Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Phát triển nghề và làng nghề truyền thống trên địa bàn thị xã hương thủy, tỉnh thừa thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (932.47 KB, 87 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa, các nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN) nói chung và các nghề thủ
công mỹ nghệ (TCMN) nói riêng luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của kinh tế xã hội và truyền thống văn hóa của nước ta. Trong giai đoạn hiện nay,
sự phát triển của các ngành TCMN trong TTCN gắn liền với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của đất nước, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc.
Đối với nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp thì vai trò của các nghề
TCMN có ý nghĩa hết sức quan trọng, đây là nhóm nghề tạo tiền đề quan trọng
trọng cho sự phát triển của địa phương nói riêng và cả nước nói chung. TTCN nói
chung và TCMN nói riêng tồn tại và phát triển như một bộ phận không thể tách rời
của nền kinh tế của các địa phương và cả nước. Trong những năm qua, thực hiện
chủ trương hỗ trợ và phát triển của Đảng và Nhà nước, các ngành nghề, làng nghề
TTCN nói chung và TCMN nói riêng ở nước ta đã và đang được khôi phục và
phát triển. Việc phát triển TTCN nói chung và TCMN nói riêng góp phần rất quan
trọng trong giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân. Hiện nay, tỷ lệ
người ở trong độ tuổi lao động đang có xu hướng gia tăng, vì vậy việc giữ gìn và phát
triển văn hóa truyền thống đông thời giải quyết việc làm cho các đối tượng này đàn
cần đặc biệt quan tâm. Bên cạnh đó góp phần tạo nhiều việc làm cho lao động sẵn
có ở địa phương cũng như tận dụng được khả năng của người già, trẻ em, người
khuyết tật. Phát triển TCMN sẽ thu hút được nhiều lao động, tạo nhiều công ăn việc
làm, tăng thu nhập cho người dân, đảm bảo phúc lợi xã hội và hỗ trợ công tác “xóa
đói giảm nghèo”. Từ đó có thể giúp địa phương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, góp phần
phát triển nông thôn mới bền vững, công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn.

11



Thừa Thiên Huế là vùng đất có bề dày lịch sử, truyền thống văn hóa lâu đời
cùng với sự phát triển đa dạng của các làng nghề truyền thống. Xứ Huế sở hữu
nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như hệ thống đền đài lăng tẩm, danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, nhã nhạc cung đình…Bên cạnh đó, Huế còn là quê
hương của nhiều làng nghề truyền thống với lịch sử phát triển lâu đời như: làng
nghề gốm sứ Phước Tích, làng nghề chạm khắc Mỹ Xuyên, làng nghề dệt tơ ở Phủ
Cam, nghề dệt lụa ở Lãng Châu, Phò Nam, làng nghề kim hoàn Kế Môn…Với
những lợi thế có sẵn cùng truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời tạo điều kiện cho
tỉnh Thừa Thiên Huế những nét độc đáo, riêng biệt sự phát triển tiểu thủ công
nghiệp.
Thị xã Hương Thủy nằm ở cửa ngõ phía Nam của thành phố Huế. Phía Đông
giáp huyện Phú Lộc, Phú Vang, phía Tây giáp thành phố Huế và thị xã Hương Trà,
phía Bắc giáp huyện Phú Vang, thành phố Huế, phía Nam giáp huyện Nam Đông và
Phú Lộc.
Thị xã Hương Thủy nằm liền kề thành phố Huế, có điều kiện giao thông khá
thuận lợi: có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam chạy qua nối Hương Thủy với các
đô thị lớn trung vùng và cả nước; có quốc lộ 49A nối Hương Thủy với vùng ven
biển, đầm phá của tỉnh về phía Đông và nối với đường Hồ Chí Minh đến các cửa
khẩu sang Lào và nối với các tỉnh Tây Nguyên.
Trên địa bàn Thị xã có sân bay quốc tế Phú Bài, ga hàng hoá đường sắt Hương
Thủy, Khu Công nghiệp Phú Bài; Hương Thủy nằm cách không xa Khu kinh tế
thương mại Chân Mây - Lăng Cô và đô thị Đà Nẵng. Đây là điều kiện thuận lợi cho
việc mở rộng giao lưu kinh tế với cả nước và hội nhập khu vực Đông Nam Á và
quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì sự phát triển TTCN nói chung và
TCMN nói riêng gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại như: hầu hết các cơ sở sản xuất
đều tổ chức nhỏ lẻ phát triển theo hộ gia đình, thiếu liên kết, kém hiệu quả, cơ sở
vật chất nghèo nàn, lạc hậu, không đảm bảo vệ sinh môi trường, khả năng thu hút
đầu tư thấp. Về mẫu mã sản phẩm đơn điệu, chưa hấp dẫn, chất lượng sản phẩm còn

hạn chế. Sản xuất hàng TCMN mang tính tự phát, thiếu quy hoạch tổng thể và định

22


hướng phát triển dài hạn. Chính sách hỗ trợ chưa đạt hiệu quả cao, chưa tạo được
tiền đề vững chắc cho sự phát triển bền vững của ngành tiểu thủ công nghiệp.
Vì vậy cần có định hướng và giải pháp cần thiết để phát triển TCMN bền vững
và toàn diện.
Nhằm góp phần hoàn thiện những vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn về
phát triển các nghề và làng nghề truyền thống trên địa bàn thị xã Hương Thủy,
xác định những hướng đi phù hợp trong tiến trình phát triển kinh tế, đặc biệt là
kinh tế hộ gia đình, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển nghề và làng nghề truyền
thống trên địa bàn thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thừa Thiên Huế” cho đề tài
tốt nghiệp của mình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Mục tiêu chung: Đánh giá được thực trạng phát triển hoạt động sãn xuất các
nghành nghề và các mô hình sãn xuất làng nghề tại thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa
Thiên Huế từ năm 2011 đến năm 2013 để có giải pháp nhằm phắt triển các NNTC,
LNTT ở tại thị xã Hương Thủy.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Hệ thống hóa những cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nghề và làng
nghề truyền thống ở Việt Nam;
+ Nêu lên thực trạng phát triển nghề và làng nghề truyền thống trên địa bàn
thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2012 đến năm 2014;
+ Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát triển nghề và làng nghề truyền
thống trên địa bàn thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: nghề và làng nghề truyền thống trên địa bàn thị xã
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.
+ Về thời gian: số liệu thứ cấp được thu thập từ giai đoạn 2010-2014; số liệu
sơ cấp được điều tra vào tháng 4 năm 2015 về tình hình sản xuất kinh doanh của các
cơ sở trong giai đoạn 2012-2014.

33


1.4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
1.4.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch được sử dụng xuyên
suốt trong quá trình nghiên cứu của đề tài.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
1.4.2.1. Phương pháp thu thập thông tin
- Đối với số liệu thứ cấp: được thu thập qua các trang web của tổng cục
thống kê, các bài báo, tạp chí chuyên ngành, niên giám thống kê của cục thống kê
tỉnh Thừa Thiên Huế, các số liệu của Phòng Kinh tế thị xã Hương Thủy, các báo
cáo tổng kết, các bản quy hoạch về phát triển nghề TCMN của thị xã Hương Thủy
qua các năm.
- Đối với số liệu sơ cấp: được tiến hành bằng phương pháp điều tra phỏng
vấn thông qua bảng hỏi. Cách tiến hành điều tra tại các doanh nghiệp sản xuất và
kinh doanh các sản phẩm của nghề thủ công mỹ nghệ.
- Phương pháp điều tra: tiến hành sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu
ngẫu nhiên theo danh sách đã được cung cấp từ Phòng Kinh tế thị xã Hương Thủy.
1.4.2.2. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Số liệu được thu thập sẽ được tổng hợp, tính toán dựa trên các tiêu chí được
đưa ra như quy mô về vốn sản xuất, số lượng lao động, chi phí sản xuất… để phân
tích về kết quả và hiệu quả của các nhóm nghề khác nhau.
1.4.2.3. Một số phương pháp phân tích khác

Bên cạnh những phương pháp đã nêu trên, để thực hiện nghiên cứu đề tài
này tôi cũng sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp chuyên gia
chuyên khảo, phân tích tương quan, phân tích xu hướng…
1.4.3. Phương pháp chung
Qua trình phát triển của một hiện tượng kinh tế - xã hội (KT - XH) và các
NNTC nói riêng chịu tác đông bỏi nhiều yếu tố. Mặt khác nó còn chịu ảnh hưởng
rất lớn của các chủ trương, chính sách và luật páp của Nhà nước. Giữa các yếu tố đó

44


lại có mối quan hệ tác động hỗ trợ lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển đồng
thời được xem xét và đánh giá dựa trên cơ sở của phương pháp biện chứng duy vật
lịch sử. Do đó, biện pháp chung được sử dụng trong nghiên cứu của đề tài này cũng
chính là phương pháo biện chứng duy vật lịch sử.
Phương pháp biện chứng duy vật lịch sử là một phương pháp tốt trong nhận
thức bản chất của các sự vật, hiện tượng KT – XH. Phương pháp này còn cho phép
chúng ta nghiên cứu hiện tượng không phải trong trạng thái riêng lẻ, cô lập mà phải
đặt chúng trong tổng hòa của các mối quan hệ hữu cơ với nhau, trong sự biến đổi từ
chất đến lượng, từ thấp đến cao, từ quá khứ đến hiện tại và đánh giá sự vật trong
trạng thái động.
1.5. Kết cấu của đề tài
Đề tài: “Phát triển nghành nghề thủ công, làng nghề truyền thống trên địa
bàn thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.” gồm 3 phần chính:
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Phần II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
NGHỀ VÀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGHỀ VÀ LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ HƯƠNG THỦY, TỈNH THỪA

THIÊN HUẾ
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHỀ VÀ
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ HƯƠNG THỦY,
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Phần II: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

55


NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÁT
TRIỂN NGHỀ VÀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
1.1. Những vấn đề chung về phát triển nghề thủ công mỹ nghệ
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Nghề thủ công truyền thống
Ngành nghề thủ công (NNTC) của Việt Nam vốn có lịch sử hình thành và
phát triển lâu đời, trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến động của lịch sử NNTC vẫn
kế thừa và phát triển những nét đẹp truyền thống vốn có. Hiện nay, có rất nhiều
thuật ngữ khác nhau để chỉ NNTC ở Việt Nam như: Nghề truyền thống, nghề cổ
truyền, nghề thủ công… Tuy nhiên, các số liệu thống kê hàng năm ở các cấp vẫn
chưa có một mục cụ thể để biểu hiện những đóng góp cũng như quá trình phát truển
của NNTC mà chủ yếu là gộp cùng với nhóm “Tiểu thủ công nghiệp – thủ công
nghiệp” hoặc “Sản xuất hộ gia đình phi nông nghiệp”…
Vấn đề cấp thiết hiện nay là chúng ta cần đi đến thống nhất các tiêu chí để
xác định ngành nghề truyền thống, qua đó chúng ta có cơ sở để có thể thực thi các
chính sách nhằm bảo tồn và phát triển các NNTCTT nói chung và NNTC nói riêng.
Theo hiệp hội nghề TCTT Việt Nam, các yếu tố cấu thành của nghề TCTT bao
gồm:
+ Đã hình thành, tồn tại và phát triển từ lâu đời ở nước ta;
+ Sản xuất tập trung tạo thành các làng nghề, phố nghề;

+ Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề;
+ Kỹ thuật và công nghệ khá ổn định (của Việt Nam);
+ Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước hoàn toàn hoặc phần lớn;
+ Là nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận dân cư của cộng đồng đồng thời có
đóng góp quan trọng vào ngân sách nhà nước; [16]
Căn cứ Nghị định số 86/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2003 của Chính
phủ về phát triển ngành nghề nông thôn:

66


- Nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản
phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc
có nguy cơ bị mai một, thất truyền.
- Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn,
phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt
động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau.
- Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành
từ lâu đời.
Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 03 tiêu chí sau:
+ Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận;
+ Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc;
+ Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng
nghề.
- Tiêu chí công nhận làng nghề:
Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:
+ Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành
nghề nông thôn;
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm

đề nghị công nhận;
+ Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống:
Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề
truyền thống theo quy định tại Nghị định số 86/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm
2003 của Chính phủ. [16]
1.1.2. Vai trò của nghề thủ công mỹ nghệ
1.1.2.1. Phát triển nghề thủ công mỹ nghệ góp phần tạo việc làm cho
người lao động
Dân số và việc làm là hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết và cùng tác động
quyết định lên tiến trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, giải quyết việc làm

77


là một trong những vấn đề hết sức cơ bản và quan trọng trong công cuộc phát triển
đất nước. Trong các ngành nghề thủ công nói chung và ngành nghề TCMN nói
riêng, lao động thường chiếm tỷ lệ tới 60-65% giá thành sản phẩm, nên việc phát
triển ngành nghề này sẽ phù hợp với yêu cầu giải quyết việc làm cho người lao
động đang tăng lên nhanh chóng, nhất là ở nông thôn. Theo thống kê trong lĩnh vực
xuất khẩu, mỗi 1 triệu USD doanh thu hàng TCMN thì thu hút khoảng 3.500-4.000
lao động chuyên nghiệp/năm, còn nếu là lao động thời vụ thì sẽ tăng 3-5 lần mức
đó.
Quy mô dân số cả nước năm 2011 là 87,61 triệu người, trong đó dân số
thành thị chiếm 30,6%, dân số nông thôn 69,4%; nam có 43,35 triệu người chiếm
49,5%, nữ có 4,26 triệu người chiếm 50,5%. Số lao động từ 15 tuổi trở lên bao gồm
những người đang có việc và những người thất nghiệp tính đến thời điểm 1/7/2011,
Việt Nam có 51,33 triệu người, trong đó nữ 48,3% và nam chiếm 51,7%. Lao động
chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn 71,5%. Tình trạng nghèo và thiếu việc làm
trong khu vực này đang tạo ra một luồng di dân tự do rất lớn ra thành thị, làm cho

dân số đô thị tăng đột biến gây nhiều khó khăn về an ninh xã hội và môi trường. [9]
Cả nước có khoảng 2.270 làng nghề, trong đó làng nghề TCMN chiếm
khoảng 30% tổng số làng nghề đã giải quyết việc làm cho khoảng 13 triệu lao động
nông thôn với thu nhập bình quân khoảng 1,5 triệu đồng/người/tháng. Vì vậy, các
làng nghề, ngành nghề có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, làng nghề và ngành
nghề còn tạo ra nhiều sản phẩm nghề truyền thống vừa có giá trị kinh tế vừa mang
đậm nét bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc của mỗi vùng quê. Đặc biệt
ngành nghề TCMN còn sử dụng một số lượng lớn lao động tàn tật không thể làm
việc ở các ngành nghề khác và điều này mang ý nghĩa xã hội rất sâu sắc.
1.1.2.2. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ góp phần mở rộng thị
trường, tăng giá trị tổng sản phẩm hàng hóa cho nền kinh tế
Hiện nay, nhiều làng nghề TCMN đã và đang được khôi phục đồng thời với
việc phát triển các làng, cụm làng mới, nghề mới. Một số lượng lớn các làng nghề
TCMN đã được tăng cường hoạt động, kinh doanh theo hướng sản xuất hàng hóa,

88


phục vụ xuất khẩu. Ngoài ra, thu nhập của dân cư nói chung và dân cư nông thôn
nói riêng tăng lên sẽ mở ra cơ hội mới của một thị trường nội địa tiềm năng, với sức
mua ngày càng gia tăng đối với các sản phẩm truyền thống độc đáo của công nghiệp
nông thôn. Xu thế phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và khu vực là những thách
thức nhưng cũng đồng thời là cơ hội để sản phẩm TCMN thâm nhập hiệu quả hơn
vào thị trường khu vực và thế giới.
Sản phẩm của ngành nghề TCMN là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển
sản xuất hàng hóa ở nông thôn. Ngành nghề TCMN hàng năm luôn sản xuất ra một
khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng của từng
địa phương nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Tỷ trọng hàng hóa ở các
làng nghề thường cao hơn rất nhiều so với các làng thuần nông.

Bên cạnh thị trường nội địa có khả năng mở rộng, hàng TCMN của Việt
Nam còn nhiều tiềm năng xuất khẩu bởi nhu cầu thị trường thế giới hầu như chưa bị
giới hạn do “vòng đời” của sản phẩm ngắn, xu hướng tiêu dùng ngày càng hướng
đến các sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên, thân thiện với môi trường. Sản xuất,
xuất khẩu hàng TCMN có vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông thôn, thu hút lượng lớn lao động và góp phần vào xóa đói giảm nghèo. Bởi
vậy, đây là một trong những ngành hàng được coi là mũi nhọn để tập trung phát
triển xuất khẩu trong giai đoạn 2011 - 2015. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng
TCMN đạt 1,5 tỷ USD, năm 2011 là đạt 1,7-1,8 tỷ USD con số này được dự báo sẽ
tiếp tục tăng cao trong thời gian tới. Với hơn 2.000 làng nghề trải dọc khắp các tỉnh
thành Bắc, Trung, Nam với đủ các nghề mây, tre đan, chạm khắc, dệt lụa… với đôi
bàn tay khéo léo, óc sáng tạo miệt mài của những nghệ nhân, hàng TCMN Việt
Nam đã chinh phục thị trường quốc tế, từ châu Á đến các nước Đông Âu, Tây Âu,
châu Phi, châu Mỹ… Trong năm 2013 kim ngạch hàng TCMN vượt mốc 2,5 tỷ
USD. [20]
1.1.2.3. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ nâng cao thu nhập của
người dân, góp phần vào chương trình xóa đói giảm nghèo của quốc gia
Được biết, trong Báo cáo “Khởi đầu tốt nhưng chưa phải đã hoàn thành :
Thành tựu ấn tượng của Việt Nam về giảm nghèo và những thách thức mới” của

99


Ngân hàng thế giới ngày 24/1/2013, cũng ghi nhận : Trong vòng 20 năm (19902010), tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm từ gần 60% xuống còn 20,7% với khoảng
hơn 30 triệu người thoát nghèo. Đến cuối năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm
2%/năm (từ 43,89% năm 2012 xuống còn 38,89% năm 2013); đến cuối năm 2015,
tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống còn dưới 5% theo chuẩn nghèo hiện hành; tỷ lệ
nghèo các huyện còn dưới 30%.
Trong các làng nghề TCTT, TCMN đã được khôi phục và phát triển đều giữa
có hơn các làng thuần nông khác trong vùng. Ở các làng nghề tỷ lệ hộ giàu thường

rất cao, thường không có hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo rất thấp, thu nhập từ ngành nghề thủ
công chiếm đại bộ phận tổng thu nhập của dân cư trong làng, hệ thống công trình
công cộng, kết cấu hạ tầng phát triển, nhà cửa cao tầng của các hộ dân ngày một
nhiều, tỷ lệ số hộ có các loại đồ dùng tiện nghi đắt tiền chiếm tỷ trọng khá.
Việc làm đầy đủ, thu nhập bảo đảm, đời sống vật chất tinh thần ngày càng
nâng cao làm cho người lao động nói riêng và người dân ở các làng nghề nói sẽ yên
tâm tập trung cho công việc của mình. Người lao động sẽ không phải rời bỏ quê
hương vì sinh kế, thực hiện được quá trình đô thị hóa phi tập trung. Mức thu nhập
trung bình của các hộ gia đình tham gia sản xuất thủ công cao hơn 3-4 lần so với
người lao động thuần nông, có thể thấy rằng ngành nghề thủ công đóng góp rất lớn
vào quá trình phát triển kinh tế nông thôn do mức thu nhập trung bình của cả nam
giới và phụ nữ làm nghề thường cao hơn so với mức trung bình của cả nước, tỷ lệ
nghèo chỉ khoảng 3,7% so với 10,45% tỷ lệ nghèo cả nước.
Tuy nhiên, mức lương của người lao động trong ngành TCMN của Việt Nam
hiện nay đang còn thấp hơn so với các nước trong khu vực. Theo số liệu điều tra,
công nhân Việt Nam có thu nhập từ 0,2-0,6 USD/giờ, trong khi Indonesia từ 0.3-0,4
USD/giờ, Trung Quốc từ 0,5-0,75 USD/giờ, Malaysia từ 1,25-1,14 USD/giờ, Thái
Lan từ 1,5 USD/giờ trở lên và ở Đài Loan khoảng 5 USD/giờ. [18]
1.1.2.4. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ góp phần bảo tồn bản
sắc văn hóa của dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Một sự phát triển đúng đắn phải là đến hiện

1010


đại từ truyền thống, chỉ có như vậy mới không đánh mất mình trong quá trình HĐH.
Phần quý báu nhất trong di sản văn hóa là những giá trị truyền thống, tiêu biểu cho
sức sống, phẩm chất, tính cách, bản sắc dân tộc được lưu giữ tạo thành bàn đạp, sức
mạnh bên trong cho sự phát triển bền vững của cá nhân và cộng đồng.

Nhiều nghề và làng nghề TCMN của nước ta đã nổi bật trong lịch sử văn hóa
Việt Nam. Nhiều sản phẩm của các làng nghề sản xuất ra mang tính nghệ thuật cao
với các đặc tính riêng có của làng nghề và những sản phẩm đó đã vượt qua giá trị
hàng hóa đơn thuần, trở thành những sản phẩm văn hóa được coi là biểu tượng của
truyền thống dân tộc Việt Nam. Ngành nghề truyền thống, đặc biệt là các nghề
TCMN, chính là di sản quý giá mà cha ông chúng ta đã tạo lập và để lại cho các thế
hệ sau. Bởi vậy, phát triển ngành nghề TCMN góp phần đắc lực vào việc giữ gìn
các giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
Cả nước ta hiện có khoảng 400 làng nghề TCMN truyền thống trong tổng số
khoảng 2.700 làng nghề; có những làng nghề nổi tiếng như làng lụa Vạn Phúc, gỗ
Đồng Kỵ, gốm sứ Bát Tràng, đúc đồng Ý Yên, thổ cẩm Hòa Bình, thổ cẩm Chăm,
thêu Huế, chạm bạc Đồng Xâm, sứ Bình Dương… Khi cuộc cạnh tranh với quy mô
toàn cầu mở ra, những sản phẩm TCMN mà doanh nhân nước ta mang ra thị trường
đều phải có sức cạnh tranh cao hơn trước, không những trên thị trường thế giới mà
còn ngay trên thị trường trong nước. Song, điều cần nhấn mạnh là đó không chỉ là
những hoạt động đơn thuần kinh tế mà ẩn chứa bên trong các sản phẩm TCMN ấy
luôn luôn có hàm lượng văn hóa, trước hết là văn hóa của mỗi cơ sở sản xuất và
rộng hơn, là bản sắc văn hóa của từng làng nghề của cả Việt Nam ta. Nói cách khác,
kinh tế và văn hóa gắn bó với nhau, hòa quyện vào nhau trong mỗi sản phẩm
TCMN.
1.1.2.5. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ theo
hướng sản xuất hàng hóa giúp đội ngũ lao động có khả năng
thích ứng với lao động công nghiệp
Quá trình phát triển kinh tế ở hầu hết các nước đều gắn liền với sự chuyển
dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ. Nguồn nhân lực từ nông
nghiệp cho quá trình phát triển công nghiệp và dịch vụ, một mặt bổ sung cho khu

1111



vực thành thị, mặt khác được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ phi nông nghiệp
ngay trên địa bàn nông thôn đã được thành thị hóa theo hướng “nhập xưởng bất
nhập thành”. Phát triển ngành nghề TCMN sẽ thực hiện tốt việc phân công lao động
tại chỗ, là nơi kết hợp nông nghiệp-công nghiệp có hiệu quả. Sự phát triển ngành
nghề TCTT nói chung và các làng nghề TCMN nói riêng là một trong những hướng
rất quan trọng để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Trên cơ sở hoạt động chung trong mọi sinh hoạt cộng đồng của làng xã Việt
Nam, giao tiếp bị hạn chế, giao lưu văn hóa không được mở mang, tính bảo thủ đã
xuất hiện như là một nét điển hình của người nông dân. Người nông dân sản xuất
nhỏ thường tùy tiện trong hoạt động và giao tiếp nên thiếu tính kỹ luật. Họ muốn
làm thì làm, thích nghỉ thì nghỉ, tùy theo hứng thú, không bị kỷ luật của công việc,
của tổ chức quy định. Tình hình đó đã tạo nên tác phong tùy tiện, thiếu tinh thần
trách nhiệm cá nhân, không tính đến hiệu quả kinh tế của sức lực và thời gian. Như
vậy, ở họ thiếu tính kỷ luật lao động và điều này đã trở thành lực cản đối với sự
phát triển của xã hội và của cá nhân trong công cuộc đổi mới đất nước. Phát triển
ngành nghề TCMN theo hướng sản xuất hàng hóa tạo điều kiện xóa bỏ tình trạng
chia cắt, khép kín trong từng địa bàn, từng đơn vị, hình thành và phát triển các mối
quan hệ hợp tác, phân công lao động trong quá trình phát triển, thúc đẩy việc mở
rộng giao lưu kinh tế và văn hóa giữa các vùng nông thôn, giữa thành thị và nông
thôn, giữa trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện cho kinh tế-xã hội ở nông thôn
phát triển theo hướng văn minh, tiến bộ. Đồng thời sản xuất hàng hóa làm cho trình
độ nhận thức của lao động nông nghiệp được nâng cao, thói quen năng động, ý chí
vươn lên và phong cách nghề nghiệp được tôi luyện trong môi trường kinh tế hàng
hóa sẽ càng có điều kiện đáp ứng nhu cầu chất lượng sức lao động ngày càng tăng
của công nghiệp và dịch vụ.
1.1.2.6. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ theo hướng liên kết cùng
ngành du lịch
Hệ thống làng nghề là một trong những nguồn tài nguyên du lịch quan trọng
của nước ta. Phát triển du lịch làng nghề không chỉ mang lại lợi nhuận kinh tế mà
còn là cơ hội để quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Ngoài những


1212


lợi thế như cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý, nét văn hóa đặc sắc, các làng nghề
TCMN còn có sức hút đặc biệt bởi mỗi làng thường gắn với một vùng văn hóa hay
một hệ thống di tích. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của các làng
nghề. PGS.TS Phạm Trung Lương, Viện nghiên cứu phát triển du lịch làng nghề
nhận định :“Làng nghề truyền thống được xem như một dạng tài nguyên du lịch
nhân văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi các sản phẩm du lịch làng nghề luôn
bao hàm trong nó cả những giá trị vật thể và phi vật thể”.
Trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu
phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, có
hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch có
chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, cạnh
tranh được với các nước trong khu vực và thế giới. Phấn đấu đến năm 2030, Việt
Nam, trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển. Năm 2015, Việt Nam đặt ra
mục tiêu đón 7-7,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế và 36-37 triệu lượt khách du lịch
nội địa; tổng thu từ khách du lịch đạt 10-11 tỷ USD, đóng góp 5,5-6% vào GDP cả
nước; có tổng số 390.000 buồng lưu trú với 30-35% đạt chuẩn từ 3 đến 5 sao; tạo ra
2,2 triệu việc làm trong đó có 620.000 lao động trực tiếp du lịch. Mục tiêu đến năm
2020, Việt Nam sẽ đón 10-10,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế và 47-48 triệu lượt
khách du lịch nội địa; tổng thu từ khách du lịch đạt 18-19 tỷ USD, đóng góp 6,5-7%
GDP cả nước; có tổng số 580.000 buồng lưu trú với 35-40% đạt chuẩn từ 3 đến 5
sao; tạo ra 3 triệu việc làm trong đó có 870.000 lao động trực tiếp du lịch. Năm
2030, tổng thu từ khách du lịch tăng gấp 2 lần năm 2020.
Trong bối cảnh đó, việc phát triển các làng nghề phục vụ du lịch đã được
nhiều địa phương trên cả nước xúc tiến và đang tích cực triển khai quảng bá sản
phẩm thủ công. Nhiều tỉnh thành như Hà Nội, Hòa Bình, Bắc Ninh, Thừa Thiên
Huế, Đà Nẵng… đang triển khai mạnh mẽ loại hình này. Một số chuyên gia du lịch

nhận định : “Sự kết hợp chặt chẽ giữa du lịch và nghề thủ công truyền thống tại Việt
Nam hầu như không có tại các nước ASEAN, trừ Chiêng Mai (Thái Lan). Chính vì
thế, đây là thế mạnh để nước ta khai thác”. Làng gốm Bát Tràng, dân làng đã tự xây
dựng bảo tàng lịch sử gốm Bát Tràng ngay trong đình thờ tổ, vừa mang ý nghĩa lịch

1313


sử, vừa mang ý nghĩa tâm linh; chọn những gia đình có kỹ thuật sản xuất truyền
thống là điểm đến trong mỗi chương trình du lịch, đồng thời tổ chức mô hình du
lịch độc đáo bằng xe trâu. Ở Hội An, người ta lập các xưởng nghề thủ công như
thêu thùa, chạm khắc, dệt thổ cẩm, dệt lụa, dệt chiếu, may đo theo yêu cầu của
khách… Khách đến xem thợ làm, rồi mua những thứ họ thích.
Du lịch làng nghề, tức vừa làm du lịch vừa sản xuất sản phẩm làng nghề,
xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm làng nghề, nên hiệu quả kinh tế cao hơn. Do đó, có
thể thấy rằng phát triển thị trường hàng TCMN phục vụ khách du lịch có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. “Chương trình hành động Hà Nội” tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN đã đưa ra sáng kiến “Hành lang Đông Tây”, đó là phát triển các làng nghề
dọc hàng lang Đông-Tây nhằm tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước;
Campuchia, Lào, Mianma, Việt Nam và Thái Lan. Đây được xem là một phương
pháp góp phần cải thiện mức sống và tạo việc làm cho người dân địa phương. Hiệp
hội làng nghề Việt Nam cần hợp tác với ngành du lịch từ Trung ương đến địa
phương để phát triển loại hình này, qua đó sẽ tạo ra sự phồn thịnh hơn cho các làng
nghề. Tuy nhiên, trên cả nước hiện chỉ khoảng 100 làng nghề được đầu tư đồng bộ
về hệ thống hạ tầng, số còn lại chưa được các làng nghề và chính quyền địa phương
chú ý đầu tư, quy hoạch hoặc có quy hoạch nhưng thực chất chỉ đặt tên mà không
có sự đầu tư thỏa đáng về hạ tầng du lịch cũng như nâng tầm văn hóa và cơ chế
phối hợp với các doanh nghiệp lữ hành để thu hút khách. Thành ra nhiều làng có tên
là điểm du lịch làng nghề nhưng chỉ mang tính hình thức, phong trào nên không
đem lại hiệu quả thiết thực.

1.1.2.7. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ góp phần phát triển khối
doanh nghiệp, định hình nên một đội ngũ thương nhân mới
Doanh nghiệp là lực lượng quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, nhất là khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại
thế giới. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc xây dựng chiến lược mở
rộng liên kết, hợp tác với nhau để hợp lý hóa, chuyên môn hóa, hiệp tác hóa trên cơ
sở thế mạnh của mỗi doanh nghiệp nhằm mở rộng sức sản xuất, giảm chi phí, nâng
cấp năng lực cạnh tranh. Hiện nay, chưa có số liệu thống kê chính xác về số doanh

1414


nghiệp thuộc ngành nghề thủ công tham gia hoạt động trong nền kinh tế. Tuy nhiên,
với trên 1.000 doanh nghiệp tham gia trong lĩnh vực xuất khẩu hàng TCMN là một
trong những lực lượng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển và mở
rộng thị trường quốc tế cho ngành hàng này.
Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến trong các làng nghề truyền
thống là hộ gia đình. Mô hình này hạn chế rất nhiều đến khả năng phát triển, mỗi
gia đình không đủ sức nhận hợp đồng lớn, không mạnh dạn cải tiến sản phẩm,
không đủ tầm để định hướng phát triển và vạch ra chiến lược kinh doanh. Các
doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần được phát triển từ một số tổ
sản xuất hoặc một số hộ gia đình sản xuất kinh doanh khá đã bắt đầu hình thành ở
nhiều làng nghề. Hình thức tổ chức này tuy chưa chiếm tỷ trọng lớn ở một số làng
nghề hiện nay nhưng lại đóng vai trò trung tâm liên kết mà các hộ gia đình là các vệ
tinh, thực hiện các hợp đồng đặt hàng với các hộ gia đình, giải quyết đầu vào, đầu ra
của các làng nghề với các thị trường tiêu thụ khác nhau. Khối doanh nghiệp trong
các làng nghề dễ dàng tiếp cận với kinh doanh lớn, công nghiệp hiện đại và có
nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế với các doanh nghiệp lớn ở thành thị và
các đơn vị trong các làng nghề.
Như vậy, đội ngũ doanh nghiệp đóng vai trò trong động lực thúc đẩy phát

triển từ bên trong các làng nghề. Bên cạnh quá trình tự thân vận động của chính các
doanh nghiệp, cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước, chính quyền địa phương để các
nghệ nhân, thợ cả, nghệ sĩ tạo hình đang hoạt động trong ngành nghề TCMN có
điều kiện phát huy năng lực vươn lên thành các nhà kinh doanh giỏi. Chính khả
năng nghề nghiệp của họ cộng với năng lực tổ chức, quản lý sản xuất và tài năng
kinh doanh của các nhà doanh nghiệp trong ngành TCMN đã tạo nên sức sống mới
của nhiều làng nghề truyền thống hiện nay trên toàn quốc, không ít nghệ nhân,
doanh nghiệp TCMN đã trở thành tỷ phú, tạo cơ hội có công ăn việc làm ổn định
cho nhiều người lao động ở khu vực nông thôn và thành thị, góp phần tích cực, có
hiệu quả vào công cuộc phát triển kinh tế và ổn định xã hội.

1515


1.1.2.8. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ hướng vào xuất khẩu
trực tiếp góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước
Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN đã nằm trong tốp 11 mặt hàng có kim
ngạch lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, qua đó góp phần giải
quyết được nhiều công ăn việc làm, trong điều kiện các lao động trong doanh
nghiệp lớn đang gặp khó khăn… Sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN đã góp phần
vào việc duy trì và phát triển số làng nghề, gia tăng giá trị cho nguồn nguyên liệu
trong nước. Đồng thời, tận dụng, rút bớt lao động nông nghiệp sang làm ngành
nghề, làng nghề, làm ở doanh nghiệp và đây là phương thức đô thị hóa theo kiểu “ly
nông bất ly hương”.
Hàng TCMN còn được xuất khẩu sang nhiều thị trường, trong đó có nhiều
nước có nền kinh tế phát triển.
Bên cạnh những kết quả tích cực như trên, trong việc sản xuất và xuất khẩu
hàng TCMN cũng còn một số vấn đề cần giải quyết. Trước hết, về mặt tư duy cần
đánh giá, nhìn nhận vai trò quan trọng của ngành này về tính gần như vô tận của
nguồn hàng, về “làm cả ăn tất”, về giải quyết công ăn việc làm, về chuyển dịch cơ

cấu lao động. Điểm cần quan tâm thứ hai là trong khi quy mô xuất khẩu bình quân
đầu người của Việt Nam còn thấp thì việc khai thác nguồn lực, khai thác tay nghề
tinh luyện của người thợ thủ công để tăng kim ngạch xuất khẩu là rất quý.
1.1.3. Đặc điểm của nghề thủ công mỹ nghệ
1.1.3.1. Đặc điểm lịch sử
Việt Nam là một trong những nước có nghề thủ công lâu đời, nhiều làng
nghề, phố nghề và trung tâm sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Nhiều
nơi có lịch sử nghề từ bao thế kỷ, đến nay vẫn được duy trì và phát triển. Sản phẩm
TCMN nước ta rất phong phú, tinh tế. Các nghệ nhân và thợ thủ công Việt Nam tài
hoa với đôi bàn tay khéo léo, trí thông minh, óc thẩm mỹ tinh tế đã tạo ra nhiều sản
phẩm có giá trị nghệ thuật cao, trong đó có không ít các sản phẩm được lưu giữ như
một báu vật vô giá.
Trống đồng Đông Sơn là một trong những loại sản phẩm của nghề đúc đồng
đương thời đã đạt đến tuyệt đỉnh về kỹ thuật và nghệ thuật. Giai đoạn này khá nhiều

1616


nghề thủ công đã ra đời như luyện kim đen, rèn đồ sắt, chế tạo thủy tinh, dệt vải,
đóng thuyền, nghề sơn… bên cạnh một số nghề xuất hiện rất lâu trước đó như nghề
đan lát, nghề chế tác đá, nghề mộc… Trải qua nhiều bước thăng trầm trong lịch sử
nhiều ngành nghề thủ công của Việt Nam đã có bước tiến mạnh mẽ như nghề gốm,
nghề sản xuất tơ lụa, chạm khắc gỗ, đúc đồng, kim hoàn… đều đã đạt tới tuyệt kỷ,
tinh xảo cả về kỹ thuật và nghệ thuật được bảo tồn, truyền đến ngày nay. [13]
1.1.3.2. Đặc điểm văn hóa
Bản sắc văn hóa của bất cứ dân tộc nào cũng đều là nền tảng cho sự tồn tại
của dân tộc đó. Truyền thống văn hóa được biểu hiện tập trung ở bản sắc văn hóa
dân tộc, đó vừa là động lực cũng là mục tiêu của sự phát triển. Nghề thủ công với
những sản phẩm của nó thật sự đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc và
tự nó đã là những di sản văn hóa của dân tộc. Sản phẩm thủ công có hai loại giá trị

truyền thống : một là căn cứ vào giá trị kỹ thuật như nguyên vật liệu, quy trình sản
xuất, kỹ thuật, mẫu mã… và hai là giá trị văn hóa, bao gồm lối sống truyền thống và
di sản của người dân, những câu chuyện huyền bí, đức tin về văn hóa xã hội, các
nghi lễ và lễ hội. Cả hai yếu tố này được phát triển hàng trăm năm trong môi trường
văn hóa Việt Nam và đã trở thành một di sản văn hóa được kế thừa của cả vùng.
Các sản phẩm thủ công gắn bó mật thiết với cuộc sống con người, được dùng trong
các lễ hội và trang trí mang tính tôn giáo hay được dùng làm hàng hóa và được đánh
giá cao vì công dụng và vẻ đẹp của chúng.
Phát triển nghề TCMN có tác động tích cực đến hoạt động văn hóa tại các
địa phương. Do đặc điểm nghề nghiệp, tại các địa bàn có ngành nghề truyền thống
phát triển thường có những nét đẹp của đời sống văn hóa rất riêng, bởi người thợ
hành nghề bên cạnh mục đích kinh tế còn kết hợp với các yếu tố khác thiêng liêng,
mật thiết, nó trở thành chất kết dính bền vững trong các làng nghề. Đó là những
hoạt động hướng về cội nguồn, đoàn kết để phát triển. Ở hầu hết các làng nghề đều
tổ chức các hoạt động mang tính lễ hội để tưởng nhớ đến công lao của những ông tổ
đã dạy và truyền nghề cho dân. Những người cùng làm nghề hình thành nên các hội
nghề nghiệp nhằm hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong việc giữ gìn, phát triển nghề

1717


nghiệp và đổi mới cho phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Đó cũng là
những nét văn hóa thể hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Văn hóa làng nghề không chỉ được thể hiện rõ, nhận biết ngay trong sản
phẩm TCMN của các làng nghề, mà còn thể hiện ngay trong phương thức kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp cũng như trong thái độ ứng xử của mỗi doanh nhân.
Chúng ta xuất khẩu hàng TCMN ra thị trường thế giới càng nhiều càng tốt, nhưng
tất cả cần phải toát lên bản sắc văn hóa Việt Nam, làm cho sản phẩm, hàng hóa
mang thương hiệu Việt Nam nhưng vẫn có những nét riêng của từng làng nghề,
không lẫn được với sản phẩm, hàng hóa của những nước khác, cũng tức là mang

văn hóa kinh doanh của Việt Nam ra thê giới, góp phần làm phong phú thêm văn
hóa kinh doanh toàn cầu.
1.1.3.3. Tính phong phú, đa dạng
Một đặc điểm của các làng nghề TCMN truyền thống ở Việt Nam là được
nằm rải rác trên cả nước, hầu như địa phương nào cũng có những làng nghề với
những sản phẩm TCMN truyền thống, gắn với di tích lịch sử, phong tục tập quán và
văn hóa ở địa phương. Tính đa dạng trên trước hết là do nước ta nằm trong khu vực
châu Á – Thái Bình Dương, có khả năng lưu thông và mở cửa thuận lợi ra các nước
nên có điều kiện giao lưu, tương tác, hấp thụ những nét văn hóa từ nhiều dân tộc
khác; mặt khác, tài nguyên đất, rừng, biển… của Việt Nam tương đối phong phú,
tiềm năng khai thác lớn. Đặc biệt điều kiện thời tiết, khí hậu, tính đa dạng nhiều vẻ
của đất đai, nguồn nước rất thuận lợi cho phát triển nhiều loại cây trồng, thú rừng,
vật nuôi, hải sản… là các loại nguyên vật liệu cần thiết để ngành nghề TCMN phát
triển phong phú.
Nghề thủ công Việt Nam đa dạng và từng nghề cũng có các làng nghề đa
dạng, chẳng hạn có gốm Bát Tràng, nhưng cũng có gốm Hương Canh, Phù Lãng
(xứ Bắc), gốm Móng Cái (Quảng Ninh), gốm Quế Quyền (xứ Nam), gốm Phước
Tích của Quảng Trị Thừa Thiên, gốm Thanh Hà của Hội An xứ Quảng, gốm Biên
Hòa, sông Bé của miền Đông Nam Bộ, gốm Mnông ở Buôn Hồ, gốm Tà Ôi ở Vel
(làng T’muôi)… Có làng nghề đúc đồng ở Hè Nôm, lại cũng có làng nghề gò đồng
ở Đại Bái (Bưởi Nồi), ở Vó (Quảng Bố), ở Thiệu Lý Thanh Hóa, ở phường Đúc xứ

1818


Huế, có nghề rèn sắt thép Đa Sĩ (Hà Tây), rèn Canh Diễn, phố lò rèn Hà Nội, lại có
nghề rèn của người H’Mông (Mèo), của người B’Ru, Tà Ôi, K’Tu… đa dạng về bí
quyết, quy trình công nghệ, về chất liệu, về các mặt hàng… Cho nên nhiều khi cùng
một nghề mà có thể có nhiều vị tổ nghề, tùy làng, tùy địa phương.
1.1.3.4. Tính mỹ thuật, độc đáo của sản phẩm thủ công mỹ nghệ là sự kết

tinh và tính kế tục qua nhiều thế hệ của lao động thủ công
Lao động trong các làng nghề truyền thống chủ yếu là lao động thủ công nhờ
vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, vào đầu óc thẩm mỹ và tính sáng
tạo của người thợ, của các nghệ nhân. Phương pháp dạy nghề chủ yếu được thực
hiện theo phương pháp truyền nghề. Hầu hết các làng nghề truyền thống dù hình
thành bằng con đường nào đi nữa thì chúng phải có các nghệ nhân làm nòng cốt và
là người thầy hướng dẫn để phát triển các làng nghề. Mỗi làng đều có một tổ nghề
chính là người đầu tiên dạy nghề, truyền nghề, đem bí quyết nghề nghiệp ở nơi khác
về truyền cho làng mình. Chính nghệ nhân, thợ cả đã giữ cho làng nghề tồn tại, đã
đào tạo ra những người thợ kế tục theo phương pháp “cầm tay chỉ việc”, “vừa làm
vừa học” ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác. Cứ như thế, những thế
hệ thợ thủ công kế tiếp nhau, đan xen nhau, lớp này đến lớp khác, đời sau nối tiếp
đời trước. Sự tồn tại và phát triển của ngành nghề thủ công từ thế hệ này sang thế hệ
khác cho đến hôm nay, chứng tỏ rằng, nghề TCMN không phải chỉ có tính giai
đoạn, chuyển tiếp hay nhất thời mà còn có lý do tồn tại vì chính tính chất của nó.
Thợ thủ công không chỉ là những người thợ sản xuất, mà còn là những nghệ nhân,
không chỉ sản xuất ra những sản phẩm tiêu dùng mà còn sản xuất ra những sản
phẩm mang tính nghệ thuật. Chức năng nghệ thuật, tính chất mỹ thuật của nghề
TCMN chính là điều kiện làm cho nghề thủ công vượt lên tính giai đoạn để tồn tại
song song với ngành đại công nghiệp. Các nhà tư tưởng cũng như các định nghĩa đã
trở thành quy điển đều khẳng định nghề thủ công là nơi gặp gỡ của nghệ thuật và kỹ
thuật. “Lao động thủ công nghiệp… bản thân nó, một nửa là nghệ thuật, một nửa là
mục đích tự thân”. (K.Marx). Hay như từ điển Bách Khoa, xuất bản năm 1971 của
nhà xuất bản Mac Milan Company : “Thủ công nghiệp vừa là một cách thức sản
xuất có tính chất công nghiệp, vừa là một dạng hoạt động có tính chất mỹ thuật”

1919


Nghề thủ công ở nước ta cũng như trên thế giới vẫn tiếp tục tồn tại và có chỗ

đứng của mình, vì con người ở mọi nơi, vào mọi thời đại, ngoài cái tiện lợi, vẫn còn
cần đến cái đẹp, ngoài những vật dụng mang tính kỹ thuật, máy móc, vẫn cần đến
những sản phẩm mang tính “nhân văn”, biểu lộ những trăn trở, suy tư của nghệ
nhân, những cái làm nên nét độc đáo của từng sản phẩm thủ công. Sản phẩm thủ
công ngày càng hấp dẫn người tiêu dùng, chủ yếu là do những biến đổi trong xã hội
những năm gần đây. Sự đồng cảm về các vấn đề môi trường đã dẫn tới nhu cầu tái
tạo thiên nhiên và lối sống “hòa mình với thiên nhiên”, đa dạng văn hóa. Người dân
yêu mến thiên nhiên và tìm kiếm sự nhẹ nhàng, sự gần gũi từ thiên nhiên, và sử
dụng những yếu tố đó để tạo ra một không khí đặc biệt trong không gian sống đô
thị. Chính những đặc điểm như sự ấm cúng của các sản phẩm TCMN, những kỹ
thuật phát triển ở môi trường địa phương và vẻ đẹp của nguyên liệu qua bàn tay của
những người thợ thủ công, các nghệ nhân đã biến thành các tác phẩm nghệ thuật
đang được xã hội hiện đại ưa chuộng.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nghề thủ công mỹ nghệ
Ngành nghề thủ công mỹ nghệ xuất hiện từ nhu cầu đòi hỏi cuộc sống của
con người, sự hưng thịnh của từng ngành nghề đều chịu sự ảnh hưởng của các nhân
tố tác động tới nó qua từng thời kỳ. Nhân tố ảnh hưởng thì có nhiều nhưng ở đây tôi
chỉ xem xét một số tác động có tính chủ yếu.
1.1.4.1. Sự biến động của thị trường
Sự thay đổi nhu cầu của thị trường tạo định hướng cho sự phát triển của các
làng nghề. Nhu cầu thị trường thì rất lớn, hết sức đa dạng và thường xuyên biến đổi.
Từ khi nước ta bắt đầu tiếp cận với nền văn minh phương Tây, nền công nghiệp cơ
khí bắt đầu phát triển ở Việt Nam, nhu cầu xã hội đã dần thay đổi. Những làng nghề
có khả năng thích ứng với sự thay đổi nhu cầu của thị trường đã có sự phát triển
nhanh chóng. Ngược lại có những ngành nghề, làng nghề bị giảm sút, mai một do
không bắt kịp sự thay đổi nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của thị trường, chúng bị các
sản phẩm công nghiệp hiện đại thay thế.
Bên cạnh thị trường đầu ra, thị trường yếu tố đầu vào có ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển của ngành này. Sau nhiều năm phát triển, nhu cầu nguyên liệu


2020


ngày càng tăng, các địa phương thay nhau khai thác bừa bãi, thiếu quy hoạch và đầu
tư dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn nguyên liệu gỗ, tre, trúc sào, giang, nứa, mây…
Nguyên liệu có chất lượng phục vụ cho sản xuất hàng thêu hầu như phải nhập khẩu
hoàn toàn khiến cho chi phí nguyên liệu chiếm từ 60-80% chi phí sản xuất.
1.1.4.2. Trình độ kỹ thuật và công nghệ
Yếu tố kỹ thuật và công nghệ đóng một vai trò rất quan trọng, với trình độ kỹ
thuật cao và công nghệ hiện đại thì sản phẩm được sản xuất ra sẽ có giá trị cao bên
cạnh đó năng suất và sản lượng được sản xuất ra lớn, điều này góp phần làm tăng
khả năng cạnh tranh của sản phẩm được sản xuất ra.
Ngành nghề thủ công mỹ nghệ nước ta đang từ truyền thống tiến lên hiện đại
và hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, nhiều nghề đã sử dụng khá phổ biến các loại
máy nhỏ trong sản xuất hàng ngày, đặc biệt là nghề mộc, hầu như đã sử dụng máy
trong sản xuất như máy khuấy sơn ta, máy se tơ, dệt lụa… Các nghề thủ công ngày
nay rất chú trọng đến các giải pháp kỹ thuật của công nghiệp để xử lý và chế biến
nguyên liệu như kỹ thuật thấm các-bon trong nghề mây, tre, lò sấy gỗ… Các chế
phẩm của công nghiệp cũng được dùng khá phổ biến, như các loại keo dán, chất
phủ bóng bề mặt, sơn màu, các loại nhựa… Tại các cơ sở sản xuất lớn, còn tiếp thu
cách tổ chức sản xuất của công nghiệp để phân chia quá trình sản xuất thành nhiều
công đoạn liên kết với nhau, bố trí lao động chuyên môn cao theo từng phần việc.
Do vậy, diện mạo của làng nghề TCMN ngày nay đã đổi mới mang sắc thái công
nghiệp hơn, chứ không thể thấy được một làng nghề đúng như truyền thống. Với
việc sử dụng hợp lý các kỹ thuật mới vào sản xuất, với sự sáng tạo mới của các
nghệ nhân, tính truyền thống vẫn được bảo tồn và phát triển; nếu không tự nó sẽ bị
mai một dần trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp.
1.1.4.3. Trình độ đào tạo, trình độ tay nghề của đội ngũ lao động làm nghề
Có thể nói rằng chất lượng của đội ngũ lao động hoạt động trong nghề có ảnh
hưởng rất lớn đến sự tồn vong của bản thân các ngành nghề. Ngày nay, trong quá

trình thực hiện CNH, ngành nghề nông thôn không đơn thuần chỉ sử dụng lao động
có kinh nghiệm, với những công cụ lao động thủ công truyền thống, mà còn có sự
đan xen giữa lao động thủ công truyền thống với lao động có trình độ chuyên môn

2121


cao, kết hợp giữa công nghệ cổ truyền và công nghệ hiện đại để sản xuất ra những
sản phẩm vừa mang tính dân tộc cao, lại có mẫu mã đẹp, hiện đại đáp ứng được nhu
cầu tiêu dùng đa dạng của thị trường. Việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo phương
thức truyền nghề trong các giai đình từ đời này sang đời khác và chỉ khuôn lại trong
từng làng. Hiện nay, việc phát triển mạnh kinh tế tư nhân hình thành các lớp dạy
nghề tập trung đã làm các bí quyết nghề nghiệp không còn được giữ bí mật như
trước kia nữa. Vậy nên, cần có sự đào tạo một cách bài bản và có tổ chức để trình
độ tay nghề của đội ngũ lao động được cải thiện để sản phẩm làm ra có khả năng
cạnh tranh với các sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh như trong giai đoạn cạnh
tranh hiện nay.
1.1.4.4. Chính sách và pháp luật nhà nước
Việc có những chính sách đúng đắn và một cơ chế thông thoáng để cho các
ngành nghề TCTT, TCMN phát triển luôn là một nhân tố quan trọng. Mặc dù các
làng nghề của Việt Nam đã được hình thành từ lâu đời thế nhưng khả năng phát
triển sản phẩm và hướng ra thị trường quốc tế còn rất hạn chế. Vậy nên, với một cơ
chế và chính sách hợp lý điều này sẽ tạo động lực để các nghề TTCN, TCMN tồn
tại và phát triển. Nói cách khác, chính sách và pháp luật của nhà nước luôn luôn tác
động trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và sự phát triển bền vững ở các
làng nghề. Thực tiễn chứng tỏ các nhân tố chủ quan như đường lối, chính sách, thiết
chế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ đều có liên quan đến phát triển ngành
nghề thủ công truyền thống. Thực chất của nhân tố thể chế, đường lối, chính sách là
nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, tận dụng những mặt tích cực,
giảm thiểu những mặt khuyết tật của cơ chế thị trường, nhằm nâng cao trình độ và

hiệu quả kinh tế-xã hội của sản xuất hàng hóa.
1.1.4.5. Kỹ thuật truyền thống và kinh nghiệm lâu đời
Các sản phẩm TCMN của Việt Nam được đặc trưng bởi hai khía cạnh quan
trọng là giá trị nguyên bản và giá trị truyền thống. Việc giữ được tính nguyên bản
có vai trò hết sức quan trọng để mở rộng thị trường, cạnh tranh với sản phẩm của
các nước châu Á khác. Công tác bảo tồn giá trị truyền thống sẽ góp phần nâng cao
bản sắc văn hóa Việt Nam, sử dụng các sản phẩm thủ công trong sinh hoạt hàng

2222


ngày đồng nghĩa với việc “bảo tồn truyền thống trong môi trường sống”. Yếu tố
truyền thống có vai trò ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của các làng nghề
TCMN. Đây là nhân tố quan trọng không chỉ chi phối các hoạt động sản xuất mà
chi phối cả tiêu dùng và đời sống của cư dân. Sự ổn định của các làng nghề là điều
kiện tạo ra tính truyền thống và truyền thống lại góp phần giúp cho làng nghề phát
triển truyền thống cao hơn. Yếu tố truyền thống hiện nay có tác dụng hai mặt, vừa
tích cực vừa tiêu cực đối với sự phát triển của các làng nghề. Vấn đề đặt ra là làm
sao ứng dụng được sự tiến bộ của khoa học - công nghệ hiện đại nhưng vẫn giữ
được những yếu tố truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc và những sản phẩm của
làng nghề truyền thống phải được tiếp nhận trong thị trường của xã hội hiện nay.
1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển nghề thủ công mỹ nghệ
1.2.1. Tình hình phát triển nghề thủ công mỹ nghệ một số nuớc trên thế
giới và ở Việt Nam
1.2.1.1. Các nước trên thế giới
* In-đô-nê-xi-a:
In-đô-nê-xi-a là nước có diện tích tương đối lớn, đông dân nhất Đông Nam
Á. Vấn đề CNH nông thôn chưa được In-đô-nê-xi-a đặt ra một cách mạnh mẽ như
Trung Quốc và các nước Đông-Bắc Á, nhưng chính phủ cũng có chú trọng đến các
hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp ở nông thôn. Chính phủ In-đô-nê-xi-a đã đề ra

chương trình phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn trong các kế
hoạch 5 năm, tổ chức ra trung tâm trợ giúp công nghiệp nhỏ, đặt mối quan hệ với
công nghiệp lớn, có chương trình nghiên cứu tiềm năng sản xuất, nhu cầu thị
trường, làm cơ sở cho việc phát triển công nghiệp nhỏ. Chính phủ đã đề ra những
chính sách khác nhau trong đó chú ý đến chính sách khuyến khích về thuế và ưu
tiên công nghiệp nhỏ chế biến nông sản xuất khẩu. Cùng với việc đề ra chính sách,
chính phủ đã tổ chức ra Hội đồng thủ công nghiệp quốc gia In-đô-nê-xi-a nhằm
thúc đẩy các ngành tiểu thủ công nghiệp phát triển như tổ chức thi thiết kế mẫu mã,
tổ chức hôi chợ triển lãm các sản phẩm tiêu thủ công nghiệp và Trung tâm phát
triển tiểu thủ công nghiệp để quản lý, hỗ trợ tiểu thủ công nghiệp. Những nổ lực của
In-đô-nê-xi-a trong lĩnh vực công nghiệp hóa nông thôn đã đem lại một số hiệu quả

2323


nhất định. Ở đảo Java, số liệu điều tra ở 10 làng có nghề thủ công cho thấy 44% lao
động nông thôn có tham gia ít hoặc nhiều vào các hoạt động kinh tế ngoài nông
nghiệp (19% làm ở các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và 16% làm ở các cơ sở
dịch vụ nông thôn). Thu nhập của nông dân ở đây từ các nguồn ngoài nông nghiệp
trong mấy năm gần đây tăng từ 12% lên 23% tổng thu nhập. In-đô-nê-xi-a là nhà
cung cấp sản phẩm mây lớn nhất thế giới. Các sản phẩm làm bằng mây không thể
được chế tạo bằng máy móc nên phải làm bằng tay, khá phức tạp, nhưng lại là sản
phẩm thời trang cao cấp đối với người tiêu dùng. Ngoài việc có nguồn nguyên liệu
dồi dào, nhiều yếu tố khác đã tạo nên sự thành công của thị trường đồ gia dụng
bằng mây trên thị trường. Chính quyền In-đô-nê-xi-a và JETRO khuyến khích các
nhà chế biến In-đô-nê-xi-a tham gia các cuộc triển lãm thương mại ở Nhật. Nhật
Bản nhập độ 10% về số lượng hàng năm của In-đô-nê-xi-a.
* Thái Lan:
Thái Lan là nước có diện tích canh tác bình quân đầu người và diện tích bình
quân của một hộ nông dân cao nhất trong các nước Đông Nam Á. Đến những năm

1960 Thái Lan vẫn là một nước lạc hậu, với hơn 90% là nông dân, yếu kém cả về
nông nghiệp và công nghiệp. Thời gian đầu Thái Lan tập trung vào phát triển công
nghiệp đô thị, dựa vào vốn và công nghệ nước ngoài, nhưng kinh tế không những
không thành công mà còn lâm vào tình trạng trì trệ. Sau đó Thái Lan kịp thời
chuyển hướng CNH, đa dạng hóa nền kinh tế hướng vào xuất khẩu, phát huy lợi thế
đất và nguồn lao động, lấy nông nghiệp làm điểm tựa, đẩy mạnh sản xuất, chế biến
và xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, nông, lâm, thủy sản đồng thời xây dựng và
phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, có trọng điểm để sản xuất và xuất khẩu
các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao. Các ngành nghề truyền thống như chế tác
vàng bạc, đá quý và đồ trang sức, được duy trì và phát triển tạo ra nhiều sản phẩm
hàng hóa xuất khẩu đứng vào loại thứ hai trên thế giới, do kết hợp được tay nghề
của các nghệ nhân lành nghề với công nghệ, kỹ thuật, thiết bị hiện đại. Nghề gốm
sứ cổ truyền ở Thái Lan trước đây chỉ sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong nước. Gần
đây ngành này đã phát triển theo hướng CNH - HĐH và trở thành mặt hàng xuất
khẩu thu ngoại tệ lớn thứ hai sau gạo. Chiềng Mai là trung tâm sản xuất đồ gốm lớn

2424


nhất Thái Lan, đang được phát triển, đi vào sản xuất với khối lượng lớn và đang
được tích cực xúc tiến chương trình nâng cao tay nghề cho công nhân của các xí
nghiệp gốm. Cho đến nay, 95% hàng gốm xuất khẩu của Thái Lan là đồ trang trí nội
thất và đồ lưu niệm.
Thông qua sự giúp đỡ của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO),
Chính phủ Thái Lan đã triển khai dự án “Mỗi làng mỗi sản phẩm” tại các địa
phương trong cả nước. JETRO đã giới thiệu các sản phẩm địa phương của Thái Lan
tại thị trường Nhật Bản, các chuyên gia của Nhật Bản đã giúp đỡ Thái Lan trong
nghiên cứu và phát triển sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người Nhật. Hiện nay,
Thái Lan có hơn 10.000 sản phẩm được sản xuất và phát triển theo dự án trên, trong
đó có khoảng 460 sản phẩm bước đầu được bình chọn là các sản phẩm tiêu biểu với

chất lượng tốt. Ủy ban quốc gia Thái Lan đã xây dựng kế hoạch thực hiện Dự án
“Mỗi làng mỗi sản phẩm” để bình chọn các sản phẩm tiêu biểu, đẩy mạnh bán hàng
và xây dựng mẫu sản phẩm cho tương lai. Với quyết tâm thực hiện dự án, Ủy ban
quốc gia đã đề ra nguyên tắc chỉ đạo việc bình chọn sản phẩm “Tiêu biểu”, sản
phẩm nổi bật nhất của mỗi tỉnh của Thái Lan trên phạm vi quốc gia. Các sản phẩm
được bình chọn dựa trên các tiêu chí : sản phẩm có nhãn mác lâu đời, có tiềm năng
xuất khẩu, sản xuất ổn định với chất lượng cao, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng,
sản phẩm truyền thống.
* Nhật Bản:
Nghề thủ công truyền thống của Nhật Bản có truyền thống lâu đời. Từ thời
cổ đại, nghề gốm, điêu khắc ở Nhật Bản đã ra đời và phát triển. Các giai đoạn lịch
sử tiếp theo nhiều ngành nghề TCTT xuất hiện và có những bước phát triển đáng kể
như : nghề rèn đúc kim loại, nghề gốm, nghề sơn mài… Về nghề dệt, đến thế kỷ thứ
VIII, nghệ thuật dệt đã đạt tới đỉnh cao với nhiều sản phẩm đa dạng và tuyệt mỹ.
Thời đại Edo (1615-1866) được gọi là kỳ nguyên vàng của nghề TCTT với các loại
hàng hóa sản xuất trên khắp đất nước Nhật Bản. Ba nghề thủ công phát triển rực rỡ
nhất là nghề gốm sứ, nghề sơn và nghề dệt. Giai đoạn 1868-1926, dưới ảnh hưởng
của công cuộc Minh Trị duy tân, trên đất nước Nhật Bản đã diễn ra một sự thay đổi
mãnh liệt do tiếp xúc với nền văn minh phương Tây. Vị trí các ngành nghề TCTT

2525


×