ước cho phép các quốc gia thực
hiện dựa trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia.
Đồng thời chỉ rõ cần phải hình sự hóa đến mức tối đa các dạng hành vi rửa tiền và
xác định tội phạm nguồn của các dạng hành vi này.
Bên cạnh đó, Công ước còn quy định các biện pháp khác nhằm thực thi pháp
luật về chống tham nhũng, quy định về hợp tác quốc tế, đặc biệt là quy định về
phòng ngừa và phát hiện việc chuyển dịch tài sản do phạm tội mà có; các biện
pháp thu hồi tài sản trực tiếp; các cơ chế thu hồi tài sản thông qua hợp tác quốc tế.
Những biện pháp này có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với hoạt động phòng, chống
tham nhũng mà còn đối với hoạt động đấu tranh phòng, chống rửa tiền.
1.2.1.2. Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF)
Với tính nghiêm trọng ngày càng cao và phạm vi ngày càng rộng, phòng
chống rửa tiền và tài trợ khủng bố đến nay đã trở thành mối quan tâm lớn của
nhiều quốc gia, nhiều tổ chức trên thế giới. Tổ chức quốc tế quan trọng nhất trong

việc phòng, chống rửa tiền là Lực lượng đặc nhiệm tài chính quốc tế (FATF Financial Action Task Force) do nhóm G7 thành lập tại Paris năm 1989, hoạt động
với mục tiêu chính là chống tham nhũng và ngăn chặn giao dịch tài chính bất hợp

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

23

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

pháp. Trên trang thông tin điện tử của tổ chức này, khái niệm “rửa tiền” được khái
quát như sau: “Mục đích của phần lớn các hoạt động phạm tội là tạo ra lợi nhuận
cho các cá nhân hoặc tổ chức thực hiện hoạt động đó. Rửa tiền là quá trình xử lý
những khoản thu tội phạm này để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của chúng.
Quá trình xử lý này hết sức quan trọng vì nó tạo điều kiện cho tội phạm thụ hưởng
được những khoản lợi nhuận này mà không lo ngại tới nguồn gốc của chúng”. Và
điều quan trọng là, Khuyến nghị số 3 của FATF về tội Rửa tiền nêu rõ: “Các quốc
gia cần phải hình sự hóa rửa tiền trên cơ sở Công ước Viên và Công ước Pa lermo.
Các quốc gia cần phải áp dụng tội Rửa tiền đối với tất cả các tội phạm nghiêm
trọng, với quan điểm đưa ra phạm vi rộng nhất các tội tiền thân”.
Mặc dù không có hiệu lực bắt buộc như luật đối với một số nước nhưng Bốn
mươi khuyến nghị về rửa tiền của FATF đã được cộng đồng quốc tế và các tổ chức
liên quan thông qua một cách rộng rãi như một tiêu chuẩn cho công tác chống rửa
tiền. Bốn mươi khuyến nghị được ban hành lần đầu tiên vào năm 1990 và đã được
sửa đổi vào năm 1996 và năm 2003 cho phù hợp với những diễn biến mới trong
lĩnh vực rửa tiền và để phản ánh sự phát triển của những thực tiễn chống rửa tiền

tốt nhất trên thế giới.
Nhìn chung, những định nghĩa về hành vi rửa tiền trong luật pháp quốc tế tuy
có sự khác nhau về cách diễn đạt nhưng đều có điểm chung là đều liệt kê tương đối
đầy đủ các dạng hành vi của hoạt động rửa tiền. Theo năm tháng, cộng đồng quốc tế
đã hình thành quan điểm rằng các tội phạm nguồn của tội Rửa tiền cần phải được
mở rộng. Vì vậy, FATF và các tổ chức quốc tế khác đã mở rộng định nghĩa của
Công ước Viên về tội phạm nguồn để bổ sung cả những hành vi phạm tội nghiêm
trọng khác chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi buôn bán bất hợp pháp ma túy.
1.2.2. Đối với pháp luật của một số quốc gia
1.2.2.1. Pháp luật của Liên Bang Nga
Nga tuân thủ phần lớn các yêu cầu của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về
chống rửa tiền (FATF) liên quan đến hình sự hóa hành vi rửa riền.
Điều 174 BLHS Liên bang Nga năm 1997 quy định tội Rửa tiền với tên gọi
là “Hợp pháp hóa (tẩy rửa) tiền hoặc tài sản có được một cách bất hợp pháp”, theo

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

24

Lớp: K35G - Luật Hình Sự


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: PCA. Bùi Quốc Hiệp

đó, quy định hành vi “tiến hành các nghiệp vụ tài chính và các giao dịch khác liên
quan đến tiền, tài sản có được một cách bất hợp pháp, cũng như sử dụng tiền, tài
sản đó vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động kinh tế khác”
là hành vi phạm tội.

Năm 2001, Nga đã có sự sửa đổi, bổ sung BLHS với những bước tiến hoàn
thiện hơn. Điều 174 BLHS Liên bang Nga được sửa đổi như sau: “Hợp pháp hóa
(tẩy rửa) các nguồn tài chính hoặc tài sản tài sản khác do người khác thông qua
hoạt động phạm tội mà có. 1. Thực hiện các hoạt động tài chính và các giao dịch
khác liên quan đến các nguồn tài chính hoặc tài sản khác biết rõ do người khác có
được thông qua hoạt động phạm tội, với mục đích tạo một bề ngoài hợp pháp để sở
hữu, sử dụng hoặc quản lý các nguồn tài chính hoặc tài sản khác nói trên...”
Đồng thời, BLHS Liên bang Nga cũng đã bổ sung thêm quy định về hành vi
tự rửa tiền tại Điều 174.1: “Hợp pháp hóa (tẩy rửa) các nguồn tài chính hoặc tài
sản khác do chính mình thông qua hoạt động phạm tội mà có. 1. Thực hiện các
hoạt động tài chính hoặc các giao dịch khác liên quan đến các nguồn tài chính hoặc
tài sản khác có được từ kết quả hoạt động phạm tội của chính mình hoặc sử dụng
các nguồn tài chính hoặc tài sản này tiến hành hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động kinh tế khác...”
Ngoài ra, Nga còn quy định phạm vi rộng mức xử phạt cao nhất đối với thể
nhân (theo BLHS Liên bang Nga thì chỉ thể nhân mới chịu TNHS) phạm tội rửa
tiền bao gồm mức phạt tiền và phạt tù tăng dần do các yếu tố xung quanh tội Rửa
tiền. Mức phạt tiền có thể được điều chỉnh dựa trên mức thu nhập của kẻ phạm tội.
Có thể nói, những sửa đổi của BLHS Liên bang Nga được đánh giá là phù
hợp ở mức độ cao với yêu cầu tại Điều 3 Công ước Viên, Điều 6 Công ước
Palermo và Khuyến nghị số 01 trong 40 Khuyến nghị của FATF về chống rửa tiền.
1.2.2.2. Pháp luật của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Tội Rửa tiền tại Trung Quốc nằm trong nhóm tội tham nhũng. Theo các
chuyên gia nước này, quan tham ở Trung Quốc có thể dễ dàng “xách tay” nhiều tỉ
USD ra khỏi đất nước, tậu bất động sản cao cấp ở nước ngoài, tiêu tiền cho gái,
đánh bạc…

SVTH: Mai Thị Diệu Hòa

25


Lớp: K35G - Luật Hình Sự


×