Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Luận văn xây dựng chính sách tôn giáo của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.99 KB, 27 trang )

LỜI NÓI ĐẦU:
Chúng ta, đang sống trong những năm tháng mà tôn giáo đặt ra hàng loạt
những vấn đề khó khăn, phức tạp cho mỗi dân tộc, và trên toàn thế giới.
Nhiều nơi, tôn giáo đã dẫn tới xung đột đẫm máu. Xung đột tôn giáo ngày
càng khoét sâu thành kiến và thù hanạ giữa các dân tộc và các cộng đồng

hội.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Trong đó có 6 tôn giáo lớn là Thiên chúa
giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Tin Lành, Hồi giáo với hàng chục triệu
tín đồ. Phật giáo và Thiên chúa giáo là hai tôn giáo lớn nhất ở nước ta đều
du nhập từ ngoài vào, đã ít nhiều chịu ảnh hưởng phong tục, tập quán và
bản sắc văn hoá Việt Nam.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đời sống nhân
dân. Đánh giá được tầm quan trọng của công tác tôn giáo. Đảng và Nhà
nước ta chủ trương, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do, tín
ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo. Dựa trên nguyện vọng
chính đáng của nhân dân, điều đó củng cố niềm tin trong nhân dân, tạo sự
phấn khởi trong đồng bào tôn giáo. Hiện nay xu thế toàn cầu hoá đang có
những tác động mạnh mẽ đến các quốc gia, dân tộc. Việt Nam không nằm
ngoài guồng quay đó. Những tác động xu thế toàn cầu hoá đến kinh tế,
chính trị đất nước đang ngày càng phức tạp. Tôn giáo là lĩnh vực đặc biệt
nhạy cảm. Kẻ thù đang lợi dụng tôn giáo để từng bước phá hoại công cuộc
xây dựng đất nước, chia rẽ dân tộc, gây mất ổn định xã hội. Vì vậy việc tìm
hiểu chính sách tôn giáo của Đảng là rất cần thiết. Để thấy được đúng đắn
tỏng việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo.
phần 1: MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước đa tín ngưỡng, tôn giáo với khoảng hơn 20 triệu tín đồ
theo các tôn giáo khác nhau. Từ xưa đến nay, các tín ngưỡng, tôn giáo luôn
chung sống hoà hợp, gắn bó với dân tộc. Trong quá trình dựng nước và giữ
nước, các dân tộc đã kề vai, đoàn kết bên nhau đấu tranh giành độc lập dân tộc,


tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cả 54 dân tộc
anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã hình thành một truyền thống
tốt đẹp từ ngàn xưa, đó là xây dựng cuộc sống đan xen, hoà bình, trong đó mỗi
dân tộc đều có tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán và văn hoá khác nhau
góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam.


Đảng và Nhà nước ta hiểu rõ nhu cầu tâm linh của nhân dân Việt Nam bởi lẽ,
hầu hết nhân dân Việt Nam không những có tín ngưỡng truyền thống thờ cúng
tổ tiên, thờ các vị thành hoàng, những vị đã có công xây dựng quê hương, đất
nước…mà không ít người là tín đồ các tôn giáo. Bản tính của người Việt Nam
là khoan dung, cởi mở. Do vậy, dù là tôn giáo nào, tín ngưỡng nào, từ đâu đến
thì cộng đồng cũng sẵn sàng chấp nhận miễn là nó không xâm phạm đến lợi ích
quốc gia và đi ngược lại truyền thống văn hoá dân tộc.vi vậy Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đời sống nhân dân. Đánh giá được
tầm quan trọng của công tác tôn giáo. Đảng và Nhà nước ta chủ trương, thực
hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do, tín ngưỡng tôn giáo và không tín
ngưỡng tôn giáo. Dựa trên nguyện vọng chính đáng của nhân dân, điều đó củng
cố niềm tin trong nhân dân, tạo sự phấn khởi trong đồng bào tôn giáo. Hiện nay
xu thế toàn cầu hoá đang có những tác động mạnh mẽ đến các quốc gia, dân
tộc. Việt Nam không nằm ngoài guồng quay đó. Những tác động xu thế toàn
cầu hoá đến kinh tế, chính trị đất nước đang ngày càng phức tạp. Tôn giáo là
lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm. Kẻ thù đang lợi dụng tôn giáo để từng bước phá
hoại công cuộc xây dựng đất nước, chia rẽ dân tộc, gây mất ổn định xã hội. Vì
vậy việc tìm hiểu chính sách tôn giáo của Đảng là rất cần thiết. Để thấy được
đúng đắn tỏng việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo.
1.2. Những lí thuyết sử dụng trong đề tài
1.2.1.Quan điểm Macxit về tôn giáo
- Từ khái niệm, bản chất về tôn giáotôn giáo là một hình thức xã hội dặc
biệt vừa là một thực tế xã hội,tôn giáo vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực

- Từ nguồn gốc ra đời của tôn giáo : Nguồn gốc kinh tế xã hội, nguồn
gôc nhận thức, nguồn gốc tâm lí tình cảm..
- Từ tính chất của tôn giáo: Tính lịch sử, tính quần chúng, tính xã hội,
tính chính trị
- Từ phương pháp giải quyết vấn đề về tôn giáo của chủ nghĩa Mác-Lê
Trong đó trước hết dựa vào thái độ của những người mác xít đối với
tôn giáo đó là vấn đề tôn giáo phải được đặt ra và giải quyết trên cơ sở của thế
giới quan duy vật. CNMLN phê phán các mưu toan tuyên chiến với tôn giáo,
bạo lực, nóng vội trong giải quyết các vấn đề về tôn giáo, dùng chính sách đàn
áp đối với tôn giáo.
Dựa trên những bài học kinh nghiệm của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong giải quyết vấn đề về tôn giáo không thể thuần tuý về tư tưởng trong giải
quyết vấn đề về tôn giáo) Không tả khuynh hoặc đồng nhất tôn giáo với kẻ thù
của CNXH Không hữu khuynh coi tôn giáo chỉ là nhận thức chưa đầy đủ của
nhân dân, cứ xây dựng thành công CNXH thì tự nhiên tôn giáo sẽ tiêu vong.
Dựa trên những vấn đề mang tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác Lênin: Khắc phục dần những tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình
cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới Tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do


không tín ngưỡng của nhân dân cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải
quyết các vấn đề về tôn giáo cần phân biệt hai mặt nhu cầu tự do tín ngưỡng và
lợi dụng TGTN.
1.2.2.Chức năng của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội, nó
có nguồn gốc từ những sự hạn chế của các mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên và đối với nhau. Sự bất lực trước những sức mạnh tự nhiên cũng như xã
hội đã nảy sinh nhu cầu đền bù cho những hạn chế đó. Vì vậy, tôn giáo có khá
nhiều chức năng xã hội. Đó là:
- Chức năng hư ảo
Luận điểm nổi tiếng của C. Mác: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã

làm nổi bật chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo. Giống như thuốc phiện, tôn
giáo đã tạo ra cái vẻ bề ngoài của “sự giảm nhẹ” tạm thời những nỗi đau khổ
của con người, an ủi cho những sự mất mát, thiếu hụt của con người trong cuộc
sống.
Chức năng đền bù hư ảo không chỉ là chức năng chủ yếu, đặc thù mà còn là
chức năng phổ biến của tôn giáo. Ở đâu có tôn giáo ở đó có chức năng đền bù
hư ảo.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, nó không chỉ thực hiện một chức
năng mà gồm một hệ thống chức năng xã hội. Mặc dù là chức năng chủ yếu
nhưng chức năng đền bù hư ảo không thể tách rời các chức năng khác của tôn
giáo.
+ chức năng thế giới quan
Khi phản ánh một cách hư ảo hiện thực, tôn giáo có tham vọng tạo ra một bức
tranh của mình về thế giới nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người
dưới một hình thức phi hiện thực. Bức tranh tôn giáo ấy bao gồm hai bộ phận:
thế giới thần thánh và thế giới trần tục và trên cơ sở đó mà tôn giáo giải thích
các vấn đề của tự nhiên cũng như xã hội. Sự lý giải của tôn giáo về thế giới
nhằm hướng con người tới cái siêu nhiên , thần thánh, do đó nó đã xem nhẹ đời
sống hiện thực. Quan niệm này có thể tác động tiêu cực đến ý thức giáo dân,
đến thái độ của họ đối với xung quanh.
+ chức năng điều chỉnh
Tôn giáo đã tạo ra một hệ thống các chuẩn mực, những giá trị nhằm điều chỉnh
hành của những con người có đạo. Những hành vi được điều chỉnh ở đây không
chỉ là những hành vi trong thờ cúng mà ngay cả trong cuộc sống hàng ngày
trong gia đình cũng như ngoài xã hội của giáo dân. Vì vậy, hệ thống chuẩn


mực, giá trị trong lý thuyết đạo đức và xã hội mà tôn giáo tạo ra đã ảnh hưởng
quan trọng đến mọi hoạt động của con người. Tất nhiên ở đây chúng ta cần phải
chú ý rằng những chuẩn mực, giá trị tôn giáo đã bị tước bỏ khá nhiều những

đặc trưng khách quan và phụ thuộc vào những giá trị siêu nhiên, hư ảo.
+ chức năng giao tiếp
Chức năng giao tiếp của tôn giáo thể hiện khả năng liên hệ giữa những người có
chung một tín ngưỡng. Sự liên hệ (giao tiếp) được thực hiện chủ yếu trong hoạt
động thờ cúng, sự giao tiếp với thánh thần được coi là sự giao tiếp tối cao.
Ngoài mối liên hệ giao tiếp trong quá trình thờ cúng, giữa các giáo dân còn có
sự giao tiếp ngoài tôn giáo như liên hệ kinh tế, liên hệ cuộc sống hàng ngày,
liên hệ trong gia đình... Những mối liên hệ ngoài tôn giáo có thể lại củng cố,
tăng cường các mối liên hệ tôn giáo của họ.
+ chức năng liên kết
Trong các xã hội trước đây, tôn giáo với tư cách là bộ phận tất yếu trong cấu
trúc thượng tầng đã đóng vai trò quan trọng của nhân tố liên kết xã hội, nghĩa là
nhân tố làm ổn định những trật tự xã hội đang tồn tại, dựa trên những hệ thống
giá trị và chuẩn mực chung của xã hội. Tuy nhiên không nên quan niệm một
cách sai lầm rằng tôn giáo bao giờ cũng là nhân tố liên kết xã hội chủ yếu, bảo
đảm sự thống nhất của xã hội. Sự thống nhất của xã hội trước hết được bảo đảm
bởi hệ thống sản xuất vật chất xã hội chú không phải bằng cộng đồng tín
ngưỡng. Hơn nữa trong những điều kiện xã hội nhất định, tôn giáo có thể biểu
hiện như là ngọn cờ tư tưởng của sự chống đối lại xã hội, chống lại chế độ phản
tiến bộ đương thời.
Trên đây là hệ thống chức năng của tôn giáo, trong đó mỗi chức năng lại hàm
chứa các chức năng khác.

1.2.3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo quan
điểm mácxít về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam nhằm
thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Tư tưởng này được xây dựng trên cơ sở nhận thức rõ đặc điểm văn
hóa Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, các tín ngưỡng, tôn giáo
có lịch sử hình thành, phát triển và có đặc điểm riêng, với xu hướng hòa đồng,

tồn tại đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau.


Tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo quan điểm
mácxít về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Tư tưởng này được xây dựng trên cơ sở nhận thức rõ đặc điểm văn hóa
Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, các tín ngưỡng, tôn giáo có
lịch sử hình thành, phát triển và có đặc điểm riêng, với xu hướng hòa đồng, tồn
tại đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau.
Ở Việt Nam không có xung đột, chiến tranh tôn giáo. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo nên hệ
giá trị truyền thống vô cùng quý báu, trong đó yêu nước là giá trị hàng đầu.
Trong lịch sử dân tộc đã từng có sự đồng điệu giữa đức tin tôn giáo và lòng yêu
nước, Trần Nhân Tông vừa là ông vua yêu nước có công lãnh đạo quân dân ta
hai lần đánh thắng quân Nguyên, vừa là nhà thiền học tiêu biểu của thiền phái
Trúc Lâm. Sự đồng điệu ấy đã góp phần to lớn tạo nên sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc trong suốt cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước. Kế thừa truyền thống
ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, lòng yêu nước và đức tin tôn giáo
không có gì mâu thuẫn, trái lại còn gắn bó chặt chẽ với nhau. Một người dù
theo tôn giáo nào thì trước hết người đó phải là công dân, có nghĩa vụ với dân
tộc, đất nước.
Như vậy, đặc điểm văn hóa dân tộc nói chung, truyền thống yêu nước nói riêng
là cơ sở thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo.
Kế thừa quan điểm mácxít về tôn giáo trong việc xử lý các vấn đề tôn giáo rằng
"tuyên chiến ầm ĩ... với tôn giáo là dại dột" Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có thái
độ mềm dẻo, biện pháp khôn khéo, hợp tình hợp lý trong việc giải quyết các
vấn đề tôn giáo ở nước ta.
Trên cơ sở tư tưởng về chính sách tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra
những quan điểm, giải pháp đúng đắn để thực hiện thành công vấn đề đoàn kết

các tôn giáo mà trọng tâm là đoàn kết Lương - Giáo.
Đoàn kết là một nội dung cơ bản, bao trùm, có ý nghĩa quyết định thành công
của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đối với tôn giáo thì sự chân tình và bền
vững như là một điều kiện tiên quyết để thực hiện đoàn kết. Người nhấn mạnh
rằng: "Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn lâu dài. Đoàn kết là một
chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu
tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta phải đoàn kết để xây dựng
nước nhà. Ai có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân
thì ta đoàn kết với họ". Đoàn kết tôn giáo là một nội dung quan trọng trong
chiến lược đại đoàn kết toàn dân của Chủ tịch HồChí Minh.


Để thực hiện đoàn kết tôn giáo, Người đã tìm ra cơ sở khoa học, đó là sự tương
đồng giữa các tôn giáo, thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất, các tôn giáo chân chính xét đến cùng đều có hy vọng giải thoát con
người, mong muốn con người được sung sướng tự do, hạnh phúc. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: "Phật sinh ra để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha", "Đức Giê su hy
sinh là vì muốn loài người được tự do, hạnh phúc"... "Khổng Tử sinh ra cũng là
để giúp con người sống nhân nghĩa vì một thế giới đại đồng".
- Thứ hai, tín đồ các tôn giáo căn bản đều là những người lao động bị chế độ cũ
áp bức bóc lột. Họ đều là những người yêu nước thực sự, do vậy họ là lực
lượng của cách mạng, là bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân
với tư cách là chủ thể của cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh sự tương đồng giữa các tôn giáo
mà còn tìm ra sự tương đồng giữa các tôn giáo với chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ
nghĩa xã hội. Người coi tôn giáo như là nơi gửi gắm nguyện vọng thiết tha của
một bộ phận quần chúng lao động mong chờ sự giải thoát khỏi áp bức, bất
công, nghèo khổ, từ đó cổ vũ họ tham gia kháng chiến, kiến quốc. Đối với các
chức sắc tôn giáo, Người luôn động viên, khơi dậy lòng yêu nước thương nòi,
gìn giữ, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc... Như vậy, với sự sắc sảo về

chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh cái chung, cái tương đồng của các
tôn giáo để thực hiện đoàn kết tôn giáo, các lực lượng tôn giáo vào sự nghiệp
cách mạng của toàn dân tộc. Nội dung tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh mang tính chất toàn diện, điều đó được thể hiện cả trong kinh tế,
chính trị và văn hóa, xã hội. Người nói: "Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào
Lương và các đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm
no, xây dựng Tổ quốc
Trọng tâm tư tưởng về chính sách tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là vấn đề
đoàn kết Lương - Giáo. Cơ sở của đoàn kết Lương - Giáo theo tư tưởng Hồ Chí
Minh chính là sự "đồng nhất" với nhau vì mục tiêu độc lập tự do của dân tộc.
Người cho rằng, đồng bào Lương và đồng bào Giáo đều là người ViệtNam, đều
là người lao động và sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp lớn, lâu dài. Vì thế
Lương - Giáo phải đoàn kết, toàn dân phải đoàn kết thì sự nghiệp lớn của dân
tộc mới giành được thành công. Qua các bức thư gửi cho đồng bào các tôn giáo
và các chức sắc tôn giáo, Người luôn đề cao cái chung của mọi người, không kể
Lương hay Giáo, là lòng yêu nước, đó là cái căn bản. Còn cái riêng, cái dị biệt
về đức tin, lối sống: Đồng bào Giáo thì có tình cảm kính Chúa, đồng bào Lương
thì ngưỡng mộ Đức Phật chỉ là sự khác biệt nhỏ, không căn bản. Chúng ta cần
phải bỏ qua cái dị biệt nhỏ, giữ lại cái tương đồng lớn.


Để thực hiện đoàn kết tôn giáo, trong đó trọng tâm là đoàn kết Lương - Giáo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những giải pháp có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
to lớn là: Xây dựng hệ thống chính trị trong vùng có đồng bào tôn giáo, làm tốt
công tác vận động với các chức sắc và tín đồ tôn giáo, tích cực đấu tranh
chống bọn đế quốc, phản động lợi dụng tôn giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng lãnh đạo và chỉ đạo việc xây dựng và
phát huy vai trò của tổ chức Đảng các cấp, các hệ thống chính quyền, của mặt
trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể quần chúng khác ở các địa phương, nhất
là vùng có đông đồng bào theo đạo. Người đặc biệt chú ý tới công tác phát triển

Đảng ở chính các tín đồ công giáo. Điều này rất quan trọng trong việc tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng với đồng bào tôn giáo. Khi trả lời câu hỏi "người
công giáo có thể vào Đảng được không?" Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Có.
Người công giáo nào cũng vào được, miễn là trung thành, hăng hái làm nhiệm
vụ, giữ đúng kỷ luật của Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu, kỹ thuật kém, tôn giáo
là duy tâm, cộng sản là duy vật, nhưng trong điều kiện hiện tại, người theo đạo
vẫn vào Đảng được".
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán
bộ ở các vùng đồng bào công giáo. Người khẳng định: "Cán bộ là gốc của mọi
công việc" và "công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém".
Người chủ trương phát triển cán bộ tại chỗ là chính, để họ trở thành cán bộ "bán
chuyên nghiệp" đi vận động tôn giáo. Người thường căn dặn cán bộ phải thật
bền bỉ thì mới có thể giúp đồng bào tôn giáo phân biệt rõ bạn, thù.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác vận động đối với các chức sắc tôn giáo
và đồng bào tôn giáo. Người luôn biểu lộ sự tôn trọng, quan tâm đối với các
chức sắc tôn giáo và tìm cách tốt nhất để tranh thủ họ; song cũng có thái độ xử
sự dứt khoát, kiên quyết trừng trị những kẻ mượn tiếng đạo, làm nhục Chúa,
làm hại dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo đến đời sống của đồng bào tôn giáo, chăm
sóc cả "phần xác" và "phần hồn". Theo Người, "phần xác có no ấm thì phần
hồn mới thong dong", từ đó Người chỉ đạo Chính phủ cần có chính sách cụ thể
để cải thiện cuộc sống cho đồng bào, tích cực tăng gia sản xuất, nâng cao đời
sống
Như vậy, thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là sự vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin về tôn giáo để giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam
một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tín đồ tôn giáo ở Việt Nam
thực hiện tư tưởng của Người về chính sách tôn giáo, đã và đang sống theo



phương châm: "Sống phúc âm trong lòng dân tộc", "tốt đời đẹp đạo", "đạo pháp
dân tộc và chủ nghĩa xã hội".
1.3. Những khái niệm sử dụng
1.3.1Một số khai niệm tôn giáo
Khái niệm tôn giáo là một vấn đề được giới nghiên cứu về tôn giáo bàn cãi rất
nhiêu. Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo:
- Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con
người”.
- Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin vào
cái siêu nhiên”.
- Một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân
trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì
anh chưa bao giờ có tôn giáo”.
- Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác: “Tôn giáo
là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái
tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần”.
- Khái niệm mang khía cạnh nguồn gốc của tôn giáo của Ph.Ăngghen: “Tôn
giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng
bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày …
Vi vầy chúng ta cần chú ý
- Khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn
phải đề cập đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu,
thế giới của người sống và thế giới sau khi chết, thế giới của những vật thể hữu
hình và vô hình.
- Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh
với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất mình do
đó phải dựa vào thánh thần mà còn hướng con người đến một hy vọng tuyệt
đối, một cuộc đời thánh thiện, mang tính “Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc
đời mà quá khứ, hiện tại, tương lai cùng chung sống. Nó gieo niềm hi vọng vào
con người, dù có phần ảo tưởng để mà yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống

trong một thế giới trần gian có nhiều bất công và khổ ải.
Như vậy: Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính
thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách
hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia.


Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử,
hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo,
được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng
cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
1.3.2. khái niệm tín ngưỡng
Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới
và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi được
hiểu là tôn giáo. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng
mang tính đan tộc,dan gian nhiều hơn tôn giáo, tín ngưỡng có tổ chức không
chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín
ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn
giáo thì thường là không mang tính dân gian. Tín ngưỡng không có một hệ
thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và
rời rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn
giáo. Cơ sở của mọi tôn giáo,tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con
người vào những cái siêu nhiên (hay nói gọn lại là "cái thiêng") - cái đối lập với
cái trần tục", cái hiện hữu mà con người có thể sờ mó, quan sát được. Niềm tin
vào "cái thiêng" thuộc về bản chất con người, nó ra đời và tồn tại, phát triển
cùng với con người và loài người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm
linh của con người, cũng giống như đời sống vật chất, đời sống xã hội, tư tưởng
, tinh thần, đời sống tình cảm...


PHẦN 2: NỘI DUNG

Chương 1:Cơ sở lý luận cho việc xây dựng chính sách Tôn giáo của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Quan điểm chính sách tôn giáo hiện nay của đảng và nhà nước ta hiện
nay được dựa trên các cơ sở sau:
Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng
bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để thực hiện phương hướng trên, các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cấp, các ngành
cần thống nhất nhận thức về các quan điểm và chính sách sau đây :
1- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình
đẳng trước pháp luật.
2- Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích
cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ
quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín
ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt
động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh
quốc gia.


3- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần

chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi
công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao
tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc; thông
qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo
đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào
tôn giáo.
4- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các
cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn
bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ
chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố
và kiện toàn. Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh
chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt
công tác vận động quần chúng.
5- Vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp
theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật
và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức
sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ
tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo,
hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm
cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái
phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.


Chương 2:Tình hình tôn giáo nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2.1 Khái quát về tình hình thực trạng tôn giáo hiện nay


2.1.1. Tình hình thực trạng
- Từ khi xuất hiện đến nay, tôn giáo luôn luôn biến động phản ánh sự biến đổi
của lịch sử. Một tôn giáo có thể hưng thịnh, suy vong, thậm chí mất đi nhưng
tôn giáo luôn luôn song hành cùng với đời sống của nhân loại. Tôn giáo là một
hiện tượng xã hội sẽ còn tồn tại lâu dài.
- Về đánh giá thực trạng của tôn giáo, có nhiều ý kiến khác nhau. Tựu trung lại
có ba ý kiến sau:
+ Tôn giáo đang khủng hoảng, suy tàn: những người đánh giá theo quan niệm
này cho rằng trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ.... đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân sẽ được cải thiện, tôn giáo sẽ bị suy
thoái dưới nhiều hình thái khác nhau. Họ cho rằng tôn giáo là một hiện tượng
xã hội không có tương lai
+ Tôn giáo Tây Âu suy tàn nhưng tôn giáo ở các nước khác đang phát triển:
đánh giá này xuất phát từ thực tế tôn giáo ở Tây Âu. Sự suy giảm biểu hiện rõ
nhất trong lĩnh vực thực hành tôn giáo: đi lễ và tuân thủ một số nghi lễ, niềm tin
giảm sút (nhạt đạo thậm chí khô đạo). Tuy nhiên cũng có người chỉ thừa nhận
sự suy giảm ấy chỉ diễn ra ở trung tâm châu Âu. Trong khi đó tôn giáo ở các
nước khác ngoài châu Âu, đặc biệt là các nước đang phát triển
+ Tôn giáo, tín ngưỡng đang phục hồi và phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia,
châu lục: cách đánh gia này được nhiều người thừa nhận. Thực tế là trong mấy
thập kỷ gần đây, tín ngưỡng, tôn giáo đang phục hồi và phát triển ở nhiều quốc
gia, châu lục. Số lượng tín đồ hiện nay chiếm khoảng 3/4 dân số trên thế giới
(có số liệu là 5/6).
2.1.2Nguyên nhân
Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng tôn giáo là một điều không đơn giản. Tuy
nhiên có thể nêu lên một số nguyên nhân chủ yếu sau:

- Những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng gay gắt: chiến tranh
lạnh kết thúc nhưng hoà bình không đến với nhân loại, trên thế giới hiện nay
đang xảy ra nhiều mâu thuẫn, xung đột về chính trị, kinh tế, xã hội và cả quân
sự. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn giữa các quốc gia trên thế giới và
khu vực.
- Trật tự thế giới đang xáo trộn, khó định trước: thế giới hai cực được thay bằng
thế giới đơn cực do Mỹ chi phối và đang tiềm ẩn sự ra đời của trật tự thế giới đa
cực với các cường quốc có tiềm lực mạnh về kinh tế, chính trị và quân sự...


- Khủng hoảng niềm tin vào mô hình xã hội tương lai: từ khi xã hội có giai cấp
và nạn bóc lột giai cấp, con người đã ước mơ về một xã hội bình đẳng, công
bằng, tự do và bác ái... tôn giáo chính là sự phản ánh nguyện vọng ấy của nhân
dân dù đó là sự phản ánh một cách hư ảo. Khi chủ nghĩa xã hội hiện thực xuất
hiện, sự hướng về thiên đường đã chuyển sang hướng về chủ nghĩa xã hội, góp
phần tạo ra sự suy giảm của tôn giáo. Tuy nhiên, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực
bị sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô trong khi chủ nghĩa tư bản không phải là lý
tưởng mà con người vươn tới nên con người có thể đi tìm chỗ dựa tinh thần nơi
tôn giáo
- Những hậu quả tiêu cực của sự phát triển của khoa học và công nghệ mới:
Cuối thế kỷ XX, nhân loại có những thành tựu kỳ diệu trên nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Tuy nhiên sự phát triển ấy cũng để lại những hậu quả nặng nề
mà nhân loại đang phải gánh chịu. Đó là sự suy thoái về môi trường, sinh thái
như phá rừng, ô nhiễm, tầng ôzôn bị thủng, trái đất nóng dần lên... bên cạnh đó
là các bệnh dịch mới xuất hiện (AIDS, SARS...) làm cho tiên tri về “nạn hồng
thủy”, “ngày tận thế”...lại có dịp phát triển, làm xuất hiện nhiều tôn giáo mới...
2.1.3. Chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước ta hiện nay
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta được xây dựng một mặt dựa trên
quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo; mặt khác căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt

Nam. Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡn
Việt Nam là một nước đa tín ngưỡng, tôn giáo với khoảng hơn 20 triệu tín đồ
theo các tôn giáo khác nhau. Từ xưa đến nay, các tín ngưỡng, tôn giáo luôn
chung sống hoà hợp, gắn bó với dân tộc. Trong quá trình dựng nước và giữ
nước, các dân tộc đã kề vai, đoàn kết bên nhau đấu tranh giành độc lập dân tộc,
tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cả 54 dân tộc
anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã hình thành một truyền thống
tốt đẹp từ ngàn xưa, đó là xây dựng cuộc sống đan xen, hoà bình, trong đó mỗi
dân tộc đều có tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán và văn hoá khác nhau
góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta hiểu rõ nhu cầu tâm linh của nhân dân Việt Nam bởi lẽ,
hầu hết nhân dân Việt Nam không những có tín ngưỡng truyền thống thờ cúng
tổ tiên, thờ các vị thành hoàng, những vị đã có công xây dựng quê hương, đất
nước…mà không ít người là tín đồ các tôn giáo. Bản tính của người Việt Nam
là khoan dung, cởi mở. Do vậy, dù là tôn giáo nào, tín ngưỡng nào, từ đâu đến
thì cộng đồng cũng sẵn sàng chấp nhận miễn là nó không xâm phạm đến lợi ích


quốc gia và đi ngược lại truyền thống văn hoá dân tộc.
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta được xây dựng một mặt dựa trên
quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo; mặt khác căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam. Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; Tinh thần đó được Đảng và Nhà
nước ta thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách
mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn có quan
điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo theo lịch sử phát triển của dân tộc.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991

đã khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn
giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào
có đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn
kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công
dân”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
cũng ghi rõ: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích
của Tổ quốc và nhân dân”.
Chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn
giáo rất đúng đắn, minh bạch và từng bước được hoàn thiện. Đến đầu thập kỷ
90, trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết số 24/NQ-TW Về công tác tôn giáo trong tình hình mới, đã ghi dấu son
về sự đổi mới đường lối, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị quyết 24/NQTW xác định:…Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã
hội mới”. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 24/NQ-TW, Đảng ta đã tổng
kết, đánh giá những thành tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ
Chính trị ra Chỉ thị 37/CT-TW ngày 02/7/1998Về công tác tôn giáo trong tình
hình mới. Cho đến Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ bảy, khoá IX về công tác tôn giáo (Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003)
thì quan điểm chính sách của Đảng ta đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được
khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới đất
nước. Đó là: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo đúng pháp luật”. Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập
đến nay chứng minh rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan



trọng của con người, là một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của
con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng
bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn
giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được “phần hồn thong dong,
phần xác ấm no”.
Nhà nước ta chỉ một ngày sau lễ Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, trong phiên họp đầu tiên vào ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đề nghị Chính phủ lâm thời tuyên bố: “Tín ngưỡng tự do và lương
giáo đoàn kết”, coi đó là một trong sáu nhiệm vụ của Nhà nước còn non trẻ. Sau
đó, thay mặt Chính phủ lâm thời, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký
văn bản ngày 20/9/1945, trong đó Điều I ghi rõ: “Đền chùa, lăng tẩm, nhà thờ,
tất cả những nơi có tính cách tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào, nhân dân đều phải
tôn trọng, không được xâm phạm”. Nhưng văn bản có tính pháp luật tiêu biểu
và hoàn chỉnh nhất trên chặng đường đầu tiên xây dựng luật pháp về tôn giáo,
tín ngưỡng là Sắc lệnh số 234-SL ngày 14/6/1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký.
Điều 15 trong Sắc lệnh ghi rõ: “việc tự do, tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền
lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hoà luôn luôn tôn trọng quyền lợi
ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện”.
Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc do đế quốc Mỹ
gây ra, mặc dù phải lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng Chính phủ
vẫn quan tâm đến nhu cầu tâm linh của quần chúng tín đồ. Bằng chứng là, Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã ký Thông tư 60-TTg, ngày 11/6/1964 bổ sung Thông
tư 593-TTg (năm 1957) yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo sắc lệnh 234SL. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, ngày 11/11/1977,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 297-CP về “Một số chính sách đối với
tôn giáo” trong đó nêu năm nguyên tắc về tự do tôn giáo. Để đáp ứng với yêu
cầu của quá trình đổi mới, ngày 21/3/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Nghị định 69-HĐBT “Quy định về các hoạt động tôn giáo”. Nghị định 69 là
văn bản mang tính pháp quy, là sự kế thừa thực tiễn của quá trình thực hiện

Nghị định 297- CP và cụ thể hoá chính sách của Đảng ta đối với tôn giáo trong
quá trình thực hiện công cuộc đổi mới. Sự nghiệp cách mạng là của toàn dân,
đổi mới về nhận thức và thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với các
hoạt động tôn giáo là nhằm đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân
dân. Qua đó phát huy năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào theo
tôn giáo, góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội trên cơ sở ổn định chính trị. Từ
sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, nước ta đã có 4 bản Hiến pháp: Hiến
pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm
1992. Ngay trong Hiến pháp 1946 đã khẳng định quyền tự nhiên của người Việt
Nam: “Mọi công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng” (Chương II, mục
B). Từ những nguyên tắc cơ bản đó, Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ: “Công dân
có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai
được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Điều


70 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được
bổ sung rõ hơn: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân
cũng được đề cập trong Bộ Luật Dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và được
cụ thể hoá trong văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ cao hơn,
hoàn thiện hơn. Một minh chứng cụ thể là sau 5 năm thực hiện, Nghị định
26/1999/NĐ-CP, ngày 19/4/1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo đã
được thay thế bằng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội khoá XI thông qua ngày 18/6/2004 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày
29/6/2004.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng rõ ràng và một lần nữa

tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Nhờ có chính sách tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và được bổ sung theo sự phát
triển của xã hội nên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn luôn được mở rộng
và đảm bảo. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng trên cơ sở kế thừa
Sắc lệnh 234/SL và được đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn qua nhiều giai đoạn
cách mạng thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo. Những quy định cụ thể trong Pháp lệnh cũng như trong Nghị
định 22/2005/NĐ-CP, ngày 01/3/2005 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một
số điều trong Pháp lệnh, một mặt tạo cơ sở pháp lý đảm bảo cho mọi công dân
thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác nhằm nâng cao
hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân về tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định rõ ràng hơn, thông
thoáng hơn và cởi mở hơn. Công dân có quyền theo hoặc không theo một tôn
giáo nào; được bày tỏ đức tin của mình; được thực hiện các nghi thức thờ cúng,
cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt tôn giáo, học tập giáo lý, đạo
đức tôn giáo. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bảo hộ cơ sở vật chất, tài sản của các cơ sở
tín ngưỡng, tôn giáo như chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất, điện, đền, trụ
sở của tổ chức tôn giáo, trường lớp tôn giáo; kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng
của tín ngưỡng, tôn giáo.
Thiết nghĩ không cần nói thêm nhiều mà có thể khẳng định rằng chính sách tự
do tín ngưỡng, tôn giáo là tư tưởng cơ bản của Đảng và Nhà nước ta thể hiện
quan điểm trước sau như một: tín ngưỡng hay không tín ngưỡng là sự lựa chọn
tự do của con người, bởi vì tôn giáo là niềm tin và tồn tại như một nhu cầu tinh
thần của quần chúng. Thái độ của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề tự do tôn


giáo luôn luôn rõ ràng và phân minh. Một mặt Đảng và Nhà nước ta tôn trọng
tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác lại nghiêm cấm việc kỳ thị hoặc xúc phạm

người có tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời cũng nghiêm cấm việc lợi dụng tự do
tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia,
đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm
hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự của công dân hoặc trái với
thuần phong mỹ tục.
Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ
được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng mà được thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày. Cho đến nay,
Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 32 tổ chức tôn giáo và sẽ tiếp
tục xem xét theo quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Chúng ta có thể
khẳng định rằng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra bình thường
ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Cả nước có khoảng 70.000 chức sắc, nhà tu
hành, chưa kể hàng vạn người hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn
giáo, Việc đào tạo chức sắc của các tôn giáo tiếp tục được quan tâm. Giáo hội
Phật giáo Việt Nam hiện có 4 Học viện Phật giáo; 30 Trường Trung cấp Phật
học và 4 Trường Cao đẳng Phật học. Giáo hội Công giáo có 6 Đại chủng viện
và 2 cơ sở. Viện thánh kinh thần học của Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt
Nam (miền Nam)… để đào tạo chức sắc phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của
tín đồ. Các tôn giáo hiện có hàng trăm người đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các
nước trên thế giới. Cả nước hiện có hơn 24.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều
cơ sở được xây dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng
hùng hồn về đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyên tắc hàng đầu và nhất
quán của Đảng và Nhà nước ta vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các
tôn giáo là những công dân của Việt Nam. Chính vì vậy, các tổ chức tôn giáo,
chức sắc và tín đồ đã thể hiện sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước ta, yên tâm sinh hoạt tôn giáo và cùng nhau hưởng cuộc sống thanh bình,
trên một đất nước ổn định về chính trị; cùng nhau đoàn kết, đồng lòng vì mục
tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”./.
2.2. Kết quả thực hiện công tác tôn giáo


Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo, có tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào,
có tôn giáo nội sinh. Trong những năm qua tôn giáo ở Việt Nam phát triển
phong phú và đa dạng làm cho tình hình tôn giáo ở Việt Nam có những thay
đổi cơ bản.
Đến năm 2010, cả nước có 12 tôn giáo được công nhận tư cách pháp


nhân: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Hồi giáo, Phật giáo Hòa Hảo,
Tịnh độ cư sĩ Phật hội, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, đạo Ba’hai, Minh Chơn đạo, Minh
Lý đạo, Bửu Sơn Kỳ Hương đang hoạt động, với 32 tổ chức giáo hội, hội
thánh có trên 20 triệu tín đồ các tôn giáo, với trên 85.000 chức sắc, nhà tu hành
và trên 26.000 cơ sở thờ tự các tôn giáo ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả
nước.
Trước tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, với chính sách tự do
tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam,
đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước, gắn
bó, đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết đồng bào tôn giáo với đồng bào không
theo tôn giáo, hăng hái tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội,
tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh trật tự, góp phần
làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới quê hương, đất nước.
Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo được in ấn kinh
sách, sửa sang, làm mới cơ sở thờ tự, tổ chức sinh hoạt bình thường. Hoạt động
xã hội, nhân đạo, từ thiện của các tôn giáo ngày càng được mở rộng. Các tổ
chức giáo hội từng bước được củng cố; quan hệ của tôn giáo với Nhà nước
ngày càng được hoàn thiện.
Nhìn chung, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tôn giáo những
năm qua được nâng lên, đa số chức sắc, chức việc, tín đồ phấn khởi, tin tưởng
trước những thành tựu đổi mới của đất nước và chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo; các tôn giáo
luôn đồng hành cùng dân tộc, hành đạo theo pháp luật, tích cực tham gia phát

triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, làm từ thiện, xây dựng đời sống văn
hóa,… góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam
đã có nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo, như Nghị
quyết số 24 của Bộ Chính trị (khóa VI); đặc biệt sau khi có Nghị quyết 25/NQTW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “công
tác tôn giáo”, các tỉnh, thành phố đều xây dựng chương trình hành động; nhiều
tỉnh, thành phố có Nghị quyết chuyên đề về công tác tôn giáo, thành lập Ban
chỉ đạo công tác tôn giáo để chỉ đạo thống nhất trong hệ thống chính trị thực
hiện công tác tôn giáo.
Nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý về
công tác tôn giáo được nâng lên, trong xử lý những vấn đề liên quan đến tôn
giáo đã vận dụng linh hoạt hơn các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước vào hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, giải quyết tương đối
kịp thời các nhu cầu chính đáng về sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng
bào; tạo điều kiện giúp đỡ các giáo hội, chức sắc sinh hoạt tôn giáo đúng pháp
luật.


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội tích cực vận động đồng bào các tôn giáo thực hiện phương châm
sống “tốt đời, đẹp đạo”, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực hiện tốt cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”. Các đoàn thể đẩy mạng công tác tuyên truyền,
phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước trong đồng bào tôn giáo, tích cực phát triển đoàn viên, hội viên, tăng
cường xây dựng lực lượng nòng cốt cho phong trào quần chúng ở địa phương.
Công tác quản lý Nhà nước có chuyển biến, đã từng bước xây dựng và
hoàn thiện khung pháp lý về tôn giáo. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban

hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chính phủ có Nghị định số 22/NĐ-CP
ngày 01/3/2005 Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo; rồi Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về một số công tác đối với đạo Tin lành,…
Hệ thống pháp luật trên là công cụ pháp lý quan trọng để đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân, giúp các cơ quan nhà nước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; đã cụ thể hóa một cách hữu hiệu, tích
cực đường lối chủ trương của Đảng đối với công tác tôn giáo trong thời kỳ
mới, đồng thời toát lên tinh thần dân chủ đối với hoạt động tôn giáo, đáp ứng
yêu cầu của cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn
giáo, đồng thời đảm bảo được tính tương thích của luật pháp quốc tế điều
chỉnh về quyền con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đặc
biệt là những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết hoặc gia nhập.
Sự phối kết hợp giữa các bộ, ban, ngành và địa phương đã tạo được sự
thống nhất trong việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với tôn giáo, giảm bớt
các thủ tục hành chính rườm rà. Các bộ, ban, ngành chủ động cùng với Ban chỉ
đạo Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ triển khai chủ trương công tác đối với
đạo Tin lành, đề xuất chủ trương công tác đối với những vấn đề tôn giáo.
Hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo Đại hội nhiệm kỳ theo hiến chương,
điều lệ của tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật.
Chính phủ và các địa phương đã giải quyết kịp thời, đúng quy định
pháp luật về nhu cầu hoạt động tôn giáo và một số nhu cầu chính đáng của các
tổ chức, cá nhân tôn giáo, như phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, thuyên
chuyển chức sắc các tôn giáo; cho xây mới và cải tạo nhiều cơ sở thờ tự. Nhiều
tỉnh, thành đã tích cực giải quyết việc lập hồ sơ, xét cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho các tôn giáo; tạo điều kiện thuận lợi để các tôn giáo
sinh hoạt bình thường, đúng theo tinh thần Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về Công tác tôn giáo đã nêu: Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đã, đang và

sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.


Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng, Nhà
nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Nội
dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Công tác
tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Mọi tín đồ đều có quyền tự
do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Tiếp tục
hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng
trong giai đoạn mới của đất nước; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc tín
đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước
công nhận, đúng quy định của pháp luật. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh với
hành vi lợi dụng tôn giáo, để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Để thực hiện tốt chính sách tôn giáo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng, trong những năm tới, những nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương
trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của Đảng, Nhà
nước, quan tâm đúng mức đối với các vùng trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam Bộ, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và dân trí cho
nhân dân trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Hai là, nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm chỉ đạo của cấp ủy
Đảng, chính quyền, các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể đối với công
tác tôn giáo. Trên cơ sở triển khai nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng
về tôn giáo, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức rõ yêu cầu nhiệm vụ của công
tác tôn giáo trong tình hình mới.

Ba là, đẩy mạnh công tác tham mưu, từng bước hoàn thiện cơ chế,
chính sách đối với công tác tôn giáo, tích cực tham gia xây dựng các văn bản
pháp luật về tôn giáo, đồng thời bổ sung kịp thời những chính sách đối với tôn
giáo ở những vùng, miền khác nhau. Trước mắt, làm tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về tôn giáo để thống nhất nhận thức về công tác tôn giáo
trong hệ thống chính trị, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tập trung tuyên
truyền sâu rộng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định của Chính phủ về
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị
01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ vè một số công tác đối với đạo Tin lành;
các địa phương đảm bảo tốt thông tin hai chiều, tập trung giải quyết kịp thời
những vấn đề vướng mắc, nảy sinh trong công tác tôn giáo như: đất đai, cơ sở
thờ tự, tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Bốn là, thực hiện tốt hơn công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, tạo
điều kiện giúp đỡ Đại hội, Hội nghị thường niên của các tổ chức tôn giáo, xem
xét cho đăng ký hoạt động một số tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp


luật. Xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật và mọi hoạt động lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để kích động, chia rẽ tôn giáo, dân tộc, gây rối, xâm
phạm an ninh quốc gia; góp phần đảm bảo an ninh chính trị ở địa phương.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra thực hiện chủ trương, các kết
luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ đối với công tác tôn giáo hiện nay. Xây dựng hệ thống chính trị ở
cơ sở vững mạnh, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc, vùng đông tôn giáo.
Sáu là, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng tuyên truyền sâu rộng các chủ
trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong chức sắc, tín đồ các tôn
giáo. Vận động chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo” thực hiện quyền lợi và
nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh quốc phòng và thực hiện cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa ở khu dân cư”. Hướng dẫn các tôn giáo hoạt động đúng pháp
luật, phát huy những giá trị văn hóa đạo đức lành mạnh, hướng thiện của các
tôn giáo phù hợp với văn hóa truyền thống dân tộc.
Bẩy là, công tác đối ngoại tôn giáo và đấu tranh chống lợi dụng tôn
giáo trong tình hình hiện nay, cần chủ động và tăng cường hơn nữa sự phối
hợp giữa các bộ, ban, ngành, các tỉnh, thành trong việc đối thoại và xử lý
những vấn đề tôn giáo nhạy cảm đang được các thế lực thù địch lợi dụng chiến
lược “diễn biến hòa bình” để xuyên tạc tình hình tôn giáo và chính sách tự do
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, gây sức ép với Nhà nước về tự do tôn giáo,
dân chủ, nhân quyền. Tích cực triển khai công tác đấu tranh ngăn chặn chống
đối trong các tôn giáo. Thực hiện tốt công tác tranh thủ, động viên và với
những phần tử lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo đi ngược lại tôn chỉ, mục
đích và đường hướng hành đạo của các tổ chức tôn giáo.
Tám là, tiếp tục kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo của Đảng ,
chính quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến cơ sở
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo các cấp theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở
cơ sở. Đồng thời xây dựng chế độ phụ cấp ưu đãi cán bộ làm công tác quản lý nhà
nước về tôn giáo nhằm động viên kịp thời cán bộ toàn ngành quản lý nhà nước về tôn
giáo./.
Chương 3:Nội dung cơ bản chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản
Việt Nam
3.1.Nghị quyết 24 của Bộ chính trị
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống, kề
vai sát cánh với nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Các dân tộc
thiểu số nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc
biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường



sinh thái. Đồng bào các dân tộc nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai và
xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự
đa dạng, phong phú của nền văn hoá Việt Nam thống nhất.
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí
chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng
ta đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc, với những nội dung cơ bản là :
“Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển”. Trải qua các thời
kỳ cách mạng, công tác dân tộc đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần
quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của đất nước.
3.2. Nhiệm vụ công tác tôn giáo
Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, trong đó
có đồng bào các tôn giáo.
- Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và
pháp luật của Nhà nước.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời đẹp
đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ đất nước.
- Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu
tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo,
dân tộc để phá hoại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ.
- Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối
đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; đấu tranh làm thất bại những luận điệu
tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch bên ngoài đối với
tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta.

- Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn
giáo.Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp
luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách
trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo.
3.4. Giải pháp chủ yếu


1- Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ
thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính
sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân,
nhất là trong chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo.
- Giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ
quốc, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội,
hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những
người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân; tôn trọng tín ngưỡng truyền
thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo, thông qua đó tăng cường
sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo và những người
không tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau; đồng thời, tạo cơ sở để đấu tranh chống những tà đạo, những hoạt
động mê tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo làm hại đến lợi ích của Tổ quốc, dân tộc
và nhân dân.
2- Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị ở
cơ sở.
- Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; đổi mới nội dung, phương thức
công tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo, phù hợp với đặc điểm của
đồng bào có nhu cầu luôn gắn bó với sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn giáo.
- Tăng cường hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách đối với chức sắc, chức

việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo.
3- Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo.
- Tăng cường đầu tư và thực hiện có hiệu quả các dự án, chương trình mục tiêu
quốc gia, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, văn hoá cho nhân dân các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm các
vùng đông tín đồ tôn giáo và vùng dân tộc miền núi còn nhiều khó khăn.
- Sớm ban hành Pháp lệnh về tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thực hiện; chuẩn
bị để tiến tới xây dựng Luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
- Tăng cường cảnh giác cách mạng, xây dựng phương án cụ thể, chủ động đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn
giáo để kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an
ninh quốc gia.


- Giải quyết việc tôn giáo tham gia thực hiện chủ trương xã hội hóa các
hoạt động y tế, văn hóa, xã hội, giáo dục... của Nhà nước, theo nguyên tắc :
Khuyến khích các tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận tham gia phù hợp với
chức năng, nguyên tắc tổ chức của mỗi tôn giáo và quy định của pháp luật.
Cá nhân tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành tham gia với tư cách công dân
thì được khuyến khích và tạo điều kiện thực hiện theo quy định của pháp luật.
- Thống nhất chủ trương xử lý vấn đề nhà, đất sử dụng vào mục đích tôn giáo
hoặc có liên quan đến tôn giáo :
Đối với đất đai, thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
Đối với việc khiếu kiện liên quan đến nhà và cơ sở tôn giáo đã chuyển giao
cho chính quyền hoặc đoàn thể sử dụng : về nguyên tắc, xử lý theo quy định
của pháp luật hiện hành; riêng đối với những trường hợp nhà, đất do tôn giáo
đã hiến tặng có văn bản xác nhận thì không đặt vấn đề trả lại.
- Đối với hội đoàn tôn giáo, thực hiện theo nguyên tắc mọi tổ chức tôn giáo
phải được Nhà nước công nhận và hoạt động theo quy định của pháp luật.
4- Tăng cường công tác tổ chức, cán bộ làm công tác tôn giáo.

- Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác tôn giáo của Đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, mô hình tổ chức quản lý nhà nước về tôn giáo ở các cấp; xây dựng
quy chế phối hợp phát huy sức mạnh và hiệu quả công tác.
- Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo bồi dưỡng, sử dụng
và bảo đảm chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.
- Quan tâm thoả đáng việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn
giáo các cấp. Cán bộ làm công tác tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
phải được bồi dưỡng, huấn luyện để hiểu biết phong tục tập quán, tiếng nói
của dân tộc nơi mình công tác.
3.5. Tổ chức thực hiện
- Các cấp uỷ đảng tổ chức quán triệt Nghị quyết về công tác tôn giáo đồng thời
với Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và Nghị quyết về
công tác dân tộc. Tổ chức nghiên cứu sâu trong cán bộ làm công tác tôn giáo
và trong những địa phương có đông đồng bào theo đạo và những địa phương
có vấn đề tôn giáo phát sinh. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt kế hoạch phổ
biến tinh thần nghị quyết trong chức sắc và tín đồ các tôn giáo.
- Đảng đoàn Quốc hội và Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo việc cụ thể hoá


nội dung nghị quyết thành chính sách, pháp luật; xây dựng chương trình hành
động của Quốc hội và Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, các địa phương thực
hiện. Đối với các luật, pháp lệnh mà phạm vi điều chỉnh có liên quan đến tôn
giáo cần có điều khoản riêng quy định những nội dung cụ thể liên quan đến
vấn đề về tôn giáo.
- Các cấp uỷ căn cứ tình hình cụ thể của địa phương, xây dựng chương trình
hành động thực hiện nghị quyết, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra để nghị quyết
sớm đi vào cuộc sống.
- Đảng đoàn Mặt trận và các đoàn thể nhân dân xây dựng chương trình hành
động thực hiện nghị quyết, tổ chức đoàn viên, hội viên thực hiện.

- Ban Dân vận Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc và
định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện nghị quyết;
trong quá trình thực hiện, kịp thời phát hiện, đề xuất, kiến nghị để điều
chỉnh, bổ sung cụ thể hoá các chủ trương, chính sách, giải pháp nhằm thực
hiện thắng lợi nghị quyết.
3.6. ý nghĩa của chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Những thành tựu và hạn chế khi thực hiện nhưng chính sách tôn giáo
- Thành tựu;
+ Khắc phục nhận thức lệch lạc về tôn giáo và công tác tôn giáo tạo
ra xu hường đồng hành cùng dân tộc
+ Khăc phục những hẹp hòi định kiến do lịch sử để lại
+ Cả HTCT quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của giáo dân
+ Đồng bào có đạo tham gia ngày càng nhiều vào sự nghiệp đổi mới
+ Hoạt động tôn giáo đi vào nề nếp, tuôn thủ hiến pháp, pháp luật
- Hạn chế
+ Cấp uỷ, chính quyền và cán bộ tôn giáo một số nơi chưa nhận thức
đầy đủ về chính sách tôn giáo
+ Quan điểm, tư tưởng về chính sách tôn giáo chậm đổi mới
+ Việc thực hiện chính sách tôn giáo có biểu hiện hẹp hòi, định kiến
+ Quản lí nhà nước với tôn giáo vừa cứng nhắc vừa buông lỏng.
Thiếu kiên quyết đấu tranh với những hành vi sai trái


×