Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn tập môn TIỀN tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.38 KB, 16 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN TIỀN TỆ
Câu 1:Trình bày bản chất và chức năng của tiền tệ?
1.1 Khái niệm:
- Tiền là 1loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các
loại hàng hóa để đo giá trị hàng hóa #.
- Tiền là 1 loại hàng hóa đặc biệt đóng vai trò là vật ngang giá trung để đo giá trị của
các hàng hoá # & là phương diện cần thiết để thực hiện mọi quan hệ trao đổi do vậy
tiền có thể thỏa mãn nhu cầu sở hữu nó & tương ứng vs số lượng giá trị mà người đó
đã tích lũy được.
- Tất cả các phương tiện có thể đóng vai trò trung gian trao đổi, được nhiều người thừa
nhận thì gọi là tiền.
1.2Bản chất và chức năng của tiền tệ :
Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua các chức năng của nó . Theo Các-Mác tiền tệ có 5 chức
năng:


Thước đo giá trị.: Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá.
Muốn đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ
làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không
cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng
tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá
trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội
cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền
gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định:
+ Giá trị hàng hoá.
+ Giá trị của tiền.
+ ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu hàng hoá.
Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường.
Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim
loại dùng làm tiền tệ. ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ


và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu
chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị. Là thước
đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo
lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự
thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá
tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn giá cả của nó,
mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ, một USD vẫn bằng 10 xen.
* Phương tiện lưu thông: Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi
giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có
tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.


Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi
hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và
không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng
kinh tế.
Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần
dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần
và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ
giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình
trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng
lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền
không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm
cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày
càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy.
Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công nhận
trong phạm vi quốc gia.
*
Phương tiện cất trữ: Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông

đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã
hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức
năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ
làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho
lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu
thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút
khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
*
Phương tiện thanh toán: Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ,
nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng ... Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến
trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này trước
tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là mua bán
chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán.
Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách
thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu
người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ
phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ
gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng
lên.
*
Tiền tệ thế giới: Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm
chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình
thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện
mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã
hội.
==> Tóm lại: 5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết với


nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hoá.

Câu 2:Trình bày khái niệm & nguyên nhân của lạm phát?
2.1 Khái niệm
- Lạm phát là sự tăng lên mức giá chung liên tục của nền kinh tế trong một giai đoạn nào đó.
Trong mỗi giai đoạn có thể có giá mặt hàng này tăng, mặt hàng kia giảm, nhưng nếu mức giá
chung tăng, ta có lạm phát. Nếu mức giá chung giảm, ta có giảm phát. Để đo lường lạm phát,
nguời ta có thể dùng hai chỉ số như sau:
+ Hệ số giảm phát GDP (GDP deflator) được tính trên cơ sở so sánh giá trị GDP tính theo giá
hiện hành, và GDP tính theo giá kỳ trước. Nghĩa là đo lường mức tăng và giảm giá trên tất cả các
loại hàng hoá dịch vụ tính trong GDP.
+ Chỉ số giá tiêu dùng hay chỉ số giá cả CPI: được tính theo bình quân gia quyền của một nhóm
các hàng hoá thiết yếu, ở VN nhóm hàng lương thực, giá vàng, đô la có lẽ có trọng số lớn. Chỉ số
này khôngphản ánh sự biến động giá chung nhưng phản ánh biến động giá cả ảnh hưởng nhiều
nhất đến đời sống, tiêu dùng.
Khi nói tốc độ lạm phát, nguời ta cũng thường dùng chỉ số này Khi nền kinh tế có lạm phát, nếu
không do nguyên nhân tác động từ nước ngoài, hay một thay đổi lớn về cung sản phẩm, thì nó
thể hiện cầu hàng hoá lớn hơn cung hàng hoá. Việc duy trì cầu hàng hoá lớn hơn cung hàng hoá
ở một mức độ vừa phải, do đó, lạm phát ở mức vừa phải, là cần thiết để kích thích sản xuất, giúp
cho việc tiêu thụ hàng hoá tốt hơn, và tạo lợi nhuận cần thiết cho các DN đầu tư nâng cao công
nghệ, mở rộng sản xuất. Nếu nền kinh tế sa vào giảm phát, nghĩa là sẽ bị thừa cung, thừa ứ hàng
hoá, gây ra tình trạng đình đốn, thua lỗ ở các doanh nghiệp. Đó là tác dụng của lạm phát. Tất
nhiên lạm phát quá cao thì lại là một vấn đề.
2.2 Nguyên nhân lạm phát
- Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm phát do cầu kéo" và
"lạm phát do chi phí đẩy" được coi là hai thủ phạm chính.
- Cân đối thu chi là điều không thể tránh khỏi khi xảy ra lạm phát
+ Lạm phát do cầu kéo :Nhiều người có trong tay một khoản tiền lớn và họ sẵn sàng chi trả cho
một hàng hoá hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường. Khi nhu cầu về một mặt hàng tăng
lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo
đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hoá trên thị trường. Lạm phát do sự
tăng lên về cầu được gọi là “lạm phát do cầu kéo”, nghĩa là cầu về một hàng hoá hay dịch vụ

ngày càng kéo giá cả của hàng hoá hay dịch vụ đó lên mức cao hơn. Các nhà khoa học mô tả tình
trạng lạm phát này là”quá nhiều tiền đuổi theo quá ít hàng hoá”.
+ Lạm phát do chi phí đẩy : Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên
liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu
tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Các xí nghiệp
vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn
thể nền kinh tế cũng tăng.
+ Lạm phát do cơ cấu :Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao
động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao
động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ
tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh từ đó.
+ Lạm phát do cầu thay đổi : Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về
một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính


chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm
vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức
giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
+ Lạm phát do xuất khẩu : Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản
phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm
khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
+ Lạm phát do nhập khẩu :
- Khi giá hàng hoá nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình
thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
- Khi lạm phát xảy ra, giá trị của đồng tiền sụt giảm - Lạm phát tiền tệ. Cung tiền tăng (chẳng
hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so
với ngoại tệ; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước)
khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Câu 3:Tác hại và lợi ích của lạm phát đối với kinh tế xã hội?
3.2 Tác hại

-lạm phát có tác động rất # nhau đối vs sự phát triển của nền KTXH
- lạm phát có thể dự tính được:
+ lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến người giữ tiền,khi lạm phát tăng lãi suất thực tế giảm thậm
chí =0 or âm
+ lạm phát gây tác động tới hệ thống thuế
+lạm phát làm bóp méo thông tin
- lạm phát không thể dự tính được
+ lạm phát tạo nên sự bất ổn cho môi trường KTXH gssy khó khăn cho việc xác định mức sinh
lời chính xác của các khoản đầu tư.
+ về mặt XH gây ảnh hưởng tiêu cực đối vs XH
+ lạm phát làm phân phối lại thu nhập quốc dân & của cải XH.
- lãi xuất tăng lên
+ ảnh hưởng cán cân thanh toán quốc tế
+ ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp.
3.2 Lơil ích:
Lạm phát ở mức độ vừa phải cũng có cái lợi, đó là nó góp phần phân phối lại thu nhập trong xã
hội, giữa những người thừa tiền và những người có hàng hoá cần thanh lý. Sau khi lạm phát kết
thúc thì tiền sẽ phân phối đều hơn, ít trường hợp người này wá nhiều tiền còn người kia wá nhiều
hàng nhưng lại thiếu vốn.
Câu 4: trình bày các biện pháp kiềm chế lạm phát ổn định lưu thông tiền tệ?


Những biện pháp ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát

Khi lạm phát đã xảy ra nặng nề và nghiêm trọng thì chính phủ của các nước phải tìm cách để
chống lại lạm phát nhằm hồi phục sức mua của đồng tiền. Nói như vậy có nghĩa là việc tghực
hiện các biện pháp ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ trở thành một trong những chính sách
lớn trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước.



Ổn định tiền tệ nói chung và kiềm chế lạm phát nói riêng là việc nhà nước áp dụng các biện pháp
về kinh tế, tài chính, kỹ thuật để ổn định sức mua của đồng tiền tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh
tế phát triển.
Trong thời kỳ các nước công nghiệp phát triển gắn với chế độ bản vị vàng, ổn định tiền tệ là áp
dụng các biện pháp để khôi phục lại quan hệ bình thường giữa tiền giấy so với vàng. Với mục
tiêu đó, các nước đã từng áp dụng các biện pháp cải thiện như:
-Biện pháp loại bỏ tiền giấy không khả hoán (Annulation)
-Biện pháp khôi phục (Restoration)
-Biện pháp phá giá tiền tệ (Devaluation)
Trong thời đại hiện nay, trên danh nghĩa pháp lý, vàng không còn là cơ sở của lưu thông tiền tệ,
không còn là cơ sở bảo đảm trực tiếp cho tiền giấy lưu thông trong nước nữa thì các biện pháp ổn
định và kiềm chế lạm phát đã có sự thay đổi quan trọng. Ổn định tiền tệ ngày nay là ổn định sức
mua của tiền giấy trên cơ sở ngăn chặn leo thang của giá cả hàng hóa bằng các giải quyết các vấn
đề của mối quan hệ giữa tiền và hàng. Nhưng dù có áp dụng biện pháp gì đi nữa thì các mục tiêu
cơ bản vẫn phải đạt được, nếu không thì chính sách tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ không có đầy
đủ ý nghĩa của nó. Những mục tiêu đó là ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm…Như vậy việc áp dụng các biện pháp đó có thể bao
gồm các biện pháp có tính chất chiến lược cùng các biện pháp cấp bách trước .
*

Những biện pháp cơ bản chiến lược có thể bao gồm những biện pháp như:

-Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đúng đắn:
Ở Việt Nam, kể từ khi đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chuyển đổi
cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có điều tiết, đã có tác
dụng rất to lớn.
-Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển ngành mũi nhọn:
Ổn định cơ cấu kinh tế nhằm đáp ứng được nhu cầu cơ bản về đời sống và việc làm của người
lao động, do đó tùy hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà có những chiến lược điều chỉnh cơ
cấu kinh tế khác nhau. Ở Việt Nam cơ cấu kinh tế được điều chỉnh theo hướng công nghiệp hóahiện đại hóa, trước mắt nông-lâm-ngư nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng, phát triển mạnh mẽ các

ngành dịch vụ (ngân hàng-bưu điện-du lịch…)


Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo cho nền kinh tế phát triển mạnh và chắc chắn. Ngoài ra, còn phát
triển ngành kinh tế mũi nhọn xuất khẩu, bởi vì trong điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế
thì hoạt động ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói riêng có vị trí quan trọng, nó vừa tạo ra
nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia vừa tác động đến các hoạt động của các ngành kinh tế khác, ổn
định lưu thông tiền tệ trong nước.
-Nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước:
Vai trò của Nhà nước đối với quản lý kinh tế rất to lớn. Nhà nước là nguời duy nhất đảm bảo tính
công bằng và ổn định kinh tế, đồng thời Nhà nước có thể tác động thúc đẩy hiệu quả và tăng
trưởng kinh tế.
Bằng các công cụ về pháp luật, tài chính, giá cả, tiền tệ…đã tác động đến mọi mặt hoạt động của
nền kinh tế xã hội, do đó việc nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước được coi như là
biện pháp mang tính chiến lược để ổn định tiền tệ, tinh giảm biên chế, kiệm toàn bộ máy quản lý
hành chính.


Những biện pháp cấp bách trước mắt

Biện pháp cấp bách trước mắt để ổn định tiền tệ và chống lại lạm phát được thực hiện trong hoàn
cảnh lạm phát xảy ra nghiêm trọng, cơn sốt lạm phát cao thì có tác dụng nhưng chóng hơn.
Những biện pháp như vậy được gọi là biện pháp tình thế để đối phó với thực trạng báo động của
tình hình tiền tệ, giá cả.
-Biện pháp tiền tệ tín dụng: Xuất phát từ quan điểm cho rằng lạm phát bao giờ cũng là hiện
tượng của tiền tệ, năm biện pháp ổn định tiền tệ và chống lạm phát phải bắt đầu từ lĩnh vực tiền
tệ-tín dụng:




Quản lý chặt chẽ việc cung ứng tiền.
Quản lý và hạn chế thật mạnh khả năng “tạo tiền” của ngân hàng thương thương mại
bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng.



Nâng cao lãi suất tín dụng để thu hút tiền mặt trong nền kinh tế-xã hội, làm giảm lượng
tiền cung ứng, mặt khác, nâng cao lãi suất tín dụng cũng làm giảm khả năng mở rộng tín
dụng của ngân hàng thương mại.



Trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp cải cách tiền tệ, phát hành tiền mới thu
hồi tiền cũ, lập lại trật tự trong lưu thông tiền tệ.

-Biện pháp với tài chính ngân sách: áp dụng biện pháp về tài chính ngân sách có ý nghĩa quan
trọng và then chốt, bởi vì người ta đều đồng ý rằng sau khủng hoảng của hệ thống tài chính Nhà


Nước, ngân sách bị thâm hụt là nguyên nhân chính của lạm phát, do đó nếu dập tắt được nguyên
nhân này thì tiền tệ sẽ ổn định, lạm phát được kiểm soát.




Trước hết phải tìm cách để giảm dần bội chi tiền tạo thăng bằng thu chi ngân sách bằng
cách tiết kiệm chi, nhất là những khoản chi cho bộ máy quản lý hành chính, những khoản
chi chưa thật cấp thiết cũng cần phải cắt bớt hoặc giảm thiểu để làm giảm sự căng thẳng
của ngân sách.
Tăng cường bồi dưỡng và mở rộng các khoản thu từ nền kinh tế, chống thất thu thuế,

đồng thời phải thực hiện thu đúng, thu đủ, công bằng để không gây ảnh hưởng tiêu cực
đến sản xuất và đời sống.



Sử dụng tín dụng nhà nước bằng cách vay trong nước và nước ngoài.



Trong nước phát hành trái khoán Nhà nước ngắn hạn, trung và dài hạn như tín phiếu kho
bạc, trái phiếu chính phủ…Tăng các khoản vay và viện trợ từ bên ngoài với các điều kiện
ưu đãi.

-Ngăn chặn sự leo thang của giá cả: Sự leo thang của giá cả do tác động bởi nhiều yếu tố như sản
xuất xuất kém, cung cầu hàng hóa trên thị trường mất cân đối làm giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao,
cũng có thể do lượng tiền cung ứng tăng cao hơn tố độ tăng của sản xuất, ngoài ra còn có yếu tố
tâm lý, đầu cơ…
Việc áp dụng các biện pháp để ngăn chặn sự leo thang của giá cả trước hết cần phải giải quyết ở
khâu lưu thông phân phối như thực hiện mậu dịch tự do, nới lỏng hàng rào thuế quan để đẩy
mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa.
Có thể can thiệp bằng vàng và ngoại tệ bằng cách bán ra để ổn định giá vàng, giá ngoại tệ, từ đó
tạo tâm lý ổn địn giá cả các loại mặt hàng khác. Mặt khác, quản lý thị trường tốt, chống buôn lậu,
chống độc quyền, tranh mua tranh bán…
*Những phương thức chống lạm phát ở các nước phát triển
Ở các nước phát triển, người ta thường đeo đuổi việc thực hiện một chính sách kinh tế vĩ mô nào
đó mà việc thực hiện một chính sách như vậy thường cũng sinh ra lạm phát.
Trước hết đó là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết nạn thất nghiệp. Các
nhà nghiên cứu kinh tế ở Mỹ và các nước tư bản phát triển đã thống nhất rằng khi chính phủ
muốn thực hiện chỉ tiêu công ăn việc làm cao (thất nghiệp giảm) có thể dẫn đến lạm phát. Kế đến
phải nói đến thâm hụt ngân sách, hầu như ai cũng thừa nhận giảm thâm hụt ngân sách và lạm

phát là bạn đồng hành với nhau. Tuy vậy, nếu thâm hụt ngân sách được trang trãi bằng các khoản


vay của Chính phủ (bán trái khoán) thì nó sẽ không gây lạm phát. Thâm hụt ngân sách chỉ gây ra
lạm phát khi nó được bù đắp bằng việc phát hành tiền.
Việc lựa chọn phương thức chống lạm phát ở các nước không hoàn toàn giống nhau, ngay cả ở
một nước, trong những thời kỳ khác nhau người ta cũng áp dụng những phương thức khác nhau.
Nhìn chung, có hai loại phương thức dưới đây:
-Phương thức “hạn chế tiền tệ”-kiểm soát chặt chẽ lượng tiền cung ứng: phương thức này xuất
phát từ luận điểm của Friedman cho rằng sự tăng trưởng kinh tế ổn định và có hiệu quả chỉ có
thể dựa trên sự kiểm sóat chặt chẽ khối lượng tiền tệ phát hành trong lưu thông, nghĩa là kiểm
soát sự cung ứng tiền tệ kết hợp với chính sách kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng dài
hạn.
Phương thức hạn chế tiền tệ được áp dụng ở Mỹ trong nhiều thập niên và tỏ ra có hiệu quả, vì
vậy nó được nhiều nước thừa nhận như là phương thức chủ yếu để ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm
phát.
-Phương thức “nới lỏng tiền tệ”-lấy lạm phát trị lạm phát: phương thức này dựa trên quan điểm
của Keynes cho rằng một nền kinh tế tăng trưởng và có hiệu quả là giải quyết đầy đủ công ăn
việc làm. Muốn vậy phải kích cầu bằng các chính sách vĩ mô của nhà nước. Trong đó, việc nới
lỏng tiền tệ, mở rộng việc cung ứng tiền tệ sẽ kích thích mặt cầu, giải quyết được nạn thất
nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ đó lạm phát sẽ được kiểm soát.
Theo quan điểm này, người ta coi lạm phát và chống lạm phát như một quá trình liên tục, nghĩa
là vừa chống lạm phát lại vừa thực hiện chính sách tiền tệ lạm phát. Phương thức này đựoc thừa
nhận ở Mỹ vào những thập niên 40, 50, 60 sau đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước Nam Mỹ,
Argentina, Peru, Brazil, Bolivia có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ bình quân hàng năm lên đến trên dưới
300%, các nước khác như Urugoay, Mexico có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ bình quân hàng năm
khoảng trên dưới 60% là một trong những bằng chứng vêf thực hiện quan điểm nói trên.
phát sinh & còn trong thời
Câu5 : trình bày định nghĩa và phân loại ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là loai hình ngân hàng trung gian hoạt động vì mục đích lợi nhuận

thông qua việc kinh doanh các lhoản vốn ngắn hạn là chủ yếu
Mặc dù chỉ có 1biên giới rất mong manh giữa ngân hàng thương mại với các ngân hàng trung
gian khác, người ta vẫn tách ngân hàng thương mại ra một nhóm riêng vì những lý do đặc biệt
của nó


+ tổng tài sản Có của ngân hàng thương mại luôn là khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống
ngân hàng
+ khối lượng séc hay tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mà nó có thể tạo ra cũng là bộ phận quan
trọng trong tổng cung tièn tệ M1 của nền kinh tế
Phân loại ngân hàng thương mại
Về mặt sở hữu: Ngân hàng thương mại có thể tồn tại ở nhiều dạng sở hữu khác nhau
Ngân hàng thương mại quốc doanh
Ngân hàng thương mại tư nhân
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài
Câu 6 trình bày chức năng của ngân hàng thương mại
Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa
người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng
vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh
lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham
gia: người gửi tiền và người đi vay.
Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các
thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán
tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các
khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh
toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy

theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các
chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh
toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản
thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo
thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc
độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân NHTM. Với mục
tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các


NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức
năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác
của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán.Thông qua chức năng trung gian tín
dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách
hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua
hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.chức năng trung
gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được
khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để
mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng
phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
Câu 7: Trình bày nghiệp vụ NHTM và trong các nghiệp vụ của NHTM thì
nghiệp vụ nào quan trọng nhất?
9.1 Nghiệp vụ NHTM:
*Báng tổng kết tài sản của NHTM
- V iệc nghiên cứu các nghiệp cơ bản của 1 NHTM thực chất là việc xác định nội dung
các khoản mục thuộc bảng tổng kết tài sản

- Bảng tổng kết tài sản gồm 2 phần :
+ Tài sản nợ
+ Tài sản có
- Tài sản nợ phản ánh nguồn vốn hoạt động của NHTM, bao gồm những khoản mà NH
nợ thị trường và vốn của ngân hàng. Các khoản nợ thị trường được biểu hiện thông
qua những khoản vốn mà dân chúng gửi vào NHTM or NHTM đi vay các chủ thể
trong nền kinh tế như cá nhân hộ gia đình, doanh nghiệp nước ngoài các trung gian tài
chính # ,Ngân hàng Trung ương…
- Tài sản có phản ánh việc sử dụng vốn của NHTM hay những khoản mà thị trường nợ
NHTM. Đó là những khoản mà ngân hàng cho thị trường vay hay đầu tư vào thị
trường. mỗi khoản ngân hàng cho vay ra hay đầu tư vào chứng khoán có giá đều được
ghi vào bên có của bảng tổng kết tài sản làm tăng tài sản có của ngân hàng .
- Tính chất quan trọng của bảng tổng kết tài sản là tổng số tiền bên tài sản có phải bằng
tổng số tiền bên tài sản nợ
Tổng tài sản Có = Tổng tài sản Nợ + Vốn
*Nghiệp vụ bên nợ
- nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ phản ánh nguồn vốn của ngân hàng. Trong vòng 3 thập niên kể từ
sau cuộc suy thoái kinh tế năm 1930, phần lớn các nghiệp vụ NHTM trên thế giới đều quan tâm
nhiều nhất đến tài sản Có, tức là kế hoạch và thức đầu tư các nguồn vốn đã có. Từ những năm
1960 trở đi, các NHTM lại chú ý quản lý tài sản Nợ nhiều hơn.
Cho đến thập niên 1990, tài sản Nợ của NHTM trên khắp thế giới vẫn tập trung vào 3 nhóm phổ
biến đó là:
- Vốn tiền gửi :
+ Tiền gửi không kì hạn : Đây là khoản tiền mà doanh nghiệp or cá nhân gửi vào
ngân hàng để ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán, tức là người gửi có thể rút
bất cứ lúc nào họ muốn. Nó tạo ra khả năng tiện lợi giúp khách hang không phải


thanh toán bằng tiền mặt mà thay vào đó là thanh toán bằng séc. Lãi suất của khoản
tiền này là rất thấp or băng 0, thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch

vụ ngân hàng với mức phí thấp. các ngân hàng có thể kết hợp tài khoản tiền gửi từ
nhân dân(tài khoản séc ) or tài khoản từ thương nhân – tài khoản vãng lai (chi trội
trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán)
+ Tiền gửi có kì hạn: nhiều khoản thu bằng tiền của DN & các tổ chức xã hội sẽ được
chi trả sau 1tgian xác định. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền,NH đã
đưa ra hình thức gửi tiền có kì hạn. Người gửi tiền không được sử dụng các hình
thứcthanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng với tiền gửi loại này. Khi cần
chi tiêu người gửi phải đến ngân hàng rút tiền ra. Tiền gửi có kì hạn phụ thuộc vào lãi
suất của NHTM lãi suất các loại hình # & thu nhập của người dan. Tuy không thuận
lợi như tiền gửi thanh toán nhưng tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi xuất cao hơn tùy
theo độ dài của kì hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm: các tâng lớp dân cư đều có khoản thu nhập tàm thời nhàn rỗi.
Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm
thực hiện mục tiêu bảo toàn & sinh lời đối vs các khoản tiết kiệm.Nhằm thu hút ngỳ
càng nhiều tiền tiết kiệm các ngân hang đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi
thói wen giữ vàng&tiền tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động hay đưa ra
các hình thức đa dạng hay lãi suất cạnh tranh.
• Ở VN hiện nay các hình thức gửi tiết kiệm phổ biến là:
 Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn là loại tiền gửi mà KH có thể gửi nhiều lần và rút ra bất
cứ lúc nào
Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn là loại tiền gử được rút ra sau 1 thời gian nhất định
Ví dụ: NH có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều sổ tiết kiệm cho mỗi lần gửi, mỗi kì hạn #
nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng& dịch vụ được nhưng có thể dùng để
thế chấp nếu NH chấp nhận.
- Vốn đi vay: Các NHTM có thể vay vốn NHTW,vay các ngân hàng or trung gian tài
chính # và vay từ công chúng.
+ phát hành các chứng từ có giá : NH chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn
thường nhằm mục đích đã định, ví dụ phát hành kì phiếu để có tiền cho vay # phục vụ
hậu quả bão lụt, để cho vay thu mua nông sản…. Việc huy đông vốn phát đông dưới
dạng kì phiếu được huy động theo 2 phương thức:phát hành theo mệnh giá&phát

hành dưới hình thức chiết khấu.
+ Vay NHTW : NHTW cấp tín dụng cho NHTM chủ yếu dưới 2 hình thức
 Thứ 1 là tái cấp vốn mà chủ yếu dưới hình thức tái chiết khấu chứng từ có giá.
 Thứ 2 cho vay thế chấp hay ứng trước.
 Hình thức tái cấp vốn được NH nước VN thực hiện theo 3 cách :
. Cho vay lãi theo hồ sơ tín dụng
. Chiết khấu tái chiết khấu thương phiếu & các giấy tờ có giá ngắn han#.
. Cho vay có đảm bảo cầm cố thương phiếu và các giấy tờ ngắn hạn # .
 Khoản vay này lquan đến lượng tiền trung ương,đến việc thực hiện chính sách
tiền tệ của NHTW
 Mục đíchquan trọng của loại vay là đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng trong thời
hạn ngắn. Trong wa trình hoạt động, có những ngày cho vay wa nhiều or có nhu
cầu lớn về các ~ vụ tài chính dẫn đến sự thiếu hụt dự trữ tại NHTW. Trong khi đó


có 1 vài NHTM # trong tình trạng dư thừa vốn. Hành vi vay lẫn nhau giữa các
ngân hàng là nhằm cân bằng lượng vốn khả dụng trong hệ thống NH.
+ Các nguồn vay #:
 Tiền vay từ những công ty mẹ của NH.
 Phát hành hợp đồng mua lại:đây là thỏa thuận vay tiền từ các công ty. Hợp đông
mua lại hay giấy thỏa thuận mua lại là 1 hợp đồng bán chứng khoán và các đối
tượng kinh doanh chứng khoán tương đối thừa tiền mặt: như các công ty tài
chính,các quỹ tiết kiệm,quỹ tín dụng, quỹ hưu trí…
+ Vay nước ngoài : Các NH có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động từ việc phát hành
phiếu nợ để vay tiền ở nước ngoài.
- Vốn của ngân hàng:
+ Vốn tự có:
 Vốn điều lệ là vốn mà NHTM phải có để hoạt động được ghi trong bản pháp quy.
 Các quỹ dự trữ trích từ lợi nhuận ròng bổ sung vào vốn tự có:Qũy bổ sung dự trữ
vốn điều lệ,quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro.

 Vốn chưa chia ,các quỹ # chưa sử dụng có thể coi là nguồn vốn tự có của NHTM.
- Nghiệp vụ thuộc tài sản có:
+ Nghiệp vụ ngân quỹ:
 Tiền mặt tồn quỹ: gồm tiền giấy & tiền kim loại hiện có tại kho của ngân hàng.
 Tiền gửi ở ngân hàng #: nhiều ngân hàng nhỏ gửi tiền trong các ngân hàng lớn để
đổi lấy các dịch vụ # nhau như thanh toán giữa các ngân hàng, giao dịch ngoai
tệ…
 Tiền gửi ở ngân hàng trung ương: gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc & tiền gửi thanh
toán.
+ Nghiệp vụ cho vay: là nghiệp vụ cung ứng vốn của ngân hàng trực tiếp cho các nhu
cầu sản xuất,tiêu dùng…trên cơ sở các điều kiện vay vốn của ngân hàng.
 Chiết khấu thương phiếu .
 Cho vay vượt chi.
 Tín dụng ủy thác thu hay bao thanh toán.
 Cho vay thu mua.
 Tín dụng bằng chữ kí(gồm tín dụng chấp nhận& tín dụng bảo lãnh)
 Tín dụng tiêu dùng.
+ Nghiệp vụ đầu tư: Đầu tư vào chứng khoán là hình thức phổ biến nhất trong nghiệp vụ tài sản
có của NHTM(cổ phiếu,trái phiếu công ty,trái phiếu chính phủ,tín phiếu…). Ở VN, theo luật các
tổ chức tín dụng,ngoài việc đầu tư vào chứng khoán,các tổ chức tín dụng được dùng vốn điều lệ
& quỹ dự trữ để góp vốn,mua cổ phần của các doanh nghiệp & các tổ chức tín dụng #.
+ Những tài sản có # : Đó là những vốn hiện vật như nhà làm việc máy tính & những trang thiết
bị # do ngân hàng sở hữu.
+ Các dịch vụ ngân hàng #:Các NHTM vs chức năng vốn có thực hiện các dịch vụ thanh
toán,kinh doanh ngoại hối,các nghiệp vụ ủy thác & đại lý theo yều cầu của khách hàng…. Theo
các tổ chức tín dụng của VN,hiện nay các dịch vụ mà ngân hàng được thực hiện bao gồm:
 Dịch vụ bao thanh toán.
 Kinh doanh ngoại hối & vàng trên thị trường.
 Thực hiện nghiệp vụ ủy thác & đại lý.
 Cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng.

9.2


Câu8 trình bày khái niệm và chức năng của ngân hàng trung ương
Khái niệm
Ngân hàng trung ương là ngân hàng quản lý của nhà nước đối với hệ thống ngân hàng, là cơ
quan trực thuộc chính phủ. Với chức năng quản lý và kiểm soát về tiền tệ, là nơi phát hành tiền
vào lưu thông thông qua các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng
Chức năng của ngân hàng trung ương

ngân hàng trung ương là ngân hàng phát hành tiền.Ngân hàng trung ương độc
quyền phát hành tiền có nghĩa là ngân hàng trung ương là người được phép phát hành
tiền theo các quy định trong luật hoặc được chính phủ phê duyệt( mệnh giá, loại tiền,
mức phát hành …….) nhằm đảm bảo thống nhất an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ
của quốc gia
Sở dĩ quyền lực phát hành giấy bạc tập trung vào một ngân hàng là vì:
các chính phủ các nước muốn kiểm soát sự biíen động của lượng tiền lưu thông
trong pham vi toàn quốc
-

lượng tiền trong lưu thông giờ đây bao gồm cr tiền mặt và tiền gửi ngân hàng

giấy bạc do ngân hàng trung ương phát hành – một ngân hàng nhận được sự ưu đãi
tối ưu từ chinh phủ - sẽ có uy tín cao trong lưu thông
việc phát hành tiền mang lại lợi nhuận, vì thế tốt nhất nên tập trung vào một ngân
hàng để tiện cho việc phân phối và sử dụng nguồn lợi đó một cach thích hợp
nguyên tắc phát hành tiền
nguyên tắc phát hành tiền nhằm hình thành các căn cứ đẻ kiểm sốat lượng tiền trong lưu
thông, đảm bảo đủ phương tiện tiền tệ cho nhu cầu lưu thong hàng hóa bà giữ cho lưu thông
tiền tệ ổn định

-

nguyên tắc phát hành tiền dựa trên cơ sở có trữ kim bảo đảm

-

nguyên tắc phát hành có đảm bảo bằng hàng hóa

-

dự tính khối lượng tiền MB cần phát hành

Kênh phát hành tiền:
-

phát hành cho ngân sách nhà nước vay

-

phát hành qua nghiệp vụ thị trường mở

-

phát hành qua các ngân hàng trung gian

-

phát hành qua thị trường vàng và ngoại tệ




ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng


- ngân hàng trung ương mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian
tiền gửi dự trữ bắt buộc
-hoạt động trung gian tài chính của các ngân hàng buộc nó phải dự trữ một lượng tiền mặt
nhất định để đảm bảo nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng
thanh toán với các ngân hàng khác hoặc đáp ứng nhu cầu giao dịch với ngân hàng trung ương
-

là trung tâm thanh toán cho hệ thống ngân hàng trung gian

- chức năng ban đầu của dự trữ bắt buộc là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán trước nhu cầu
rút tiền mặt của khách hàng, và do đó hạn chế khả năng rủi ro thanh khoản cho các hệ thống
Tiền gửi thanh toán :Là tiền ngoài khoản dự trữ bắt buộc, các ngân hàng trung gian phỉa
duy trì thường xuyên một lượng tiền gửi trên tài khoản tại ngân hàng trung ương đủ để
thực hiện các nhu cầu chi trả trong cấp tín dụng cho các ngân hàng tung gian
ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian vay nhằm mục đích
phát hành thêm tiền trung ương theo kế hoạch
bổ sung lượng vốn khả dụng cho các hoạt động của các ngân hàng trung gian mọtt cách
thương xuyên
là cứu cánh cho vay cuối cùng nhằm cứu nguy cho các ngân hàng trung gian khi cần thiết,
nếu sự đổ vỡ của nó có thể gây ảnh hưởng đến sự an toàn hệ thống
nguyên tác cho vay của ngân hàng trung uơng là thông qua tái chiết khấu các chứng từ có giá
và cho vay ngắn hạn hay còn gọi là nghiệp vụ tái chiết khấu


Ngân hàng trung ương là ngân hàng của chính phủ


Ngân hàng trung ương có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho chính phủ, đồng thời
làm đại lý và tư vấn chính sách cho chính phủ.
Các dịch vụ ngân hàng mà ngân hàng trung ương cung cấp cho chính phủ bao gồm
Làm thủ quỹ cho kho bạc nhà nước thông qua quản lý tài khoản của kho bạc
Làm dại lý và tư vấn cho chính phủ
Cho chính phủ vay các khoản tín dụng cung ứng cho chính phủ nhằm bù đắp thiếu hụt tạm
thời trong năm tài chính hoặc bội chi ngân sách vào cuối năm tài chính


chức năng quản lý nhà nước của ngân hàng trung ương

đây là chức năng quyết định bản chất ngân hàng trung ương của một ngân hàng phát hành.
Việc thực hiện chức năng này không thể tách rời khỏi các nghiệp vụ ngân hàng của ngân
hàng trung ương
- ngân hàng trung ương có trách nhiệm xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mômà trong đó ngân hàng trung ương sử dụng các
công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo sự
ổn định giá trị tiền tệ đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm
-

thanh tra giám sát hộat động của hệ thống ngân hàng


với tưcách là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng trung ương không chỉ cung
ứng các dịch vụ ngân hàng thuần túy cho các khách hàng của nó, mà thông thông qua các
hộat động kinh doanh đó, Ngân hàng trung ương thực hiện vai trò điều tiết , giám sát
thương xuyên hoạt động của ccs ngân hàng kinh doanh nhằm hai mục đích: đảm bảo sự
ổn định trong hoạt đọng ngân hàng và bảo vệ lợi ích của khách hàng
+ đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng
+ bảo vệ công chúng đàu tư

Trong tất cả các chức năng thì chức năng quan trọng nhất của ngân hàng trung ương là thực
hiện quản lý nhà nước các hoạt đọng về tiền tệvà ngân hàng, trong đó ngân hàng trung ương
có nhiệm vụ xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gai đồng thời với chức năng
thanh tra giám sát toàn bộ hệ thống ngân hàng. Các chức năng này được thực hiện gắn liền
với các hoạt động nghiệp vụ cụ thể của ngân hàng trung ương. Hay nói cách khác, các hoạt
động hàng ngày của ngân hàng trung ương là nhằm đạt đựợc các mục tiêu dài hạn về sự ổn
định giá trị tiền tệ và sự an toàn hiệu quả của hệ thống ngân hàng
ày chức năng của NHTM
NHTM được thể hiện rõ nhất ở loại hình ngân hàng thương mại thông qua 3 chức năng sau:
• Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội:
- Thực hiện các chức năng này, ngân hàng nhận tiền gửi của công chúng,của doanh
nghiệp & các tổ chức, giữ tiền cho khách hàng của mình ,đáp ứng nhu cầu rút tiền &
chi tiền của họ.
- Chức năng này đã có trong thời kì sơ khai của hoạt đông ngân hàng xuất phát từ nhu
cầu muốn đảm bảo an toàn cho tài sản & mong muốn tích lũy giá trị của công chúng
& các doanh nghiệp trong xã hội




×