Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Pháp luật chống bán phá giá và thực tiễn áp dụng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.1 KB, 25 trang )

CH QTKD 8A

Môn Pháp luật trong kinh doanh
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang ngày càng quốc tế hóa sâu sắc,
các quốc gia ngày càng tham gia tích cực và không thể đứng ra ngoài cuộc của
quá trình này nền kinh tế các nước ngày càng lệ thuộc vào nhau và trong bối
cảnh đó sự lớn mạnh, bền vững kinh tế thế giới có thể đạt được nếu tạo ra được
tính công bằng trong quan hệ thương mại quốc tế.
Với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam
đã thực hiện và đạt được những thành tựu to lớn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá, trong đó có những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có uy
tín trên thị trường thế giới đã xuất hiện một số trường hợp hàng xuất khẩu của
nước ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá để tạo ra
hàng rào bảo hộ, ngăn cản hàng hoá của ta không cho xuất khẩu vào thị trường
của nước họ. Việt Nam tham khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm
1995, Hiệp định Thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ năm 2000.
Ngày 07 tháng 11 năm 2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150
của WTO tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu. Xuất phát tự trên cho thấy Việt
Nam đã chủ động hội nhập sẵn sàng tham gia giao lưu kinh tế với các nước trên
thế giới và sẵn sàng áp dung thực thi các cam kết quốc tế nói chung và các cam
kết về thương mại hàng hóa nói riêng.
Ở Việt Nam việc tiếp cận với các quan hệ thương mại quốc tế đã có từ
lâu, song việc làm quen thích ứng với các quy luật thị trường lại là điều mới mẻ.
Hiện nay, các quan hệ ngoại thương ngày càng quan trọng và đa dạng, các chiến
lược xuất khẩu của ta thường bị các rào cản thương mại đặc biệt là các vụ kiện
bán phá giá ngày càng tăng, khi mà hiện nó gây ra những thiệt hại vô cùng to
lớn cho nền kinh tế đất nước các cơ chế giải quyết thì lại không hữu hiệu chủ

1




CH QTKD 8A

yếu là bằng thủ tục tư pháp và phía thiệt hại luôn là chúng ta, các cơ chế song
phương chưa phát triển trong khi đó việc đàm phán ra nhập các cơ chế đa
phương thì lại chậm và việc mình chưa đủ điều kiện để ra nhập khiến cho những
tổn thất ngày càng tăng hơn thế nữa việc họ kiện mình thì được, trong khi đó
việc họ bán phá giá hàng hóa vào Việt Nam của nước ngoài thì mình lại không
làm gì được do mình chưa có cơ chế pháp lý.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tài, tác giả muốn làm rõ hơn những tác hại
của việc bán phá giá và áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước cũng như
Việt Nam, bàn một số phương hướng khắc phục. Thấy được những bất cập của
pháp luật chống bán phá giá, tác hại của bán phá giá đối với nước xuất khấu,
nước nhập khẩu. Nhằm góp phần đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới
thêm sâu rộng.
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài
Đối tượng: Trong đề tài này tôi tập trung nghiên cứu về vai trò của pháp
luật chống bán phá giá, các cơ chế giải quyết các hành vi bán phá giá và cơ quan
thực thi giải quyết qua các văn bản pháp luật quốc gia như Pháp lệnh chống bán
phá giá, Luật thương mại, Luật thuế và các văn bản pháp luật quốc tế như Hiệp
định chống bán phá giá của WTO, Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
GATT(1994), nắm vững đối tượng nghiên cứu cho phép chúng ta tiếp cận một
cách sâu sắc và đầy đủ các khía cạnh của vấn đề cần nghiên cứu. Việc không chỉ
nghiên cứu pháp luật Việt Nam mà còn nghiên cứu pháp luật của các nước để
hiểu thêm về sự đa dạng của bán phá giá và cũng là chìa khóa để chúng ta tiếp
cận với nền pháp luật tiên tiến chặt chẽ để bổ sung cho pháp luật chống bán phá
giá ở nước ta thêm hiệu quả và thực thi tốt hơn, góp phần đẩy mạnh thực hiện sự
công bằng trong quan hệ kinh tế thời kỳ hội nhập.
Mục đích: Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu thêm một phần nhỏ bé về bán

phá giá, chống bán phá giá một đề tài không mới đối với các nước pháp triển
nhưng rất mới mẻ đối với các nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta. Sự
hiểu biết chưa sâu sắc đã làm cho các doanh nghiệp Việt Nam luôn mắc phải và
2


CH QTKD 8A

luôn phải thiệt hại rất lớn tự việc bán phá giá và bị kiện, mục địch của đề tài là
không chỉ giúp nhà nước, doanh nghiệp,cá nhân hiểu và thực hiện chiến lược
xuất khẩu phù hợp với các điều kiện cam kết gia nhập mà còn áp dụng các điệu
kiện đó để kiện lại bên vi phạm các điệu kiện đó, hay nói đúng hơn là chúng ta
dùng cam kết đó bảo vệ mình và dùng nó để đòi lại quyền lợi cho mình. Nâng cao
và tuyên truyền pháp luật chống bán phá giá vào các doanh nghiệp, cá nhân để khi
thực hiện các hoạt động kinh tế đặc biệt là kinh tế xuất nhập khẩu để tránh những
thiệt hại kinh tế khi bị kiện bán pháp giá. Muốn các cơ quan chức năng tích cực
hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá theo xu thế chung của thế giới để bảo vệ
quyền lợi của các bên, tích cực đàm phán gia nhập các tổ chức thương mại quốc tế
đa phương để bảo vệ một cách có hiệu quả quyền lợi của các bên.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài “Pháp luật chống bán phá giá và thực tiễn áp dụng
tại Việt Nam”. Tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp thống kê
4. Cơ cấu của đề tài
Đề tài có kết cấu ba phần gồm: Phần mở đầu; Phần nội dung; Phần kết
luận. Trong đó phần nội dung gồm 2 chương.
Chương 1: Pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá gồm 6 nội dung lớn:

Khái niệm; Đặc điểm của bán phá giá và chống bán phá giá; Ý nghĩa, vai trò của
việc chống bán phá giá; Tác động của việc chống bán phá giá; Một số cách thức
chống bán phá giá; Các quy định pháp luật về chống bán phá giá.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về chống bán
phá giá tại Việt Nam gồm 3 nội dung lớn: Thực trạng bán phá giá và chống bán
phá giá tại Việt Nam; Nguyên nhân của việc chống bán phá giá; Các giải pháp lý
luận và thực tiễn để chống bán phá giá vào Việt Nam.
3


CH QTKD 8A

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
1. Khái quát về chống bán phá giá
1.1 Khái niệm
Phá giá: Là bán không đúng với giá trị thực của hàng hóa.
Bán phá giá: Là tổng hợp những biện pháp bán hạ giá một mặt hàng nào
đó với giá thấp hơn giá hiện hành của mặt hàng đó trên thị trường, làm cho
những người bán hàng khác hạ giá bán. Như vậy ở đây có sự so sánh về giá ở
hai thị trường khác nhau: Thị trường nước nhập khẩu và thị trường nước xuất
khẩu, mặc dù giá bán ở thị trường tiêu thụ (nước nhập khẩu) có thể không khác
nhau, thậm chí có thể xảy ra trường hợp giá bán cao hơn giá hiện hành. Nhìn
chung, các tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện tượng “bán phá giá” xảy ra khi
hàng hóa xuất khẩu được bán sang một nước khác với giá thấp hơn giá bán tại
thị trường nội địa (của nước xuất khẩu). Nếu đọc lướt qua, định nghĩa này thật là
đơn giản, chỉ việc so sánh giữa giá xuất khẩu với giá bán tại nội địa, nếu giá xuất
khẩu thấp hơn giá nội địa tức là có sự bán phá giá. Tuy nhiên, việc xác định một
mặt hàng có bán phá giá tại nước nhập khẩu hay không lại phải nhìn nhận từ
nhiều yếu tố. Sự xác định ấy phải được dựa trên các căn cứ khoa học, pháp lý rõ

ràng trong từng trường hợp cụ thể, điều đó là cần thiết trong quan hệ kinh tế
ngày nay để mang tính công bằng hơn.
Chống bán phá giá: Là tổng hợp những biện pháp cách thức nhằm chống
lại các hành vi bán phá giá vào thị trường của một nước hay vùng lãnh thổ. Khi
các hành vi bán phá giá thực hiện gây thiệt hại cho các nước nhập khấu thì tất
yếu sẽ có các biện pháp mà nước nhập khẩu đặt ra nhằm ngăn cản sự vi phạm
đó. Trong rất nhiều cách thức đó thì việc áp dụng các quy định pháp luật luôn là
4


CH QTKD 8A

biện pháp được đặt ra và rất hiệu quả, đặc biệt là các biện pháp thuế quan luôn là
chế tài thường áp dụng đối với các mặt hàng được cho là bán phá giá. Nhìn
chung, để đảm bảo nền sản xuất trong nước phát triển bền vững các nước luôn
tìm cách thức nhất định nhằm chống bán phá giá và việc hình thành các cam kết
đa phương là hướng ưu tiên lừa chọn trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới
ngày nay.
1.2 Đặc điểm của bán phá giá và chống bán phá giá
Đặc điểm của bán phá giá: Phải là hàng hóa lưu thông trên thị trường và
bán với giá thấp hơn giá thị trường của nước nhập khẩu hoặc một nước thứ ba
nào đó, bán phá giá phải làm phương hại đến nền sản xuất của nước nhập khẩu
làm cho các nghành sản xuất bi bán phá giá phải đình trệ sản xuất, bán phá giá
phải kéo theo việc giảm giá của mặt hàng cùng chủng loại sản xuất trong nước
hoặc vùng lãnh thổ đó giảm theo, giá bán tại nước nhập khẩu phải không đúng
với giá chi phi sản xuất thực của mặt hàng đó tại nước xuất khẩu hoặc một nước
thứ ba nào đó, việc bán hàng đó làm phương hại đến các quy luật của nền kinh
tế thị trường.
Đặc điểm của chống bán phá giá: Là cách thức do cơ quan có thẩm quyền
đặt ra nhằm chống lại các hành vi bán phá giá, chống bán phá giá phải dựa trên

các căn cứ khoa học pháp lý rõ ràng khi áp dụng các biện phá chống bán phá giá
vào một mặt hàng nào đó, chống bán phá giá phải phù hợp với các quy tắc và
thông lệ quốc tế, chống bán phá giá phải vừa mang tính răn đe và thúc đẩy sự
phát triển của các quan hệ kinh tế lành mạnh, chống bán phá giá không làm mất
đi tính lưu thông một mặt hàng trên thị trường, chống bán phá giá phải góp phần
thúc đẩy sản xuất trong nước, chống bán phá giá phải là tổng hợp của nhiều biện
pháp nhất định nhằm phản ánh một cách trung thực nhất của hiện tượng vi phạm
pháp luật về chống bán phá giá.
1.3 Ý nghĩa, vai trò của việc chống bán phá giá
Chống bán phá giá có ý nghĩa kinh tế, xã hội hết sức to lớn đối với đất
nước trong thời kỳ hội nhập, từ việc chống bán phá giá cho thấy sức bảo về nền
5


CH QTKD 8A

sản xuất trong nước thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với các thành phần
kinh doanh cũng như nhu cầu việc làm của người lao động, chống bán phá giá là
biện pháp tự vệ hữu hiệu đối với các nước có nền sản xuất nhỏ và kinh tế chưa
phát triển, chống bán phá giá tạo ra cơ hội kinh doanh bình đẳng hơn cho các
doanh nghiệp vừa và nhở, các nghành sản xuất của một nước cá thể bị triệt tiêu
ngay trên sân nhà của mình khi việc bán phá giá này sảy ra thường xuyên và
không có biện pháp ngăn chặn. Chống bán phá giá tạo ra cơ hội có việc làm cho
người lao động rộng mở hơn, thực hiện tốt việc chống bán phá giá sẽ tạo ra được
uy tín trên thế giới là địa chỉ hấp dẫn của các nhà đầu tư, chống bán phá giá có
vai trò thúc đẩy sản xuất thúc đẩy sự sáng tạo của các thành phần kinh doanh
ngày càng đa dạng.
Việc chống bán phá giá là một nhu cầu cần thiết để bảo về các nghành sản
xuất cũng như bảo vệ giá thành của các mặt hàng tránh sự định giá thiếu căn cứ
thống nhất, chống bán phá giá bảo vệ nền kinh tế đất nước trong thời kỳ khi mà

nền sản xuất của các nước đêu pháp triển và chất lượng ngày càng tăng, đặc biệt
một số nươc trong thời ký công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại chú trọng phát triển
nền kinh tế xuất khẩu là chính, việc bán phá giá tất yếu sẽ xảy ra và ngày càng
thường xuyên hơn các biện pháp chống bán phá giá sẽ mang lại lợi ích cho nước
nhập khẩu. Việc chống bán phá giá hiện nay được các nước phát triển áp dụng
rất triệt để, trong khi đó thì các nước đang phát triển lại tỏ ra rất lúng túng trong
việc xử lý các hành vi bán phá giá vào quốc gia mình mà lý do chủ yếu là thiếu
cơ sở pháp lý. Nhìn chung, việc chống bán phá giá mang ý nghĩa rất lớn, là động
lực và vai trò quan trọng đế thúc đẩy sản xuất trong nước.
1.4 Tác động của việc chống bán phá giá
1.4.1 Tác động của việc bán phá gia
Nhìn dưới góc độ tích cực thì phá giá mang lại lợi ích cho người tiêu dùng
tại nước nhập khẩu (thường là lợi ích ngắn hạn, tạm thời), mức độ thiệt hại mà
doanh nghiệp xuất khẩu phải gánh chịu do bán phá giá là mức độ lợi ích mà
người tiêu dùng trong nước nhập khẩu được thụ hưởng. Tuy nhiên, việc bán phá
6


CH QTKD 8A

giá có thể gây những tác động tiêu cực đến nước nhập khẩu thể hiện ở các khía
cạnh sau:
Bán phá giá gây thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất sản phẩm tương
tự trong nước. Thiệt hại về vật chất được xét trên một loạt các yếu tố và chỉ số
kinh tế như: Sự suy giảm thực tế hoặc tiềm ẩn của doanh thu, lợi nhuận, sản
lượng, thị phần, năng suất, việc làm, tiền lương, tăng trưởng.Bán phá giá gây tác
động đến sự phát triển ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu
trong tương lai. Sản xuất của các nước nhập hàng bán phá giá có thể bị đình đốn,
không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, mất thị trường và phá sản.
Xuất phát từ thành kiến cố hữu việc bán phá giá thường được coi là có tác

động tiêu cực, thường vì lý do giảm lợi nhuận của người bán hàng khác gây thiệt
hại cho các nhà sản xuất cùng một mặc hàng của nước nhập khẩu, cho nên người
ta thường tìm biện pháp để chống lại hành động này. Tuy nhiên, cần có sự phân
tích thấu đáo bản chất của mọi trường hợp bán phá giá để xem có phải tất cả mọi
hành động bán phá giá đều có hại hay không để có biện pháp đối phó thích ứng.
Cuối cùng, hành vi phá giá bóp méo những nguyên lý cơ bản của thị trường
nước nhập khẩu (cạnh tranh tự do và lành mạnh).
1.4.2 Tác động của việc chống bán phá giá
Xuất phát từ các tác động của việc bán phá giá việc chống bán phá giá gây
ra những tác động tích cực nhất định cho nước nhập khẩu. Tác động tích cực về
tránh sự gây ra thiệt hại cho các nghành sản xuất trong nước hiện tại và trong
tương lại, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế thị trường, việc chống bán
phá giá chủ yếu bảo vệ lợi ích kinh tế song việc chống bán phá giá thành công
được lại là sự tổng hợp rất nhiều biện pháp mang tính quyền lực pháp lý nhà
nước, việc chống bán phá giá có tác động dến sản xuất, sự lành mạnh trong kinh
doanh cũng như tác động đến các thành phần chủ thể tham gia làm cho họ thêm
mặn mà trong kinh doanh, sự tác động của chống bán phá giá đến việc tạo nên
những kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về chống bán phá giá giúp các quy
luật của thị trường thêm phát triển tốt hơn.
7


CH QTKD 8A

1.5 Một số cách thức chống bán phá giá
1.5.1 Các hình thức bán phá giá
Thứ nhất: giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nước xuất khẩu
nhưng vẫn cao hơn chi phí sản xuất. Trường hợp này có thể xảy ra khi một mặt
hàng chiếm vị trí độc quyền hoặc gần như độc quyền ở thị trường nội địa xuất
phát từ điều kiện tự nhiên hoặc do được hưởng lợi thế từ hàng rào thương mại,

nhưng phải cạnh tranh thị trường nước xuất khẩu. Trong trường hợp này vì mục
đích tối đa hóa lợi nhuận họ sẽ lợi dụng vị thế độc quyền của mình để ấn định
giá bán trong nước cao hơn, chừng nào thị trường đó còn chấp nhận được. Trong
khi đó do phải cạnh tranh ở thị trường xuất khẩu mặt hàng đó chỉ có thể bán với
giá đang tồn tại ở thị trường đó như vậy đã xảy ra hiện tượng bán phá giá. Nếu
việc bán phá giá này không làm giá ở thị trường nước nhập khẩu thay đổi (do
cạnh tranh ở đây hoàn hảo) sẽ không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập
khẩu, và vì thế sẻ không cần thiết phải có biện pháp chống đối lại.
Thứ hai: giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên thấp hơn giá
thị trường trong nước. Trong trường hợp này có thể xảy ra một số tình huống
khác nhau tùy thuộc vào định nghĩa chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay “chi
phí lề”
Trước hết, để hiểu được ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá thấp hơn chi
phí cần phân biệt các loại chi phí .Thông thường, chí sản xuất được phân biệt
theo hai loại: chi phí bình quân và chi phí lề:
Chi phí bình quân được tính bằng tất cả các chi phí một mặt hàng phải chịu chia
cho lượng sản phẩm sản xuất ra.
Chi phí lề là chi phí phải bỏ ra để sản xuất ra thêm một đơn vị sản phẩm.
Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại chi phí sản
xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có một phần nhỏ chi
phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính chi phí lề là yếu tố
8


CH QTKD 8A

quyết định trong việc định giá của một hang trong thời gian ngắn hạn khi phải
chịu chi phi phí nhất định để thâm nhập vào một thị trường.
Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập khẩu
là bất hợp lý và như vậy sẽ đối sử không bằng giữa mặt hàng nội địa và mặt

hàng nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể áp dụng các chính sách hỗ trợ
cho các mặt hàng nội địa giảm nhẹ thiệt hại dưới hình thức tự vệ.
1.5.2 Một số cách thức chống bán phá giá
Trong quan hệ kinh tế ngày nay, việc phát triển nền kinh tế hàng hóa là
chủ yếu và ngày càng đa dạng về chủng loại cũng như chất lượng sản phẩm. Các
hình thức kinh doanh cũng phát triển mạnh mẽ đặc biệt là xuất khẩu hàng hóa và
việc này sẽ không tránh khỏi việc bán phá giá vào một quốc gia hay vùng lãnh
thổ, trong tình thế đó các chủ thể bị thiệt hại nhất định sẽ tìm cách để ngăn cản
hành vi bán phá giá đó và trên thế giới cũng như Việt Nam hiện nay vẫn đang áp
dụng một số biện pháp sau để chống bán phá giá:
Áp dụng thuế chống bán phá giá: Đây là biện pháp thường áp dụng phổ
biến nhất. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì Thuế chống bán phá giá là
thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bị bán phá giá
nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành
sản xuất trong nước. Cũng như vậy, việc quy định thuế chống bán phá giá là chế
tài chủ yếu áp dụng cho các mặt hàng được xem là bán phá giá và thường thì
mức thuế rất cao có thể lên đến 100% và đây là một thiệt hại to lớn cho bên
xuất khẩu.
Cam kết về các biện pháp loại trừ chống bán phá giá: Đây là biện pháp
thường áp dụng trong khi gia nhập các tổ chức đa phương về thương mại, và các
chủ thể chủ yếu là cá nhân, tổ chức hay là chính phủ của một nước nào đó. Việc
áp dụng các cam kết này chưa thật sự được thực hiện tại Việt Nam vì chúng ta
chưa đủ các điều kiện cần thiết để đáp ứng các yêu cầu đó, các cam kết này
mang tính tự nguyện thực thi cũng như phải chấp nhận các chế tài khi vi phạm
vào đó, việc cam kết này sẽ thực hiện khi các nước cùng nằm trong một tổ chức
9


CH QTKD 8A


thương mại, việc cam kết này chỉ có hiệu lực đối với nước đã cam kết mà không
áp dụng đối với các nước không tham gia. Thường thì các biện pháp loại trừ
chống bán phá giá sẽ được áp dụng trước nếu nước đó đã cam kết thay vì áp
dụng thuế chống bán phá giá.
Thực hiện biện pháp kiện khi có các hành vi bán phá giá: Trong những
năm qua việc Việt Nam luôn bị kiên bán phá giá đã cho ta một bài học đắt giá về
hậu quả của bị xử thua, trong thời kỳ hội nhập việc chủ động kiện khi bị bán phá
giá là một biện pháp thiết thực và cần thiết hiện nay. Tuy nhiên, việc phải chuẩn
bị là rất nhiều trong đó cơ sở pháp lý là điều cần thiết và một đội ngủ các doanh
nghiệp đoàn kết là con đường để có thể kiện thành công và thắng lợi. Thuận lợi
của chúng ta hiện nay là việc chúng ta đã gia nhập WTO với Hiệp định chống
bán phá giá của tổ chức này và các văn bản pháp lý về chống bán phá giá ở
trong nước chúng ta có đủ cơ sở phá lý cần thiết để tiến hành các vụ kiện và
thắng lợi.
Như vậy, việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá là điều cần thiết để
bảo vệ lợi ích của các nghành sản xuất trong nước pháp triển ngày một tốt hơn.
2. Các quy định pháp luật về chống bán phá giá
2.1 Trên thế giới
Quy định về chống bán phá giá của WTO: Năm 1948 hệ thống thương
mại đa biên được thiết lập với sự ra đời của Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại (GATT). Trải qua gần một nửa thế kỷ, những quy định của GATT
về thương mại đa biên, trong đó có quy định về chống bán phá giá (Điều VI) tỏ
ra chưa chặt chẽ. Cùng với sự ra đời của WTO, Hiệp định Chống bán phá giá đã
có những quy định chặt chẽ và chi tiết hơn nhiều so với Điều VI của GATT.
Theo Hiệp định này, nước nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán
phá giá khi: Hàng nhập khẩu bị bán phá giá; Gây thiệt hại về vật chất cho ngành
sản xuất trong nước; Cuộc điều tra phá giá được tiến hành theo đúng thủ tục.
Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định rất chi tiết nguyên tắc xác
định phá giá, cách tính biên độ phá giá và thủ tục điều tra phá giá như sau: Một
10



CH QTKD 8A

sản phẩm được coi là bị bán phá giá khi: Giá xuất khẩu sản phẩm đó thấp hơn
giá có thể so sánh được trong điều kiện thương mại thông thường ("giá trị thông
thường") của sản phẩm tương tự khi tiêu thụ ở thị trường nước xuất khẩu. Có thể
nói hiệp định chống bán phá giá của WTO là một văn bản quan trọng và ra đời
khá sớm trong việc bảo vệ các nghành sản xuất, là hiệp định đa phương đầu tiên
trong đó các thành viên tham gia đều hưởng ứng tham gia khi giai đoạn này sự
phát triển kinh tế hàng hóa là không cân bằn nhau, như vậy đến nay hầu hết các
nước đều lấy định nghĩa của Hiệp định chống bán phá giá của WTO làm nền
tảng của pháp luật chống bán phá giá và chống trợ cấp ở trong nước. Hiệp định
chống bán phá giá của WTO là văn bản phá lý quan trọng cho các nước thành
viên đối xử bình đẳng với nhau trong quan hệ thương mại áp cũng phải tôn trọng
và thực thi.
Giá xuất khẩu hàng hoá thường được xác định trên cơ sở giá giao dịch giữa
người xuất khẩu và nhập khẩu tại nước nhập khẩu.Tuy nhiên, giá giao dịch có
thể không được chấp nhận là giá xuất khẩu trong trường hợp buôn bán đối lưu,
hoặc trao đổi nội bộ.
Khi giá xuất khẩu thấp hơn so với giá trị bình thường của hàng hoá thì nước
nhập khẩu được quyền áp dụng thuế chống bán phá giá để bảo hộ cho sản xuất
trong nước vì bán phá giá bị cho là hình thức cạnh tranh không lành mạnh. Để
xem xét có hiện tượng bán phá giá hay không, không những chỉ cần so sánh các
mức giá trên hai thị trường mà còn phải xác định được mức độ thiệt hại vật chất
mà bán phá giá gây ra cho ngành sản xuất của nước nhập khẩu. Theo WTO, thiệt
hại do bán phá giá gây ra có thể là: thiệt hại vật chất đối với sản xuất công
nghiệp trong nước; nguy cơ gây ra tổn thất vật chất hoặc gây cản trở đến hoạt
động của ngành công nghiệp tương tự trong nước. Đây là một tiêu thức khó định
lượng một cách rõ ràng, chính xác. Vì vậy các nước nhập khẩu có nhiều cơ hội

để áp dụng công cụ bảo hộ sản xuất trong nước bằng áp thuế chống bán phá giá
khi họ cho rằng hàng nhập khẩu có thể gây thiệt hại cho sản xuất trong nước.

11


CH QTKD 8A

Quy định về chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu (EU): Luật
chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu ra đời năm 1968 và đã được sửa đổi
và bổ sung nhiều lần chủ yếu nhằm đưa những nội dung mới của việc thực hiện
Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch 1994 (Hiệp định
Chống bán phá giá 1994) vào luật của EU hiện nay. Luật chống bán phá giá áp
dụng đối với tất cả các nước không phải là thành viên EU. Đối với các nước bị
coi là chưa có nền kinh tế thị trường hoặc đang trong quá trình chuyển đổi, EU
có thể áp dụng những điều khoản đặc biệt được quy định trong các hiệp định ký
giữa EU với các nước thứ ba.
Luật sửa đổi năm 1996 đã đưa ra cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá theo 4 điều kiện: Mặt hàng đó đang bị bán phá giá (giá
bán thấp hơn giá thương mại thông thường); Nghành công nghiệp sản xuất mặt
hàng đó đang bị đe dọa hoặc đang bị tổn thương vật chất; Có mối quan hệ nhân
quả giữa hàng nhập khẩu đó và tổn thương vật chất của ngành công nghiệp của
EU; Và việc áp đặt các biện pháp chống bán phá giá là vì lợi ích của Cộng đồng.
Các quy định hiện có của EC được thay thế bởi Quy chế Chống bán phá giá mới
có hiệu lực từ ngày 1/1/1995. Quy định này sau đó được cập nhật bởi Quy chế
384/96 có hiệu lực từ ngày 6/3/1996. Quy chế đồng thời cũng đưa ra giới hạn
thời gian chặt chẽ cho việc hoàn thành điều tra và ra quyết định nhằm đảm bảo
rằng các đơn khiếu kiện được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả.
Khi một mặt hàng nào đó được xác định là bán phá giá vào thị trường EU và
có đơn kiện của người sản xuất của Liên minh thì Ủy ban châu Âu sẽ xem xét

việc bán phá giá đó có ảnh hưởng đến lợi ích chung của EU hay không. Có thể
nói Liên minh Châu Âu đã có một bước tiến dài trong việc hợp tác của một khối
kinh tế nhất định, việc ra đời Hiệp định chống bán phá giá 1968 là một thành tựu
rất lớn và ngày càng hoàn thiện chế định này, thực tế trong những năm qua tỷ lệ
các vụ kiện của Liên minh Châu Âu liên quan tơi việc chống bán phá giá là rất
lớn. Tuy nhiên với việc ra đời sau và luôn được bổ sung hoàn thiện việc xác
định biên độ phá giá của Liên minh Châu Âu mang tính khoa học hơn.
12


CH QTKD 8A

2.2 Ở Việt Nam
Xu thế toàn cầu hóa thật sự tác động đến Việt Nam trong những năm của
quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các quan hệ xã hội cũng dần
được thay đổi mang tính phụ hợp hơn, là một quốc gia có xuất phát điểm kinh tế
còn chậm phát triển, sự tác động của quá trình hội nhập đòi hỏi Việt Nam phải
phấn đấu rất nhiều. Từ những trải nghiệm của kinh tế thị trường mang lại mấy
năm trở lại đây chúng ta cung quan tâm hơn tới việc chống bán phá giá, mặc dù
mới là bước đầu nhưng cũng đã có những tín hiệu khả quan.
Trong lịch sử chống bán phá giá ở Việt Nam, do co chế kinh tế bao cấp
cho nên việc chưa tiếp cận với nền kinh tế thị trường làm cho việc bán phá giá
không thể xay ra, kinh tế đối ngoại đều do nhà nước thực hiện, hàng hóa trong
nước thì được nhà nước phân phối, khi chưa có kinh tế thì trường tất yếu sẽ
không có bán phá giá và dĩ nhiên cũng sẽ không thể có chống bán phá giá.
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội
Chủ Nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc bán phá giá
mới xảy ra và các biện pháp chống bán phá giá mới được đặt ra, các văn bản
pháp lý đầu tiên ra đời và bước đầu áp dụng có hiệu quả và các văn bản pháp lý
đầu tiên được Việt Nam xây dựng ngay trong thời kỳ đàm phá gia nhập tổ chức

Thương mại thế giới WTO là:
Thứ nhất: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày
20/05/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá
giá vào Việt nam.
Thứ hai: Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
04/04/2001 cũng quy định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán
phá giá trong năm 2001.
Hai văn bản trên đánh dấu sự phát triển và bước đầu hình thành ý thức về
chống bán và đây cũng là những điều kiện cần thiết để thuận lợi cho việc gia
nhập WTO và bắt đầu bổ sung thêm những cơ sở pháp lý cần thiết cho hoàn
thiện thêm.
13


CH QTKD 8A

Thứ ba: Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11 về việc chống bán phá giá
hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 4
năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Là văn bản rất quan trọng, phù
hợp với thông lệ quốc tế, pháp lệnh quy định rõ các hành vi bán phá giá và các
chế tài nhất định của việc bán phá giá. Pháp lệnh có cơ cấu 6 chương và 29 điều
gồm: Những quy định chung; Điều tra để áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá; Áp dụng biện pháp chống bán phá giá; Rà soát việc áp dụng chống bán phá
giá; Khiếu nại và xử lý vi phạm; Điều khoản thi hành. Các quy định khá chi tiết
và đầy đủ các hành vi bán phá giá vào Việt Nam và các cách thức giải quyết đối
với hành vi bán phá giá, trong đó lần đâu tiên chúng ta đã quy định khái niệm:
“Biên độ bán phá giá, thuế chống bán phá giá” phù hợp nhằm bảo vệ lợi ích của
các nghành sản xuất trong nước.Với việc xác định ngày càng rõ hơn khái niện
phá giá đã làm sáng tỏ ba nội dung cơ bản để tiến hành các giải pháp chống bán
phá giá phải chú ý đó là:

Thứ nhất: Xác định hành vi (bán phá giá là hành vi bán hàng hóa, dịch vụ
với giá thấp hơn so với giá thông thường)
Thứ hai: Xác định mục tiêu của hành vi (để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế
cạnh tranh đúng pháp luật)
Thứ ba: Xác định hệ quả xảy ra của hành vi và việc thực hiện mục tiêu của
hành vi (gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh
doanh khác và lợi ích nhà nước).
Các quy định chung tại chương 1 được xem là bước chung và căn bản nhất.
Điều 2 đã lần đầu tiên nêu ra các khái niệm khá mới như Thuế chống bán phá giá;
Biên độ bán phá giá; Biên độ bán phá giá không đáng kể; Đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất trong nước; Ngành sản xuất trong nước; Hàng hóa tương tự; Thiệt hại đáng

kể cho ngành sản xuất trong nước; Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa bán phá
giá nhập khẩu vào Việt Nam không đáng kể. Việc đưa ra các khái niệm như vậy cho thấy
pháp luật Việt Nam đã thể hiện sự quan tâm và nghiên cứu học hỏi t ừ m ột số n ước trên
thế giới. Dựa trên đó cho các chủ thể tác động hiểu được các m ức độ phá giá hay số
lượng, khối lượng hàng hóa bán phá giá.
14


CH QTKD 8A

Điều 3: Xác định hàng hoá bị bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam quy định
Khoản 1: Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá
giá khi nhập khẩu vào Việt Nam (sau đây gọi là hàng hoá bán phá giá vào Việt
Nam) nếu hàng hoá đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường theo quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Khoản 2: Giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là giá có
thể so sánh được của hàng hoá tương tự đang được bán trên thị trường nội địa
của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông

thường.
Khoản 3: Trong trường hợp không có hàng hoá tương tự được bán trên thị
trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc có hàng hoá tương
tự được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu
nhưng với khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa không đáng kể thì giá
thông thường của hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam được xác định theo một
trong hai cách sau đây:
Giá có thể so sánh được của hàng hoá tương tự của nước hoặc vùng lãnh thổ
xuất khẩu đang được bán trên thị trường một nước thứ ba trong các điều kiện
thương mại thông thường;
Giá thành hợp lý của hàng hoá cộng thêm các chi phí hợp lý khác và lợi
nhuận ở mức hợp lý, xét theo từng công đoạn từ sản xuất đến lưu thông trên thị
trường của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc nước thứ ba.
Như vậy, việc xác định hàng hóa bán phá giá vào Việt Nam được quy định
khá cụ thể tại điều 3 của pháp lệnh. Một trong những mục đích đưa ra dự luật này là
việc áp dụng chế tài cho hàng hóa được xem là bán phá giá, cách thức để chống bán
phá giá vào Việt Nam được quy định tại điều 4 của pháp lệnh.
Khoản 1: Áp dụng thuế chống bán phá giá.
Khoản 2: Cam kết về các biện pháp loại trừ bán phá giá của tổ chức, cá
nhân sản xuất, xuất khẩu hàng hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá
giá với cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp chống bán phá giá
15


CH QTKD 8A

của Việt Nam hoặc với các nhà sản xuất trong nước nếu được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền áp dụng biện pháp chống bán phá giá của Việt Nam đồng ý.
Theo các quy định tại điều 4 thì biện pháp chống bán phá giá chủ yếu là áp d ụng
thếu chồng bán phá giá (khoản 1), đây là phương thức chủ yếu trong việc hạn ch ế các

mặt hàng được cho là bán phá giá, và hiện nay hầu hết các nước kiện chống bán phá giá
đã áp dụng loại thuế này, việc áp dụng thuế này được các nước phát triển và áp d ụng
khá phổ biên. Theo quy định trên thì Việt Nam cũng sẽ sử dụng bi ện pháp này ch ủ y ếu
áp dụng đối với những mặt hàng của các nước riêng lẻ chưa phải là th ành viên c ủa các
tổ chức thương mại đa phương, việc áp dụng chế tài này là cần thiết và sẽ mang lại lợi
ích to lớn cho đất nước. Tại khoản 2 cam kết các biện pháp lo ại tr ừ vi ệc bán phá giá c ủa
các tổ chức, cá nhân. Đây là một hình thức khá mới mẻ và nó chỉ là ưu tiên thực hiện khi
các nhà xuất khẩu có một mối quan hệ nhất định và đây cũng chỉ là hình thức để các cơ
quan có thẩm quyền tránh những thiệt hại cho bên xu ất khẩu, nhìn chung trong quan h ệ
kinh tế thị trường thì nhu cầu thị trường cùng những quy định pháp lý thì vi ệc tránh
những thiệt hại là cần thiết việc tôn trọng pháp luật là tối thượng, các doanh nghiệp sản
xuất hoàn toàn có thể phải chịu các thiệt hại nhất định khi th ực hi ện bán phá giá v ào
Việt Nam, xây dựng chế tài phù hợp cùng với mức độ nghiêm trọng của hành vi bán phá
giá cùng với thiệt hại thực tế để phải xử theo quy định của pháp luật.

Điều 6: Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Khi đáp ứng hai điều kiện tại
điều 6 thì việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá m ới được tiến h ành, cho th ấy
cơ sở khoa học lý luậ của việc sử dụng các công cụ pháp luật, cùng có ngh ĩa l à chúng ta
phải chúng minh bằng được các điều kiện cụ thể trong khoản 1 v à 2 c ủa đi ều lu ật, b ất
kỳ hành vi bán vào thị trường Việt Nam nào mà không đáp ứng được các điều kiện trên
thì cũng được xem như không phải là bán phá giá và c ũng không bị áp d ụng các bi ện
pháp chống bán phá giá.

Tại các chương 2 và 3 pháp lệnh và các Nghị định hướng dẫn kèm theo đã quy
định chi tiết, trong đó quy định về quản lý nhà nước về chống bán phá giá, điều tra áp
dụng chống bán phá giá, áp dụng biện pháp chống bán phá giá, các quy định này ch ủ yếu
liên quan đến công việc của các cơ quan nhà nước trong việc xác định hàng hóa có bán
phá giá và cách thức áp dụng các biện pháp chống bán phá giá v à ki ểm tra r à soát vi ệc áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá, khiếu nại và xử lý vi phạm.


Như vậy, sự ra đời của Pháp lệnh 2004 về chống bán phá giá hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam là một bước tiến dài, nó đặt nền móng cho sự ra đời
của Luật chống bán phá giá trong thời gian tới, thể hiện chính sách nhất quán
16


CH QTKD 8A

chủa Chính phủ Việt Nam về hội nhập kinh tế và cam kết nhằm định hướng nền
kinh tế thị trường trong tương lại.
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM
2.1 Thực trạng bán phá giá và chống bán phá giá tại Việt Nam
2.1.1 Thực trạng bán phá hàng nhập khẩu tại Việt Nam
Ngày nay, đứng trước thách thức về cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị
trường nội địa, các quốc gia đã tăng cường sử dụng các công cụ bảo hộ ngày
càng tinh vi thông qua các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng của WTO,
trong đó có thuế chống bán phá giá.Vì vậy, các vụ kiện bán giá xảy ra trên thế
giới ngày càng tăng về số lượng chủ thể tham gia và ngày càng mở rộng phạm vi
hàng hoá áp dụng đa dạng về chủng loại và mẫu mã sản phẩm bị áp dụng các
biện pháp chống bán phá giá.
Theo kết quả điều tra của xã hội học của hội người tiêu dùng Việt Nam tại
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: các nhóm hàng ô tô, xe máy, rượu
bia, thuốc lá của Mỹ, Nhật, Pháp và các nước Châu Âu khác chiếm ưu thế. Với
nhóm hàng gia dụng trước năm 1992 hàng Việt Nam chiếm 62% hàng Mỹ
chiếm 15% các nước Châu Âu chiếm 14% và 11% là các nước còn lại thì từ năm
1992 trở lại đây hàng Trung Quốc đã từng bước chiếm lĩnh thị trường này. Các
mặt hàng như đồ chơi trẻ em, hàng dân dụng, xe máy, các giống cây trồng, thuốc
trừ sâu của Trung Quốc cũng vào thị trường nước ta trong thời gian gần đây.
Tình trạng buôn lậu ở nước ta đang có chiều hướng gia tăng phức tạp làm

cho hàng hóa ế thừa hết hạn sử dụng hoặc hàng kém phẩm chất tràn vào nước ta
bày bán khắp nơi gây tổn thất nặng nề cho các nhà sản xuất trong nước trong
cuộc cạnh tranh bất bình đẳng trên thị trường.
Mặt hàng xe đạp: Khi chuyển sang cơ chế thị trường, do nhiều nguyên
nhân trong đó có nguyên nhân quan trọng đó là hàng nhập lậu trốn thuế bán với
17


CH QTKD 8A

giá rẻ, khiến cho hang xe đạp nội địa không cạnh tranh nổi, ngành xe đạp bị tổn
thương nặng. Bốn trung tâm sản xuất xe đạp lớn trước đây của cả nước nay chỉ
còn lại hai trung tâm là Hà Nội và Thàng phố Hồ Chí Minh hoạt động cầm
chừng. Từ việc sản xuất mỗi năm là 500.000 chiếc đến nay chỉ còn 150.000
chiếc. Hiệp hội xe đạp Việt Nam thành lập năm 1991 có 96 thành viên nay chỉ
còn lại 43 thành viên
Trong khi nhu cầu xe đạp trong nước rất lớn khoảng 500.000- 600.000 xe/năm ,
khả năng sản xuất trong nước có thể đáp ứng được, nhưng chúng ta đã nhường ¾ thị
phần cho xe đạp nhập khẩu từ Nhật, Pháp, Singapo và chủ yếu là hàng Trung Quốc
đa phần là nhập lậu trốn thuế, mẫu mã đẹp và thay đổi liên tục, giá bán rẻ chất lượng
thì tương đương với hàng Việt Nam nhưng kiểu dáng đẹp hơn các đại lý xe đạp
Trung Quốc có thể chịu vốn do đó bỏ xa hàng Việt Nam.
Ngành dệt may: Nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp trên thế giới bao
giờ cũng quan tâm đến thị trường nội địa, lấy thị trường nội địa làm gốc, làm
nền tảng. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại bỏ ngõ thị trường này.
Trên thực tế những doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong những năm gần đây
đã có quan tâm đén thị trường nội địa nhưng sản phẩm của ngành dệt may ở
trong nước vẫn còn rất khiêm tốn hơn năm 2009 hơn 85% giá trị sản xuât là xuất
khẩu hàng nội địa chỉ chiếm gần 15% trong nước. Các công ty may có uy tín
như công ty may 10 công ty dệt may Chiến Thắng, Thăng Long... thì dung

lượng thị trường rất hẹp. Chỉ đáp ứng một phần nhỏ thị trường trong nước. Hiện
nay, trên thực tế vải nội địa chỉ chiếm 20% thị phần còn lại 80% thị phần cho
hàng vải ngoại nắm giữ. Trong đó hàng Trng Quốc chiếm giữ 69% thị phần.
Mặc dùa tổng công ty may Việt Nam hiện nay đã có đủ các loại vải của các
nước danh tiếng sản xuất vải trên thế giới nhưng ngành sản xuất vải của Việt
Nam cũng chưa có khả năng cạnh tranh với các đối thủ như Anh, Mỹ, Ý... bằng
nhiều con đường, các đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh thị phần thông qua việc bán
hạ giá các mặt hàng của mình, đặc biệt là mặt hàng vải Trung Quốc. Giá hàng
vải Trung Quốc chỉ bằng 1/3-1/2 hàng sản xuất trong nước.
18


CH QTKD 8A

Lý giải tại sao hàng Trung Quốc lại rẻ hơn hàng Việt Nam, mặc dù phải chịu
chi phí chuyên chở, tiền lãi cho các nhà xuất khẩu nước ngoài và tiền lãi cho các
nhà nhập khẩu Việt Nam. Báo diễn đàn doanh nghiệp cho rằng “xuất khẩu ra
nước ngoài với giá rẻ, nhiều khi rẻ hơn giá sản xuất trong nước đã giúp xí
nghiệp đạt công xuất tối đa, doanh thu và lợi nhuận đều cao hơn trường hợp bán
trong nước với giá cao nhưng vì xí nghiệp không đạt được công xuất tối đa, chụi
chi phí bất biến cao cuối cùng chỉ đạt lợi nhuận thấp.
Nhìn toàn cảnh, chúng ta thấy rất rõ thế suy yếu của công nghiệp nước nội
địa nước ta trước sự cạnh tranh không bình đẳng và không trung thực của các
hàng hóa nước ngoài. Đi sâu phân tích thực trạng đối với một số nhóm hàng
hóa, ngành cụ thể giúp ta thấy rõ ràng hơn thực trạng bán phá giá hàng nhập
khẩu từ nước ngoài vào thị trường Việt Nam.
2.1.2 Thực trạng chống bán giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam
Đứng trước thực trạng bán phá giá tràn lan vào thị trường Việt Nam ở trên
Chính phủ Việt Nam đã áp dụng một số biện pháp cách thức để ngăn chặn và
tiến tới giảm bớt tình trạng phá giá.

Xây dựng cơ chế pháp luật hoàn chỉnh cho phù hợp với quốc tế và tình
hình ỏ Việt Nam. Bằng việc ra các đạo luật từ trong quá trình đàm phán gia nhập
tổ chức Thương mại thế giới WTO, năm 1998 áp dụng thuế bổ sung đối với
hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt nam quy định trong Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu, năm 2004 Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam, là những văn bản quan trọng nhằm áp dụng các chế tài nhất
định đối với hành vi bán phá giá.
Tích cực tham gia xây dựng các cơ chế đa phương của các tổ chức thương
mại quốc tế để hoàn cùng các nước cam kết về việc chống bán phá giá.
Có biện pháp là kiện lại các mặt hàng đã cho là vi phạm bán phá giá vào
thị trường trong nước, đây là biện pháp tự vệ được các nước thường áp dụng.
Các doanh nghiệp đoàn kết trong việc chống lại các hành vi bán phá giá
đặc biệt là các doanh nghiệp trực tiếp bị ảnh hưởng.
19


CH QTKD 8A

Các cơ quan chức năng tích cực dùng các biện pháp ngăn chặn hàng hòa lọt vào
thì trường đển tiến hành bán phá giá.
Qua một thời gian chúng ta đã làm khá tốt việc ngăn chặn hàng hóa nhập lậu vào
Việt Nam, ngăn chặn được một số mặt hàng có hành vi bán phá giá vào nước ta,
đặc biệt chúng ta đã biết áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại về chống bán
phá giá khi gia nhập WTO thật hữu hiệu. Trải qua nhiều lần bị kiện và bị thua
nay chúng ta đã bắt đầu tỏ rõ thế chủ động là kiện lại các doanh nghiệp chúng ta
cho là vi phạm, dựa trên cơ sở pháp lý của WTO và của Việt Nam.
Tuy nhiên, so với nhiều nước khác thì việc chống bán phá giá của Việt
Nam chưa được là bao, cụ thể là hậu như tất cả các mặt hàng tiêu dùng và cơ khí
nhỏ chúng ta đều bị bán phá giá đặc biệt là tự hàng Trung Quốc, tất cả các lĩnh
vực đều tràn ngập việc kiểm soát giá bán là rất khó nêu nhìn vào giá bán thì giá

hàng Trung Quốc rẻ hơn rất nhiều. Chúng ta đã có đầy đủ các cơ sở cho việc
chống lại các hàng hóa bán phá giá chắc chẵn trong tương lai gần các doanh
nghiệp nước ta sẽ thích ứng và góp phần ngăn chặn các hành vi bán phá giá.
2. 2 Nguyên nhân của việc chống bán phá giá
2.2.1 Nguyên nhân của bán phá giá
Hành động bán phá giá xảy ra do nhiều nguyên nhân:
Do các khoản tài trợ của Chính phủ hoặc cơ quan công cộng nước ngoài.
Chính sách tài trợ nhằm đạt được hai mục đích chính sau đây: Duy trì và tăng
cường mức sản xuất, xuất khẩu. Duy trì mức sử dụng nhất định với các yếu tố
sản xuất như lao động và tiền vốn trong nền kinh tế. Các khoản tài trợ có thể
được cấp cho người sản xuất cũng như người tiêu dùng, nhưng về mặt tác động
kinh tế thì chúng đều như nhau và đều đưa đến những hệ quả kinh tế tương tự.
Do các hình thức tài trợ chủ yếu là: trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín dụng ưu đãi, sự
tham gia của Chính phủ vào các chi phí kinh doanh cũng như các hỗ trợ xuất khẩu.
Do các khoản tài trợ giúp các ngành thực hiện công nghệ mới, trang bị máy
và thiết bị hiện đại, nghĩa là giúp cho các ngành mới gia nhập thị trường và đẩy

20


CH QTKD 8A

mạnh phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, tăng cường
xuất khẩu. Do đó mà chi phi sản xuát giảm xuống dẫn đến việc bán hạ giá.
Do nhập siêu lớn, vẫn phải có ngoại tệ để bù đắp cho nhưng thiếu hụt này.
Khi đó có thể áp dụng biên pháp bán phá giá để giải quyết cho vấn đề thiếu hụt
ngoại tệ.
Do trong một nước có quá nhiều hàng tồn kho, không thể giải quyết theo cơ
chế giá bình thường.
Bán phá giá đước sử dụng như là công cụ cạnh tranh. Sau khi đã chiếm lĩnh

được thị trường nội địa của nước nhập khẩu, triệt tiêu được sự cạnh tranh của
hang nội địa thì các hàng sẻ tìm cách thao túng thị trường nội địa để thu hút lợi
nhuận tối đa.
Do đối với mặt hàng ngoại nhập xuất khẩu, do thu hút được lợi nhuận siêu
ngạch có được từ trốn thuế nhập khẩu, hàng ngoại sẻ điều tiết và chiếm lĩnh
được thị trường với giá cạnh tranh so với hàng hóa sản xuất trong nước
2.2.2 Nguyên nhân của chống bán phá giá
Chống bán phá giá là một nhu cầu thực tế hiện nay nó xuất phát từ nhiều
nguyên nhân mà chủ yếu vẫn là bảo vệ nền sản xuất trong nước giúp co việc
quản lý nhà nước về giá cả các loại hàng hóa trên thị trường, do có việc bán vào
thị trường nhất định và hành vi này được xem là bán phá giá được cơ quan nhà
nước quy định. Chống bán phá giá xuất phát từ nguyên nhân là nhằm bình ổn thị
trường, các quy luật kinh tế thị trường phát triển bền vững, khi có hiện tượng
bán phá giá sẽ làm đả lộn các xu thế khách quan của thị trường mặc dù có lợi
cho người tiêu dùng tại thời điểm đó nhưng đó sẽ là một tiền lệ xấu, chống bán
phá giá giúp người tiêu dùng đến được với giá trị thực của mặt hàng, tạo sự công
bằng hơn cho các nhà sản xuất nội địa.
2.3 Các giải pháp lý luận và thực tiễn để chống bán phá giá vào Việt Nam
2.3.1 Các giải pháp lý luận

21


CH QTKD 8A

Xây dựng hệ thống pháp luật về chống bán phá giá ngày càng hoàn chỉnh,
phù hợp với các nguyên tắc của WTO và thông lệ quốc tế, tiến tới xây dựng
Luật chống bán phá giá cho phù hợp hơn với xu thế phát triển.
Xây dung hệ thống các cơ quan thực thi các lệnh chống bán phá giá với
cơ cấu chức năng ngày càng được phân công rõ ràng như: Bộ Trưởng -Bộ Công

Thương, Cục quản lý cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá.
Xây dựng hệ thống văn bản thực thi dưới luật một cách có hệ thống, thống
nhất và đầy đủ nhằm làm các cơ quan có thẩm quyền và các chủ thể liên quan áp
dụng một cách hiểu quả nhất.
Chủ động liên hiệp với các tổ chức thương mại, các tổ chức kinh tế khu
vực và đàm phán song phương trong việc cùng nhau đi đến ký kết các hiệp định
chống bán phá giá.
2.3.2 Các giải pháp thực tiễn
Thực hiện áp dụng đúng các chế tài mà cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam, quốc tế đã phán quyết đối với các mặt hàng bán phá giá. Thực hiện tuyên
truyền pháp luật về chống bán phá giá cho các doanh nghiệp và các tổ chức cá
nhân có liên quan.
Ngăn chặn các hành vi tìm cách đưa hàng qua Việt Nam bănng cách trốn
thuế, tăng cường kiểm tra, thanh tra giá các mặt hàng tại các cửa hàng bán các
hàng nhập khẩu một cách thường xuyên.
Nâng cao ý thức pháp luật người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong
việc tố cáo các hành vi bán phá giá trên phạm vi cả nước, trong đó ý thức cho
người tiêu dùng biết hàng đó bán phá giá sẽ có ảnh hưởng xấu đến sản xuất tiêu
dùng và sản xuất trong nước trong thời gia dài.
Các doanh nghiệp đoàn kết trong việc chống lại các hành vi bán phá giá đặc biệt
là các doanh nghiệp trực tiếp bị ảnh hưởng.
Các cơ quan chức năng tích cực dùng các biện pháp ngăn chặn hàng hòa lọt vào
thị trường đển tiến hành bán phá giá.

22


CH QTKD 8A

Qua một thời gian chúng ta đã làm khá tốt việc ngăn chặn hàng hóa nhập lậu

vào Việt Nam, ngăn chặn được một số mặt hàng có hành vi bán phá giá vào nước
ta, đặc biệt chúng ta đã biết áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại về chống bán
phá giá khi gia nhập WTO thật hữu hiệu. Trải qua nhiều lần bị kiện và bị thua nay
chúng ta đã bắt đầu tỏ rõ thế chủ động là kiện lại các doanh nghiệp chúng ta cho là
vi phạm, dựa trên cơ sở pháp lý của WTO và của Việt Nam.

23


CH QTKD 8A

PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy, Việt nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đã có những
bước phát triển lớn. Với việc gia nhập vào nền kinh tế thế giới và nền kinh tế
khu vực tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển toàn diện nền kinh tế, pháp luật
kinh tế Việt Nam nói chung và pháp luật chống bán phá giá nói riêng đã định
hướng khá cơ bản để hội nhâp, và chúng ta cũng đã bước đầu thu được những
thành quả ban đầu trong việc chống bán phá giá, chống trợ cấp hàng hóa, xây
dựng thể chế pháp luật hoàn chỉnh luôn là chìa khóa thành công để bảo vệ các
lợi ích của các quốc gia nhất định và Việt Nam cũng vậy, việc làm quen với cơ
chế thị trường đã đặt các doanh nghiệp phải năng động không chỉ việc sản xuất
ra chất lượng, số lượng sản phấm mà còn đòi hỏi họ phải hiểu biết pháp luật nói
chung và các quan hệ pháp luật luôn thay đổi là nhu cầu cần thiết cho sự phát
triển ngày nay. Tuy có được những bước phát triển như vậy nhưng nhìn chung
pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam vẫn là một nền pháp luật non trẻ và cần
hoàn thiện nhiều thêm nữa.
Khó khăn vẫn còn nhiều, thách thức còn lớn. Song cùng với cả hệ thống
chính trị, toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm hội nhập kinh tế quốc tế chắc chẵn
chúng ta sẽ thực hiện tốt các yêu cầu và pháp triển tốt theo định hướng kinh tế

thị trường xã hội chủ nghĩa. Xin chân thành cảm ơn

24


CH QTKD 8A


×