Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Thế giới nhân vật trong hai tập truyện của Ma Văn Kháng (San Cha Chải và Xa xôi thôn ngựa già)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (855.97 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––––––––

BÙI THỊ THÚY

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG HAI TẬP TRUYỆN
CỦA MA VĂN KHÁNG (SAN CHA CHẢI VÀ XA XÔI
THÔN NGỰA GIÀ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN – 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––––––––

BÙI THỊ THÚY

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG HAI TẬP TRUYỆN
CỦA MA VĂN KHÁNG (SAN CHA CHẢI VÀ XA XÔI
THÔN NGỰA GIÀ)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21


LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện

THÁI NGUYÊN – 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Bùi Thị Thúy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTNi




LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu, dưới sự chỉ bảo, dạy dỗ tận tình
của các thầy cô giáo và sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, luận văn
đã được hoàn thành.
Trước tiên, tôi xin gửi lời tri ân đến PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện - người
thầy đã tận tâm hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn,Trường
Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 04/2015
Tác giả luận văn

Bùi Thị Thúy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
ii




MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ................... 6
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................. 7
6. Đóng góp của luận văn ................................... 7
7. Cấu trúc của luận văn.................................... 8
NỘI DUNG ........................................... 9

Chƣơng 1: MA VĂN KHÁNG VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ
CON NGƢỜI .......................................... 9
1.1. Ma Văn Kháng với văn xuôi Việt Nam từ đổi mới đến nay .......... 9
1.2. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong hai tập truyện
của Ma Văn Kháng (San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già) ......... 14
1.2.1. Vài nét về tiểu sử và con đường đến với văn chương của Ma Văn Kháng . 14
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong văn xuôi sau
đổi mới.............................................. 16
1.2.3. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong hai tập truyện
“San Cha Chải” và “Xa xôi Thôn Ngựa Già” của Ma Văn Kháng ....... 20
Tiểu kết chương 1....................................... 25
Chƣơng 2: CÁC KIỂU LOẠI NHÂN VẬT TRONG TẬP TRUYỆN
NGẮN SAN CHA CHẢI VÀ TẬP TRUYỆN VỪA XA XÔI THÔN
NGỰA GIÀ CỦA MA VĂN KHÁNG ......................... 26
2.1. Khái niệm truyện ngắn, truyện vừa ........................ 26
2.1.1. Truyện ngắn ...................................... 26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
iii




2.1.2. Truyện vừa ....................................... 26
2.2. Khái niệm nhân vật văn học và thế giới nhân vật ............... 27
2.2.1. Nhân vật văn học ................................... 27
2.2.2. Thế giới nhân vật ................................... 28
2.3. Tổng quan về hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già .. 30
2.3.1. Tập truyện San Cha Chải ............................. 30
2.3.2. Tập truyện vừa Xa xôi Thôn Ngựa Già .................... 30
2.4. Thế giới nhân vật trong hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn

Ngựa Già ............................................ 31
2.4.1. Nhân vật bản năng .................................. 32
2.4.2. Nhân vật tha hóa ................................... 43
2.4.3. Nhân vật bi kịch ................................... 50
2.4.4. Nhân vật có phẩm chất tốt đẹp .......................... 56
2.4.4.1. Người dân tộc thiểu số tính tình hiền lành, tốt bụng ........... 57
2.4.4.2. Người chiến sĩ an ninh dũng cảm, thông minh ............... 60
Tiểu kết chương 2....................................... 63
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG HAI TẬP TRUYỆN SAN CHA CHẢI VÀ XA XÔI THÔN
NGỰA GIÀ CỦA MA VĂN KHÁNG ......................... 65
3.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật ............................. 65
3.2. Miêu tả nhân vật qua hành động .......................... 71
3.3. Miêu tả tâm lý nhân vật ................................ 73
3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu ................................ 80
3.4.1. Ngôn ngữ ........................................ 80
3.4.2. Giọng điệu ....................................... 85
3.4.2.1. Khái niệm ...................................... 85
3.4.2.2. Giọng điệu ngợi ca................................. 86
3.4.2.3. Giọng điệu xót xa, thương cảm......................... 87
3.4.2.4. Giọng điệu triết lý, tranh biện ......................... 90
Tiểu kết chương 3....................................... 93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
iv




KẾT LUẬN .......................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................ 97


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTNv




MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn có đóng góp đáng kể vào
công cuộc đổi mới văn xuôi giai đoạn sau 1975. Với tinh thần miệt mài, cần mẫn
và niềm say mê với nghề viết, Ma Văn Kháng được đánh giá là “một cây bút văn
xuôi lực lưỡng, sung sức, một đời văn sáng tạo” của nền văn học đương đại.
Ma Văn Kháng bước vào làng văn với truyện ngắn đầu tay Phố cụt đăng
trên báo Văn nghệ năm 1961, cho đến nay Ma Văn Kháng đã có hơn chục tiểu
thuyết, trên 200 truyện ngắn, 4 tập truyện viết cho thiếu nhi và một hồi kí văn
chương đầy đặn, một tập tiểu luận - bút kí về nghề văn. Với những cách tân táo
bạo về tư duy nghệ thuật, Ma Văn Kháng đã tạo được một phong cách riêng,
độc đáo trong văn nghiệp của mình. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng cao
quý: Giải Nhì (không có giải nhất) cuộc thi viết truyện ngắn 1967 của tuần báo
Văn nghệ (Xa Phủ); Giải thưởng văn học ASEAN năm 1998 (Trăng soi sân
nhỏ); Giải “Cây bút vàng” (giải cao nhất) của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt
Nam 1996 – 1998; Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001;
Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2009 với tiểu thuyết Một mình một
ngựa; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật đợt 4, năm 2012.
Một số tác phẩm của Ma Văn Kháng đã từng gây xôn xao dư luận bởi
vấn đề mà nó đặt ra có ý nghĩa quan trọng làm thay đổi tư tưởng, nhận thức của
con người và cho đến nay vẫn còn mang tính thời sự như: Mưa mùa hạ (1982),
Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989).
Không chỉ thành công ở thể loại tiểu thuyết, Ma Văn Kháng còn rất thành công
ở thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn đã đem lại vinh quang cho nhà văn ngay từ

buổi đầu khởi nghiệp. Nhà văn luôn có ý thức tìm tòi đổi mới trong sáng tác,
đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn sau 1976 - Ma Văn Kháng tạm biệt Lào Cai
trở về Hà Nội. Sự hỗn độn, xô bồ của cuộc sống hiện tại đã làm chuyển biến cái
nhìn trong sáng tác của nhà văn. Ông quan niệm “ Văn chương là chuyện đời
thông qua việc đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn, chứ đâu phải là đi hớt lấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN1




cái váng bọt nổi trên bề mặt của ngoại vật”. Thế giới nhân vật được mở rộng,
quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người uyển chuyển và tinh tế hơn.
Truyện ngắn của Ma Văn Kháng có thể tạm thời chia thành hai nhóm:
nhóm đề tài miền núi và nhóm đề tài thành thị. Hai tập truyện ngắn, truyện vừa
San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già gần đây nhất viết về đề tài miền núi và
thành thị đã khẳng định tài năng, tâm huyết của nhà văn và góp phần làm cho
bức tranh hiện thực cuộc sống được phản ánh trong nền văn học hiện đại Việt
Nam trở nên phong phú, đa dạng.
Trong luận văn này, chúng tôi quan tâm tới thế giới nhân vật - một thế
giới nhân vật vô cùng phong phú trong hai tập truyện của Ma Văn Kháng: San
Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già. Nghiên cứu nhân vật chính là nghiên cứu
cách nhà văn nhìn nhận, cắt nghĩa về con người như thế nào và bằng cách nào
trong văn chương của mình. Trong thực tế, đã có có nhiều công trình nghiên
cứu về truyện ngắn của ông nhưng chưa có công trình chuyên biệt nào về thế
giới nhân vật trong hai tập truyện này. Xuất phát từ tình cảm yêu mến, trân
trọng các tác phẩm của Ma Văn Kháng và mong muốn góp thêm tiếng nói vào
sự khẳng định về thế giới nhân vật trong hai tập truyện, chúng tôi lựa chọn đề
tài Thế giới nhân vật trong hai tập truyện của Ma Văn Kháng (San Cha
Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già)
2. Lịch sử vấn đề

Với sức viết dồi dào và quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật nghiêm
túc, Ma Văn Kháng đã có một gia tài văn chương khá đồ sộ. Có thể thấy rằng
khi mới dấn thân vào sự nghiệp văn chương, tác phẩm của Ma Văn Kháng đã
được giới nghiên cứu, phê bình và độc giả quan tâm. Nhiều công trình nghiên
cứu, phê bình của GS Phong Lê, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện, PGS.TS Đào
Thủy Nguyên, PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu, PGS.TS Lã Nguyên...được
đăng tải trên nhiều sách báo và tạp chí.
Đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng Ma Văn Kháng dành toàn bộ sự
chú ý của mình vào việc khám phá những con người trên nhiều bình diện khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN2




nhau với cái nhìn không xuôi chiều. Khi thể hiện con người, nhà văn đã đạt tới
độ sắc sảo về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Bàn về truyện ngắn của Ma
Văn Kháng trước 1986 có thể kể đến bài viết của Nguyễn Văn Toại “Đọc các
sáng tác miền núi của Ma Văn Kháng, nghĩ về trách nhiệm của nhà văn trước
một đề tài lớn”. Tác giả chia truyện ngắn của Ma Văn Kháng thời kỳ này có hai
dạng: dạng có cốt truyện đầy đủ, coi trọng việc xây dựng chân dung nhân vật
và dạng truyện “lấy tứ làm cốt, lấy tình làm nền, được viết như những bài thơ
văn xuôi”. Bên cạnh đó, tác giả còn chỉ ra nhân vật của Ma Văn Kháng hoạt
động, bộc lộ tính cách trong hoàn cảnh được đẩy lên theo yêu cầu tư tưởng của
tác phẩm [46]. Tác giả Nguyễn Nguyên Thanh khi viết về tập Ngày đẹp trời
đã chỉ ra đặc điểm nhân vật thường thấy “Người tốt cứ tốt, kẻ xấu cứ xấu,
người hy sinh mình cứ tiếp tục hy sinh cho kẻ khác vụ lợi tiếp tục sống trên dư
thừa may mắn” [36]
GS Phong Lê đã nhận định “Truyện ngắn Ma Văn Kháng là hiện tượng
nổi bật trong những năm 90” [21]. Có thể nhận ra rằng bước sang thời kỳ đổi
mới, Ma Văn Kháng đã khẳng định vị trí của mình ở thể loại truyện ngắn.

PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện trong bài viết “Một cây bút văn xuôi sung sức,
một đời văn cần mẫn” đã nhấn mạnh: “Đặc biệt, trong vận dụng thể loại tự sự,
nhà văn đã phát huy được ưu thế của việc miêu tả tâm lí nhân vật khi lách sâu
vào vùng tâm linh bí ẩn của con người” [42].
PGS.TS Lã Nguyên với bài viết “Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều
sâu tâm hồn” [29] đã nêu lên những nét tổng quát về truyện ngắn Ma Văn
Kháng. Đây là một công trình nghiên cứu công phu, toàn diện với những đánh
giá mang tính khoa học về truyện ngắn Ma Văn Kháng. Tác giả đã chia truyện
ngắn Ma Văn Kháng thành ba nhóm: nhóm thứ nhất thể hiện “Cái nhức nhối
xót xa, giận mà thương cho sự hoang dã, mông muội của những kẻ chưa thành
người và những kẻ không được làm người”. Nhóm thứ nhất gắn với đề tài miền
núi, biên ải. Nhóm thứ hai “Cảm khái thâm trầm trước thế sự hôm nay”, là
những truyện ngắn viết về đời sống thành thị sau chiến tranh trong sự đổi thay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN3




mạnh mẽ của đất nước. Ở nhóm này, Ma Văn Kháng đã góp phần “đưa truyện
ngắn xích lại gần tiểu thuyết”. Nhóm thứ ba gắn với tinh thần lạc quan ở sự
năng động, hồn nhiên của cuộc sống. Đó là “Cảm hứng trào lộng trang nghiêm
trước vẻ đẹp của đời sống sinh hóa hồn nhiên”. Tác giả cũng chỉ ra một số đặc
điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng: tính công khai bộc lộ chủ đề,
sự cố ý tô đậm chân dung, tính cách nhân vật, việc lồng giai thoại vào cốt
truyện, đưa thành ngữ, tục ngữ vào ngôn ngữ nhân vật...Tác giả bài viết đã đưa
ra những gợi mở quan trọng cho những người nghiên cứu về truyện ngắn Ma
Văn Kháng. Cũng trong bài viết này, tác giả đã đưa ra một cái nhìn tổng quát
về truyện ngắn của Ma Văn Kháng “Ma Văn Kháng là nhà văn của cái đẹp
trong dòng đời sinh hóa bình dị, hồn nhiên, cái đẹp trong niềm hạnh phúc được
làm người với ý nghĩa đích thực của nó chứ không phải là cái gì khác”, “Ma

Văn Kháng đã cất lên tiếng nói riêng”.
Với công trình Đặc điểm truyện ngắn của Ma Văn Kháng về đề tài dân
tộc và miền núi [27], PGS.TS Đào Thủy Nguyên đã đi sâu nghiên cứu và
khẳng định những vấn đề nhân sinh, thế sự, những thành công, đặc sắc về nghệ
thuật xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn từ trong truyện ngắn về đề tài dân tộc
và miền núi của Ma Văn Kháng. Ngoài ra, trong bài viết “Vấn đề đạo đức, lối
sống của người cán bộ vùng cao trong truyện ngắn Ma Văn Kháng viết về miền
núi”, tác giả Đào Thủy Nguyên đã đi sâu bàn về những nhân vật người cán bộ
miền núi trong một số truyện ngắn của Ma Văn Kháng [28]
Phạm Mai Anh qua luận văn Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma
Văn Kháng từ sau những năm 1980 đã tập trung khai thác một số yếu tố nghệ
thuật trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng như cốt truyện, các kiểu kết cấu,
nhân vật, một số nét về ngôn ngữ... Tác giả đã có những đóng góp đáng kể khi
nhìn nhận một số phương diện nghệ thuật nhưng chưa có một cái nhìn tổng
quát về truyện ngắn Ma Văn Kháng [1]. Trong đề tài: Phong cách Ma Văn
Kháng trong truyện ngắn sau 1975 [41], tác giả Đào Tiến Thi đã cắt nghĩa tư
tưởng nghệ thuật của Ma Văn Kháng bằng cái nhìn tổng hợp: Quan niệm nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN4




thuật của Ma Văn Kháng về con người với hướng tiếp cận trên tất cả các bình
diện. Luận văn đã có những đóng góp nhất định trong việc xác định giá trị nghệ
thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng ở phương diện phong cách nghệ thuật của
nhà văn.
Với bài viết “Đổi mới tư duy nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn
Kháng những năm 1980” [8], tác giả Nguyễn Thị Huệ đã đưa ra những nhận
định xác đáng về tư duy nghệ thuật với sự đổi mới rõ nét trong sáng tác của Ma
Văn Kháng “Ma Văn Kháng đã có những thể nghiệm mở ra khả năng khám

phá con người ở nhiều chiều, nhiều bình diện xuất phát từ cái nhìn nhân đạo về
con người”. Đỗ Phƣơng Thảo trong bài viết “Vài suy nghĩ về một phương
diện nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng” đã cho rằng: yếu tố tạo nên sự
hấp dẫn trong truyện ngắn Ma Văn Kháng là cách dựng truyện “cốt truyện đơn
giản, không có nhiều tình huống nổi bật, then chốt, ít xung đột và mâu thuẫn
lớn song có sự bứt phá đầy sức sáng tạo” [39, tr.70].
Bàn về những đổi mới nghệ thuật của Ma Văn Kháng, tác giả Nguyễn
Thị Bình trong cuốn “Văn xuôi Việt Nam 1975-1995, những đổi mới cơ bản”
cho rằng: tác phẩm của Ma Văn Kháng chú trọng hiện thực của tâm trạng và
tâm linh khi miêu tả con người. Cũng theo Nguyễn Thị Bình, trong khi quan
tâm đến con người, Ma Văn Kháng “có thiên hướng nghiêng hẳn về việc khám
phá giá trị nhân cách, cắt nghĩa sự nhào nặn của môi trường đạo đức - văn
hóa với tính cách và số phận cá nhân” [4, tr.61].
2.2. Về cách xây dựng nhân vật trong sáng tác của Ma Văn Kháng,
Lã Nguyên đã nhấn mạnh: “Nhân vật của Ma Văn Kháng dù phức tạp đến
đâu, có những biểu hiện phong phú như thế nào, sau khi tiếp xúc, ta có thể
nhận diện được ngay nhân vật ấy thuộc hạng người nào, cao thượng hay đê
tiện, độc ác hay nhân từ, ích kỉ hay hảo tâm...” [29].
Bên cạnh đó, chúng tôi có thể nhắc đến một số luận văn và đề tài khoa
học tiêu biểu như: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ
đổi mới của Phạm Thị Lan (2001), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN5




Văn Kháng từ 1986 tới nay của Đào Thị Minh Hường (2007). Thế giới nhân
vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng của Nguyễn Thị Thanh Nga (2007). Thế
giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975 của Ngô Trí Tài
(2010)...

Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu truyện ngắn Ma Văn Kháng,
chúng tôi nhận thấy những bài viết của các tác giả trên không chỉ khẳng định
đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng mà còn ít
nhiều quan tâm đến nhân vật và cách thể hiện nhân vật trong truyện ngắn của
ông. Tuy nhiên, phần lớn mới chỉ dừng lại ở cảm nhận, đánh giá chung về
truyện ngắn và thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng mà chưa
đi sâu tìm hiểu thế giới nhân vật trong hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi
Thôn Ngựa Già. Chúng tôi hết sức trân trọng những ý kiến đánh giá, nhận xét
của các nhà nghiên cứu đi trước và xem đó là những gợi ý quý báu để chúng tôi
triển khai đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi chọn đề tài Thế giới nhân vật trong hai tập truyện của Ma
Văn Kháng (San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già) nhằm làm nổi bật nét
phong phú về thế giới các kiểu nhân vật và nét đặc sắc về nghệ thuật xây dựng
nhân vật. Từ đó, chúng tôi muốn khẳng định chiều sâu tư tưởng, giá trị nhân
văn và những đóng góp mới của nhà văn Ma Văn Kháng trong nền văn học
đương đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Dựa trên những lí luận về nhân vật văn học đã được các công trình
nghiên cứu chuyên biệt xây dựng, chúng tôi sẽ tìm hiểu yếu tố nhân vật văn học
trong sáng tác của Ma Văn Kháng từ góc độ ứng dụng lí thuyết đó vào trường hợp
cụ thể: hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già của Ma Văn Kháng.
3.2.2. Khảo sát, phân tích các truyện trong hai tập truyện trên, đặt chúng
trong mối tương quan với các truyện ngắn khác trong nền văn học đương đại để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN6





thấy được những nét đặc sắc trong thế giới nhân vật của hai tập truyện và những
quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong sáng tác của nhà văn.
3.2.3. Phát hiện, phân tích những sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong tập truyện ngắn San Cha Chải và tập truyện vừa Xa xôi
Thôn Ngựa Già, chỉ ra những điểm đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
của nhà văn.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu thế giới nhân vật trong hai tập
truyện của Ma Văn Kháng (San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn chủ yếu chủ yếu qua hai tập truyện của Ma Văn Kháng: Tập
truyện ngắn San Cha Chải (Nhà xuất bản Công an nhân dân - Tháng 10/
2013); Tập truyện vừa Xa xôi Thôn Ngựa Già (Nhà xuất bản Phụ nữ - Quý
III, năm 2013).
Đối chiếu, so sánh với một số tác phẩm tiêu biểu khác của nhà văn và
các tác giả cùng thời khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, luận văn
vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tác giả.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân loại, thống kê.
- Phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp.
6. Đóng góp của luận văn
Với đề tài Thế giới nhân vật trong hai tập truyện của Ma Văn Kháng
(San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già), luận văn của chúng tôi khám phá,
phân tích sự đa dạng, phong phú về thế giới nhân vật trong hai tập truyện trên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN7





Qua đó, chúng tôi khẳng định tài năng, phong cách nghệ thuật của nhà văn và
những đóng góp về tư tưởng, giá trị nhân văn của hai tập truyện trên.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được triển khai thành ba chương:
Chương 1: Ma Văn Kháng và quan niệm nghệ thuật về con người.
Chương 2: Các kiểu loại nhân vật trong hai tập truyện San Cha Chải và
Xa xôi Thôn Ngựa Già của Ma Văn Kháng.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện thế giới nhân vật trong hai tập truyện San
Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già của Ma Văn Kháng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN8




NỘI DUNG
Chương 1
MA VĂN KHÁNG VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI
1.1. Ma Văn Kháng với văn xuôi Việt Nam từ đổi mới đến nay
Từ 1986, công cuộc đổi mới của Đảng đã đem lại những chuyển biến lớn
trong đời sống văn học. Văn xuôi có một vị trí rất quan trọng trong nền văn học
dân tộc. Nó đã tạo dựng được bức tranh hiện thực rộng lớn về cuộc sống, con
người trong cách mạng, kháng chiến và công cuộc xây dựng đất nước. So với
giai đoạn trước thì các sáng tác thời kì này đã phần nào bao quát được chiều
rộng, chiều sâu của cuộc sống và tâm hồn con người. Sự phong phú, đa dạng và

đặc sắc của nền văn học Việt Nam có được là một phần dựa vào khả năng khơi
gợi cái riêng, nét độc đáo của mỗi dân tộc, vùng miền. Nhiều vấn đề đã được
các nhà văn tìm tòi, khai thác giúp cho văn học phát triển cả về số lượng lẫn
chất lượng.
Đến thời kì đổi mới, những cây bút có nhiều kinh nghiệm vẫn tiếp tục đề
tài dân tộc và miền núi như Tô Hoài, Ma Văn Kháng, Triều Ân, Mã A Lềnh, Vi
Hồng...Tiếp đến là tác giả Hà Đức Toàn (tiểu thuyết Tiếng hổ gầm - 1999, tập
truyện Hương rừng - 2006), Hoàng Thế Sinh (tiểu thuyết Xứ mưa - 2000, tập
truyện Luật của rừng - 2002), Đoàn Hữu Nam (các tiểu thuyết Tình rừng 2000, Dốc người - 2002), Phạm Duy Nghĩa (các tập truyện Cơn mưa hoa mận
trắng - 2006, Đường về xa lắm - 2007)...Vẻ đẹp của thiên nhên, cuộc sống và
con người miền núi đã trở thành tình yêu, thành nhựa sống nuôi dưỡng tâm hồn
và thôi thúc các nhà văn cầm bút để viết về mảnh đất này.
Hiện thực cuộc sống và con người vùng cao đã được phản ánh khá sâu
sắc, một số tác phẩm của Triều Ân và Vi Hồng mang tính thời sự được độc giả
quan tâm. Đặc biệt các sáng tác của Vi Hồng đã đề cập đến những sai lầm của
mô hình hợp tác xã nông nghiệp, cái ác, cái xấu hoành hành trong các tác
phẩm: Người trong ống (1990), Gã ngược đời (1990), Vào hang (1990), Chồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN9




thật vợ giả (1994)...Tiểu thuyết Gã ngược đời của Vi Hồng có nhân vật Quảnmột người dám đấu tranh với những việc sai trái nên không được lòng lãnh đạo,
cấp trên. Họ loại anh ra khỏi guồng máy của sự bon chen, lừa lọc bằng cách vu
cho anh có quan hệ nam nữ bất chính, cấp kinh phí ít ỏi để anh không thực hiện
được đề tài khoa học và cuối cùng buộc anh phải thôi việc. Nhân vật Quản và
các nhân vật khác như: Tú, bác sĩ Huy (Người trong ống), họ là những người
dám đấu tranh với cái xấu và vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống
để thực hiện lí tưởng của mình. Đối lập với những nhân vật đại diện cho Chân,
Thiện, Mĩ đó là những nhân vật đại diện cho cái xấu, cái ác như: Đương, Hỷ

(Gã ngược đời), Ba (Người trong ống)...Thông qua các tác phẩm của mình, Vi
Hồng muốn cảnh báo về sự tha hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, công
chức ở miền núi trong thời kì đổi mới. Gắn bó với cuộc sống và con người
miền núi nên Vi Hồng thấu hiểu cả những nỗi đau và số phận của người dân
miền núi.
Cùng với Vi Hồng, Triều Ân có những tác phẩm tái hiện chân thực xã
hội và con người miền núi như: Nắng vàng bản Dao, Nơi ấy biên thùy, Dặm
ngàn rong ruổi. Bao biến động khác thường trong cuộc sống của đồng bào các
dân tộc những năm đổi mới ở nông thôn vùng núi phía Bắc đã được tác giả
phản ánh cụ thể. Viết về đề tài dân tộc và miền núi còn phải kể đến Cao Duy
Sơn - một nhà văn luôn tâm niệm “Cả đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài về người miền
núi”. Điều đó được minh chứng qua các tác phẩm: Người lang thang (1992),
Cực lạc (1995), Những chuyện ở lũng Cô Sầu (1996), Hoa mận đỏ (1999),...
Bức tranh đời sống miền núi trong sáng tác của Cao Duy Sơn với những
gam màu khác nhau: sáng - tối; giàu - nghèo; tốt - xấu... Con người miền núi
trong sáng tác của ông hồn nhiên, chất phác, giàu đức hy sinh, thủy chung,
nghĩa tình. Trong Đàn Trời- tiểu thuyết mang tính chính luận, Cao Duy Sơn đã
nói lên thực trạng về sự nghèo đói của người dân vùng cao, sự sa đọa cùng
những hành vi đen tối của quan tham thời đại mới. Đó là “mảng tối” trong chốn
quan trường ở một tỉnh lẻ với miếng mồi béo bở là các chương trình của dự án
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
10




135. Người đứng sau tấm màn tối đó là chủ tịch tỉnh Đinh Xuân Ấn - kẻ luôn tự
xưng mình là Hoàng thượng, dùng quyền lực mà nhân dân tín nhiệm mưu cầu
lợi ích cho chính bản thân mình. Bên cạnh đó còn có những kẻ trục lợi như:
Tuệ - giám đốc Đài PT-TH tỉnh nhu nhược, đê tiện, trả thù riêng; giám đốc

Lương Nhân với bản chất con buôn. Qua tác phẩm này, nhà văn thẳng thắn
nhận ra một điều: có đấu tranh sẽ có mất mát nhưng tà không thể thắng chính.
Viết về đề tài dân tộc và miền núi thành công còn có nhà văn Phạm Duy Nghĩa
với các tác phẩm: Tiếng gọi lưng chừng dốc (1999), Cơn mưa hoa mận trắng
(2006), Đường về xa lắm (2007)...
Hòa chung vào dòng chảy của văn xuôi về đề tài dân tộc và miền núi từ
sau đổi mới, Ma Văn Kháng được đông đảo bạn đọc biết đến với hàng loạt
truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết. Những đứa con tinh thần của Ma Văn
Kháng là kết quả của hơn hai mươi năm gắn bó với mảnh đất Lào Cai. Hiện
thực và con người miền núi là chất liệu, là nguồn cảm hứng nghệ thuật vô tận
cho những sáng tác của Ma Văn Kháng. Ông là nhà văn tài năng, tâm huyết và
thành công ở đề tài dân tộc và miền núi. Nếu tính theo thời gian thì truyện ngắn
viết về mảng đề tài này của Ma Văn Kháng được bắt đầu từ năm 1969 với tập
Xa Phủ. Trong truyện Xa Phủ, tác giả đã đề cập đến sự thay đổi trong nhận
thức, suy nghĩ và hành động của con người miền núi. Ở họ, dù còn những tàn
tích của những ngày đã qua, song điều quan trọng là họ tích cực, chủ động
chuyển mình thành những con người mới, làm chủ cuộc đời. Thông qua các tác
phẩm của mình, tác giả còn đặt ra vấn đề: con người miền núi ra sao, cuộc sống
của họ như thế nào trước hiện thực lớn lao của dân tộc.
Với một tư duy nhận thức đúng đắn và toàn diện, một bản lĩnh nghệ
thuật vững vàng cùng với vốn sống phong phú, Ma Văn Kháng đã có những
thành công nối tiếp thành công ở mảng sáng tác về đề tài dân tộc và miền núi.
Riêng truyện ngắn, ông đã từng tâm sự: “Càng ngày tôi càng mê truyện ngắn.
Phần đông các nhà văn vào nghề bằng truyện ngắn, kết thúc bằng truyện ngắn
và quãng giữa là tiểu thuyết. Truyện ngắn là một sự ám ảnh khủng khiếp. Có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
11





một truyện ngắn hoàn thiện là ao ước của bất kì nhà văn nào” [11]. Sau Xa Phủ,
hàng loạt truyện ngắn, truyện vừa về đề tài dân tộc và miền núi từ sau đổi mới
ra đời: “Giàng Tả - kẻ lang thang”, “Ngựa bất kham”, “Móng vuốt thời gian”,...
Ở thời kì sau đổi mới, truyện ngắn và truyện vừa viết về miền núi của Ma Văn
Kháng đã phản ánh, đề cập đến những vấn đề có liên quan đến con người, số
phận con người. Con người và cuộc sống vùng biên ải vẫn có mặt trong các
trang viết về đề tài thành thị.
Những trang viết về thiên nhiên miền núi của Ma Văn Kháng có sức lay
động lòng người bởi đó là kết quả của sự gắn bó sâu nặng với cảnh vật nơi đây.
Sống giữa thiên nhiên thanh sạch, con người sẽ được gột rửa về tâm hồn, không
bị vẩn đục bởi thói ô trọc của xã hội rối ren: “Khắp đất nước có lẽ không ở đâu
hoa gạo có cung màu đẹp tuyệt trần như ở đây. Ở đây trời xanh trong vắt,
thanh lọc đến kì hết vẩn bụi và mắt người như nhìn thấu tới tận cõi vô cùng. Ở
đây, sau một mùa đông giá lạnh, xo ro, cây bung nở hết mình cái sức tích tụ
bao tháng ngày” [17, tr. 43]. Màu đỏ rực rỡ của hoa gạo không chỉ làm đẹp cho
bản mường mà còn nói lên được lòng nhiệt tình của người dân miền núi. Thiên
nhiên San Cha Chải dần hiện lên và gợi ra cho người đọc sự khát khao khám phá
những chân trời mới với vẻ đẹp thuần khiết, nguyên sơ. Không gian San Cha Chải
thật yên tĩnh “không khí heo hút như thời khởi thủy”, “cỏ ngải tàn rồi cỏ ngải lại
xanh, hoa tục đoạn nở và hoa tam thất rừng mọc nhơ nhởn” [17, tr.53].
Ma Văn Kháng từng suy nghĩ rằng: “Thôi thúc tôi viết là cái đẹp của
cuộc sống”. Chính vẻ đẹp của cuộc sống và con người vùng biên cương đã khơi
dậy trong ông nguồn cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ, giàu ý nghĩa nhân văn. Nhà
văn từng tâm sự: “Vẻ cổ kính của những làng Giáy có vòng hàng rào gỗ vây
quanh và những đêm vườn Giáy trữ tình thắm thiết. Suối Mường Hum đẹp đến
huyễn hoặc, rừng Pơ-mu lão đại trùng trùng vóc dáng đại hiệp sĩ khu Seo Mi
Tí. Ngọn Păng-xi-păng kiêu hùng và những khu ruộng bậc thang ở Sa Pa quẫy
lượn những đường nét khi mùa xuân về...Tất cả đã vọng về, đọng lại và hợp
thành một bầu trời lung linh các vì tinh tú quay vòng không ngớt trong ký ức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
12




tôi, khiến tôi không biết bao lần nghẹn ngào nước mắt” (Ma Văn KhángNhững năm tháng tập rèn). Cảnh sắc thiên nhiên miền núi có sức níu giữ lạ kì để
rồi khi đi xa, nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn con người
(Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn! - Chế Lan Viên).
Cùng với truyện ngắn và truyện vừa, Ma Văn Kháng còn rất thành công
ở thể loại tiểu thuyết khi viết về đề tài dân tộc miền núi và thành thị. Những tác
phẩm được coi là sự kết tinh thành tựu của Ma Văn Kháng về mảng đề tài này
như: Đồng bạc trắng hoa xòe (1977), Vùng biên ải (1983), Gặp gỡ ở La Pan
Tẩn (2001). Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn tiên phong đưa bộ
phận văn xuôi đến với tiểu thuyết - một thể loại có tầm vóc sử thi và quy mô
lớn, đủ sức khái quát một hiện thực rộng lớn và có ý nghĩa lịch sử. Bên cạnh
đó, Ma Văn Kháng cũng là người đi đầu trong việc đưa đề tài về công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở miền núi vào tiểu thuyết.
Thời kì này, khuynh hướng đời tư, thế sự được các nhà văn chú trọng.
Những vấn đề của cuộc sống và con người thời hậu chiến, những quan hệ phức
tạp, chồng chéo, những câu chuyện đời thường đã trở thành đối tượng của nghệ
thuật. Các nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Võ Thị Hảo, Lê
Minh Khuê... đã quan tâm lật xới từ những số phận cá nhân nhỏ bé đến những vấn
đề xã hội rộng lớn mang ý nghĩa nhân sinh. Bên cạnh đó, văn học thời kỳ đổi mới
còn có sự cách tân về thể loại, có cả văn xuôi kỳ ảo trong sáng tác của Hồ Anh
Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh...Ngoài ra, khuynh hướng triết luận
cũng trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong văn học thời kỳ này.
Ma Văn Kháng được coi là người “đi tiền trạm” cho đổi mới văn học.
Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985) là những tác phẩm có tính
chất mở đường. Thời kỳ này Nguyễn Khải viết Gặp gỡ cuối năm (1982), Thời

gian của người (1985) như trên hành trình của sự tìm kiếm mới. Nguyễn Minh
Châu viết các tác phẩm Bức tranh (1982), Bến quê (1985) như một sự đột phá.
Bảo Ninh với Thân phận của tình yêu (1990), Dương Hướng với Bến không
chồng (1990), Chu Lai với Ăn mày dĩ vãng (1991)…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
13




Sau đổi mới, Ma Văn Kháng vững bước trên con đường đổi mới với
những cảm hứng mới, tâm thế mới và khí thế ngày càng mạnh mẽ. Bên cạnh
các sáng tác về đề tài miền núi, khi chuyển hướng ngòi bút về đồng bằng, Ma Văn
Kháng nhanh chóng tiếp cận với một hiện thực mới, đó là cuộc sống thành thị với
nhiều màu sắc phong phú và độc đáo. Bằng sự nhạy cảm tinh tế của mình cộng
với tinh thần trách nhiệm của một ngòi bút tâm huyết, Ma Văn Kháng viết về cuộc
sống và con người đô thị trong sự day dứt, trăn trở khi phát hiện ra những “lỗ
hổng”, những “khoảng trống” đang tồn tại và vây bủa con người.
1.2. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con ngƣời trong hai tập truyện
của Ma Văn Kháng (San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già)
1.2.1. Vài nét về tiểu sử và con đường đến với văn chương của Ma Văn Kháng
Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 01/12/1936, quê
ở làng Kim Liên, thuộc Kẻ Chợ, nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa,
Hà Nội. Ngay từ thuở thiếu niên, Ma Văn Kháng đã tham gia thiếu sinh quân
và được cử đi học ở Khu học xá Trung Quốc. Năm 1954, kháng chiến chống
Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại ở miền Bắc. Theo tiếng gọi của Tổ quốc,
Đinh Trọng Đoàn đã xung phong lên Tây Bắc và được cử dạy học ở Lào Cai.
Năm 1960, ông về Hà Nội học Đại học Sư phạm I. Sau khi tốt nghiệp, ông trở
lại Lào Cai dạy học và từng là hiệu trưởng trường trung học. Trong một lần đi
công tác ở nông thôn, Đinh Trọng Đoàn làm quen với ông Ma Văn Nho, rồi hai

người kết nghĩa anh em và cải tên họ là Ma Văn Kháng. Cái tên Ma Văn Kháng
đã phần nào nói lên sự gắn bó và tình yêu của ông đối với Lào Cai. Năm 1967,
Ma Văn Kháng nhận được quyết định về làm thư kí riêng cho Bí thư tỉnh ủy
Lào Cai, phó Tổng biên tập báo Lào Cai. Tháng 5 năm 1976, Ma Văn Kháng
rời Lào Cai trở về Hà Nội công tác với tư cách nhà văn. Ông từng giữ chức Phó
tổng biên tập Nhà xuất bản Lao động, Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước
ngoài, ủy viên ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Cuộc đời vất vả, nhiều
trải nghiệm: tiễu phỉ, làm thuế, xây dựng hợp tác xã, làm thư kí, dạy học, viết
báo... đã để lại dấu ấn trên trang viết đậm đà hơi thở cuộc sống của Ma Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
14




Kháng. Thế giới nhân vật cũng được mở rộng hơn, tư duy nghệ thuật về cuộc
sống và con người càng uyển chuyển hơn. Ma Văn Kháng viết nhiều, viết khỏe
và được bạn đọc đón nhận ở cả hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Cùng
với khoảng thời gian gần năm mươi năm cầm bút, các tác phẩm của ông ra đời
đã để lại cho độc giả những ấn tượng khó quên.
Ma Văn Kháng từng tâm sự: “Viết văn là một công việc quá khó khăn, ở
ngoài sự cố gắng ở trên sức người” và “để có những trang viết sâu sắc, cảm
động, phải nỗ lực rất nhiều, phải có những hiểu biết mang tính học thuật sâu
sắc”. Cũng giống như nhà văn Nam Cao, Ma Văn Kháng quan niệm “sống rồi
mới viết”, không ngại khó khăn, gian khổ thì mới có những chất liệu sáng tác
phong phú. “Sống nghiêm túc, hết lòng thực sự với cuộc sống ở tất cả các chiều
kích của nó, nuôi dưỡng hướng thẩm mỹ lớn” [3], “Cần cù, bền bỉ đi vào cuộc
sống, gặp gỡ, hỏi han, ghi chép và lặng lẽ, khiêm nhường chuyển hóa những
hiểu biết về cuộc sống nhân dân, hiện thực đất nước...lên những trang viết”
[38]. Theo ông “Cuộc sống là một tác phẩm của tự nhiên, cuốn sách lớn nhất

của nhà văn viết ra là sáng tạo của anh ta về căn bản cũng từ cuộc sống mà
ra” [9, tr.36]. Ma Văn Kháng lao động văn chương như “một người H’mông
trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị” [40]. Với những tác phẩm của
mình, nhà văn đã lần lượt đặt ra những vấn đề bức xúc từ các khía cạnh của đời
sống muôn mặt và qua các nhân vật đủ hình, đủ kiểu. Đối với Ma Văn Kháng
“Đã chọn văn chương là chọn một con đường gian nan, khổ ải, là tự đày đọa
mình”, song với niềm đam mê, tài năng và sáng tạo, Ma Văn Kháng đã khẳng
định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Văn nghiệp của
Ma Văn Kháng hàng trăm truyện ngắn, hàng chục tiểu thuyết, một hồi kí- tự
truyện.. Giai đoạn nào ông cũng có những sáng tác nổi bật, mang dấu ấn cá
nhân đậm nét. Sáng tác của Ma Văn Kháng ra đời luôn được đông đảo bạn đọc
đón đợi, hưởng ứng nhiệt tình. Ông được mệnh danh là “người khuấy động văn
đàn Việt Nam hiện đại” (Lưu Khánh Thơ).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
15




Tây Bắc - “Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất/ Nay dạt dào đã chín trái
đầu xuân” (Chế Lan Viên), mảnh đất xa xôi ấy chính là nơi nuôi dưỡng tâm
hồn Ma Văn Kháng. Ông bắt đầu viết những trang viết đầu tiên về con người
miền núi trong những ngày xây dựng cuộc sống mới, đấu tranh chống bọn thổ
ty, chúa đất, phục vụ kháng chiến. Sự nghiệp văn chương của ông được đánh
dấu bằng truyện ngắn đầu tay Phố cụt (1961). Truyện ngắn này được trang
trọng in trên trang nhất tuần báo Văn nghệ số 136 ngày 3/3/1961. Với cốt
truyện đơn giản, mạch văn rõ ràng, Phố cụt đã báo hiệu những đường nét cơ
bản sẽ được bồi đắp dày dặn tiếp về sau của đời văn tác giả. Đó là sự cần mẫn
bám sát cuộc sống, khám phá những vấn đề nảy sinh từ cuộc đời và thân phận
người lao động, từ đó phát huy trí tưởng tượng, sáng tạo trong những câu

chuyện đậm đà ý vị, nóng hổi hơi thở của cuộc sống.
Sau truyện ngắn đầu tay Phố cụt, người đọc biết đến các tập truyện ngắn
khác như Xa phủ (1969), Bài ca trăng sáng (1972), Người con trai họ Hạng
(1972), Cái móng ngựa (1973)...Trở về Hà Nội, Ma Văn Kháng vẫn tiếp tục đề
tài miền núi và hướng đến thế sự, đời tư ở thành thị. Bên cạnh truyện ngắn, gần
đây nhất Ma Văn Kháng còn cho ra mắt tập truyện vừa Xa xôi Thôn Ngựa Già
(2013)... Những thay đổi trong cái nhìn về hiện thực và con người đã tạo ảnh
hưởng nhất định đến đổi mới quan niệm nghệ thuật văn học của tác giả.
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong văn xuôi sau
đổi mới
Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người của nhà văn thể hiện sự
thống nhất giữa hiện thực được phản ánh và năng lực cắt nghĩa, lí giải nghệ
thuật ứng với một thế giới nghệ thuật tồn tại ngay trong khám phá của nhà văn.
Sau năm 1986, đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới trên mọi bình diện của
xã hội. Hiện thực cuộc sống thay đổi: từ hiện thực chiến trận, sử thi sang hiện
thực thế sự, cá nhân. Các nhà văn cũng đổi mới quan niệm và cách viết của
mình để phù hợp với thời đại và thị hiếu công chúng. Quan niệm về con người,
quan niệm nghệ thuật, đề tài, chủ đề, các kiểu nhân vật...đều có sự thay đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
16




đáng kể. Thực tế, trong một loạt tác phẩm văn học ra đời sau 1986 đã xuất hiện
cách nhìn, cách tiếp cận hiện thực đa dạng, nhiều chiều, thể hiện mối quan hệ
tự do của nhà văn đối với hiện thực. Từ đó, nhà văn có những khám phá, phát
hiện mới mẻ, sâu sắc đậm giá trị nhân văn và đầy sức hấp dẫn về hiện thực. Các
nhà văn thời kì này đã tạo ra một hiện thực đa dạng, sáng tạo hiện thực qua trải
nghiệm cá nhân. Đúng như quan niệm của nhà văn Hồ Anh Thái: “Nói hiện

thực là những gì ta thấy, ta nghe, ta trải nghiệm là chưa đủ. Hiện thực còn là cái ta
cảm”. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: phản ánh hiện thực cũng không phải
là việc xâu chuỗi các sự kiện mà phải nắm được cả cái chìm khuất sâu xa trong
bản chất của hiện thực. Tác phẩm văn học chỉ đạt được tính chân thực khi nó phản
ánh hiện thực với sự khái quát, chọn lọc, tái tạo chứ không phải là sự sao chép
giản đơn. Cuộc sống hiện lên trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu đa chiều, ở
đó có cả niềm vui, nỗi buồn, sự vật vã, bức bối đầy phức tạp và biến động.
Trong văn học, con người là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, gắn với
quan niệm, phong cách nghệ thuật của nhà văn và cũng là sản phẩm của thời
đại. Khi đánh giá thành tựu của bất kì một nền văn học, một trào lưu, giai đoạn,
tác giả... ta không thể không đánh giá quan niệm nghệ thuật về con người. Tố
Hữu từng nhận xét: “Văn học không phải là chuyện văn chương mà là chuyện
cuộc sống, trước hết là con người”. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Quan
niệm nghệ thuật về con người thực chất là vấn đề tính năng động của chủ thể
nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực, lý giải con người bằng các phát hiện
nghệ thuật, về vấn đề và giới hạn, phạm vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ
thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào các miền khác nhau của
đời sống”. Nói đến quan niệm nghệ thuật về con người là nói đến sự sáng tạo
về chất trong cảm thụ và miêu tả hiện thực của nhà văn. Các nhà nghiên cứu
phương Tây cho rằng: con người là phương tiện “tất yếu quan trọng nhất để thể
hiện tư tưởng trong tác phẩm” [31,tr.18]. Cũng nói về vấn đề này, Pospelov
khẳng định:“Nhân vật bộc lộ bản thân chủ yếu không phải trong hành động,
việc làm mà qua cảm xúc đối với xung quanh và các suy nghĩ về những điều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
17




trông thấy” [31, tr.17]. Như vậy, nhân vật được khắc họa qua cái nhìn của tác

giả và được thể hiện thông qua các hình thức nghệ thuật. Qua nhân vật văn học,
người đọc nhận ra được quan điểm, tư tưởng, tình cảm của nhà văn đối với
cuộc sống và con người.
Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù của thi pháp học
hiện đại, được coi như một biểu hiện của tư duy nghệ thuật. Thi pháp học cho
rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, sự cảm thấy con người
đã được hóa thân thành những nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con
người trong văn học tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng
nhân vật trong đó” [34, tr.41].
Quan niệm nghệ thuật về con người cũng được xem như một trong
những tiêu chí để xác định phong cách nghệ thuật của một nhà văn. Ở trong
cùng một hệ đề tài, những quan niệm khác nhau về con người là dấu hiệu để
nhận diện tác giả. Những biến đổi trong văn học được bắt đầu từ việc đổi mới,
cắt nghĩa con người “Chừng nào chưa có sự đổi mới trong quan niệm nghệ
thuật về con người thì sự tái hiện các hiện tượng trong đời sống khác nhau chỉ
có ý nghĩa mở rộng về lượng trên cùng một chiều sâu” [33, tr.91]. Có thể nói
rằng, cơ sở quan trọng tạo nên sự vận động của văn học đó là sự đổi mới trong
quan niệm nghệ thuật về con người. Và ở mỗi giai đoạn lịch sử sẽ có những
chuẩn mực riêng trong quan niệm nghệ thuật về con người, sẽ có những sự
khác nhau trong cách lý giải, cảm thụ, phản ánh về con người.
Sau 1975, đất nước được độc lập, tự do và thống nhất nhưng dư âm của
chiến tranh vẫn còn. Năm 1986, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã
tác động mạnh mẽ đến văn học. Quan niệm con người kiểu sử thi cũng được
chuyển dần sang quan niệm con người đời tư cá nhân và được các nhà văn hình
dung ở nhiều chiều, nhiều phía. “Con người trong văn học hôm nay được, khám
phá, soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống
tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục
vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
18





×