Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Nghiên cứu phát triển làng nghề truyền thống gắn với xây dựng NTM ở huyện phú lộc, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.04 KB, 78 trang )




Trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề
tài này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ
tận tình về nhiều mặt của các cá nhân và tổ
chức.
Tôi xin được bày tỏ lòng cám ơn sâu sắc tới:
-

Th.S Vũ Thành Huy – thầy giáo trực tiếp hướng
dẫn và giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành đề tài
này.

-

Lãnh đạo Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế,
quý thầy cô giáo khoa Kinh tế - chính trò, các
phòng ban trường Đại học Kinh tế Huế đã tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho chúng tôi học tập
và nghiên cứu.

-

Sự giúp đỡ, tạo điều kiện trong quá trình điều tra,
xin số liệu của UBND huyện Phú Lộc, UBND xã
Vinh Hiền, xã Lộc Thủy. Phòng công thương huyện
Phú Lộc, phòng nông nghiệp và phát triển nông
thôn huyện Phú Lộc, cục thống kê huyện Phú
Lộc.



-

Sự hợp tác giúp đỡ của các cơ sở sản xuất kinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

doanh, các hộ gia đình và người dân làng nghề truyền
thống huyện Phú Lộc đã giúp tôi hoàn thành quá
trình điều tra xin số liệu thực tế.
-

Và cuối cùng chúng tôi cảm ơn sự động viên, giúp
đỡ của gia đình, bạn bè để tôi hoàn thành đề tài
này.
Một lần nữa tôi chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Huỳnh Thò Phương
MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.

6.
7.
8.
9.

CN-XD :
KH-CN :
KH –KT
KT-XH :
LNTT :
NTM
SX - KD
TM, DV :
TTCN

:
:
:
:
10. VH - XH
11. XDNTM

2
SVTH: Huỳnh Thị Phương

Cơng nghiệp-Xây dựng
Khoa học-Cơng nghệ
Khoa học - Kỹ thuật
Kinh tế-Xã hội
Làng nghề truyền thống.

Nơng thơn mới.
Sản xuất kinh doanh.
Thương mại, dịch vụ.
Tiểu thủ cơng nghiệp
:
Văn hóa - Xã hội.
:
Xây dựng nơng thơn mới

2


Khóa luận tốt nghiệp

3
SVTH: Huỳnh Thị Phương

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

4
SVTH: Huỳnh Thị Phương


4


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

5
SVTH: Huỳnh Thị Phương

5


Khóa luận tốt nghiệp

6
SVTH: Huỳnh Thị Phương

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Nông nghiệp, nông thôn, nông dân là vấn đề mang tính chiến lược được quan
tâm hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu rõ: Hiện nay và
trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân có tầm chiến lược
đặc biệt quan trọng, là vấn đề chiến lược trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
góp phần quan trọng thúc đẩy tăng cường kinh tế, là cơ sở ổn định chính trị và an
ninh quốc phòng, là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phát triển các làng nghề và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp là góp phần thúc
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất
nông nghiệp, tăng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Tạo việc làm và tăng thu
nhập cho lao động nông thôn, góp phần làm thay đổi bộ mặt văn hóa - xã hội của các
địa phương theo hướng bền vững, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc gắn với xây
dựng NTM.
Với vai trò và tầm quan trọng của nông thôn trong phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh quốc phòng và thực tiễn phát triển nông thôn trong giai đoạn hiện nay càng
được nâng cao. Năm 2009, Chính phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia
về xây dựng NTM với Bộ tiêu chí quốc gia về NTM( Chính phủ,2009), trong đó nêu
rõ 5 nhóm với 19 tiêu chí chung và mức cần phải đạt của 7 vùng kinh tế trong cả
nước. Việc xây dựng NTM là tập hợp các hoạt động qua lại để cụ thể hóa chương
trình phát triển nông thôn, nhằm bố trí sử dụng các nguồn lực khan hiếm về tài
chính, nhân lực, phương tiện, vật tư thiết bj để tạo ra các sản phẩm hay dịch vụ trong
một thời gian xác định và thõa hiệp các mục tiêu về kinh tế xã hội và môi trường cho
sự phát triển bền vững ở nông thôn.
Một trong những mục tiêu chương trình xây dựng NTM hướng tới là: Xây
dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại, có cơ cấu kinh tế
và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
7
SVTH: Huỳnh Thị Phương



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

nghiệp, dịch vụ, gắn phát triển nông thôn với với đô thị đang quy hoạch…Chính vì
vậy, phát triển làng nghề truyền thống hiện nay là khâu quan trọng nhằm phát huy
lợi thế so sánh của mỗi vùng, giảm dần và thu hẹp khoảng cách về thu nhập giữa
thành thị và nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nông thôn, khai
thác các tiềm năng sẵn có nhằm ổn định và phát triển các làng nghề, ngành nghè tiểu
thủ công nghiệp theo cơ chế thị trường, chủ động hội nhập, kinh tế quốc tế, từng
bước phát triển kinh tế nông thôn.
Trên địa bàn huyện Phú Lộc có 03 làng nghề truyền thống gồm: Làng nghề
chế biến thủy hải sản làng Phụ An, xã Vinh Hiền, làng nghề chế biến nước mắm cá
cơm làng Bình An, xã Lộc Vĩnh, làng nghề sản xuất chế biến dầu tràm làng Nước
ngọt, xã Lộc Thủy và 06 nghề gồm: Nghề Xay xát, tinh chế bột sắn xã Lộc An, nghề
Thêu, nghề Sản xuất vật liệu xây dựng, nghề Xây dựng, nghề May mặc dựng, nghề
Gia công sửa chữa cơ khí nhỏ nằm trong kế hoạch khôi phục và phát triển nghề và
làng nghề giai đoạn 2015-2020.
Tuy nhiên bên cạnh những tác động tích cực về hiệu quả kinh tế - xã hội, nhiều
làng nghề đang đứng trước khó khăn trong việc duy trì và phát triển sản xuất như
nguồn vốn hạn hẹp, công nghệ lạc hậu, môi trường sản xuất kinh doanh đang bị ô
nhiễm, thị trường làng nghề không ổn định…Những vấn đề này đã hạn chế khả năng
phát triển của các làng nghề truyền thống hiện nay trên địa bàn huyện Phú Lộc và là
lực cản trong quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới (Ban chỉ đạo chương trình NTM,2013). Như vậy, thách thức đặt cho huyện
Phú Lộc là phát triển làng nghề truyền thống gắn với xây dựng NTM như thế nào để
cả hai mục tiêu đều đạt được. Vì vậy, việc phát triển các làng nghề truyền thống
cũng như xây dựng NTM có ý nghĩa quan trọng không chỉ về mặt kinh tế mà còn
góp phần ổn định chính trị xã hội.

Làng nghề là cơ sở rất thuận lợi để xây dựng kinh tế và đời sống văn hóa của
NTM. Chỉ cần quan tâm đầu tư, đánh thức những tiềm năng văn hóa của làng nghề là
có được bộ mặt NTM vừa hiện đại vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Khi các làng nghề
truyền thống được vực dậy với những nét văn hóa độc đáo sẽ trở thành những điểm du
lịch hấp dẫn. Du lịch làng nghề phát triển không những góp phần thúc đẩy du lịch
huyện Phú Lộc phát triển mà còn tác động nâng cao đời sống nhân dân xây dựng NTM.
8
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

Để giải quyết những vấn đề đang đặt ra việc triển khai đề tài “Phát triển làng
nghề truyền thống gắn với xây dựng NTM ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế”
nhằm đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển làng nghề
truyền thống huyện Phú Lộc gắn với xây dựng NTM là hết sức cần thiết và có ý
nghĩa thực tiễn cao trong việc góp phần phát triển KT-XH huyện, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa mà cụ thể là phát triển các làng nghề truyền thống ở huyện
Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1.Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng làng nghề, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến
phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình xây dựng NTM, đề xuất một số
giải pháp phát triển làng nghề truyền thống ở huyện Phú Lộc gắn với chương trình
xây dựng NTM của huyện.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ một số lý luận và thực tiễn phát triển làng nghề
truyền thống gắn với chương trình xây dựng NTM.

- Đánh giá thực trạng, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển làng nghề
truyền thống gắn với chương trình xây dựng NTM ở huyên Phú Lộc, tỉnh Thừa
Thiên Huế.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển làng nghề truyền thống gắn với chương
trình xây dựng NTM của huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề truyền thống gắn
với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa
Thiên Huế.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập dữ liệu: chọn mẫu, điều tra, phỏng vấn…
- Phương pháp phân tích thống kê, đặt biệt là thống kê mô tả
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp thu thập thông tin
9
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

- Phương pháp xử lý và phân tích thông tin
- Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển làng nghề truyền
thống trên địa bàn huyện Phú Lộc. Đánh giá sự hình thành và quá trình phát triển
của làng nghề truyền thốnghiện nay dựa trên các tiêu chí về xây dựng NTM.
- Về thời gian: Nghiên cứu phát triển làng nghề truyền thống gắn với xây dựng
NTM ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Về thời gian : Số liệu thứ cấp thu thập trong giai đoạn 2013 - 2015; số liệu
sơ cấp điều tra trong giai đoạn 2015 và đề xuất giải pháp phát triển các làng nghề
truyền thống của huyện Phú Lộc gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn .
6. Đóng góp của đề tài
- Nghiên cứu này góp phần làm rõ thêm thực trang phát triển làng nghề truyền
thống huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế và ý nghĩa của nó trong quá trình phát
triển các làng nghề truyền thống hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển làng nghề này trong thời gian tới.
7.Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, các biểu đồ số liệu, tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề truyền thống gắn
với xây dựng nông thôn mới
Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn Huyện
Phú Lộc gắn với xây dựng nông thôn mới
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển làng nghề truyền thống gắn
với xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế

10
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ

TRUYỀN THỐNG GẮN VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Làng nghề, làng nghề truyền thống
1.1.1.1 Làng nghề
Làng nghề là mô hình sản xuất truyền thống, gắn liền với lịch sử phát triển
kinh tế, xã hội của nước ta. Làng nghề đóng vai trò tích cực đến phát triển kinh tế và
xã hội của nhiều địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn ở nước ta. Vì vây, nhiều
nhà khoa học đã nghiên cứu về làng nghề và đưa ra nhiều khái niệm về làng nghề.
Các khái niệm làng nghề này nhìn chung có nhiều điểm tương đồng với nhau và
được tóm tắt như sau:
-

Quan niệm thứ nhất: Làng nghề là làng ấy tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu nông và
chăn nuôi nhỏ, cũng có một số nghề phụ khác, song đã nổi trội mốt số nghề cổ truyền
tinh xảo với một tầng lớp thủ công chuyên nghiêp hay bán chuyên nghiệp, có phường,
có ông trùm, có phó cả…cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình
công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống
chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra các mặt hàng thủ công [8]. Quan niệm này
đúng với làng nghê truyền thống, song đối với làng nghề nói chung lại còn bất cập bởi
đối với những làng nghề mới hoạt động, yêu cầu nổi trội nghề cổ truyền, tinh xảo với

-

một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp…là điều khó thực hiện.
Quan niệm thứ hai: Một số nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm làng nghề kèm theo
tiêu chí cụ thể về lao động và thu nhập. Ví dụ như “Làng nghề là những làng đã từng
có từ 50 hộ hoặc từ 1/3 tổng số hộ hay lao động của địa phương trở lên làm nghề
chiếm phần chủ yếu trong tổng thu nhập của họ trong năm” (Mai Thế Hởn và
cs.,2003), hay trong Dự thảo Nghị định của Chính phủ về một số chính sách khuyến
khích phát triển ngành nghề nông thôn được Bộ NN & PTNT đệ trình tháng 5-2005

thì: “Làng nghề là thôn, ấp, bản có trên 35% số hộ hoặc lao động tham gia hoạt động
11
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

ngành nghề nông thôn và thu nhập ngành nghề nông thôn chiếm trên 50% tổng thu
nhập của làng”, v.v.. Các định nghĩa này đã khắc phục nhược điểm của quan niệm
thứ nhất, quan tâm đến phải có tỷ lệ người làm nghề và thu nhập từ ngành nghề,
nhưng lại cố định tiếu chí xác định làng nghề và việc cố định những tiêu chí trong
khái niệm sẽ làm cho các nhà hoạch định chính sách khó xử lý khi chế độ ưu đãi đối
-

với làng nghề thay đổi thì phải chăng khái niệm cũng thay đổi.
Quan niệm thứ ba: “Làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một số) nghề thủ
công tách hẳn khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập” [3]. Quan niệm này đã nêu
lên được hai yếu tố cơ bản cấu thành của làng nghề là “làng” và “nghề”, nêu lên
được vấn đề nghề trong làng tách ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập nên
phù hợp với điều kiện mới hơn, tránh được hạn chế của quan niệm thứ hai, song vẫn
mắc phải hạn chế của quan niệm thứ nhất.
Theo Thông tư số 116/2006/TT – BNNN Hướng dẫn thực hiện một số nội
dung của Nghị định 66/2006/NĐ – CP NGÀY 7/7/2006 của Chính phủ về phát triển
ngành nghề nông thôn thì “Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp,
bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị
trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều sản phẩm
khác nhau” [7].
Như vậy, làng nghề muốn được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sautheo quy

định tại Nghị định 66/2006/NĐ-CP, Thông tư 113/2006/TT-BTC của Bộ Tài chính,
Thông tư 46/2011/TT-BTNMT của Bộ TN&MT.



Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông

thôn.
• Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 02 năm tính đến thời điểm đề nghị
công nhận.
• Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.1.1.2. Làng nghề truyền thống
Quan niệm về làng nghề truyền thống:
-

Quan niệm thứ nhất: Làng nghề truyền thống là một cộng đồng dân cư, cư trú trong
một phạm vi địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi sản xuất nông nghiệp,
cùng làm một hoặc nhiều nghề thủ công có truyền thống lâu đời, để sản xuất ra một
12
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

hoặc nhiều loại sản phẩm bán ra thị trường để thu lợi. Quan niệm này mới thể hiện
được yếu tố truyền thống lâu đời của làng nghề, còn những làng nghề mới, những
-


tuân thủ yếu tố truyền thống của vùng hay của khu vực chưa được đề cập đến.
Quan niệm thứ hai: Làng nghề truyền thống là những làng nghề làm nghề thủ công
có truyền thống lâu năm, thường là qua nhiều thế hệ. Quan niệm này cũng chưa đầy
đủ bởi vì khi nói đến làng nghề truyền thống ta không thể chú ý đến các mặt đơn lẻ,
mà phải chú trọng đến nhiều mặt trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan
tâm đến tính hệ thống, toàn diện của làng nghề đó, trong đó yếu tố quyết định là

-

nghệ nhân, sản phẩm, kỹ thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật.
Quan niệm thứ ba: Làng nghề truyền thống là những làng nghề có tuyệt đại đa số
phận dân số làm nghề cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời
trong lịch sử, được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu cha truyền con nối
hoặc ít nhất cũng tồn tại hàng chục năm. Trong làng sản xuất mang tính tập trung, có
nhiều nghệ nhân tài hoa và một nhóm người có tay nghề giỏi làm hạt nhân để phát
triển nghề. Đồng thời sản phẩm làm ra mang tính tiêu biểu độc đáo, tinh xảo, nổi tiếng
và đâm nét văn hóa dân tộc. Giá trị sản xuất và thu nhập, tiểu thủ công nghiệp ở làng
chiếm tỷ lệ 50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
Như vây, làng nghề truyền thống là cụm dân cư (làng, ấp, thôn,…) mà ở đó tập
trung một lượng lao động tham gia vào một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống
tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chủ yếu
cho người lao động. Sản phẩm họ làm ra theo một quy trình công nghệ nhất định, có
tính độc đáo, có tính riêng biệt, trở thành hàng hóa trên thị trường mang bản sắc văn
hóa dân tộc, được hình thành từ lâu đời, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay.
Để xác định một làng nghề là làng nghề truyền thốngtheo Thông tư
116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì cần có những
tiêu thức sau:

-


Số hộ và lao động làm nghề truyền thống ở làng nghề đạt từ 50% trở lên so với tổng

-

số hộ và lao động của làng.
Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt trên 50% tổng giá

-

trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hóa và bản sắc dân tộc
Việt Nam.
13
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp
-

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
1.1.2. Phát triển làng nghề
1.1.2.1. Phát triển làng nghề
Trong kinh tế, phát triển được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, bao gồm cả sự tăng thêm về lượng và sự
tiến bộ về chất, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn
đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Như vậy, phát triển là một quá trình lâu dài
và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định, khái quát thông qua sự gia tăng

của tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình quân
trên một đầu người, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế và sự biến đổi
ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi
về chất xã hội của quá trình phát triển.
Theo đó, phát triển làng nghề là sự tăng lên cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu tổ
chức của làng nghề ở hai mức độ từ thấp lên cao thể hiện ở việc mở rộng về quy mô
sản xuất, sự gia tăng về mức đóng góp cho ngân sách và thu nhập bình quân một đầu
người, việc đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường tại làngnghề…
1.1.2.2. Phát triển bền vững làng nghề
Trong những thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX, tăng trưởng kinh tế của một số
nước đạt tốc độ khá cao, tuy nhiên nó cũng có những ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng
trưởng đó đến tương lai con người và vấn đề tăng trưởng bền vững đã được đặt ra.
Phát triển bền vững là một khái niệm tương đối rộng và có thể có nhiều cách hiểu
khác nhau. Khái niệm phát triển bền vững được ngân hàng thế giới đề cập lần đầu
tiên năm 1987 như sau:“Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của
hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thếhệ
tương lai”.
Ở Việt Nam, phát triển bền vững được hiểu theo một cách toàn diện hơn: “Phát
triển bền vững bao gồm phát triển các mặt của đời sống xã hội, nghĩa là phải gắn kết
sự phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và cải thiện
môi trường, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng an ninh quốc gia được
14
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

đảm bảo”. Nếu như không tính đến khía cạnh an ninh quốc phòng thì khái niệm phát

triển bền vững, về cơ bản bao hàm 3 phương diện: Môi trường bền vững, kinh tế bền
vững và xã hội bền vững.
Phát triển bền vững làng nghề là phát triển làng nghề đảm bảo tính ổn định, lâu
dài và việc phát triển không làm ảnh hưởng đến lợi ích cho các thế hệ tương lai. Đó
là sự phát triển dựa trên mức tăng trưởng cao và ổn định, hướng tới mục tiêu tiến
bộvà công bằng xã hội nông thôn, khai thác và bảo vệ hợp lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
1.1.3. Nông thôn mới và chương trình xây dựng nông thôn mới
1.1.3.1. Nông thôn mới
Nông thôn mới (NTM) là “phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các
thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân
xã, có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại, sản xuất bền vững theo hướng
hàng hóa, có đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao,
bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển, xã hội được quản lý tốt và dân
chủ” [6].
1.1.3.2. Chương trình xây dựng nông thôn mới
Chương trình xây dựng NTM là một trong những nội dung nhiệm vụ trọng
tâm rất quan trọng để thực hiện Nghị quyết 26-NQ/T.Ư của Hội nghị lần thứ 7 Ban
chấp hành Trung Ương Đảng khóa X ngày 05/8/2008 “Về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn”.
Hiện nay, do kết cấu hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, trạm, thủy lợi…)
còn nhiều yếu kém, vừa thiếu lại vừa không đồng bộ, nhiều hạng mục công trình đã
xuống cấp, cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hóa còn hạn chế, mạng lưới chợ
nông thôn chưa được đầu tư đồng bộ, trụ sở xã nhiều nơi xuống cấp. Mặt bằng để
xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đạt chuẩn quốc gia rất khó khăn, dân cư phân bố
rải rác, kinh tế hộ kém phát triển. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, ứng dụng
khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp còn hạn chế, tỷ trọng chăn nuôi
trong nông nghiệp còn thấp, thiếu sự liên kết giữa người sản xuất và các thành phần
kinh tế khác ở khu vực nông thôn, số lượng doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp,
15

SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

nông thôn còn ít. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn cao, tỷ lệ lao động nông lâm
nghiệp qua đào tạo thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Hiện nay, kinh tế - xã hội khu vực
nông thôn chủ yếu phát triển tự phát, chưa được và thực hiện theo quy hoạch. Do
yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, cần 3 yếu tố chính: Đất đại, vốn và
lao động kỹ thuật. Qua việc xây dựng NTM sẽ triển khai quy hoạch tổng thể, đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa. Mặt khác, mục tiêu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nhiệp. Vì vây, một nước công nghiệp
không thể để nông nghiệp, nông thôn lạc hậu, nông dân nghèo khó và phát triển
thiếu đồng bộ.
Trên cơ sở thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy Ban
chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, ngày
16/4/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 49/QĐ-TTg về xây dựng
Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM và Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng NTM gian đoạn 2010 – 2020. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM
được triển khai trên địa bàn các xã trong phạm vu cả nước, nhằm phát triển nông
thôn toàn diện, với nhiều nội dung liên quan đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội, môi trường, hệ thống chính trị cơ sở. Như vậy có thể nói đây là chương
trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng trên địa
bàn nông thôn toàn quốc.
1.2. Mối quan hệ giữa phát triển làng nghề truyền thống với xây dựng
nông thôn mới
1.2.1. Các tiêu chí xây dựng nông thôn mới

Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 491/QĐ-TTg, ban
hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới bao gồm 19 tiêu chí và được chia thành
5 nhóm cụ thể: Nhóm tiêu chí về quy hoạch; về hạ tầng kinh tế - xã hội; về kinh tế
và tổ chức sản xuất; vềvăn hóa - xã hội - môi trường và về hệ thống chính trị.
Theo đó, Bộ tiêu chí đưa ra chỉ tiêu chung cả nước và các chỉ tiêu cụ thể theo từng
vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên
16
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long phù
hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi vùng.
Đối với Trung du miền núi phía bắc bộ 19 tiêu chí để xây dựng mô hình NTM
bao gồm: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, trường học,
cơ sở vật chất văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở dân cư, thu nhập bình quân
đầu người/năm, tỷ lệ hộ nghèo, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất, giáo
dục, y tế, văn hóa, môi trường, hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và an
ninh, trật tự xã hội.
1.2.2. Mối quan hệ hai chiều giữa phát triển làng nghề truyền thống với xây
dựng nông thôn mới
Làng nghề là cơ sở rất thuận lợi để xây dựng kinh tế và đời sống văn hóa của
NTM. Chỉ cần quan tâm đầu tư, đánh thức những tiềm năng văn hóa của làng nghề
là có được bộ mặt NTM vừa hiện đại vừa đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Khi các
làng nghề truyền thống được vực dậy với những nét văn hóa độc đáo sẽ trở thành
những điểm du lịch hấp dẫn. Du lịch làng nghề truyền thống phát triển không những
đóng góp phần thúc đẩy du lịch huyện Phú Lộc phát triển mà còn có tác dụng nâng

cao đời sống nhân dân xây dựng NTM ở những nơi có làng nghề.
Việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống hiện nay là rất cần
thiết. Trong đó, việc phát triển các làng nghề truyền thống tác động đến việc xây
dựng NTM là chủ yếu, biểu hiện cụ thể là:
-

Phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống là một trong
những nhân tố có tính quyết định bởi vì phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
và làng nghề truyền thống trong nông thôn sẽ thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng nông
thôn, cải tạo và giữ gìn môi trường sinh thái trong cộng đồng dân cư, cải thiện và

-

nâng cao mức sống cho cư dân nông thôn.
Phát triển làng nghề truyền thống góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự hình thành và phát triển các làng nghề truyền thống có vai trò quan trọng
trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.

17
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp
-

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

Thứ nhất, phát triển các làng nghề truyền thống sẽ làm cho các tỷ trọng các ngành nghề
phi nông nghiệp ngày càng tăng lên và tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống. Sự

phát triển này sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn, từ đó tạo ra một nền tảng kinh
tế đa dạng ở khu vực nông thôn, không chỉ có nông nghiệp thuần nhất mà còn có các

-

ngành TTCN, TM, DV.
Thứ hai, khi các ngành nghề truyền thống phát triển sẽ làm thay đổi tập quán sản xuất
nhỏ, manh mún, độc canh mang tính tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa, sản xuất có

-

quy mô lớn gắn với thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Thứ ba, các làng nghề truyền thống phát triển là tiền đề quan trọng để hình thành và
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính các doanh nghiệp lớn với nền công
nghiệp sản xuất hiện đại. Đây là cầu nối, là bước trung gian để chuyển nông thôn

-

thuần nông lên nông thôn hiện đại, thực hiện quá trình đô thị hóa tại chỗ.
Giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn: Phát triển làng nghề truyền thống đã
thu hút được nhiều lao động nông thôn có việc làm ổn định, tăng thu nhập cho các
hộ lao động, nâng cao đời sống cho dân cư nông thôn ở huyện Phú Lộc. Trong điều
kiện hiện hiện nay, ở nông thôn đất đai canh tác ngày càng ít, nguồn vốn hạn hẹp…do
đó, lượng lao động dư thừa ngày càng lớn. Vì vây, phát triển làng nghề truyền thống ở
nông thôn là biện pháp hữu nghị để giải quyết việc làm cho người lao động. Việc phát
triển làng nghề truyền thống ở nông thôn với nhiều ngành nghề phong phú với nhiều
loại hình đa dạng thì không chỉ thu hút lao động ở làng, xã mà còn thu hút được nhiều
lao động từ các địa phương khác đến làm thuê đồng thời kéo theo nhiều dịch vụ khác
phát triển, tạo thêm nhiều việc làm mới cho lao động, góp phần nâng cao đời sống nhân


-

dân xây dựng NTM ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Phát triển làng nghề truyền thống góp phần thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư,
hình thành thị trường lao động có tổ chức, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ ở nông
thôn.
Phần lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền thống đều
có quy mô nhỏ. Các cơ sở sản xuất ngành nghề truyền thống chủ yếu sản xuất trong
phạm vi diện tích nhà ở, tận dụng vườn tược của từng hộ gia đình nên số vốn ban
đầu để thực hiện các hoạt động sản xuất không lớn, do đó dễ dàng lôi kéo các gia
đình tham gia. Ngoài các hộ gia đình chuyên làm nghề TTCN truyền thống, còn có
18
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

những gia đình làm nông nghiệp tranh thủ thời gian lúc nông nhàn làm thêm một vài
nghề thủ công khác nhằm tăng thêm thu nhập cho gia đình. Vì vậy, nguồn vốn nhàn
rỗi trong dân cư được huy động tối đa. Một nghiên cứu mới đây cho hay có khoảng
54% số vốnsản xuất kinh doanh ở các làng nghề phi nông nghiệp ngoại ô thành phố
Hồ Chí Minh là vốn của các gia đình.
Sự phát triển làng nghề truyền thống góp phần tăng thu nhập, tăng nguồn tích lũy
cho các hộ gia đình và địa phương. Nhờ vậy, các địa phương, gia đình có điều kiện đầu
tư xây dựng, nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng như: điện, thông tin, trường học, trạm
xá, vệ sinh môi trường, các phương tiện đi lại…
-


Phát triển làng nghề truyền thống góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa địa phương
phát triển du lịch (tiêu chí số 16 về văn hóa ).
Bộ tiêu chí xây dựng NTM có 19 tiêu chí trong đó có những tiêu chí đáp ứng
và gắn kết chặt chẽ với việc phát triển các làng nghề truyền thống và được coi là tiền
đề, động lực thúc đẩy quá trình xây dựng NTM.
Chiều tác động ngược lại xây dựng NTM đến phát triển làng nghề truyền thống:

-

Xây dựng NTM sẽ góp phần xây dựng cơ sử vật chất hạ tầng phục vụ sản xuất, hỗ
trợ quy hoạch giao thông, thủy lợi, xây dựng mặt bằng cụm công nghiệp, tiểu thủ

-

công nghiệp, làng nghề.
Xây dựng NTM sẽ hỗ trợ người dân phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ nâng cao

-

thu nhập.
Khi XDNTM sẽ góp phần đào tạo năng lực phát triển cộng đồng, đào tạo bồi dưỡng

-

đội ngũ cán bộ cơ sở, nâng cao trình độ dân trí của người dân.
Xây dựng NTM gắn với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường ở nông thôn. Vấn đề
bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường từ việc quản lý nguồn cấp nước, thoát nước
đến quản lý thu gom rác thải ở huyện Phú Lộc cũng đã trở nên đáng báo động. Đã
đến lúc cơ quan địa phương cần có những biện pháp quản lý môi trường địa phương
như: Xây dựng hệ thống xử lý rác thải, tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ môi

trường cho người dân, xây dựng hệ thống quản lý môi trường ở huyện một cách chặt

-

chẽ.
Xây dựng NTM sẽ phát triển cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc ở huyện.
19
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

1.3. Nội dung phát triển làng nghề truyền thống gắn với xây dựng nông
thôn mới
Nội dung cụ thể phát triển làng nghề truyền thống gắn với xây dựng NTM bao
gồm: Về phát triển kinh tế làng nghề, về phát triển văn hóa – xã hội làng nghề và về
môi trường làng nghề.
1.3.1. Phát triển kinh tế làng nghề
1.3.1.1. Phát triển sản xuất
Gia tăng về số lượng làng nghề truyền thống: Theo quyết định số 491/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chú quốc gia về NTM bao gồm 19
tiêu chí, với 5 nhóm. Trong đó, việc phát triển các làng nghề mới được coi là một
mắt xích không thể thiếu để XDNTM, nhằm chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa.
Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm: Một đặc trưng vẫn được gìn
giữ lâu nay tại các làng nghề truyền thống là tính chất “cổ truyền” đã hình thành
những gia đình nghệ nhân cha truyền con nối. Cùng sự chuyển đổi theo hướng chuyên
môn hóa trong tổ chức sản xuất, các cơ sở trong làng nghề đã tạo ra một khối lượng

hàng hoá đáng kể, đáp ứng nhu cầu đa dạng của đời sống nhân dân, góp phần quan
trọng vào việc phát triển kinh tế địa phương và tăng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên
mẫu mã, chủng loại sản phẩm của các làng nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của
người tiêu dùng trong và ngoài nước. Hiện nay, hầu hết sản phẩm làng nghề vẫn
đang gặp phải nhiều khó khăn khi tìm cho mình một chỗ đứng trên thị trường, do
chưa thực sự chú trọng đến việc xây dựng và phát triển thương hiệu. Việc không có
thương hiệu, đã làm giảm đáng kể sức tiêu thụ hàng hoá. Nhiều ý kiến cho rằng, các
doanh nghiệp vẫn ngại đăng ký thương hiệu vì thủ tục rườm rà, rắc rối, chồng chéo.
Theo đánh giá của các chuyên gia, để tạo sức cạnh tranh cao trên thị trường, việc
xây dựng thương hiệu cho mỗi sản phẩm làng nghề là việc làm khó khăn, vì nó đòi
hỏi phải đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,... Chính
vì vậy, việc xây dựng và phát triển thương hiệu của các làng nghề trong bối cảnh
XDNTM hiện nay (đi kèm với tự do hóa thương mại, hội nhập toàn cầu) trở thành
yếu tố cạnh tranh cơ bản của làng nghề để tồn tại và phát triển một cách bền vững.
20
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

1.3.1.2. Phát triển các tổ chức kinh tế
Nói cách khác, đây chính là“ tái cấu trúc doanh nghiệp làng nghề trong điều
kiện mới” [6]. Hiện nay, ở các làng nghề nước ta, cơ sở sản xuất phổ biến là hộ
gia đình, bên cạnh đó là các tổ sản xuất, và một số công ty TNHH và doanh
nghiệp tư nhân, phần lớn quy mô nhỏ và vừa (dưới đây, gọi chung là doanh
nghiệp). Đây là quy mô phù hợp trong sản xuất thủ công mỹ nghệ, vì dễ linh hoạt trong
sáng tạo, đổi mới, có thể nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của thị trường. Trước yêu cầu
XDNTM, tái cấu trúc doanh nghiệp làng nghề phải tập trung vào hai loại việc sau:

- Đổi mới tổ chức sản xuất kinh doanh, tuy là hộ gia đình, quy mô nhỏ song
vẫn phải lấy năng suất, chất lượng làm đầu, soát xét lại các công đoạn sản xuất
với yêu cầu không ngừng nâng cao hiệu quả, chất lượng sản phẩm.
- Đổi mới tổ chức quản lý, khắc phục lối quản lý kiểu gia đình, thiếu bài
bản, thiếu chiến lược kinh doanh… Mỗi doanh nghiệp cần phát huy trí tuệ của nghệ
nhân, thợ giỏi, tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm thiểu chi phí
sản xuất, xây dựng và quản lý thương hiệu, ứng dụng cách quản lý tiến bộ, khắc
phục ô nhiễm môi trường, v.v… Do đó, các địa phương cần rà soát lại việc thực
hiện các cơ chế, chính sách của Nhà nước về khuyến khích phát triển nghề và làng
nghề, trợ giúp bảo vệ môi trường, xúc tiến thương mại, đào tạo nhân lực,…
Thu nhập: Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đặt ra nhiều thách
thức trong giải quyết việc làm, các doanh nghiệp có sức cạnh tranh kém, quy mô
nhỏ có nguy cơ phá sản; mất việc làm, thiếu việc làm lớn trong khu vực phi
chính thức; chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH… Đặc biệt
trong tình hình hiện nay, khi các nền kinh tế lâm vào khủng hoảng thì việc làm sẽ
giảm sút mạnh và tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng cao. Do đó, nếu không có việc làm tại
chỗ, lao động nông thôn buộc phải di chuyển vào thành thị, gây ra những vấn đề xã
hội lớn rất khó giải quyết. Trong khi yêu cầu của chương trình XDNTM đòi hỏi phải
giảm nghèo tại chỗ và đảm bảo an sinh xã hội, và nếu có nghề thủ công tại chỗ, họ
có thêm việc làm, thêm thu nhập (thường cao gấp rưỡi đến hai lần so với thu
nhập từ nông nghiệp), gắn bó hơn với nông thôn. Vì vậy, làng nghề góp phần
chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn, XDNTM. Phát triển làng
21
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy


nghề gắn với chương trình XDNTM phải đảm bảo được các kết quả: Lao động từ
năng suất thấp sang năng suất cao, từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang cơ cấu công
nghiệp và dịch vụ chiếm phần lớn. Bộ mặt nông thôn được khởi sắc; kinh tế và văn
hóa phát triển, đời sống nâng cao, nông thôn khang trang, tươi đẹp, tệ nạn xã hội
không còn; góp phần vào kim ngạch xuất khẩu, tăng trưởng GDP của cả nước; tăng
thu nhập cho nhân dân địa phương.
1.3.2.Phát triển văn hóa - xã hội làng nghề
1.3.2.1.Tạo việc làm và thu hút lao động
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Hội nghị tổng
kết 5 năm thực hiện Nghị định 66/2006/NĐ-CP, “hoạt động ngành nghề nông thôn
đã thu hút gần 30% lực lượng lao động tham gia vào cơ sở sản xuất tại các làng
nghề” [7]. Các làng nghề thu hút khoảng 12 triệu lao động, ngoài ra còn tạo việc
làm cho hàng triệu lao động lúc nông nhàn. Sự lan tỏa của các làng nghề đã mở rộng
quy mô và địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động, kéo theo sự phát triển của
nhiều ngành nghề khác, góp phần làm tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, thương mại
và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới,
các làng nghề Việt Nam cũng lâm vào tình trạng hàng hóa tồn đọng ở nhiều nơi,
hàng triệu lao động mất việc làm. Cho nên trong chương trình XDNTM phải có
những biện pháp giải cứu cho làng nghề trước hết tháo gỡ khó khăn về kinh tế, về
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động
nhất là những người mất việc làm ở thành phố, khu công nghiệp trở về làng.
1.3.2.2. Hình thành các mối liên kết trong phát triển sản xuất kinh doanh
Thực tế, việc hình thành các mối liên kết trong phát triển SXKD chính là vấn
đề tái cấu trúc làng nghề. Đây là một nhiệm vụ quan trọng cho việc bảo tồn, phát
huy những tinh hoa văn hóa trong thiết chế làng xã qua hàng nghìn năm lịch sử của
dân tộc ta mà yêu cầu của XDNTM đòi hỏi. Hình thành các mối liên kết trong phát
triển SXKD là “văn hóa làng”, thể hiện ở tính cộng đồng và tính tự quản trong
mối quan hệ giữa các cư dân, các tổ chức trong làng. Để hình thành các mối liên
kết trong phát triển SXKD trước hết: Cần tăng cường các quan hệ liên doanh, liên
kết về nhiều mặt trong sản xuất, kinh doanh, khắc phục tình trạng doanh nghiệp nào

22
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

biết doanh nghiệp ấy, mạnh ai nấy làm, thiếu liên kết, thậm chí cạnh tranh không
lành mạnh; Doang nghiệp trong làng nghề cần cùng nhau thương thảo, thỏa thuận
đối với những vấn đề liên quan đến uy tín, thương hiệu của làng nghề, như giá cả,
kinh doanh hợp pháp, không gian lận thương mại, buôn bán hàng giả, v.v…
1.3.2.3. Bảo tồn các giá trị truyền thống trong xây dựng nông thôn mới
Tiêu chí số 6 và 16 của Bộ tiêu chí quốc gia NTM yêu cầu: Hoàn thiện việc xây
dựng đời sống văn hoá, thông tin và truyền thông nông thôn (Chính phủ, 2009).
Chúng ta biết rằng, mỗi đất nước trường tồn trong lịch sử nhân loại trước hết là do
những giá trị văn hóa của dân tộc ấy. Hơn nữa, Đất nước ta, dù đã trải qua nhiều năm
bị nước ngoài đô hộ và dùng nhiều phương kế để “đồng hóa”, song dân tộc ta vẫn giữ
vững bản sắc văn hóacủa mình, không bị “đồng hóa”. Lịch sử đã chứng minh: đất
nước trường tồn vì giữ được bản sắc văn hóa của mình. Đây là niềm tự hào và đồng
thời đề ra cho thế hệ chúng ta trách nhiệm bảo tồn và phát huy văn hóa của dân tộc.
Như vậy, theo Vũ Quốc Tuấn(2013) phát triển làng nghề trong XDNTM đòi hỏi phải
bảo tồn được những giá trị sau đây:
- Các sản phẩm làng nghề phải bảo tồn và phát huy được những hoa văn tinh
tế, màusắc rựcrỡ, kỹ thuật chế tác độc đáo. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệtruyền
thống cũng như làng nghề không những không bị đồng hóa mà vẫn được bảo tồn và
phát huy trong tiến trình hội nhập.
- Các làng nghề phải duy trì được đội ngũ nghệ nhân lưu giữ và truyền nghề
cho thế hệ kế tiếp (được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp
quốc (UNESCO) tuyên dương là “báu vật nhân văn sống”).

- Tổ chức các ngày Giỗ Tổ nghề một cách trang trọng, có ý nghĩa thiết thực,
tránh hình thức; những lễ hội tôn vinh các vị Tổ nghề; những truyền thống tốt
đẹp của “văn hóa làng” trong làng nghề, v.v….
- Cùng nhau chung sức bảo tồn và xây dựng những công trình vừa có ý nghĩa
tôn vinh truyền thống, vừa có ý nghĩa giáo dục cho đời sau đối với làng nghề như:
tôn tạo các di tích truyền thống, di tích lịch sử, lập phòng trưng bày sản phẩm,
bảo tàng làng nghề (bảo tàng tổng hợp của cả làng hoặc bảo tàng về một loại sản
phẩm đặc trưng của làng nghề).
23
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

1.3.3. Môi trường làng nghề
1.3.3.1. Hệ thống xử lý chất thải
Đối với các làng nghề, bên cạnh hoạt động sinh hoạt thông thường còn có hoạt
động sản xuất, mà trong đó không tránh khỏi quá trình phát thải gây ô nhiễm môi
trường. Vì vậy, có thể nói nhóm tiêu chí này quyết định nhiều đến sự phát triển bền
vững của các làngnghề theo quy hoạch NTM. Yêu cầu của phát triển môi trường
làng nghề theo định hướng NTM đòi hỏi:
- Các chất thải rắn trong quá trình sản xuất phải được thu gom và tập trung tại
một chỗ chờ xử lý.
- Chất thải lỏng và nước thải sinh hoạt trong khi chờ đợi hệ thống xửlý cần
phải được thu gom vào hồ điều hòa, không xả thẳng ra ao hồ trong làng nghề.
- Tăng cường diện tích cây xanh.
1.3.3.2. Công trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường
Trong quá trình XDNTM, thực hiện cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông

thôn nhằm đảm bảo yêu cầu tiêu chí số 17 trong Bộ tiêu chí quốc gia NTM. Quá
trình này bao gồm đảm bảo cung cấp đủ nước sinh hoạt sạch và hợp vệ sinh cho dân
cư, trường học, trạm y tế, công sở và các khu dịch vụ công cộng; thực hiện các yêu
cầu về bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái trên địa bàn xã. Như vậy, các làng
nghề phát triển gắn với chương trình XDNTM đòi hỏi phải:
- Có hệ thống nước sạch đủ cung cấp cho sản xuất của làng nghề cũng như sinh
hoạt của người dân trong làng nghề.
- Có hệ thống tiêu thoát nước trong thôn, xóm của làng nghề.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển làng nghề truyền thống trong quá
trình xây dựng nông thôn mới
Bản thân quá trình phát triển làng nghề bình thường đã chịu tác động của nhiều
yếu tố. Những yếu tố này có sự biến đổi trong từng thời kỳ và tác động theo
chiều hướng khác nhau. Chúng có thể là những yếu tố thúc đẩy nhưng ngược lại
cũng có thể là những yếu tố kìm hãm sự phát triển của làng nghề. Nhiều nghiên
cứu gần đây của Dương Bá Phượng (2001), Trần Kim Yến (2004), Nguyễn
Đình Hòa (2010) đã xác định 8 yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển của
24
SVTH: Huỳnh Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: ThS. Vũ Thành Huy

làng nghề gồm: công nghệ, cơ sở hạ tầng, nhân lực, vốn, nguyên liệu, thị trường, yếu
tố truyền thống và cơ chế chính sách đối với làng nghề.
Trong điều kiện XDNTM hiện nay, bên cạnh các yếu tố vốn có từ trước
(nhưng có thể có sự thay đổi ít nhiều), một số yếu tố mới xuất hiện. Mặc dù ở mỗi
vùng, mỗiđịa phương, mỗi làng nghề do có những đặc điểm khác nhau về các điều
kiện tự nhiên,kinh tế, xã hội và văn hoá nên sự tác động của yếu tố này là không

giống nhau. Tuynhiên, hiểu theo một cách khái quát chúng bao gồm những yếu tố cơ
bản sau:
1.4.1. Chính sách phát triển làng nghề trong quá trình xây dựng nông
thôn mới
Phát triển các làng nghề trong bối cảnh XDNTM phụ thuộc rất lớn vào
quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước thông qua việc ban hành, thực thi các
chủ trương, chính sách và pháp luật; phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan về
phát triển tiểu thủ công nghiệp. Khi các chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn
của Đảng và Nhà nước công nhận về pháp lý sự tồn tại, phát triển, vai trò tác
dụng tích cực lâu dài của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân sẽ giải
phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác tiềm năng, khôi phục, mở ra nhiều
nghề mới, cơ sở sản xuất được cải tạo, được tổ chức sản xuất, quản lý theo hướng
hiện đại thúc đẩy sản xuất trong toàn bộ nền kinh tế nói chung, các làng nghề nói
riêng phát triển. Có thể nói, Quyết định 2636/QĐ-BNN-CB của Bộ NN&PTNT
(2011) về việc phê duyệt Chương trình Bảo tồn và Phát triển làng nghề, gắn với quá
trình XDNTM là động lực cho việc phát triển làng nghề trong bối cảnh hiện nay.
Trong các chính sách của Nhà nước ảnh hưởng đến phát triển làng nghề gắn với quá
trình XDNTM, các chính sách về: quy hoạch; chuyển dịch cơ cấu, phát triển
kinh tế, nâng cao thu nhập; đất đai phục vụ phát triển làng nghề; Vốn phục vụ phát
triển làng nghề; Chính sách đầu tư và xúc tiến TM; Chuyển giao công nghệ phát
triển làng nghề… sẽ đóng vai trò quan trọng.
1.4.2. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch
25
SVTH: Huỳnh Thị Phương


×