Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG, ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.95 KB, 34 trang )

Đề tài thảo luận : Vai trò của thành
phần kinh tế nhà nước trong việc
xây dựng nền kinh tế xã hội thị
trường, định hướng Xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.


Biên bản họp nhóm
1. Thời gian: 8h sáng thứ 4 ngày 30/9/2015
2. Địa điểm: Sân thư viện trường ĐH Thương Mại.
3. Thành viên: + Tổng: 10 người

+ Vắng: 0
4. Nội dung:

+ Nhóm trưởng phát biểu: Đề tài của nhóm là: “ Vai trò của thành phần kinh tế nhà
nước trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” .
Từ đó triển khai xây dựng dàn ý.
+ Các thành viên đưa ra ý kiến đóng góp. Cấu trúc bài:
Lời mở đầu
I. Lý luận chung về kinh tế nhà nước và vai trò của thành phần kinh tế Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
1.Quan niệm về kinh tế Nhà nước.
1.1.Thành phần kinh tế Nhà nước.
1.2.Sự hình thành và phát triển của kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
2.Đặc điểm kinh tế Nhà nước.
3.Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam.


3.1.Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần phát triển ở nước ta hiện nay.


3.2.Tính tất yếu vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
3.3.Những biểu hiện của vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
II. Thực trạng của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
dịnh hướng XHCN ở Việt Nam.
1.Khảo sát tiến trình phát triển.(Thời kỳ đổi mới).
2.Đánh giá chung về thực trạng thành phần kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
2.1.Thành tựu.
2.2.Những tồn tại và hạn chế, nguyên nhân của tồn tại và hạn chế.
III.Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VIỆT NAM.
1.Tổ chức lại thành phần kinh tế Nhà n ước theo hướng tập trung vào những
ngành, những lĩnh vực kinh tế công nghệ then chốt.
2.Cải cách các doanh nghiệp nhà nước.
2.1.Định hướng sắp xếp và phát triển DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động
công ích.
2.1.1.Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.
2.1.Đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN.
2.2.Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sát nhập, giải thể, phá sản đối
với DNNN quy mô nhỏ, làm ăn không hiệu quả.


2.3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty NN, hình thành
một số tập đoàn kinh tế mạnh.
2.4.Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được.
3. Đổi mới cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp Nhà Nước.
4. Đổi mới quản lí Nhà Nước đối với các doanh nghiệp Nhà Nước.
5.Phát triển các mối quan hệ liên kết giữa các DNNN với các doanh nghiệp
trong các thành phần kinh tế khác.
6. Tài sản thuộc Nhà nước.
K ết luận .

Sau khi thống nhất được cá biến thì Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ: Hạn nộp:
ngày 10/10/2015

Nhiệm vụ
Thuyết trình

Thành viên thực hiện
Nguyễn Thanh Quý


Slide

Trương Thị Oanh

Phần I: 1; 2

Dương Thị Linh Năm

Phần I: 3.1

Nguyễn Tiến Quang

Phần I: 3.2; 3.3

Trần Đăng Phương

Phần II : 1

Ngô Thị Thúy Nga


Phần II: 2

Đinh Thị Ngọc

Phần III: 1;2;3
Ghi chép, viết bản bản họp nhóm + biên bản
đánh giá
Phần III: 4;5;6

Lương Thị Phượng
Nguyễn Thị Thu Nhàn

Phần mở đầu, phần kết luận
Tổng hợp và chỉnh sửa bản word

Phạm Thị Ngân

Hà nội, ngày 30 tháng 10 năm 2015
Nhóm trưởng

Người viết ( thư ký )

Biên bản họp nhóm
1. Thời gian : 9h thứ 4 ngày 14/10/2015
2. Địa điểm : Sân thư viện trường ĐH Thương mại
3. Thành viên: + Tổng: 10 người

+ Vắng: 0
4. Nội dung:



+ Nhóm trưởng nhận xét bài chuẩn bị của các thành viên trong nhóm:
- Đa phần các bạn đều gửi đúng hạn
- Chất lượng các bài đều tương đối, đối chỗ còn sai sót, sai chính tả,….
+ Tiến hành thuyết trình thử để cả nhóm góp ý
+ Cả nhóm nhận xét và đưa ra các câu hỏi phản biển cho các đề tài khác.

Hà nội, ngày 14 tháng 10 năm 2015
Nhóm trưởng

Người viết ( Thư ký)

Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế nhiều
thành phần. Đó là một tất yếu khách quan và cần thiết. Nước ta bắt đầu đổi mới nền kinh
tế từ những năm chín mươi cho đến nay đã gần hai mươi năm. Trong đó vai trò chủ
đạo,dẫn dắt, điều tiết nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của kinh tế Nhà nước luôn
được Đảng quan tâm chú trọng.
Đại hội Đảng lần thứ VI- đại hội đánh dấu bước ngoặt của công cuộc đổi mới- đã
khẳng định: thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần vận động


theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ
trương này được Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định và bổ sung, làm
rõ thêm. Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta luôn
luôn khẳng định thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nên kinh tế quốc
dân. Thực tiễn 10 năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng củng
cố, nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và thực tế vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước đã từng bước được khẳng định. Nhưng trong thực tiễn quản lý vĩ mô đối với
kinh tế nhà nước có những mặt buông lỏng, có mặt thắt chặt chưa hợp lý; trong khi đó,

các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển nhanh và trong quá trình
hội

nhập

khu

vực



quốc

tế

nảy

sinh

những

thách

thức

mới.

Nhằm thể hiện rõ vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN đòi hỏi nền kinh tế Nhà nước phải có biện pháp mạnh, kiên
quyết, kịp thời, hợp lý để chủ động đổi mới, nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước để

giữ vững vai trò chủ đạo , thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.

I. Lý luận chung về kinh tế nhà nước và vai trò của thành phần kinh tế Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.Quan niệm về kinh tế Nhà nước.
1.1.Thành phần kinh tế Nhà nước.
Thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế mà vốn và tư liệu sản xuất thuộc
sở hữu nhà nước; Bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước và các tài sản thuộc sở ữu nhà
nước như; đất đai, hầm mỏ, rừng biển, ngân sách, các quỹ dự trữ, ngân hàng nhà nước,
hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.


Xét về khía cạnh hình thức tổ chức thì khu vực Kinh tế Nhà nước bao gồm:
+ Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh và các doanh nghiệp hoạt
động công ích.
+ Các doanh nghiệp có cổ phần Nhà nước chi phối hoặc cổ phần đặc biệt của Nhà
nước.
+ Các doanh nghiệp có vốn góp Nhà nước.
+ Các tổ chức sự nghiệp kinh tế của Nhà nước.
Xét về khía cạnh lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế thì khu vực kinh tế Nhà nước
bao gồm các hoạt động Nhà nước trong việc:
+ Quản lý, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
+ Đầu tư, quản lý, khai thác các công trình cơ, hạ tầng kỹ thuật.
+ Các tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương
mại, dịch vụ, tài chính, tín dụng, ngân hàng,...
1.2.Sự hình thành và phát triển của kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
Nhà nước đầu tư xây dựng mới các doanh nghiệp Nhà nước, quốc hữu hóa các
doanh nghiệp tư bản tư nhân hoặc góp vốn cổ phần khống chế với các doanh nghiệp tư
nhân. Viêt Nam đang quá độ lên Chủ nghĩa xã hôị bỏ qua giai đoạn phát triển của Chủ
nghĩa tư bản, nên tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ

vai trò chủ đạo, là thành phân fkinh tế dựa trên sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Nhà
nước chuyên chính vô sản đại diện cho nhân dân quản lý nó. Nhà nước ta là Nhà nước
của dân, vì dân, do dân.
Sự ra đời của kinh tế Nhà nước thể hiện qua các bước: quốc cữu hóa Xã hội chủ
nghĩa, cải tạo xã hội cũ và đầu tư xây dựng mới xã hội chủ nghĩa.
Mô hình kinh tế chỉ huy: Kinh tế Nhà nước bao trùm lên tất cả các lĩnh vực kinh tế.
2.Đặc điểm kinh tế Nhà nước.
+ Kinh tế Nhà nước là dựa trên chế độ công hữ về tư liệu sản xuất.
+ Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan
trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô.


+ Kinh tế Nhà nước rộng và mạnh hơn doanh nghiệp Nhà nước, bao gồm những ngành
trọng yếu: kết cấu hạ tầng kinh tế, ngân sách tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở
sản xuất và thương mại dịch vụ then chốt,...
+ Kinh tế Nhà nước giải quyết các mối quan hệ giữa quyền sở hữu của Nhà nước và
quyền quản lý của các chủ thể doanh nghiệp Nhà nước.
3.Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3.1.Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần phát triển ở nước ta hiện nay:
Một trong những thành tựu lớn nhất của gần 18 năm đổi mới ở nước ta là đổi mới
kinh tế, tạo nên những tiềm lực mới cho sự phát triển của đất nước. Có được thành tựu ấy
là do nhiều nguyên nhân, trong đó đổi mới tư duy kinh tế, thực hiện nền kinh tế nhiều
thành phần, gắn với thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ bản nhất.
Chính sách đối với phát triển các thành phần kinh tế là một bộ phận trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Từ chỗ không thừa nhận kinh tế
tư nhân đến chỗ thừa nhận nó; từ chỗ thừa nhận kinh doanh nhỏ ở một số ngành nghề,
đến chỗ không hạn chế về quy mô và lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Từ chỗ cho làm,
đến chỗ được làm, mỗi lần thay đổi tư duy như vậy là một lần nhận thức của chúng ta
được mở rộng, sâu thêm và kinh tế tư nhân cùng các thành phần kinh tế phát triển. Những

biến đổi như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế đóng góp quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế, giải quyết việc làm tạo cơ hội cho những chủ thể kinh tế, các doanh nhân
mới năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm với mình và với đất
nước.
Kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tổng thể các
thành phần cùng tồn tại trong một môi trường hợp tác và canh tranh. Mỗi thành phần kinh
tế tồn tại ở các hình thức tổ chức kinh tế với quy mô và trình độ công nghệ nhất định. Các
thành phần kinh tế được thể hiện ở các hình thức tổ chứa kinh doanh đa dạng, đan xen
hỗn hợp. sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội


trước hết chịu sự quy định của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất.
*Về cơ cấu ngành:
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: “Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư
nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức sở hữu kinh doanh đa
dạng, đan xen, hỗn hợp”. Các thành phần kinh tế được nêu lên gồm: kinh tế Nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước.
Thành phần kinh tế hợp tác đã được thay bằng thành phần kinh tế tập thể nói rõ hơn về
bản chất của sở hữu. và thành phần này được hiểu là được bao gồm nhiều hình thức hợp
tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài góp phần quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Thành phần này ngày càng xuất
hiện và ngày càng lớn lên trong những năm gần đây, bao gồm vốn do nước ngoài đầu tư
vào nước ta, hoặc 100% hoặc hoặc trong các hình thức liên doanh, liên kết.
Nhìn chung kinh tế Việt Nam có những chuyển biến tích cực, tỷ lệ nghành công nghiệp
và dịch vụ trong GDP có xu hường tăng và tỷ lệ ngành nông nghiệp có xu hướng giảm.
*Về kinh tế đối ngoại:
Nước ta đã mở cửa nền kinh tế liên kết với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới
giới với xu hướng ngày càng mạnh mẽ, hoạt động xuất khẩu phát triển khá. Năm
2000.kinh ngạch xuất khẩu đạt trên 186 USD/người, tùy là ở mức thấp, những đã thuộc

loại các nước có nền ngoài thương phát triển. tuy nhiên, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu
của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản còn chiếm 30%. Các mặt hàng xuất khẩu ở nước ta
vẫn ở dạng thô, giá trị thấp, sức cạnh tranh kém. Hơn nữa các nước doanh nghiệp xuất
khẩu chưa làm tốt công tác xúc tiến thương mại, chưa có chiến lược xuất khẩu ổn định
lâu dài, thương mại điện tử vẫn còn mới mẻ. như vậy, hiện tại khả năng tham gia hội
nhập kinh tế thế giới của các doanh nghiệp nước ta còn thấp, đòi hỏi Nhà nước cũng như
mỗi doanh nghiệp phải có giải pháp trong quá trình hội nhập thu được hiệu quả.
3.2.Tính tất yếu vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng phổ biến của mọi nền kinh tế thị
trường. Khác nhau là ở chỗ trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, kinh tế tư nhân nói


đúng hơn là kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị; còn trong kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, như ở nước ta, thì kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và kinh
tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể được xây dựng và phát triển để ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc. Do có sự nhầm lẫn giữa Nhà nước và kinh tế Nhà nước nên có ý
kiến cho rằng chỉ có Nhà nước mới làm chức năng chủ đạo, chứ kinh tế Nhà nước thì
không thể giữ vai trò chủ đạo được. Cũng do có sự đồng nhất giữa doanh nghiệp Nhà
nước và kinh tế Nhà nước nói chung, nên ý kiến khác cho rằng doanh nghiệp Nhà nước
không thể giữ vai trò chủ đạo được bởi nó có hàng loạt những khuyết điểm và nhược
điểm trong hoạt động. Thật ra, doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận trụ cột nhất của kinh tế
Nhà nước chứ không phải là toàn bộ kinh tế Nhà nước.
Nói đến kinh tế Nhà nước thì phải nói đến tất cả các sở hữu trong tay Nhà nước, kể cả tài
nguyên, đất đai, ngân sách Nhà nước, dự trữ quốc gia... Kinh tế Nhà nước không làm
chức năng quản lý của Nhà nước nhưng chính nó là công cụ quan trọng, là sức mạnh kinh
tế mà Nhà nước nắm lấy và đưa vào để làm chức năng quản lý của mình. Báo cáo Chính
trị viết: " Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật
chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế,
doanhnghiệp Nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp

luật”.
Ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trình độ lực lượng sản xuất còn
thấp, quan hệ sở hữu còn tồn tại nhiều hình thức, là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần
nhưng cơ chế thị trường chưa hoàn hảo, doanh nghiệp Nhà nước hạot động còn nhiều
khuyết tật. Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp Nhà
nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động theo định hướng : xoá
bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản
xuất kinh doanh, nộp đủ thuế và có lãi, thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của Nhà nước đối với doanh nghiệp,
kinh tế Nhà nước có giữ được vai trò chủ đạo thì mới có thể đảm bảo được định hướng xã
hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường. Do đó phải có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế


Nhà nước dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, do đó đầu tư phát triển kinh tế
Nhà nước là tạo ra nền tảng kinh tế cho xã hội chủ nghĩa, tạo ra sức mạnh vật chất để
Nhà nước điều tiết và quản lý thị trường.
3.3.Những biểu hiện của vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô. Nhà
nước sử dụng chung tất cả các biện pháp có thể can thiệp vào kinh tế nhằm hạn chế
những khuyết tật của kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, phân bổ
nguồn lực tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội một cách hài hoà phù
hợp với giá trị truyền thống và văn hoá đất nước. Trong kinh tế, mỗi đơn vị kinh doanh là
một chủ thể kinh tế, trực tiếp đối mặt với thị trường để quyết định các vấn đề kinh tế cơ
bản : sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? theo mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận. Điều này tất yếu dẫn đến kết cục là ở đâu, khi nào, đối với mặt hàng nào có thể
đem lại lợi nhuận cao thì ở đó, khi đó các doanh nghiệp có khả năng sẽ đổ xô vào sản
xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Ngược lại, nếu ở đâu, khi nào và đối với mặt hàng nào
không có lãi hoặc lỗ vốn thì ở đó, khi đó sẽ có nhiều doanhngiệp có khả năng sẽ rút khỏi
thị trường sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Do sự hạn chế của mỗi dịch vụ về việc
thu thập cũng như xử lý các thông tin cần thiết về thị trường để quyết định có tham gia

hay rút khỏi một thị trường nào đó, tất cả sẽ dẫn đến nguy cơ có thể phát sinh mâu thuẫn
giữa cung và cầu ở mọi lúc, mọi nơi và đối với mọi mặt hàng. Để chống lại nguy cơ đó
Nhà nước phải thực hiện chức năng điếu tiết bằng nhiều công cụ khác nhau. Trong đó
doanh nghiệp Nhà nước được coi là một công cụ. Với tư cách là công cụ điều tiết luôn
được Nhà nước thực hiện theo phương châm : ở đau, khi nào nền kinh tế quốc dân đang
mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân
doanh hoặc không có đủ sức kinh doanh hoặc từ chối thì ở đó và khi đó cần sự có mặt
của doanh nghiệp nhà nước. Đến lúc nào đó, khi các doanh nghiệp dân doanh đã đủ sức
đáp ứng nhu cầu thị trường, doanh nghiệp Nhà nước có thể rút khỏi thị trường đó,
nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh. Quá trình diễn ra liên tục, lặp lại ở mọi lĩnh
vực của nền kinh tế quốc dân hình thành vai trò điều tiết của doanh nghiệp Nhà nước.
Chức năng này còn thể hiện ở trong phạm vi từng vùng đặc biệt quan trọng với các vùng


xa, vùng sâu. Như vậy, chức năng điều tiết nền kinh tế quốc dân đòi hỏi Nhà nước phải
sử dụng doanh nghiệp Nhà nước như một công cụ cần thiết bảo đảm cho nền kinh tế hoạt
động một cách thông suốt, đảm bảo lợi ích xã hội.
Làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội. Để nền kinh
tế nước ta phát triển một cách nhanh chóng thì cần phải có những bước tăng trưởng. Do
vậy, cần có một lực lượng có sức mạnh kinh tế làm đòn bẩy để thúc đẩy các lực lượng
khác cùng phát triển.Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay chưa đủ khả năng chi phối toàn bộ
nền kinh tế nhưng có một thực lực to lớn nên chỉ có doanh nghiệp Nhà nước mới có thể
thực hiện được chức năng đòn bẩy. Những vấn đề xã hội đang là một hạn chế lớn của
nước ta. Muốn phát triển kinh tế - xã hội Nhà nước phải giải quyết triệt để những vấn đề
đó. Để thực hiện được điều này chúng ta cần có thực lực về kinh tế. Trong điều kiện nền
kinh tế nhiều thành phần như hiện nay thì chỉ có thành phần kinh tế Nhà nước mới có thể
đảm nhận được vai trò làm lực lượng chủ lực cho Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội.
Mở đường hướng dẫn, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, tạo nền
tảng cho chế độ xã hội mới. Kinh tế Nhà nước kiểm soát các thị trường của hoạt động
vốn và thị trường tiền tệ để bảo đảm khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Các

công cụ tài chính tiền tệ, tín dụng là các công cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý
kinh tế vĩ mô. Thành phần kinh tế nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo chi phối các thành
phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình, tạo
cơ sở hạ tầng cho mỗi kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành then chốt và trọng yếu xã
hội, làm đòn bảy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội. Đóng góp phần lớn
vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của toàn xã hội.
II. Thực trạng của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường dịnh
hướng XHCN ở Việt Nam.
1.Khảo sát tiến trình phát triển.
Sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam đã chuyển
đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là một trong những thành tựu


nổi bật của công cuộc đổi mới của Việt Nam. Thành tựu nổi bật này được biểu hiện cụ
thể ở các điểm sau:
Thứ nhất, nhận thức lý luận và tư duy kinh tế đã có bước đổi mới, được vận dụng vào
xây dựng đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam. Đường lối đổi mới này đã được thể
chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển.
Thứ hai, chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế đã được đổi mới một cách căn
bản với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh
tế – xã hội của đất nước.
Thứ ba, các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả
nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước đã đi vào cuộc sống, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nhân được
tự chủ kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh để phát triển.
Thứ tư, vai trò, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế đã được đổi mới, từ can thiệp
trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh chuyển sang

quản lý bằng pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế –
xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
Thứ năm, luôn gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, như thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, xóa đói, giảm nghèo,… một cách tích cực.
Những nội dung trên là đánh giá chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tình
hình chuyển đổi cơ chế kinh tế và xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hơn 20 năm qua tại Hội nghị Trung ương 6, khóa X
của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Có thể khái quát tiến trình đổi mới hệ thống thể chế kinh tế qua các giai đoạn chính
như sau:
+ Giai đoạn từ năm 1985 – 1987: Trong giai đoạn này, chúng ta đã thay đổi nguyên
tắc hoạt động của các chủ thể hoạt động trong hai lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế là
công nghiệp và nông nghiệp; đồng thời xây dựng cơ chế hoạt động để thực hiện nguyên
tắc hoạt động mới giữa các chủ thể kinh tế thông qua thị trường nhờ áp dụng chính sách
mới về giá, lương, tiền.
Có thể nói, hai thay đổi này đã “cởi trói” cho các cá nhân và tập thể, song đó mới
chỉ là thay đổi ở cấp vĩ mô. Đại hội VI (12 – 1986) đã công bố chủ trương thực hiện đổi
mới toàn diện về kinh tế – xã hội với nội dung kinh tế cốt lõi là thay đổi cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, bao cấp bằng cơ chế thị trường và trong khuôn khổ mở cửa với
nền kinh tế thế giới, thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Song, trong các năm 1986 – 1987, do chủ trương đổi mới chưa được cụ thể
hóa, nên đường lối đổi mới chưa chuyển thành quá trình đổi mới trên thực tiễn.
+ Giai đoạn từ năm 1988 – 1996: Từ 1988 – 1989 là giai đoạn đột phá thị trường
mạnh, toàn diện và căn bản ở khâu trung tâm của hệ thống (giá cả). Hệ thống giá cả
chuyển sang vận động theo nguyên tắc thị trường một cách thống nhất, đồng bộ. Đây
cũng chính là quá trình đổi mới trên thực tiễn với nội dung kinh tế là chuyển sang cơ chế
kinh tế thị trường – mở cửa.
+ Giai đoạn từ năm 1990 – 1996 là giai đoạn chuyển mạnh nền kinh tế sang cơ chế thị

trường – mở cửa. Điểm đột phá trong giai đoạn này là khẳng định chủ trương và thực
hiện “phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa…, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
+ Giai đoạn từ năm 1997 – 2001: Đây là giai đoạn mà do chịu nhiều tác động tiêu
cực từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế bị
suy giảm kéo dài. Các yếu tố của cơ chế cũ, như bao cấp, độc quyền, xin – cho và bảo hộ


trỗi dậy, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và việc cải thiện môi trường kinh
doanh theo hướng tự do hóa và hội nhập quốc tế diễn ra một cách chậm chạp.
Năm 2000, với việc áp dụng luật doanh nghiệp, chúng ta đã tạo ra động lực phát triển
mạnh của khu vực kinh tế tư nhân. Năm 2001, chúng ta ký kết Hiệp định thương mại Việt
Nam – Hoa Kỳ; đồng thời xác định vai trò động lực của chủ trương hội nhập kinh tế quốc
tế. Đại hội IX đã khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
+ Giai đoạn 2002 – đến nay: Đây là giai đoạn chúng ta tiếp tục khẳng định mô hình
kinh tế tổng quát và xác định nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
2.Đánh giá chung về thực trạng thành phần kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
2.1.Thành tựu.
Một là, sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh
tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu - bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hóa thàng pháp luật, tạo
hành lang pháp lí cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và
phát triển.
Hai là, chế độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được
hình thành: từ sở hữu toàn dân và tập thể, từ kinh tế quốc doanh và hợp tác xã hội là chủ
yếu đã chuyển sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp
trong đó sở hữu toàn dân những tư liệu sản xuất chủ yếu và kinh tế nhà nước giữ vai trò

chủ đạo. Điều đó đã tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho giải phóng sức sản xuất,khai
thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói giảm
nghèo đạt được nhiều kết quả tích cực.


Sau hơn 20 năm đổi mới, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
hình thành và từng bước hoàn thiện, thay cho thể chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp. Thể chế kinh tế mới đã di vào cuộc sống và phát huy hiệu quả tích cực, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục được khủn hoảng kinh tế - xã hội, tạo
ra những tiền đề cần thiết đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Trong giai đoạn 2000-2007 doanh nghiệp nhà nước đóng góp 39% GD P; 40% tổng
thu ngân sách, 80% doanh nghiệp kinh doanh có lãi, 8% doanh nghiệp hòa vốn và 12%
doanh nghiệp thua lỗ. nhờ thực hiện sắp xếp lại và cổ phần hóa nên số doanh nghiệp có
quy mô vừa và lớn tăng lên. Năm 2007 cả nước sắp xếp được 271 doanh nghiệp và bộ
phận doanh nghiệp, cổ phần hóa 150 doanh nghiệp nâng tổng số đơn vị được sắp xếp là
5366 doanh nghiệp trong đó cổ phần hóa là 3756 doanh nghiệp, có 17 doanh nghiệp cổ
phần hóa có vốn nhà nước trên 100 tỉ đồng, một số doanh nghiệp có vốn nhà nước có vốn
1000 tỉ đồng như công ty phân đạm và hóa chất dầu khí, tổng công ty bảo hiểm Việt
Nam, ngân hàng ngoại thương…. So với tổng số doanh nghiệp trong nước đang hoạt
động doanh nghiệp nhà nước tuy chỉ chiếm 3,6% nhưng nó đã chieenm32,7% tổng số lao
động, 54.9% tổng số vốn, 51.7% giá trị tài sản cố định, 38,8 % tổng doanh thu. Việc liên
doanh với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng phát triển đã thu hút thêm được nhiều vốn , công nghệ, giải quyết được
việc làm cho người lao động.
2.2.Những tồn tại và hạn chế, nguyên nhân của tồn tại và hạn chế.
 Hạn chế :
• Quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
còn chậm, chua theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế. Hệ thống

pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ chưa đồng bộ và thống nhất.
• Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong doanh nghiệp nhà nước chưa giải quyết tốt,
gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước nhất là khi cổ phần hóa.
Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn bị phân biệt đối xử. Việc xử lí các
vấn đề liên quan đến đất đai còn nhiều vướng mắc. Các yếu tố thị trường và các loại hình


thị trường hình thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt. Thị
trường tài chính, bất động sản, khoa học và công nghệ phát triển chậm, quản lí Nhà nước
đối với các loại thị trường còn nhiều bất cập. Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý.
Cơ chế “ xin – cho “ chưa được xóa bỏ triệt để. Chính sách tiền lương còn mang tính chất
bình quân.
• Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn có nhiều bất cập, hiệu quả
quản lí còn thấp. Cải cách hành chính chậm, chưa đạt yêu cầu đề tiêu đạt ra. Tệ nạn tham
nhũng, quan liêu vẫn nghiêm trọng.
• Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội đổi mới chậm, chất lượng dịch
vụ quản lí còn thấp. Cải cách hành chính chậm, chưa đạt yêu cầu mục tiêu đề ra. Tệ tham
những, lãng phí, quan liêu vẫn nghiêm trọng.
• Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội đổi mới chậm, chất lượng dịch
vụ y tế, giáo dục, đào tạo còn thấp. khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và
các vùng ngày càng lớn. Hệ thống an sinh xã hội còn sơ khai. Nhiều vấn đề bức xúc trong
xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt.
 Nguyên nhân :
Nguyên nhân chủ yếu , bao trùm của những tồn tại yếu kém của doanh nghiệp nhà nước
là do quan hệ sản xuất chưa phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhiều
chủ trương chính sách thuộc về quản lý vĩ mô của nhà nước còn bất cập chưa đồng bộ,
trình độ chuyên môn và quản lý của cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước còn chưa theo
kịp yêu cầu phát triển, cụ thể là :
• Hệ thống thể chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước chưa được cải tiến kịp quá
trình đổimới theo cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trường. Hệ thống thể chế, chính sách

hiện nay vừa thế hiện lối tư duy cũ, nặng cơ chế “xin – cho”, ban ohast, bảo trợ đến mức
tối đa từ ngân sách nhà nước, từ các mệnh lệnh theo ý muốn chủ quan của các cơ quan
hành chính, quản lý cấp trên để không chênh hướng và mong muốn nó làm được vai trò
then chốt, cạnh tranh thắng lợi trên thị trường.
• Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp chưa hợp lý. Với bộ máy quản lý hiện nay, hệ
thống doanh nghiệp nhà nước phải gánh chịu hai gọng kìm: một bên là bộ, ngành, cấp
chủ quản của doanh nghiệp và một bên là các tổ chức thanh tra, kiểm tra thuộc bộ quản lý
chuyên ngành. Tức là tất cả các bộ, ngành với hệ thống dọc, ngang đều có quyền lực thực


hành chức năng của mình tại doanh nghiệp để hướng dẫn, chỉ đạo giám sát, thanh tra,
kiểm tra và trên thực tế nhiều khi đó là những nhũng nhiều phiền hà, gây tổn thất cho
doanh nghiệp, hiệu quả đem lại thấp và không rõ rệt.
• Đội ngũ cán bộ lãnh đạo của doanh nghiệp nhà nước chưa được chỉ huy và chưa thể hiện
được năng lực, bản lĩnh cần phải có. Yêu cầu đối với giám đốc trong điều kiện mới
không chỉ có năng lực, bản lĩnh cần phải có. Yêu cầu đối với giám đốc trong điều kiện
mới không chỉ có năng lực, trình độ về nghiệp vụ kinh doanh mà còn phải có óc sáng tạo
tinh thần trách nhiệm, sự nhanh nhẹn trong công việc thu thập và xử lí thông tin, sáng
suốt trong việc dự đoán các tình huống trên thương trường, có phẩm chất vững vàng với
ý thức vì nhân dân phục vụ. trách nhiệm không chỉ thuộc bản thân từng giám đốc, mà lớn
hơn, cao hơn thuộc về hệ thống tổ chức và cán bộ chủ chốt trong từng doanh nghiệp nói
chung.
III.Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở VIỆT NAM.
1.Tổ chức lại thành phần kinh tế Nhà n ước theo hướng tập trung vào những ngành,
những lĩnh vực kinh tế công nghệ then chốt.
Tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh
vực trọng yếu; những cơ sở sản xuất thương mại, dịch vụ quan trọng; một số doanh
nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng, an ninh… Nhà nước chỉ
nên nắm một số không nhiều "những đài chỉ huy" trong nền kinh tế, tức là những vị trí

kinh tế then chốt, yết hầu, thông qua đó mà điều tiết, chi phối, hướng dẫn hoạt động của
các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa.
2.Cải cách các doanh nghiệp Nhà nước.
2.1.Định hướng sắp xếp và phát triển doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh.
Nhà nước giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh
vực độc quyền nhà nước : vật liệu nổ, hóa chất độc, chất phóng xạ, hệ thống truyền tải
quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế, sản xuất thuốc lá điếu.


Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp Nhà
nước hoạt động kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: buôn bán lương thực, bán buôn
xăng dầu, sản xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng, sản xuất một số sản phẩm
cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại màu, sản xuất hóa
chất cơ bản, phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất xi măng, công nghệ xây dựng,
sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghệ thực phẩm quan trọng, sản chất hóa độc,
thuốc chữa bệnh, vận tải hàng không, đường sắt, viễn thông, kinh doanh tiền tệ, bảo
hiểm, xổ số kiến thiết, dịch vụ viễn thông cơ bản, chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô
lớn, có đóng góp lớn trong ngân sách, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn,
công nghệ cao vào góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô. Những doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho sản xuất và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông thôn, đồng bào các dân tộc ở vùng núi, vùng
sâu, vùng xa.
Nhà nước giữ cổ phần đặc biệt trong một số trường hợp cần thiết
Chuyển các doanh nghiệp giữ 100% vốn sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn
một chủ sở hữu là Nhà nước hoặc công ty cố phần gồm các cổ đông là các doanh nghiệp
nhà nước.
Căn cứ định hướng trên đây, Chính phủ chỉ đạo rà soát, phê duyệt phân loại cụ thể
các doanh nghiệp nhà nước hiện có để triển khai thực hiện và từng thời kỳ xem xét điều
chỉnh định hướng, phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã

hội.
Doanh nghiệp thuộc các tổ chức của Đảng thực hiện sắp xếp như đối với doanh
nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị - xã hội đăng ký hoạt động
theo Luật Doanh nghiệp. Việc thành lập mới doanh nghiệp nahf nước hoạt động kinh
doanh chủ yếu sẽ thực hiện dưới hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc
quyền, hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia.
2.1.Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.


Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạp ra loại hình doanh
nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng hiệu quả
vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh
doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh
nghiệp của nhà nước, phát huy vai trò làm chủ thực sự của xã hội, của cổ đông và tăng
cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà
nước, doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hóa doanh nghiệp của nhà nước không
được biến thành tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước.
Đối với cổ phần hóa là những doanh nghiệp nhà nước hiện có mà nhà nước
không cần giữ 100% vốn, không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ cào định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp
nhà nước và điều kiện thục tế của từng doanh nghiệp mà quyết định chuyển doanh nghiệp
nhà nước hiện có thành công ty cổ phần, trong đó nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần
đặc biệt, cổ phần ở mức thấp hoặc nhà nước không giữ cổ phần.
Hình thúc cổ phần hóa bao gồm : giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu để thu hút thêm vốn; bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho các cổ
đông, cổ phần hóa đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp; chuyển toàn bộ doanh nghiệp
thành công ty cổ phần. Trường hợp cổ phần hóa đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thì
không được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh các bộ

phận còn lại của doanh nghiệp.
Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu đãi cho
người lao động giữa các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa. Có quy định để người lao
động giữ được cổ phần ưu đãi trong một thời gian nhất định. Sửa đổi, bổ sung cơ chế ưu
tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để gắn bó người lao động với
doanh nghiệp, dành một tỷ lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài doanh nghiệp. Nghiên cứu
sử dụng một phần vốn tự có của doanh nghiệp để hình thành cổ phần của người lao động,
người lao động được hưởng lãi nhưng không được rút cổ phần khỏi doanh nghiệp. Mở
rộng việc bán cổ phần của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản


cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp
cổ phần hóa sử dụng nhiều lao động và có quy định cho phép chuyển nợ thành vốn
góp cổ phần.
Sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với thị trường,
nghiên cứu đa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, thí điểm đấu thầu bán
cổ phiếu và bán cổ phiếu cho các định chế tài chính trung gian.
Nhà nước đầu tư được mua cổ phần lần đầu đối với những doanh nghiệp cổ phần
hoá mà nhà nước không được giữ cổ phần chi phối theo đúng quy định của Luật Doanh
nghiệp và Luật khuyến khích đầu tư trong nước khuyến khích nhà đầu tư có tiềm năng về
công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý, tiền vốn mua cổ phần. Số tiền mua được từ
bán cổ phần dùng để thực hiện chính sách đối với người lao động và để nhà nước tái đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh, không được đưa vào ngân sách để chi thường xuyên.
Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách phù hợp đối với doanh nghiệp nhà nước đã
chuyển sang công ty cổ phần. Sửa đổi các chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp cổ
phần hóa theo hướng ưu đãi đối với những doanh nghiệp khi cổ phần hóa có khó khắn.
Chỉ đạo chặt chẽ doanh nghiệp nhà nước đầu tư một phần vốn để lập mới công ty cổ phần
ở những lĩnh vực cần thiết.
2.2.Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sát nhập, giải thể, phá sản đối với
doanh nghiệp Nhà nước quy mô nhỏ, làm ăn không hiệu quả.

Đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, nhà nước
không cần nắn giữ và không cổ phần hóa được, tùy thực tế của từng doanh nghiệp, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức : Bán, giao, khoán kinh
doanh, cho thuê. Khuyến khích doanh nghiệp nhà nước đã giao, bán được chuyển thành
công ty cổ phần của người lao động. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp nhà
nước hoạt động không hiệu quả, nhưng không thực hiện được các hình thức nói trên.
Sửa đổi, bổ sung luật phá sản doanh nghiệp theo hướng người quyết định thành lập
doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá sản.


Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động và toàn
xã hội đối với người chủ trương cổ phần hóa, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sát
nhập, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước.
2.3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty Nhà nước, hình thành
một số tập đoàn kinh tế mạnh.
Tổng công ty nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn, có thể huy động từ nhiều
nguồn, tỏng đó vốn nhà nước là chủ yếu, thực hiện khinh doanh đa ngành, có ngành
chính chuyên sâu, có lien kết giữa các đơn vị thành viên liên kết về sản xuất, tài chính, thị
trường,…có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến năng suất lao động cao, chất lượng
sản phẩm tố, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế hoàn thành
việc sắp xếp các tổng công ty nhà nước hiện có nhằm tập trung hơn nữa nguồn lực để chi
phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, làm lực lượng chủ yếu cho
nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu, đóng góp lớn cho ngân sách, làm nòng cốt thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
Thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng việc thực hiện chuyển tổng công ty nhà
nước sang nhà nước hoạt động công ty mẹ- công ty con, trong đó tổng công ty đầu tư vốn
vào các doanh nghiệp thành viên là những công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ ( tổng
công ty) hoặc là công ty cổ phần mà tổng công ty giữ cổ phần chi phối.
Bên cạnh các tổng công ty nhà nước, Nghị quyết trung ương III chủ trương hình
thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cớ sở các Tổng công ty nhà nước có ự tham gia

của các thành viên kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó các ngành kinh doanh chính,
chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân.
2.4.Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được.
Nghị quyết Trung ương III xác định rằng, lao động dôi dư được doanh nghiệp tạo
điều kiện đào tạo lại hoặc nghỉ việc hưởng nguyên lương trong một thời gian để tìm việc;
nếu không tìm được việc thì được nghỉ chế độ mất việc theo quy định của Bộ Luật lao
động. Để có đủ cơ sở pháp lý cho vấn đề này, Luật lao động được sửa đổi, bổ sung theo
hướng cho phép áp dụng chế độ mất việc đối với số lao động dôi dư tại thời điểm giao,
ban, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, khẩn trương bổ


sung chính sách bảo hiểm xã hội; ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng
nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng góp.
Đối với nợ không thanh toán được, thành lập công ty mua bán nợ và tài sản của
doanh nghiệp nhà nước để xử lý nợ và tài sản không cần dùng, tạo điều kiện lành mạnh
hóa tài chính doanh nghiệp.
3. Đổi mới cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp Nhà Nước.
Trong bối cảnh đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, Nhà nước
cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản để quản lý, sắp xếp, đổi mới và nâng cao
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước như sau:
Một là, tăng cường việc thực hiện có hiệu lực và hiệu quả các quyền và nghĩa vụ của
Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, người đầu tư vốn được pháp luật và điều lệ doanh
nghiệp nhà nước quy định. Chủ sở hữu thực hiện các nghĩa vụ đối với doanh nghiệp nhà
nước như: đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp; đầu tư đủ vốn điều lệ, chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác của doanh nghiệp, tuân thủ điều lệ của doanh nghiệp, v.v..
Nội dung quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước cần tập trung hơn vào
những vấn đề có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, xác lập
địa vị, vị thế mới của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, bao gồm:

- Quản lý việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo lộ trình đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt giai đoạn 2001-2015 và 2015-1020; tiêu chí phân loại sắp xếp
doanh nghiệp nhà nước; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; giao bán, khoán, cho thuê;
chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên, nhiều thành viên theo mô hình công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế.
- Hình thành cơ quan chuyên trách để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu, có thể
gọi là Cơ quan quản lý tài sản nhà nước dưới hình thức uỷ ban (hoặc bộ). Tổ chức và cán


bộ thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước
là tổ chức và cán bộ có trình độ chuyên môn sâu về hoạt động kinh doanh, làm nhiệm vụ
kinh doanh, không phải là tổ chức và cán bộ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp.
Hai là, tăng cường vai trò giám sát trong quản lý doanh nghiệp nhà nước. Giám sát
của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước là sự theo dõi, xem xét, đánh giá của chủ
sở hữu Nhà nước xem doanh nghiệp nhà nước có thực hiện đúng và tuân thủ các quy
định, các nội dung quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước hay không.
Vấn đề cấp thiết đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước phù hợp với thể chế kinh tế
thị trường là tăng cường vai trò của giám sát trong hoạt động quản lý doanh nghiệp nhà
nước. Xác định rõ nội dung giám sát của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước, mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty nhà nước. Nội dung
giám sát tập trung vào các vấn đề sau:
- Giám sát về tổ chức, thành lập, gia nhập, tổ chức lại, giải thể, thay đổi cơ cấu sở hữu,
thực hiện điều lệ tình hình tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Giám sát về công tác cán bộ (bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, chế độ lương,
thưởng, thực hiện nhiệm vụ và kết quả hoạt động của Hội đồng quản trị, Hội đồng thành
viên, Chủ tịch công ty, người đại diện được ủy quyền của chủ sở hữu nhà nước tại doanh
nghiệp, Tổng Giám đốc, Giám đốc).
- Giám sát việc thực hiện mục tiêu, phương hướng, chiến lược kinh doanh; kế hoạch
đầu tư, kế hoạch tài chính; danh mục đầu tư, các ngành nghề kinh doanh chính và nghiêm
cấm việc đầu tư ra ngoài ngành nghề kinh doanh chính, vào lĩnh vực, ngành nghề, địa

bàn, dự án có nguy cơ rủi ro cao.
- Giám sát về tình hình, kết quả và hiệu quả kinh doanh; tình hình và kết quả hoạt
động tài chính; tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu; hiệu quả đầu tư và kinh doanh; vay,
nợ và khả năng thanh toán nợ; việc bảo toàn và phát triển vốn nhà nước; vốn điều lệ, tăng


×