ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
NGUYỄN THẾ HOÀN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TỈNH HÀ TĨNH
THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
NGUYỄN THẾ HOÀN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TỈNH HÀ TĨNH
THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hà Quang Ngọc
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sỹ Hà Quang Ngọc. Các số liệu
và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn
không trùng với các công trình khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thế Hoàn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài.......................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ ....................................................................................... 4
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu đề tài ........................................................... 5
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .................................................... 6
6. Tính mới và giá trị thực tiễn của đề tài .......................................................... 7
7. Kết cấu của luận văn ...................................................................................... 8
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
KINH TẾ XÃ HỘI ........................................................................................... 9
1.1. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .............................................................. 9
1.1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế là gì .............................................................. 9
1.1.2. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế khi phát triển nền kinh tế
thị trƣờng.......................................................................................................... 10
1.1.3. Những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nƣớc về hội nhập
kinh tế quốc tế .................................................................................................. 13
1.2. TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ ............................... 20
1.2.1. Tác động tới các quá trình phát triển xã hội ...................................... 20
1.2.2. Tác động tới các tổ chức chính trị xã hội. ......................................... 22
1.3. ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TÊ ........................................................................................................ 24
1.3.1. Sự phản ứng và thích ứng đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ......................................... 24
1.3.2. Sự phản ứng và thích ứng đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Đoàn thanh niên ........................................................................................ 28
1.3.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến nâng cao chất lƣợng hoạt động của Đoàn
thanh niên trong điều kiện hội nhập ................................................................ 31
Chương 2. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA TỈNH HÀ TĨNH VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ............................................................... 33
2.1. TÌNH HÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA TỈNH HÀ TĨNH .. 33
2.1.1. Bối cảnh tình hình kinh tế xã hội Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay ..... 33
2.1.2. Các chủ trƣơng, chính sách của tỉnh Hà Tĩnh trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế. ................................................................................................. 37
2.1.3. Các nội dung hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Hà Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay và kết quả đạt đƣợc. ................................................. 39
2.2. ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TỈNH HÀ TĨNH TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ................................................................... 47
2.2.1. Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tê đến việc tập hợp
thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Hà Tĩnh. ................................ 47
2.2.2. Những tác động của hội nhập kinh tế đến nội dung, phƣơng thức
hoạt động của Đoàn thanh niên. ...................................................................... 50
2.2.3. Các nội dung hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh
Hà Tĩnh thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay và
kết quả đạt đƣợc. .............................................................................................. 54
2.2.4. Những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm ...... 58
Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TỈNH HÀ TĨNH
THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ............................................. 64
3.1. QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG ......................................................... 64
3.1.1. Nâng cao chất lƣợng hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh
Hà Tĩnh trong hội nhập kinh tế quốc tế là một yêu cầu tất yếu ....................... 64
3.1.2. Nâng cao chất lƣợng hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh
Hà Tĩnh gắn với yêu cầu cụ thể của quá trình hội nhập và thực hiện các
nhiệm vụ chính trị của tỉnh theo chủ trƣơng, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân tỉnh .................................................................................................... 66
3.1.3. Nâng cao chất lƣợng hoạt động của Đoàn TNC Hồ Chí Minh tỉnh
Hà Tĩnh phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, liên tục ...................................... 66
3.1.4. Nâng cao chất lƣợng hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh
Hà Tĩnh phải đặt trong mối liên hệ với quá trình nâng cao chất lƣợng
hoạt động chung của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh của cả nƣớc và góp phần
vào sự đổi mới hoạt động của Đoàn THCS Hồ Chí Minh .............................. 67
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG
CỦA ĐOÀN. ................................................................................................... 67
3.2.1. Phát triển, nâng cao chất lƣợng đoàn viên ......................................... 69
3.2.2. Nâng cao chất lƣợng Chi đoàn, Đoàn cơ sở ...................................... 72
3.2.3. Củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt động của
cơ sở Đoàn ....................................................................................................... 79
3.2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới .................................................................................................... 82
3.2.5. Tiếp tục mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên ................... 83
3.2.6. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đoàn ................. 84
3.2.7. Tiếp tục đổi mới công tác tham mƣu, phối hợp, chỉ đạo của Đoàn .... 84
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, CHÍNH SÁCH ................................................... 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 90
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất
nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên
được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và
nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là
động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước. Được
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện, hơn 80 năm qua, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã không
ngừng phát triển, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng. Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và các thế hệ thanh niên Việt Nam đã vượt qua mọi
khó khăn thử thách, không ngại hy sinh gian khổ lập nên những chiến công
hiển hách, viết nên những trang sử vàng chói lọi, tô đẹp truyền thống hào
hùng của dân tộc Việt Nam.
Trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, các tầng lớp thanh niên đang tiếp bước cha
anh, nhận thức đúng tình hình và nhiệm vụ, nêu cao chí tiến thủ, phát huy
phẩm chất tốt đẹp và thế mạnh của tuổi trẻ, xung kích, đảm đương những việc
khó, nơi khó, chấp nhận mọi gian nan, thách thức, chủ động, sáng tạo, góp
phần tạo nên những thành tựu mới to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Cùng với tuổi trẻ cả nước, trong những năm qua các thế hệ thanh niên
Hà Tĩnh đã không ngừng phấn đấu vươn lên đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác Đoàn và phong trào Thanh thiếu
1
nhi tỉnh Hà Tĩnh đã đạt kết quả toàn diện trên các lĩnh vực. Bằng các chương
trình hành động cách mạng thiết thực, các cấp bộ Đoàn trong tỉnh đã động
viên và tập hợp ngày càng đông đảo thanh, thiếu niên tích cực tham gia các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, giữ gìn an ninh chính
trị, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, ảnh hưởng mặt trái của quá trình phát triển kinh tế, xã hội
và hội nhập quốc tế, một bộ phận thanh niên có biểu hiện mờ nhạt về lý
tưởng, dễ dao động về lập trường chính trị, lệch lạc về giá trị đạo đức, sống
thực dụng, ích kỷ, thiếu trách nhiệm, mắc vào tệ nạn xã hội. Trình độ học vấn,
chuyên môn, nghề nghiệp của thanh niên tuy được nâng lên nhưng vẫn chưa
đáp ứng được sự phát triển và yêu cầu của nền kinh tế. Một bộ phận không
nhỏ thanh niên thiếu hụt cả về kiến thức lịch sử, văn hoá dân tộc, ngoại ngữ,
tin học, tác phong làm việc, khả năng tư duy độc lập, kỹ năng xã hội. Sự
chênh lệch về mức sống, cơ hội học tập, điều kiện tiếp cận thông tin, trình độ
học vấn của thanh niên giữa các vùng, miền ngày càng tăng. Tình trạng thất
nghiệp, thiếu việc làm là áp lực lớn đối với thanh niên. Tiêu cực và tệ nạn xã
hội còn diễn biến phức tạp, tác động xấu đến sự phát triển của thanh niên.
Trước những thuận lợi và khó khăn của đất nước cũng như của bản thân
mình, hơn lúc nào hết thanh niên Hà Tĩnh phải nhận thấy rõ vị trí, vai trò của
mình đối với sự phát triển của tỉnh nhà. Phải nhận thức được khó khăn lớn
nhất của mình trong giai đoạn này là sự cạnh tranh quyết liệt về trí tuệ để đạt
tới những đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng như trình độ
quản lý. Để vượt qua được khó khăn đó, đòi hỏi rất cao ở thanh niên là phải tự
học tập, tự rèn luyện để nâng cao trình độ về mọi mặt, phải trau dồi bản lĩnh
chính trị, giữ vững lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh với vai trò là chủ
thể tích cực, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH, chủ động hội
2
nhập kinh tế quốc tế. Với xu thế toàn cầu hoá, chúng ta đang chủ động đẩy
mạnh các quá trình mở cửa, hội nhập nhằm tranh thủ thời cơ, ngăn chặn, đẩy
lùi và vượt qua nguy cơ, thách thức do toàn cầu hoá đem lại. Đứng trước
những thời cơ, thách thức rất mới và phức tạp, thế hệ thanh niên của tỉnh phải
không ngừng rèn luyện trình độ và năng lực, tăng cường đổi mới và nâng cao
chất lượng hoạt động để đảm đương sứ mệnh cách mạng mà Đảng và nhân
dân tin tưởng giao phó. Để thực hiện được mục tiêu đặt ra cần đi sâu tiếp tục
nghiên cứu, đề ra những giải pháp phù hợp góp phần đẩy mạnh chất lượng
hoạt động công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi, cũng như chất lượng
nguồn lực cán bộ trẻ của tỉnh nhằm đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong giai đoạn mới.
Là một cán bộ Đoàn đang công tác tại cơ quan Tỉnh đoàn Hà Tĩnh, đã
trải qua công tác thực tiễn, đặc biệt đã được nghiên cứu học tập tiếp thu
những kiến thức lý luận khóa đào tạo Thạch sỹ của Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn, tác giả chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Hà
Tĩnh thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài
luận văn tốt nghiệp khoá học 2012 - 2014.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Đã có một số tác giả nghiên cứu một số đề tài về đổi mới và nâng cao
chất lượng hoạt động của Đoàn thanh niên, như đề tài: “Hội nhập quốc tế
thanh niên trong giai đoạn hiện nay” của PGS, TS Đặng Cảnh Khanh (Đề tài
cấp Bộ); Đề tài: "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái” của
tác giả Trần Đông; Đề tài: "Đổi mới hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện
nay” của tác giả Trần Văn Đại; Đề tài: “Những định hướng cơ bản về công
3
tác thanh niên trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới” của tác giả TS.
Hồ Đức Việt (Đề tài cấp Bộ)... Các đề tài đã đánh giá cơ bản được thực
trạng và đưa ra được các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn
thanh niên trong giai đoạn thực hiện đề tài. Một số bài viết: “Vai trò thanh
niên trong hội nhập kinh tế quốc tế” của PGS. TS Cao Duy Hạ (Tạp chí
Tuyên giáo); “Thanh niên Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế” của tác giả Th.s Phạm Như Quỳnh (nội san của Trường chính trị tỉnh
Nghệ An); “Vai trò của tổ chức Đoàn đối với sự phát triển của thanh niên
trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế” của các tác giả T.Hương T.Toàn - H.Yến (Website www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn)... đã đề
cập đến một số nội dung của tổ chức Đoàn và thanh niên trong hội nhập kinh
tế quốc tế. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu có hệ thống về công tác
Đoàn và phong trào thanh niên Hà Tĩnh thời kỳ hội nhấp kinh tế quốc tế,
nhất là đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm đáp ứng với yêu cầu trong thời
kỳ mới.
Với đề tài: "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay", tôi hy vọng rằng sẽ góp
phần giúp cho các cấp bộ đoàn trong tỉnh tham khảo vận dụng để nâng cao
được chất lượng và hiệu quả hoạt động công tác Đoàn và phong trào thanh
thiếu nhi tỉnh nhà, qua đó từng bước đưa công tác Đoàn, Hội, Đội đáp ứng
được yêu cầu trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng hội nhập
kinh tế quốc tế của tỉnh Hà Tĩnh nói chung, đặc biệt là thực trạng công tác
Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi của tỉnh Hà Tĩnh trong việc tham gia vào
4
hội nhập kinh tế quốc tế, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Hà
Tĩnh thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu tầm quan trọng và một số quan điểm, chủ trương của Đảng
và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế.
- Làm rõ thực trạng và chất lượng hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh tỉnh Hà Tĩnh trong hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn
hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị chính sách cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh tỉnh Hà Tĩnh.
- Luận văn đặt trọng tâm ở thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng
hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế của tỉnh.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tình hình hiện nay và các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Hà Tĩnh trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Cán bộ Đoàn, Hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Đoàn viên, thanh niên khối nông thôn, công nhân và đô thị.
- Cấp ủy Đảng và chính quyền.
- Các ban ngành, đoàn thể liên quan.
- Dư luận xã hội ở cơ sở và những vấn đề có liên quan.
5
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đặt trọng tâm ở thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng
hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
- Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng về công tác thanh niên và tổ chức Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
- Tầm quan trọng và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về hội
nhập kinh tế quốc tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp và thu thập thông tin
Để thực hiện nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
phương pháp hệ thống có cấu trúc; phương pháp lịch sử và logic; phương
pháp so sánh và đối chiếu; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương
pháp thống kê.
Thông tin thu thập để làm nghiên cứu được tìm thấy từ các nguồn tài
liệu sau:
* Luận cứ khoa học, định lý, qui luật, định luật, khái niệm,… có thể thu
thập được từ sách giáo khoa, tài liệu chuyên nghành, sách chuyên khảo...
* Các số liệu, tài liệu đã công bố được tham khảo từ các bài báo
trong tạp chí khoa học, tập san, báo cáo chuyên đề khoa học...
* Số liệu thống kê được thu thập từ các Niên Giám Thống Kê: Chi
cục thống kê, Tổng cục thống kê…
* Tài liệu lưu trữ, văn kiện, hồ sơ, văn bản về luật, chính sách… thu
thập từ các cơ quan quản lý Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.
6
* Thông tin trên truyền hình, truyền thanh, báo chí… mang tính đại
chúng cũng được thu thập, và được xử lý để làm luận cứ khoa học chứng
minh cho vấn đề khoa học.
5.2.2. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Mục đích nghiên cứu tài liệu là tìm hiểu lịch sử nghiên cứu. Nội dung
phân tích bao gồm: phân tích nguồn, phân tích tác giả, phân tích nội dung và
tổng hợp tài liệu.
5.2.3. Phương pháp phi thực nghiệm
Là phương pháp thu thập thông tin dựa trên sự quan sát, quan trắc
những sự kiện đã hoặc đang tồn tại, trên cơ sở đó phát hiện quy luật của sự
vật hoặc hiện tượng. Trong phương pháp phi thực nghiệm, người nghiên cứu
chỉ quan sát những gì đã và đang tồn tại, không có bất cứ sự can thiệp nào gây
biến đổi trạng thái của đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp phi thực nghiệm bao gồm: Quan sát khách quan, phương
pháp tổng hợp, điều tra tình hình đoàn viên, thanh niên tại địa phương.
6. Tính mới và giá trị thực tiễn của đề tài
6.1. Tính mới của Đề tài
Đây là đề tài nghiên cứu việc nâng cao chất lượng hoạt động đoàn
thanh niên trên một địa bàn cụ thể với những đặc điểm, tình hình riêng. Các
kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là sự đóng góp vào việc chỉ đạo nâng cao
chất lượng hoạt động của đoàn thanh niên nói chung trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời là cơ sở khoa học giúp cho việc tham mưu với cấp
ủy đảng và chính quyền tỉnh Hà Tĩnh làm tốt công tác thanh niên trong tình
hình mới.
6.2. Hướng phát triển của Đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu đạt được, có thể mở rộng việc nghiên cứu nâng
cao chất lượng công tác đoàn trên địa bàn các tỉnh khác nhau để có được
những giải pháp có tính chất hệ thống chung cho cả tổ chức đoàn trên cả nước
trong thời gian tới.
7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế
và sự tác động đối với đời sống kinh tế xã hội.
Chƣơng 2: Hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Hà Tĩnh và hoạt động
của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Chƣơng 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao chất lƣợng hoạt động
của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế.
8
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG KINH TẾ XÃ HỘI
1.1. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế là gì
* Khái niệm:
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan trong thế giới ngày
nay. Không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu không tham gia vào
quá trình này. Đối với các nước đang và kém phát triển (trong đó có Việt
Nam) thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đường ngắn nhất để thu hẹp sự tụt
hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so
sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.
* Bản chất của Hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập là kết quả chính trị có chủ đích rõ ràng nhằm hình thành một
tập hợp khu vực để thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường cho sản phẩm dịch
vụ nước mình. Do đó Hội nhập là hoạt động chủ quan của con người, nhằm
lợi dụng sức mạnh của thời đại để tăng cường sức mạnh dân tộc mình. Vì vậy
khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cần phải có những bước đi cụ thể được
tính toán cẩn thận, phải xây dựng lộ trình hội nhập phù hợp với khả năng và
lợi ích của dân tộc. Hội nhập giúp chúng ta tìm được chỗ thích hợp nhất trong
con tàu toàn cầu hóa, nhưng mặt khác toàn cầu hóa lại là con tàu chỉ chạy một
chiều và không neo đậu lại ở một bến nào cả, nên muốn không bị nhỡ hoặc bị
văng ra khỏi con tàu này, tức là tụt hậu thì quá trình hội nhập nói chung và
hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng cần phải khẩn trương và có những quyết
định mạnh dạn.
9
1.1.2. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế khi phát triển nền kinh
tế thị trường
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại làm bùng nổ những thành
tựu trong các ngành mũi nhọn như điện tử - tin học, vật liệu mới, năng lượng
mới, công nghệ sinh học, tự động hoá..., thúc đẩy lực lượng sản xuất của thế
giới phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy; đồng thời đưa đến sự phát triển, biến
đổi theo chiều sâu các lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên, những tiến bộ của
cách mạng khoa học - công nghệ lại chủ yếu thuộc về các nước phát triển do họ
có thực lực kinh tế, tiềm lực khoa học hùng mạnh cùng với mạng lưới công ty
xuyên quốc gia vươn rộng khắp hành tinh. Các nước đang phát triển, trong đó
có Việt Nam do những hạn chế về nhiều mặt nên không dễ dàng tiếp cận những
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, thậm chí đứng trước nguy cơ trở thành
nơi thu nhận những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường từ các nước
phát triển.
Cách mạng khoa học - công nghệ khiến cho sự phát triển kinh tế ngày
càng phụ thuộc vào nhân tố tri thức - trí tuệ, tạo ra bước ngoặt mang ý nghĩa lịch
sử hình thành nền kinh tế tri thức. Trong xu hướng phát triển kinh tế tri thức hiện
nay, thông tin tri thức, khoa học, kỹ thuật, công nghệ và quản lý ngày càng đóng
vai trò chủ đạo. Vì lẽ đó, bất kỳ quốc gia nào nếu không chú trọng trong lĩnh vực
này sẽ không thể có cơ may tham gia đầy đủ vào nền kinh tế tri thức và tất yếu
đứng trước thách thức nghiệt ngã của nguy cơ tụt hậu về mọi phương diện. Bước
sang thế kỷ XXI, xu thế phát triển kinh tế tri thức ngày càng lôi cuốn và tác động
mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia, tạo ra những thay đổi căn bản không chỉ trong
đời sống kinh tế - xã hội mà cả trong so sánh lực lượng cũng như ngôi vị của
mỗi quốc gia trên trường quốc tế.
Dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, xu thế
toàn cầu hoá kinh tế xuất hiện trong tư cách một cấp độ mới cao hơn về chất
10
của quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất vốn có trước đó. Toàn cầu hoá
không chỉ tạo ra những biến đổi mạnh mẽ về nền kinh tế, mà con thúc đẩy
mối quan hệ liên quốc gia gia tăng cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Các nền kinh
tế dựa vào nhau, liên kết với nhau, xâm nhập lẫn nhau khiến cho tính tuỳ thuộc
lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng. Toàn cầu hoá nổi lên như một xu hướng
chủ đạo chi phối đời sống thế giới và hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại.
Trước những biến đổi to lớn trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hoá, tất cả các nước trên thế giới đều tiến hành điều
chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới
dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thế quan, tạo thông thoáng cho việc trao đổi
hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật trên phạm vi toàn cầu, mở
đường cho kinh tế phát triển. Mỗi nước cũng tích cực tham gia các cơ cấu tổ
chức kinh tế - thương mại và tài chính - tiền tệ toàn cầu, thích ứng với “luật
chơi chung” của thế giới. Trong đó, việc tham gia hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT) trước đây và Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng. WTO đảm nhận chức năng
điều tiết không chỉ thương mại hàng hoá mà còn mở rộng sang cả thương mại
dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ. Đến nay, WTO đã có 154 quốc gia thành
viên. Hiện kim ngạch thương mại của các nước thành viên WTO chiếm trên
90% tổng kim ngạch thương mại thế giới. WTO trở thành một tổ chức có quy
mô toàn cầu và là nền tảng pháp lý cho quan hệ kinh tế quốc tế, là diễn đàn
thường trực đàm phán thương mại, là thể chế giải quyết các tranh chấp thương
mại quốc tế mà buộc các quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phải
tham gia một cách ngày càng đầy đủ.
Cùng với sự lan toả mạnh mẽ của toàn cầu hoá, quá trình hợp tác liên
kết khu vực cũng tiếp tục phát triển rất sôi động tại khắp các châu lục. Quá
trình này đã đưa đến sự xuất hiện của hàng loạt tổ chức hợp tác quốc tế về
11
kinh tế, thương mại. Trong số đó, đáng chú ý nhất là tiến trình nhất thể hoá
châu Âu với sự ra đời của Liên minh châu Âu (EU) với 27 nước thành viên;
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bao gồm 10 nước khu vực;
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) với sự tham gia
của 23 nước thành viên chiếm trên 60 GDP và 50% kim ngạch mậu dịch thế
giới. Hợp tác liên khu vực và châu lục được thúc đẩy với sự ra đời của Khu
mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) năm 1994, Hội nghị Á - Âu (ASEM) năm
1996, Khu vực mậu dịch tự do xuyên Đại Tây Dương, Hợp tác Châu Âu - Địa
Trung Hải...
Do những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và sự
cải tiến trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, nên sức sản xuất ngày
càng tăng, sản phẩm tạo ra càng nhiều, điều đó đòi hỏi các thực thể kinh tế
cần thiết phải đẩy mạnh tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ. Hợp tác liên
kết quốc tế trên những quy mô khác nhau khiến cho nhiều rào cản thương mại
giữa các nước ngày càng được thúc đẩy theo xu hướng nhất thể hoá. Nền sản
xuất thế giới cũng ngày càng có xu hướng trở thành “một dây chuyền sản xuất
thống nhất”, cả thế giới trở thành “một thị trường thống nhất”. Toàn bộ tình
hình này buộc các nước không phân biệt giàu hay nghèo, phát triển hay đang
phát triển nếu muốn phát triển và không bị tụt hậu đều phải tích cực và chủ
động tham gia vào quá trình hợp tác, phân công lao động quốc tế. Điều đó có
nghĩa là tất cả các quốc gia đều nỗ lực tìm kiếm những giải pháp thích hợp để
hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế để tồn tại, để không bị
thua thiệt và phát triển. Đây thực chất là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh
trong phân chia thị trường thế giới và xác lập lợi thế cạnh tranh quốc tế.
Mặt khác, do nhịp độ biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và
khu vực, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng, bởi vậy
các nước phải thường xuyên tiến hành những cải cách trong nước để thích
12
ứng với những biến đổi trên thế giới . Như vậy, hội nhấp kinh tế quốc tế đóng
một vai trò cực kỳ quan trọng, một điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển
của mỗi quốc gia trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và
toàn cầu hoá. Vấn đề đặt ra với mỗi nước là không chỉ là nhận thức được tầm
quan trọng, mà điều quan trọng hơn là xây dựng được chiến lược, đưa ra được
những giải pháp thích hợp phù hợp với trình độ và nhu cầu phát triển của đất
nước mình.
Là một nước đang phát triển lựa chọn định hướng đi lên Chủ nghĩa xã
hội, Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn cả thời cơ lẫn thách
thức đối với vận mệnh dân tộc trong điều kiện sự phát triển mạnh mẽ của cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá. Để có thể tận dụng được
thời cơ, vượt qua những thách thức, tiếp tục đưa đất nước phát triển trên con
đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN), nước ta nhất thiết phải có cách thức hội nhập hiệu quả với khu vực
và quốc tế, trước hết là trên lĩnh vực kinh tế.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ đổi mới, nhất là khi
nước ta đã là thành viên của WTO, với tinh thần ngày càng chủ động đã và
đang tạo điều kiện thuận lợi để nước ta không chỉ thu hút nguồn vốn đầu tư,
kỹ thuật - công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến... từ bên ngoài mà
còn phát huy được lợ thế so sánh trong quan hệ hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh
vực. Tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
là đòi hỏi cấp thiết mang tính tất yếu đối với nước ta vì mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
1.1.3. Những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh
tế quốc tế
Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc mở rộng
quan hệ đối ngoại nhằm đưa sự nghiệp phát triển đất nước hoà vào trong
13
những nguyên tắc cơ bản trong đường lối quốc tế của mình. Cũng chính vì
vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân
ta trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã luôn giành được sự đồng tình, ủng
hộ, sự giúp đỡ rộng rãi của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Tư tưởng mở cửa về kinh tế, hội nhập với thế giới của Đảng và Nhà nước
ta đã được thể hiện rõ nét ngay từ các văn kiện ngoại giao đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thư gửi Tổng Thư ký Liên
hợp quốc (12/1946) đã long trọng tuyên bố “Việt Nam sẵn sàng thực thi chính
sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”. Đồng thời, Người khẳng định:
“Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ
thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở cửa các
cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế;
chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của
Liên hợp quốc” [19]. Đây có thể coi là tư tưởng đặt cơ sở cho việc hình thành
đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta sau này. Song, trong hoàn cảnh
của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Việt Nam đã không thể hiện được một
cách đầy đủ công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế theo những tư tưởng nêu trên.
Sau khi thống nhất đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng ta (1976) đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế đối ngoại trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội khẳng định phải : “Kết hợp phát
triển kinh tế trong nước với mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Do tầm
quan trọng đặc biệt của nó, công tác kinh tế đối ngoại phải được tăng cường.
Nắm vững nguyên tắc chiến lược và phương hướng chủ yếu của công tác kinh
tế đối ngoại là: mở rộng và tăng cường hợp tác toàn diện với Liên Xô và phát
triển hợp tác với các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, theo hướng
liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa, tích cực tham gia vào quá trình phân công
lao động quốc tế, chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất trên những lĩnh vực
14
thích hợp...; đồng thời mở rộng thích đáng quan hệ kinh tế với các nước ngoài
hệ thống xã hội chủ nghĩa” [8].
Với tư cách là một thành viên của cộng đồng các nước XHCN, Việt
Nam đã tích cực phát triển quan hệ và tham gia vào các cơ chế hợp tác của
các nước XHCN trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế. Sự phát triển
quan hệ hợp tác kinh tế với các nước XHCN mặc dù còn mang nặng tính bao
cấp nhưng góp phần rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng kinh tế, xã hội
và bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, Việt Nam cũng từng bước cải thiện quan hệ hợp
tác kinh tế với nhiều nước tư bản chủ nghĩa dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng
có lợi. Quan hệ kinh tế của Việt Nam còn được thúc đẩy trong các cơ cấu hợp
tác đa phương giữa các nước đang phát triển như Phong trào không liên kết...
Tuy nhiên, quá trình hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời kỳ chiến
tranh lạnh do chịu sự chi phối của cuộc đối đầu Đông - Tây, đặc biệt là nhân tố
hệ tư tưởng, nên còn những hạn chế nhất định, chưa đạt tới hiệu quả như
mong muốn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đứng trước yêu cầu cấp bách phải đưa nền
kinh tế nhanh chóng vượt ra khỏi tình trạng khủng hoảng và phá thế bao vây
cấm vận kinh tế của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ, đường lối mở rộng
quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng được
bổ sung, hoàn thiện, đồng thời được thực hiện tích cực hơn.
Đại hội VI của Đảng ta (1986) với tầm vóc lịch sử lớn lao đã khởi
xướng công cuộc đổi mới toàn diện, đồng thời mở ra bước ngoặt trong tư duy
và thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Xác định
phương hướng và nội dung của quan hệ kinh tế đối ngoại trong thời kỳ mới,
Đại hội chỉ rõ: “Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ
yếu là với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng xã
15
hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật
với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức
quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi” [9].
Nghị quyết Đại hội xác định nội dung chính của chính sách kinh tế đối ngoại
trước hết bao gồm: đẩy mạnh xuất nhập khẩu, thống nhất quản lý ngoại hối,
tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước
ngoài, hợp tác quốc tế về xuất khẩu lao động, phát triển các dịch vụ du lịch,
vận tải biển và hàng không quốc tế... Đi theo hướng này, Luật đầu tư nước
ngoài được thông qua (1987), tạo khung khổ pháp lý thuận lợi để Việt Nam
mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, thu hút nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ
nước ngoài phục vụ phát triển kinh tế, khai thác những tiềm năng trong nước.
Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đưa ra đường lối đối ngoại rộng mở
với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” [10], mở ra bước
đột phá trong việc thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội nêu
chủ trương gắn thị trường trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản
xuất nội địa. Đây là một trong những nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế
quốc tế, là bước phát triển lôgic tất yếu sau khi chúng ta đã cơ bản thống nhất
được thị trường trong nước theo cơ chế một giá. Đại hội cũng xác định
nguyên tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế quốc tế là: “Mở rộng, đa dạng hoá
và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập
chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi” [10].
Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta thời kỳ đổi mới tiếp tục
được Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị bổ sung, làm rõ và cụ thể hơn.
Nghị quyết của Hội nghị trung ương Ba (Khoá VII) ngày 29/6/1992 nhấn mạnh
chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó "cố gắng khai
thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế
16
(IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), mở
rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở châu Á- Thái Bình
Dương" [14]. Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 1005 CV/VPTW
(22/11/1994) giao cho Chính phủ soạn thảo và gửi đơn xin gia nhập WTO. Theo
Quyết định của Bộ Chính trị (số 493 CV/VPTW ngày 14/6/1996), Việt Nam đã
gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn APEC.
Trên cơ sở những thành tựu đạt được, Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996)
nêu chủ trương "xây dựng nền kinh tế mở", "đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh
tế khu vực và thế giới" [11]. Đại hội nhấn mạnh quan điểm đa phương hóa và đa
dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay
thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn,
công nghệ và thị trường quốc tế; mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt,
song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi...
Tiếp đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01/ NQ- TƯ (18/11/1996)
"Về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996- 2000".
Nghị quyết này đã tổng kết những thành tựu và tồn tại chủ yếu của hoạt
động kinh tế đối ngoại từ khi tiến hành đối mới đến cuối năm 1996; xác
định nhiệm vụ, phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại cho 5 năm tiếp
theo; đề ra những giải pháp, cơ chế, chính sách chủ yếu để thúc đẩy sự phát
triển kinh tế đối ngoại.
Cuộc khủng hoảng tài - chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam Á diễn ra
gay gắt, tác động rất tiêu cực đến việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và
thị trường xuất khẩu của nước ta. Mặt khác, ở trong nước lại liên tục xảy ra
thiên tai, gây thiệt hại lớn về tài sản và con người, tốc độ tăng trưởng kinh tế
tụt giảm nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban chấp hành Trung
17
ương 4 (Khóa VIII) ngày 29/12/1997 đã đề cao chủ trương phát huy nội lực,
chủ động khắc phục tác động của khủng hoảng. Hội nghị tiếp tục nhấn mạnh
sự cần thiết phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tranh thủ vốn, công
nghệ và gia nhập thị trường quốc tế trên cơ sở độc lập tự chủ, phát huy đầy đủ
các yếu tố nội lực, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, bao gồm nguồn lực
con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống đi đôi với tranh thủ tối đa
nguồn lực từ bên ngoài.
Về phương châm và nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 chỉ rõ: Trên cơ sở phát huy nội lực thực hiện nhất quán,
lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài; tích cực chủ động thâm
nhập và mở rộng thị trường quốc tế...Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần
thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là những sản phẩm mà chúng ta có khả năng
cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Tiến hành
khẩn trương vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập
APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong
khuôn khổ AFTA.
Bước vào thế kỷ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng
đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển" [12]. Đại hội xác định độc lập tự chủ là cơ sở để thực hiện
đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, đồng thời nhấn mạnh
Việt Nam, không chỉ "sẵn sàng là bạn" mà còn sẵn sàng "là đối tác tin cậy của
các nước" và "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế". Đây là sự phản ánh một nấc
thang cao hơn trong nhận thức và tư duy về đối ngoại nói chung và về hội nhập
kinh tế quốc tế được hình thành dựa trên những thành tựu và kinh nghiệm trên
mặt trận đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta những năm đổi mới.
18
Đại hội IX đã bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối hội nhập kinh
tế quốc tế khi xác định: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường" [12]. Nhằm cụ
thể hóa đường lối "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế", Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết 07- NQ/TW (27/11/2001) về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó làm rõ
hơn mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung và nhiệm vụ cụ thể của hội nhập
kinh tế quốc tế.
Về mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết 07 của Bộ chính
trị vạch rõ: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường,
tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi những
nhiệm vụ nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội năm 2001- 2010 và
kế hoạch 5 năm 2001-2005" [6].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa rạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các
lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” [13].
Như vậy, Đảng ta đã có sự đổi mới về nhận thức trên vấn đề địch - ta,
đối tượng - đối tác theo tinh thần “Thêm bạn, bớt thù”. Đó là sự khẳng định
đường lối đối ngoại đúng đắn được đề ra trong văn kiện của các đại hội trước,
đồng thời là sự phát triển trong điều kiện mới, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế là một nội dung cốt lõi trong đường lối hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà
19