Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.27 KB, 102 trang )

LỜI MỞ ĐẦU.
Đất nước ta đang tiếp tục trên con đường phát triển và đổi mới,
những thành tựu kinh tế bước đầu đã đạt được trong hơn mười năm
thực hiện đường lối đổi mới do đảng và nhà nước khởi xướng và
lãnh đạo đã đưa Việt Nam ngày càng có vị trí cao trên trường quốc
tế . Tuy vậy ngày nay khi thuận lợi của giai đoạn đầu công cuộc
đổi mới đã qua thì đất nước đứng trước vận hội mới với những thời
cơ và thách thức mới. Để phát triển đòi hỏi nền kinh tế của Việt
nam phải luôn có những đổi mới để phát hiện ra những hướng đi
mới , đúng đắn , phù hợp với xu thế của thời đại, đồng thời thích
ứng với điều kiện và nguồn lực của đất nước trước xu hướng khu
vực hoá, quốc tế hoá đang nổi lên như một quy luật tất yếu. Việc
xây dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao để tạo ra nhiều lợi
thế hơn trong quá trình hội nhập là vấn đề hết sức quan trọng mà
biểu hiện cụ thể của nó bằng chính sức cạnh tranh cao cuả hàng
hoá và dịch vụ. Muốn vậy, cần phải phát huy nội lực, tức là khai
thác triệt để thế mạnh vốn có là yếu tố cơ bản để tận dụng tốt các
điều kiện bên ngoài và nâng cao sức cạnh tranh cuả nền kinh tế.
Cùng với các địa phương khác trong cả nước, tỉnh Bắc Giang
cũng đang trăn trở để tìm ra hướng đi cho mình dựa vào các lợi thế
của tỉnh, mà đầu tiên là tìm ra hướng chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế cho riêng mình . Là một tỉnh vừa mới được tái lập trong đó
có một số nguồn lực tự nhiên xã hội có sự thay đổi do đó cần phải
điều chỉnh lại hướng đi cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng cao và phát triển bền vững thì Bắc
Giang cần xây dựng một định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế hợp lý trong tương lai, vì đây là nền móng để hoạch định


các kế hoạch trung hạn và dài hạn. Đây cũng là công việc hết sức
phức tạp và khó khăn, đòi hỏi sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế


của Bắc Giang phải dựa vào định hướng chung của cả nước và phải
phù hợp với nguồn lực thực tế của Bắc Giang, trên cơ sở đó mà
đưa ra các quan điểm phát triển, các giải pháp thích ứng với tình
hình cụ thể của địa phương. Đây chính là cứ cho việc lựa chọn cơ
cấu ngành hợp lý mà nhân tố chính là dựa vào lợi thế so sánh của
Bắc Giang.
Trước những yêu cầu bức thiết đặt ra đối với vấn đề chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Giang , trong thời gian thực tập tại
Sở Kế Hoạch & Đầu tư Bắc Giang, được sự chỉ bảo giúp đỡ tận
tình của tập thể cán bộ Sở cùng sự chỉ đạo hướng dẫn kịp thời của
thầy giáo-TS Ngô Thắng Lợi em đã chọn đề tài :
“ Phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Giang giai
đoạn 2001-2005 ".
Cơ cấu bài viết gồm ba phần :
Phần I : Một số vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế
Phần II: Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế ở Bắc

Giang giai đoạn 1997-2000.

Phần III : Phương hướng và các giải pháp cơ bản nhắm
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Giang
đến năm 2005.


PHẦN I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
NGÀNH KINH TẾ.

I . LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ.
1. Khái niệm và các loại cơ cấu kinh tế.
1.1. Khái niệm và đặc trưng của cơ cấu kinh tế.
Khái niệm cơ cấu là một phạm trù triết học được dùng để biểu
thị cấu trúc bên trong , tỷ lệ , và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp
thành của một hệ thống . Cơ cấu dược hiểu như là một tập hợp
những mối quan hệ liên kết hữu cơ các yếu tố khác nhau của một hệ
thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của một hệ thống .Các nhà


khoa học đều cho rằng khi nghiên cứu vấn đề cơ cấu phải đứng trên
quan điểm hệ thống.
Khái niệm : Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành
cuả nền kinh tế cùng các mối quan hệ chủ yếu về định tính và định
lượng, ổn định và phát triển giữa các bộ phận ấy với nhau hay của
toàn bộ hệ thống trong những điều kiện của một nền sản xuất xã hội
, trong những hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định và trong một
khoảng thời gian nhất định. Cơ cấu kinh tế không chỉ thể hiện ở
mối quan hệ tỷ lệ mà quan trọng hơn là mối quan hệ tác động quan
hệ qua lại về nội dung bên trong của hệ thống kinh tế.
Các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế trước hết là các yếu tố của
qúa trình tái sản xuất bao gồm cả bốn khâu: sản xuất – phân phối –
lưu thông – tiêu dùng; các yếu tố của lực lượng sản xuất trong mối
quan hệ tác động của sản xuất , gắn liền với điều kiện không gian
và thời gian nhất định. Các mối quan hệ ấy bao gồm cả những quan
hệ về số lượng và chất lượng. Như vậy cơ cấu không chỉ là biểu
hiện số lượng và tỷ lệ hợp thành hệ thống mà điều chính yếulà mối
quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận hợp thành ấy . Quan niệm này đi
sâu vào bản chất của phạm trù cơ cấu. Sự phụ thuộc lẫn nhau và

làm điều kiện cho nhau giữa các bộ phận của một hệ thống kinh tế
có thể diễn ra trực tiếp trong lĩnh sản xuất và cũng có thể diễn ra
một cách gián tiếp qua những kênh lưu thông phức tạp. Nhưng các
yếu tố kinh tế bao giờ cũng ở trong mối quan hệ nhân quả tác động
lẫn nhau không ngừng.
Cơ cấu kinh tế có các đặc trưng chủ yếu sau:


-Cơ cấu kinh tế hình thành một cách khách quan do trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội .
Một cơ cấu kinh tế mới trong từng thời kỳ của từng nghành, địa
phương và của cả nước bao giờ cũng đứng trước một cơ cấu kinh tế
của thời kỳ trước để lại. Lênin từng nói: “ Trước một sự vật hiện
tượng nào đó , bao giờ ta cũng tìm thấy vết tích của quá khứ , cơ sở
của hiện tại và mầm mống của tương lai “. Sự khác nhau về điều
kiện tự nhiên , về hoàn cảnh lịch sử cụ thể về sự hoạt động của các
quy luật kinh tế đặc thù của các phương thức sản xuất sẽ quyết định
tính khác biệt về cơ cấu của mỗi vùng, mỗi nước. Vì vậy cơ cấu
kinh tế phản ánh tính quy luật chung của quá trình phát triển, nhưng
sự biểu hiện cụ thể phải thích ứng với đặc thù cua mỗi nước, mỗi
vùng về tự nhiên, kinh tế lịch sử. Không có một cơ cấu chung cho
mọi phương thức sản xuất, mọi vùng kinh tế hoặc đại diện chung
cho nhiều nước khác nhau. Mỗi quốc gia mỗi vùng có thể và cần
thiết phải lựa chọn một cơ cấu kinh tế phù hợp với mỗi giai đoạn
lịch sử phát triển.
- Cơ cấu kinh tế luôn luôn biến đổi theo hướng ngày càng hoàn
thiện, sự biến đổi đó gắn liền với sự biến đổi và phát triển không
ngừng của tiến bộ khoa học kỹ thuật , của cách mạng thông tin, tin
học cũng như bản thân các yếu tố , các khâu của nền kinh tế và mối
quan hệ giữa chúng. Cơ cấu kinh tế luôn luôn vận động , phát triển

và chuyển hoá cho nhau. Cơ cấu cũ chuyển dịch dần dần và hình
thành cơ cấu mới hoàn thiện hơn cơ cấu cũ . Cơ cấu mới ra đời thay
thế cơ cấu cũ , và rồi cùng thời gian các yếu tố hợp thành cơcấu
mới vận động và phát triển không ngừng ,làm cho cơ cấu mới này
không còn phù hợp nữa và cần được thay thế bằng một cơ cấu khác


ở trình độ cao hơn , hoàn thiện hơn. Sự vận động biến đổi đó là do
tác động của các quy luật kinh tế- xã hội, do yêu cầu phát triển của
văn minh nhân loại.
- Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế là một quá trình , không phải
cơ cấu kinh tế mới được hình thành ngay và lập tức thay thế cơ cấu
cũ . Qúa trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế phải là một quá trình tích
luỹ về lượng , thay đổi về lượng đến một mức độ nhất định mới dẫn
đến sự thay đổi về chất. Trong quá trình đó cơ cấu cũ thay đổi dần
dần để chuyển thành cơ cấu mới. Qúa trình này diễn ra nhanh hay
chậm tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có sự tác động trực tiếp
rất quan trọng của các chủ thể lãnh đạo và quản lý. Sự nóng vội ,
bảo thủ , trì trệ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều có hại cho
sự phát triển của nền kinh tế . Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất
thiết phải là một quá trình nhưng không phải là một quá trình tự
phát và với các bước tuần tự, mà ngược lại, con người bằng các
nhận thức vượt trước và sự am hiểu thực tế sâu sắc hoàn toàn có thể
tạo ra các tiền đề , tác động cho quá trình đó diễn ra nhanh hơn,
theo đúng hướng. Một vấn đề quan trọng là khởi xướng quá trình
bắt đầu từ đâu, dùng những biện pháp nào để mở đầu, để gây được
tác động lan truyền trong tổng thể nền kinh tế. Lênin viết : ” Trong
mỗi giai đoạn đặc biệt cần tìm ra các mắt xích đặc biệt mà người
ta phải đem toàn lức ra để giữ vững được toàn bộ các mắt xích và
chuẩn bị chuyển sang các mắt xích kế bên .”

Xét trên góc độ tác động đến quá trình phát triển, cơ cấu kinh
tế có vai trò cụ thể sau:


-Tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã được
vạch ra trong chiến lược phát triển của đất nước , của địa phương,
của ngành.
- Khai thác đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả nhất các nguồn lực
phát triển, phát huy lợi thế so sánh, cho phép tạo ra các cực tăng
trưởng nhanh.
- Tạo điều kiện mở đường , thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển , thúc đẩy phân công lao động phát triển giữa các ngành , vùng
lãnh thổ và thành phần kinh tế.
-Tạo điều kiện cho nền kinh tế nhanh chóng hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới.
1.2

Các loại cơ cấu kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.
Khi nói đến phạm trù cơ cấu kinh tế ở mức chung , chưa cho

phép ta thấy rõ hình thù của nó, mới chỉ là nhận thức về chúng một
cách trừu tượng. Muốn biết rõ nội dung cụ thể phải xem xét trong
từng loại cụ thể của nền kinh tế quốc dân.
Nội dung cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều lĩnh vực ( sản xuất phân phối- lưu thông - tiêu dùng); các ngành kinh tế quốc
dân( công nghiệp. nông nghiệp, GTVT, y tế ...); các thành phần
kinh tế xã hội (quốc doanh, tập thể, cá thể, tư nhân) và các vùng
kinh tế... Vì vậy cơ cấu kinh tế cần được xem xét ở dạng “động“ và
có thể được chia thành các loại sau:
* Cơ cấu ngành (xét sự phân công lao động theo ngành).
* Cơ cấu lãnh thổ ( xét sự phân công lao động theo lãnh thổ).



* Cơ cấu kinh tế kỹ thuật ( xét về trình độ kỹ thuật ).
* Cơ cấu thành phần kinh tế ( xét về quan hệ sở hữu).
* Cơ cấu kinh tế đối ngoại ( xét sự mở cửa của nền kinh tế đối
với thế giới).
v.v...
Trong đó ba loại cơ cấu : cơ cấu ngành , cơ cấu vùng lãnh thổ và
cơ cấu thành phần kinh tế là những nội dung quan trọng nhất, phản
ánh tập trung nhất trình độ phát triển của phân công lao động xã
hội. Ở đây chuyên đề chỉ đi sâu vào cơ cấu ngành kinh tế.

2. Các vấn đề về cơ cấu ngành kinh tế.
2.1. KháI niệm .
Khái niệm: Cơ cấu ngành kinh tế là số lượng các ngành kinh tế
được hình thành và mối quan hệ của các ngành đó với nhau, được
thể hiện bằng vị trí và tỷ trọng của các ngành trong tổng thể nền
kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quyết định trong
cơ cấư kinh tế vì nó được phát triển theo mối quan hệ cung cầu trên
thị trường, theo tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế, nó đảm bảo
sản xuất theo yêu cầu thị trường.
Số lượng các ngành được hình thành, ở đây ta có thể hiểu đó là
trong tổng thể nền kinh tế quốc dân có bao nhiêu ngành được hình
thành, tỷ trọng của các ngành đó trong tổng giá trị sản xuất hay
trong GDP của nền kinh tế là bao nhiêu. Mối quan hệ giữa các


ngành trong nền kinh tế có thể được biểu hiện bằng: * Vị trí của
mỗi ngành trong nền kinh tế, tức là ngành nào là ngành giữ vị trí
hàng đầu, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng GDP của nền kinh tế,

thứ tự của các ngành như thế nào.
* Mối quan hệ tác động qua lại, ngược xuôi, trao đổi và
sử dụng đầu ra của nhau giữa các ngành trong nền kinh tế .
Ngành là tổng thể các đơn vị kinh tế cùng thực hiện một chức
năng trong hệ thống phân công lao đông xã hội. Cơ cấu ngành biểu
hiện quan hệ giữa các ngành. Nó phản ánh trình độ phân công lao
động chung của nền kinh tế quốc dân và qua đó phản ánh trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất của đất nước. Thay đổi mạnh mẽ
cơ cấu ngành là đặc trưng của các nước đang phát triển.
2.2. Cơ cấu ngành kinh tế là một cơ cấu " động".
Cơ cấu ngành kinh tế là một dạng cơ cấu phản ánh cụ thể sự
phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Mà phân công lao động xã hội và lực lượng sản
xuất luôn luôn thay đổi, vận động và phát triển. Bởi vậy, cơ cấu
ngành kinh tế là một cơ cấu động, nó luôn luôn vận động và phát
triển , nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Do đó , khi
phân tích cơ cấu ngành kinh tế ta cần thấy rõ quy luật của sự vận
động và luôn đặt ra phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành cho
thích hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn.
Như vậy, ở đây, vai trò của Chính phủ có thể có là:


- Chủ động nắm bắt các quy luật, các dấu hiệu của sự vận động
phân công lao động xã hội, sự phát triển của khoa học công nghệ....
để từ đó:
- Hướng sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo một nội
dung hợp lý. Cụ thể là phải chuyển dịch cơ cấu ngành một cách
đúng hướng, theo đúng quy luật; đề ra các biện pháp ,các chính
sách đồng bộ để có thể kích sự chuyển dịch đó một cách nhanh
nhất.

2.3. Phân loại cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế có thể được phân loại theo tính chất tác
động vào đối tượng lao động và bao gồm:
- Khối các ngành khai thác: nông nghiệp và các ngành
công nghiệp khai thác.
- Khối các ngành chế biến.
- Khối các ngành dịch vụ.
Tuy nhiên khi phân tích cơ cấu ngành kinh tế người ta
thường phân loại dựa vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của nó, bao
gồm:
- Khu vực nông nghiệp: bao gồm các ngành nông lâm ngư
nghiệp.
- Khu vực công nghiệp : bao gồm các ngành công nghiệp
khai khoáng, công nghiệp chế biến, công nghiệp điện , khí đốt,
nước.


- Khu vực dịch vụ: bao gồm các ngành thương nghiệp, dịch
vụ vận tải, bảo hiểm , ngân hàng , tài chính, quản lý nhà nước, du
lịch.
Nông nghiệp và công nghiệp là hai ngành sản xuất cơ bản của
xã hội. Nền văn minh sản xuất nói riêng và nền văn minh nhân loại
nói chung tuỳ thuộc rất lớn vào mối quan hệ giữa nông nghiệp và
công nghiệp. Từ khi xuất hiện loài người và hình thành xã hội thì
nông nghiệp là ngành xuất hiện đầu tiên, sau đó có sự tiến bộ trong
phân công lao động xã hội thì mới có sự hình thành ngành công
nghiệp. Bản thân ngành nông nghiệp không thể tự cải tạo được
mình nếu như không có sự tác động của ngành công nghiệp. Tuy
nhiên ngành nông nghiệp bằng việc xuát khẩu các sản phẩm nó đã
tạo ra nguồn tích luỹ đầu tiên ban đầu để từ đó có thể nhập khẩu

máy móc , thiết bị, hay phát triển nền móng ban đầu của ngành
công nghiệp, đồng thời ngành này cũng cung cấp lao động và
nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp. Đến lượt mình
ngành công nghiệp với sự ra đời của nhiều loại máy móc thiêt bị,
ứng dụng nhiều tién bộ khoa học kỹ thuật đã đưa máy móc vào sản
xuất, làm cải biến sâu sắc , làm đa dạng và phong phú cơ cấu sản
xuất nông nghiệp. Liên kết công - nông nghiệp là xu thế tất yếu của
sự phát triển, là đòi hỏi khách quan của tiến trình phân công hợp tác
lao động, là kết quả đương nhiên cuả cách mạng khoa học kỹ thuật
và công nghệ. Nhờ có sự liên kết đó mà đem lại hiệu quả sản xuất
cho ngành nông nghiệp. Nhờ đó mà ngành nông nghiệp nhanh
chóng xây dựng cho mình một cơ sở vật chất hiện đại, có đủ khả
năng chống đỡ với thiên nhiên, có điều kiện áp dụng rộng rãi các


thành tựu khoa học để nâng cao năng suất lao động , tăng cường
khả năng bảo quản và chế biến.
Nói đến quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp , theo tư duy
biện chứng cũng đồng thời khẳng định vai trò cuả các ngành dịch
vụ bao gồm thương nghiệp, vận tải tài chính, ngân hàng... bởi vì
quan hệ giữa ngành công nghiệp và ngành nông nghiệp có thể biểu
hiện ra trong hoạt động sản xuất hoặc thông qua hoạt động lưu
thông trên thị trường. Điều đó cũng có nghĩa là tính chất xã hội của
lao động công nghiệp và lao động nông nghiệp có thể biểu hiện một
cách trực tiếp hay gián tiếp. Theo khía cạnh này thì nếu không có
một hệ thống thương nghiệp và giao thông vận tải phát triển thì
không thể có sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp. Công
nghiệp và nông nghiệp không thể tách rời mà phải gắn liền với
thương nghiệp và giao thông vân tải, thương nghiệp và giao thông
vận tải là cầu nối giữa các ngành sản xuất, và giữa sản xuất với tiêu

dùng thông qua trao đổi trên thị trường. Sản xuất hàng hoá phải gắn
liền với thị trường. Không thể có sản xuất hàng hoá mà không có
thị trường.
Nước ta về cơ bản còn đang là một nước nông nghiệp. Sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo chiều hướng phát triển mang
tính quy luật chung là theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá,
nghĩa là tỷ trọng cũng như vai trò của ngành công nghiệp và dịch
vụ có xu hướng ngày càng tăng, còn tỷ trọng cũng như vai trò của
ngành nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm. Kinh nghiệm ở
một số nước cho thấy, muốn chuyển từ một nền kinh tế nông
nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp đều phải trải qua các
bước: chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp ( tỷ trọng nghành nông


nghiệp chiếm từ 40-60%, ngành công nghiệp chiếm từ 10-20%,
dịch vụ 20-30% ) sang nền kinh tế công nông nghiệp (tỷ trọng nông
nghiệp 15-20%, công nghiệp 25-35% ), để từ đó chuyển sang nền
kinh tế có công nông nghiệp phát triển (tỷ trọng nông nghiệp 1520%,công nghiệp 35-40%, dịch vụ 50-60%).
3. Chuyển dịch cơ cấu ngành và xu thế chuyển dịch cơ cấu
ngành.
3.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Do sức ép của nhu cầu thị trường và yêu cầu phát triển kinh tế
đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu ngành, còn gọi là chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế.
Khái niệm: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự thay đổi
một cách có mục tiêu số lượng ngành kinh tế quốc dân và mối quan
hệ của các ngành đó với nhau trên cơ sở phân tích đấy đủ căn cứ lý
luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần
thiết để chuyển dịch cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái
khác hợp lý hơn và có hiệu quả hơn.

Chuyển dịch cơ cấu ngành được coi là một nội dung cơ bản lâu
dài trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu xác định
phương hướng và các giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu
quả kinh tế xã hội cao trong sự phát triển. Ngược lại sẽ phải trả giá
đắt cho sự phát triển về sau.
Trong thời đại ngày nay, trước sự thay đổi nhanh chóng của
nhu cầu thị trường và tiến bộ khoa học công nghệ, ở tất cả các nước
đều đặt ra vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành. Riêng ở các nước đang


phát triển , chuyển dịch cơ cấu ngành luôn gắn liền với công nghiệp
hoá , hiện đại hoá đất nước. Yêu cầu đặt ra là phải định vị được một
cơ cấu ngành kinh tế , xác định hợp lý các ngành, vùng trọng điểm,
mũi nhọn cho phù hợp với mỗi giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại
hoá.
Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế thành công hay thất
bại phụ thuộc rất nhiều vào khâu quyết định chủ trương chuyển
dịch và khâu tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định.
ở đây Nhà nước có vai trò quyết định trong việc hoạch định các chủ
trương và chính sách kinh tế vĩ mô, còn các doanh nghiệp lại có vai
trò quyết định trong việc thực hiện các phương hướng và nhiệm vụ
chuyển dịch.
3.2.Xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế .
Trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và phân
công lao động xã hội, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa
học công nghệ, cơ cấu ngành kinh tế không ngừng biến đổi và ngày
càng trở nên phức tạp hơn. ở mỗi giai đoạn phát triển , cường độ và
phạm vi thay đổi cơ cấu mang những nét đặc điểm riêng biệt. Thực
tiễn cho thấy sự phát triển của các nước đều phải trải qua hai thời
kỳ có tính xu hướng nổi bật trong sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế

như sau:
Thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế mà
nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hoá nền kinh tế, nét đặc trưng là
cơ cấu kinh tế có sự thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt là vị trí của hai
ngành công nghiệp và ngành nông nghiệp có những biến đổi cơ
bản. Một cơ cấu nền tảng trong đó công nghiệp từ chỗ còn yếu ớt


trải qua những bước phát triển mới trở nên chiếm vai trò chủ đạo và
ngành nông nghiệp từ chỗ chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối trong
sản xuất ra tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, sẽ chỉ còn
chiếm một vị trí khiêm tốn hơn nhiều. Sự chuyển dịch được hình
thành từng bước trong quá trình huy động và phân bố lại các yếu tố
sản xuất, giữa các lĩnh vực kinh tế, trước hết là hai ngành sản xuất
vật chất là ngành công nghiệp và ngành nông nghiệp, kèm theo đó
là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng sản xuất( các ngành dịch vụ)
phục vụ hai ngành đó. Trong nội bộ ngành công nghiệp , tỷ trọng
ngành công nghiệp chế biến tăng lên, cơ cấu sản xuất thay đổi theo
hướng chuyển từ sản xuất các sản phẩm chứa hàm lượng lao động
cao sang sản xuất các sản phẩm chứa hàm lượng cao về vốn và
khoa học công nghệ. Trong nội bộ ngành nông nghiệp và kinh tế
nông thôn, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ nông thôn
trong giá trị sản lượng tăng lên và tỷ trọng của ngành nông nghiệp
thuần tuý giảm xuống. Trong nội bộ ngành nông nghiệp thuần tuý
thì tỷ trọng của giá trị sản lượng ngành chăn nuôi sẽ tăng lên và giá
trị sản lượng của ngành trồng trọt sẽ giảm xuống tương ứng.
Trong thời kỳ tiếp theo là thời kỳ chuyển sang phát triển theo
chiều sâu, cơ cấu kinh tế trở nên ổn dịnh hơn vì khả năng phân phối
lại các yếu tố sản xuất giữa các ngành kinh tế quốc dân không còn
lớn như trước nữa hoặc hầu như đã cạn. Hiệu quả kinh tế thu được

do sự thay đổi kinh tế trong đó thay đổi kinh tế chiếm tỷ trọng lớn
không còn như giai đoạn đầu nữa. Lúc này trong tổng số lao động
xã hội, tỷ trọng cuả lao động công nghiệp tăng chậm lại hay giao
động tại chỗ, tỷ trọng lao động của ngành nông nghiệp giảm đi
nhưng với tốc độ chậm hơn trước rất nhiều, trong lúc đó tỷ trọng


lao động của các ngành phi sản xuất vật chất( dịch vụ ) tăng lên,
phản ánh một giai đoạn mới trong phân công lao động xã hội.
Xu hướng có tính quy luật trên đã được hai nhà kinh tế học
là E.Engel và A.Fisher làm rõ trong các tác phẩm của mình.
E.Engel đã phân tích sự biến động của cơ cấu kinh tế xét ở
khía cạnh cầu và dựa vào DI : theo ông khi DI tăng lên thì %DI
dành cho tiêu dùng các hàng hoá thiết yếu và thứ cấp giảm đi và
thường các sản phẩm này là của các ngành nông lâm ngư nghiệp và
khai thác tài nguyên, %DI dành cho tiêu dùng các hàng hoá cao cấp
tăng lên, đây là sản phẩm của các ngành công nghiệp chế biến và
dịch vụ. Từ đó ông cho rằng xu thế trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế là tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm xuống và
tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên.
Còn A.Fisher lại phân tích sự biến động của cơ cấu ngành kinh
tế ở khía cạnh cung theo xu thế phát triển của lực lượng sản xuất.
Ông cho rằng lao động trong ngành nông nghiệp là lao động dễ
thay thế, do đó có xu hướng giảm lao động trong ngành nông
nghiệp , lao động trong ngành công nghiệp cũng dễ thay thế nhưng
do nhu cầu của xã hội đối với các sản phẩm của ngành công nghiệp
lại tăng lên, do đó lao động trong ngành công nghiệp tăng lên, đối
với các ngành dịch vụ xã hội thì lao động trong ngành này là khó
thay thế, công với nhu cầu của xã hội về dịch vụ ngày càng tăng,
cho nên lao động trong ngành dịch vụ có tốc dộ tăng nhanh nhất.

Từ đó ông cho rằng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì
xu hướng là: tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng lao


động công nghiệp có xu hướng tăng lên và tỷ trọng lao động của
ngành dịch vụ có xu hướng tăng nhanh nhất.
4. Các chỉ tiêu đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế .
Việc đánh giá một cơ cấu ngành có hợp lý hay không thông
qua các biểu hiện trên là rất khó. Do đó để thuận tiện hơn cho quá
trình phân tích và đánh giá cơ cấu ngành , người ta thường dùng
một số chỉ tiêu đã được lượng hoá sau :
4.1. Các chỉ tiêu phản ánh tỷ trọng từng ngành so với tổng thể nền
kinh tế.
* Chỉ tiêu cơ cấu giá trị sản lượng:
Ti = ( SLi% /ΣSLI )*100%
Trong đó :
Ti : tỷ trọng giá trị sản lượng của ngành i trong toàn ngành kinh
tế của tỉnh.
SLi : giá trị sản lượng ngành i.
ΣSLi : tổng giá trị sản lượng của toàn ngành kinh tế tỉnh.
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế theo sản lượng đầu ra.
* Chỉ tiêu cơ cấu lao động:
TLĐi = ( LĐI/ΣLĐI )*100%
Trong đó:


TLĐi: : tỷ trọng lao động của ngành i trong trong toàn ngành kinh
tế của tỉnh.
LĐi : số lao động của ngành i.

ΣLĐI : Tổng số lao động trong toàn ngành kinh tế tỉnh.
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu theo lao
động.
* Chỉ tiêu cơ cấu tổng sản phẩm cuối cùng:
Tvi = (Vi / ΣVi )*100%.
Tvi : tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành i.
Vi : vốn đầu tư vào ngành i.
ΣVi: tổng vốn đầu tư vào toàn ngành kinh tế tỉnh.
Chỉ tiêu này cho biết vốn đầu tư vào mỗi ngành chiếm bao nhiêu %
trong tổng số vốn đầu tư vào toàn ngành kinh tế tỉnh.
4.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự tác động qua lại giữa các ngành kinh
tế.
Mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành kinh tế được phản
ánh thông qua một trong hai chỉ tiêu sau:
* Các hệ số xi j trong bảng cân đối liên ngành của hệ MPS.
Hệ số xi j cho biết số lượng sản phẩm của ngành i được sử dụng
với tư cách là chi phí thường xuyên của ngành j ( trong phân tích
sản phẩm ở góc độ sản xuất) hoặc số lượng sản phẩm của ngành i


được ngành j thu mua (trong phân tích sản phẩm ở góc độ tiêu
dùng).
* Các chỉ tiêu IE/GO trong bảng input/output của hệ SNA. Các chỉ
tiêu này cho biết tỷ lệ chi phí trung gian trong tổng giá trị sản xuất
của từng ngành trong nền kinh tế tỉnh. Hay nói cách khác các chỉ
tiêu này cho thấy tổng giá trị sản lượng đầu vào của một ngành
chiếm bao nhiêu % trong tổng giá trị sản lượng đầu ra của ngành
đó.
Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu ngành kinh tế ở trên chỉ mang
tính thời điểm. Còn xét theo thời gian, cơ cấu ngành kinh luôn có

sự vận động và biến đổi do nó phụ thuộc vào nhiều nhân tố tự
nhiên- kinh tế -xã hội trong và ngoài tỉnh. Cho nên một cơ cấu
ngành kinh tế có thể là hợp lý trong giai đoạn phát triển này nhưng
lại tỏ ra không còn hợp lý nữa trong giai đoạn phát triển khác. Do
đó một yêu cầu đặt ra là: Phải luôn luôn điều chỉnh cơ cấu ngành
kinh tế cho phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. Và ta gọi đó là quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
II- SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ CỦA BẮC GIANG TRONG GIAI ĐOẠN 2001-2005.
1.Đặc trưng cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh.
1.1.Độ mở nền kinh tế của tỉnh rộng hơn độ mở của nền kinh tế
quốc gia.
Trong phạm vi nền kinh tế của một tỉnh thì giới hạn về điều kiện
địa lý của kinh tế tỉnh là hẹp hơn quốc gia, do đó quá trình vận
chuyển hàng hoá trong tỉnh diễn ra nhanh hơn, thời gian luân


chuyển hàng hoá nhanh hơn so với trong phạm vi quốc gia. Giới
hạn về chính trị , quốc phòng trong nền kinh tế tỉnh cũng hẹp hơn
so với kinh tế quốc gia. Giới hạn về việc áp dụng các biện pháp ,
chính sách luật pháp trong phạm vi kinh tế tỉnh cũng hẹp ở phạm vi
quốc gia. điều đó chứng tỏ rằng độ mở của nền kinh tế tỉnh rộng
hơn độ mở của nền kinh tế quốc gia.
1.2. Các bộ phận cấu thành tổng thể nền kinh tế của mỗi tỉnh đều
có sự khác nhau.
Các bộ phận cấu thành tổng thể nền kinh tế một tỉnh bao gồm:
các ngành kinh tế (nông nghiệp , công nghiệp , dịch vụ ), các thành
phần kinh tế... Nhưng giữa các tỉnh khác nhau thì từng ngành lại có
sự khác nhau, cơ cấu thành phần kinh tế cũng có sự khác nhau ,
ngành nông nghiệp Bắc Giang có thế mạnh về cây lúa, nhưng tỉnh

khác lại có thế mạnh về chăn nuôi bò sữa, ngành công nghiệp cuả
Bắc Giang có thế mạnh về sản xuất phân bón hoá chất, nhưng tỉnh
khác lại có thể có thế mạnh về công nghiệp điện tử, cơ khí, hay vật
liệu xây dựng, ngành dịch vụ của Bắc Giang có thế mạnh về thương
mại, nhưng tỉnh khác lại có thế mạnh về du lịch.... tất cả những điều
đó nó đều thể hiện đặc trưng về tự nhiên xã hội của mỗi tỉnh, thể
hiện lợi thế so sánh của mỗi tỉnh. Do đó, mỗi tỉnh vị trí cuả các
ngành kinh tế có sự khác nhau,, hay dạng cơ cấu ngành kinh tế cuả
mỗi tỉnh là khác nhau.
1.3. Cơ cấu ngành kinh tế cuả tỉnh không đồng nhất với cơ cấu
kinh tế quốc gia.
Cơ cấu kinh tế quốc gia là sự tổng hợp cơ cấu kinh tế của tất
cả các tỉnh, cơ cấu kinh tế của mỗi tỉnh lại có sự khác nhau, do đó


cơ cấu kinh tế của quốc gia có thể không đồng nhất với cơ cấu kinh
tế của tỉnh. Nếu như cơ cấu kinh tế của cả nước ta hiện nay là nông
nghiệp - công nghiệp - dịch vụ thì cơ cấu kinh tế của tỉnh Bắc
GIang lại là nông nghiệp - dịch vụ - công nghiệp.
2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Bắc Giang là xu thế tất
yếu của sự phát triển kinh tế của tỉnh và cả nước.
2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế do yêu cầu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Trong mấy thập kỷ vừa qua, các nước thuộc vùng Châu á Thái
Bình Dương đã tận dụng được những lợi thế so sánh để phát triển
nền kinh tế của mình và đạt nhịp độ tăng trưởng khá, nhờ đó xuất
hiện những nước công nghiệp mới. Với sự phát triển nhanh chóng
cuả khoa học và công nghệ đã tạo ra những lĩnh vực công nghệ
mới, có hiệu quả cao , đặc biệt là công nghệ tiết kiệm tài nguyên,
bảo vệ môi trường. Các nước công nghiệp hoá có nhu cầu chuỷển

những công nghệ có trình độ thấp sang những nước kém phát triển
hơn.điều đó đã và đang đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ
và đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển.
Tình hình thế giới nói trên đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một
cách nhanh nhạy để nước ta không bị lạc hậu, mà cần phải tận dụng
lợi thế của một nước đi sau; đồng thời không để bị biến thành nơi
tiếp nhận những công nghệ trình độ quá thấp, gây ô nhiễm và lệ
thuộc vào nước xuất khẩu công nghệ.
Nước ta hiện nay vẫn còn là một nước nghèo vào loại nhất thế
giới, mặc dù trong những năm qua chúng ta đã đạt được một số kết


quả về mặt kinh tế, cũng như về mặt xã hội. Xét về mặt yêu cầu thì
chúng ta còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa. so với các nước ở trình
độ phát triển trung bình thì GDP bình quân đầu người cuả nước ta
còn rất thấp. Do đó để nền kinh tế có thể phát triển phù hợp với tình
hình mới, chúng ta nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá đất
nước.
Đảng ta đã xác định: “ Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi
căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo
ra năng suất lao động cao. đối với nước ta đó là một quá trình thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, nhằm cải biến một xã hội
nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp gắn với việc
hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện
đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới “. (1)
(1) Đỗ Mười: Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì CNXH. NXB
chính trị quốc gia


Với điểm xuất phát của nước ta từ khi tiến hành công nghiệp
hoá , hiện đaị hoá hoá là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại có cơ
cấu không cân đối, công nghiệp thấp kém, do đó để có thể sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện , công nghệ
tiên tiến, hiện đại, nhằm khai thác tối đa nguồn lực của đất nước,
không ngừng tăng năng suất lao động làm cho cho nền kinh tế tăng
trưởng nhanh chúng ta phải tiến hành chuyển dịch cơ cấu ngành .
Hơn nữa, theo khả năng của các nước có nền kinh tế phát triển hiện


nay, kể cả các nước láng giềng mà trước đây có điểm xuất phát
tương tự hoặc thấp hơn ta , đã cho chúng ta bài học bổ ích về công
nghiệp hoá đó là phải cấu trúc lại nền kinh tế từ cơ cấu ngành kinh
tế.
Là một thực thể của nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế Bắc
Giang cũng không nằm ngoài những đặc điểm chung của cả nước,
cũng có một nền kinh tế kém phát triển, thậm chí còn thấp hơn mức
bình quân của cả nước, cũng có những tiền đề phát triển kinh tế như
của cả nước...
Do đó, yêu cầu công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá , hiện đại hoá là một tất yếu khách
quan, trong đó yêu cầu chuyển dịch cơ cấu ngành được đặt lên
hàng đầu.
2.2. Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế của Bắc Giang đòi hỏi phải
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Sau hơn mười năm thực hiện đường lối đổi mới , nền kinh tế
của cả nước nói chung và của Bắc Giang nói riêng đã đạt được kết
quả khả quan. Bắc Giang đã đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế tương
đối cao, bình quân thời kỳ 1997-2000 là 7,2%, đời sống nhân dân
từng bước được cải thiện. Cơ cấu kinh tế đã từng bước chuyển biến

tích cực trên nền tảng tăng trưởng khá của các nhóm ngành theo
hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nền kinh tế Bắc
Giang vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, cơ cấu kinh tế chậm
chuyển dịch. đến nay nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng hơn 50%


trong GDP của tỉnh, trong nông nghiệp ngành chăn nuôi đã chiếm
tỷ trọng sấp sỉ 35% và đã trở thành một ngành chính , nhưng tương
quan với tỷ lệ với ngành trồng trọt thay đổi chậm.
Công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển mạnh, đặc biệt là ngành
công nghiệp mới chỉ chiếm 13% GDP của tỉnh, cơ cấu ngành công
nghiệp mới chỉ bắt đầu chuyển dịch . ngành dịch vụ chưa khai thác
hết khả năng để phục vụ sự phát triển của các ngành khác, đặc biệt
là du lịch chưa được đầu tư để khai thác.
Thực trạng kinh tế xã hội đó đã đặt ra yêu cầu cho Đảng bộ và
nhân dân Bắc Giang phải chuyển dịch cơ cấu theo hướng công
nghiệp hoá , hiện đại hoá thì mới có thể tiếp tục phát triển , thoát
khỏi vòng nghèo nàn lạc hậu.
3. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế do nhân tố thị trường đặt
ra.
Đối với thị trường cần khẳng định ngay rằng thị trường có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
mà trước hết là cơ cấu ngành kinh tế. Bởi vì thị trường là yếu tố
hướng dẫn và điều tiết các hoạt động

sản xuất kinh doanh của

daonh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị trường , xuất
phát từ mối quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường để định

hướng chiến lược và chính sách kinh doanh của mình. Sự hình
thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
để thích ứng với các điều kiện của thị trường dẫn tới từng bước thúc
đẩy sự hình thành và phát triển của cơ cấu kinh tế đất nước. Bởi vì
sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị
trường hàng hoá dịch vụ , thị trường lao động, thị trường vốn... có


tấc động rất mạnh đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế . Trong cơ thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhà nước
tạo điều kiện phát triển đồng bộ các loại thị trường, điều tiết các
loại thị trường, tạo môi trường và điều kiện cho thị trường và cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các
chính sách kinh tế vĩ mô. hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng nào là phụ thuộc vào chiến lược và các định hướng phát
triển của nhà nước trong từng thời kỳ, có tính đến các yếu tố trong
bối cảnh mở cửa và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó các nguồn lực và lợi thế so sánh của tỉnh cũng là cơ
sở để hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững
và hiệu quả.
4. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm mục tiêu tăng
trưởng nhanh.
Khắc phục ngay nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về mặt kinh tế
đang là một thách thức rất lớn đối với chúng ta. Việc duy trì nhịp
độ tăng trưởng cao và bền vững phải được coi là mục tiêu ưu tiên
hàng đầu của đất nước cũng như của tỉnh trong thời gian tới. để đạt
tốc độ tăng GDP 2 lần trong mười năm, nền kinh tế phải đạt được
tốc độ tăng trưởng bình quân là 7.2 %/năm trong thời gian đó , còn
để thu nhập bình quân đầu người tăng lên 2 lần với tốc độ giả định
mức tăng dân số là 1.7%/năm thì phải có mức tăng trưởng 9.2%

trong suốt mười năm. đây là bài toán phát triển không dễ gì thực
hiện được khi chúng ta ở xuất phát điểm quá thấp và năng lực phát
triển lâu bền chưa được khẳng định vững vàng. Câu trả lời hợp lý


×