Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của đảng đối với mặt trận tổ quốc việt nam qua nghiên cứu thực tiễn ở tỉnh hà tĩnh luận văn ths kinh doanh và quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.41 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

BÙI NHÂN SÂM

TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
QUA NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN Ở TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học

Hà Nội – 2013

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

BÙI NHÂN SÂM

TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
QUA NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN Ở TỈNH HÀ TĨNH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01


Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hải

Hà Nội – 2013

ii


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu

2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu


5

6. Đóng góp của Luận văn

5

7. Kết cấu của luận văn

5

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI MTTQ VIỆT NAM

6

1.1. Sự lãnh đạo của Đảng với MTTQ Việt Nam trong hệ thống chính trị

6

1.1.1. Vai trò, vị trí của Đảng và MTTQ Việt Nam trong HTCT

6

1.1.2. Sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam

14

1.2. Chủ trương đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam


19

1.2.1. Những chủ trương đổi mới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với
MTTQ Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay

19

1.2.2. Những vấn đề thực tiễn đặt ra trong đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với MTTQ Việt Nam trong giai đoạn mới

25

1.3. Tính tất yếu và yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
MTTQ Việt Nam

30

1.3.1. Tính tất yếu phải tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
MTTQ Việt Nam

30

1.3.2. Yêu cầu đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam

32

1.3.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn về tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với MTTQ Việt Nam


34

1.3.4. Nội dung đối mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam

45

Tiểu kết Chương I

48
iii


Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG ĐỔI MỚI
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MTTQ VIỆT NAM

49

Ở TỈNH HÀ TĨNH
2.1. Thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam ở Hà Tĩnh
trong sự nghiệp đổi mới từ ngày tái lập tỉnh đến nay

49

2.1.1 Đặc điểm chung về tỉnh Hà Tĩnh

49

2.1.2. Tình hình, kết quả sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam
ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời kỳ đổi mới từ ngày tái lập tỉnh đến nay


54

2.2. Tính tất yếu và yêu cầu thực tiễn cần phải tiếp tục đối mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam ở tỉnh Hà Tĩnh

68

2.2.1. Những nhân tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ
Việt Nam ở tỉnh Hà Tĩnh

68

2.2.2. Nội dung, yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
MTTQ Việt Nam ở tỉnh Hà Tĩnh

71

2.2.3. Những vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng đối
với MTTQ Việt Nam ở tỉnh Hà Tĩnh

75

2.3. Một số khuyến nghị về đối mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ
Việt Nam

78

2.3.1. Đổi mới tư duy, nhận thức về vai trò, vị trí, sự lãnh đạo của Đảng
đối với MTTQ Việt Nam


78

2.3.2. Đổi mới về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
MTTQ Việt Nam

80

2.3.3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo với nâng cao vai trò,
vị trí của MTTQ Việt Nam trong HTCT

84

Tiểu kết Chương II

97

KẾT LUẬN

98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

iv

100


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BCH


: Ban Chấp hành

BTV

: Ban Thường vụ

BVTQ

: Bảo vệ Tổ quốc

CTXH

: Chính trị - xã hội

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CLCT

: Cương lĩnh chính trị

ĐCS

: Đảng Cộng sản

ĐTND

: Đoàn thể nhân dân


ĐBQH

: Đại biểu Quốc hội

ĐLDT

: Độc lập dân tộc

GCCN

: Giai cấp công nhân

HĐND

: Hội đồng nhân dân

LMCLLDTDCVHB

: Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ

LMCT

: Liên minh chính trị

MTDTGPMN

: Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam

MTDTTN


: Mặt trận dân tộc thống nhất

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

NDLĐ

: Nhân dân lao động

PBXH

: Phản biện xã hội

TW

: Trung ương

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

UBND

: Uỷ ban nhân dân

v



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
thực hiện từ năm 2012 và hoàn thành vào tháng 10 năm 2013. Các số liệu và
trích dẫn trong Luận văn là trung thực. Các kết quả nghiên cứu của Luận văn
không trùng với bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Bùi Nhân Sâm

vi


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay, ĐCS Việt Nam là đảng
cầm quyền, là lực lượng duy nhất lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối với Nhà nước
và toàn xã hội. Điều này, được thừa nhận trong Điều 4, Hiến pháp nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam năm 1992: “ĐCS Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ tiến lên CNXH
của Đảng cũng khẳng định HTCT nước ta bao gồm: ĐCS Việt Nam, Nhà
nước, MTTQ Việt Nam và các tổ chức CTXH. Trong đó, Đảng là hạt nhân
lãnh đạo HTCT và lãnh đạo toàn xã hội, MTTQ Việt Nam là tổ chức LMCT,
liên hiệp tự nguyện rộng lớn của tổ chức chính trị, các tổ chức CTXH, tổ chức
CTXH - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp và các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn
giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tập hợp đông đảo các thành
viên để thực hiện các nhiệm vụ chính trị dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam;

đồng thời MTTQ Việt Nam là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của các tầng lớp nhân dân, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân. ĐCS Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
Tuy sự lãnh đạo của Đảng và mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận về
mặt lý luận đã được thể chế hóa bằng các văn bản chính trị, pháp lý, nhưng
trong thực tiễn, vai trò, phương thức lãnh đạo của Đảng, mối quan hệ giữa
Đảng với Mặt trận vẫn còn nhiều vấn đề bất cập liên quan đến xác định vai
trò lãnh đạo và vị trí tổ chức thành viên của Đảng, tổ chức bộ máy, xây
dựng đội ngũ, tạo điều kiện, phát huy vai trò thực sự của MTTQ Việt Nam
1


trong HTCT và trong đời sống xã hội để MTTQ Việt Nam thực sự là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân (nhất là vai trò giám sát, phản biện xã hội,
đại diện quyền làm chủ của các thành viên, đoàn viên, hội viên và các tầng
lớp nhân dân). Cho đến nay, theo tác giả, những nghiên cứu về sự lãnh đạo
của Đảng, mối quan hệ đặc biệt giữa ĐCS Việt Nam với MTTQ Việt Nam
trong thời kỳ mới còn chưa nhiều, chủ yếu mang tính chất lý luận, chưa đi sâu
làm rõ một số vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Dưới góc độ Chính trị học, sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt
Nam, mối quan hệ giữa Đảng với MTTQ Việt Nam trong HTCT thời kỳ mới
cần được làm sáng tỏ trên tư duy mới gắn với thực tiễn chính trị trong quá
trình đổi mới, CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Từ những vấn đề lý luận và từ thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng đối với
Mặt trận ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời kỳ đổi mới, bản thân công tác tại cơ quan
MTTQ tỉnh cũng có những suy nghĩ về sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ
Việt Nam, nhất là mong muốn tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với MTTQ Việt Nam, làm rõ và phát huy vai trò của MTTQ trong HTCT. Vì
vậy, khi được tham gia khoá học Cao học về chuyên ngành Chính trị học, thì
đây là cơ hội để lựa chọn đề tài: Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối

với MTTQ Việt Nam qua nghiên cứu thực tiễn ở tỉnh Hà Tĩnh làm đề tài
luận văn tốt nghiệp thạc sỹ. Thông qua luận văn hy vọng góp một phần vào
việc cải thiện nhận thức, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt
Nam hiệu quả và thiết thực hơn trong thời kỳ mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam và mối quan hệ giữa ĐCS Việt Nam
với MTTQ Việt Nam là những vấn đề đặc biệt, hết sức quan trọng và nhận
được nhiều sự quan tâm nghiên cứu cả trong lý luận chính trị và thực tiễn,
nhất là trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Có thể lược kê ra đây một số nghiên
cứu liên quan như sau:
2


- Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức CTXH trong
HTCT ở Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008 do GS.TS Lê Hữu Nghĩa,
GS.TS Hoàng Chí Bảo, PGS. TSKH Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên).
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các
ĐTND – nhìn từ Ban Dân vận cấp uỷ, Tạp chí Mặt trận, số tháng 3- 2009 của
Vũ Ngọc Lân.
- Đảng và các tổ chức CTXH trong HTCT Việt Nam hiện này, Nxb.
CTQG, Hà Nội, 2010 do Nguyễn Hữu Đổng chủ biên.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ, Tạp chí xây
dựng Đảng số 11-2010 của TS. Hoàng Hải.
- Làm gì để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ
Việt Nam, Diễn đàn Mặt trận TP. Hồ Chí Minh của Nguyễn Văn Hùng.
Những nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực
tiễn về vai trò lãnh đạo của Đảng, mối quan hệ của Đảng với MTTQ Việt
Nam và các tổ chức CTXH. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa luận giải sâu
về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam, bản
chất mối quan hệ giữa Đảng với MTTQ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; đặc

biệt chưa chỉ ra thực chất vai trò của Đảng với tư cách vừa là hạt nhân lãnh
đạo, vừa là thành viên Mặt trận, đồng thời cũng chưa chỉ ra trách nhiệm của
MTTQ Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là đại diện dân
chủ của các thành viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân trước
Đảng và Nhà nước; Chưa có các công trình nghiên cứu cụ thể về đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam ở tỉnh Hà Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Trên cơ sở tư duy mới, được hình thành sau hơn 25 năm đổi mới, phân
tích rõ cơ sở lý luận, thực chất, nội dung và hình thức thể hiện sự lãnh đạo của
ĐCS Việt Nam đối với Mặt trận trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế;
3


luận văn đề xuất và kiến nghị về đổi mới phương thức, nội dung, cơ chế thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận.
3.2 Nhiệm vụ
- Làm rõ thực chất, nội dung sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt
nam; mối quan hệ giữa Đảng với MTTQ Việt nam trong thời kỳ đổi mới và
hội nhập quốc tế từ thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh sau 25 năm đổi mới, những
điểm mạnh, sáng tạo và những tồn tại, hạn chế, khó khăn vướng mắc và
hướng khắc phục.
- Kiến nghị, đề xuất cơ chế đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
MTTQ Việt Nam; mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và MTTQ Việt Nam trong
hiệp thương thực hiện nhiệm vụ của HTCT trong thời kỳ mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Tập trung vào việc phân tích lý luận
và thực tiễn về sự sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam; mối quan
hệ giữa Đảng cầm quyền với MTTQ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay gắn

với thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh (thời kỳ đổi mới từ ngày tái lập tỉnh năm 1991
đến nay).
4.2 Phạm vi nghiên cứu
+ Giới hạn phạm vi lý thuyết: Đề tài nghiên cứu về sự lãnh đạo của
Đảng đới với MTTQ Việt Nam và mối quan hệ của Đảng đối với MTTQ Việt
Nam.
+ Giới hạn phạm vi thực tiễn: Đề tài nghiên cứu về sự lãnh đạo và mối
quan hệ của Đảng đối với MTTQ Việt Nam chủ yếu từ thực tiễn của tỉnh Hà
Tĩnh trong gần 30 năm đối mới.
+ Giới hạn thời gian nghiên cứu : Từ năm 1991 đến năm 2013 (từ khi
chia tách, tái lập tỉnh Hà Tĩnh đến nay).
+ Giới hạn về không gian nghiên cứu: Tại tỉnh Hà Tĩnh.
4


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
+ Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
MTTQ Việt Nam. Quan điểm của ĐCS Việt Nam về phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với MTTQ.
+ Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác về phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam và mối quan hệ giữa Đảng
cầm quyền với MTTQ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Cơ sở thực tiễn:
+ Tình hình, kết quả sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam
các cấp ở Hà Tĩnh trong gần 30 năm đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay.
+ Những vấn đề đặt ra trong việc tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với MTTQ Việt Nam trong giai đoạn mới.

5.3. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như: lịch sử,
lo gic, điều tra, phân tích, tổng hợp, thống kê, hệ thống.
6. Đóng góp của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn đóng góp thêm vào vốn lý luận về
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam dưới góc nhìn chính
trị học.
- Những kiến giải và khuyến nghị trong luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho cán bộ nghiên cứu và cán bộ hoạt động thực tiễn làm công tác
Đảng, Mặt trận và các tổ chức CTXH các cấp.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài phần mục lục, danh mục các từ viết tắt,
gồm phần mở đầu, 2 chương, 6 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam trong HTCT
1.1.1. Vai trò, vị trí của Đảng và MTTQ Việt Nam trong HTCT
1.1.1.1. Khái niệm, vai trò, vị trí của ĐCS Việt Nam trong HTCT
HTCT nước ta hiện nay về mă ̣t tổ chức bao gồ m ba bô ̣ phâ ̣n cấ u thành :
ĐCS Viê ̣t Nam, Nhà nước và MTTQ Viê ̣t Nam và các tổ chức CTXH. Trong
HTCT, các thành viên đó có địa vị pháp lý vững chắc , được khẳng định trong
Hiế n pháp và các văn bản pháp luật của nước

Cộng hoà XHCN Viê ̣t Nam .


Viê ̣c xác đinh
̣ rõ vi ̣trí , vai trò , chức năng của từng thành tố trong HTCT Viê ̣t
Nam sẽ giúp chúng ta hiể u rõ và giải quyế t tố t mố i quan hê ̣ giữa các thành
viên trong HTCT đó, bảo đảm cho cả HTCT của nước ta tồ n ta ̣i, vâ ̣n đô ̣ng và
phát triển.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Đảng chính trị là bộ phận
ưu tú, tích cực nhất của một giai cấp, hoặc một tầng lớp nào đó, được tổ chức
chặt chẽ và được hình thành bởi mục tiêu giành, giữ và thực thi quyền lực nhà
nước. Đảng chính trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, là hình
thức tổ chức cao nhất của giai cấp nhưng không phải là tổ chức quyền lực có
những phương tiện cưỡng chế, mà Đảng chính trị chỉ đề ra chủ trương, đường
lối, vận động, thuyết phục, truyền bá những quan điểm của mình, tập hợp
những người cùng chí hướng nhằm thực hiện mục tiêu, lý tưởng của tổ chức
mình. Khi giai cấp có ý thức tự giác về bản thân mình, về vị trí, thân phận và
sứ mệnh lịch sử của mình, thì giai cấp sẽ tổ chức ra đảng, tập hợp những
thành viên ưu tú của tổ chức mình để đảm đương sứ mệnh lịch sử đó. ĐCS là
kết quả của sự kết hợp giữa lý luận cộng sản với phong trào công nhân; là đội
tiên phong có tổ chức của GCCN và các lực lượng cách mạng. Đảng cần tiên
6


phong cả về ý thức cách mạng, tinh thần cách mạng và cả về trí tuệ để lãnh
đạo xoá bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới.
Kế tục Mác - Ăngghen, V.I Lênin cho rằng: ĐCS là đội tiên phong
chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, cách mạng nhất và
giác ngộ nhất của GCCN. Vai trò tiên phong của Đảng thể hiện trên lĩnh vực
lý luận, về mặt tổ chức và hành động gương mẫu của đảng viên trong thực
tiễn. V.I Lênin đã đưa ra một số luận điểm: “chỉ đảng nào được một lý luận
tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiền
phong”. Đảng phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”.

Phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng chính
trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện ĐCS Việt
Nam đã rất coi trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng của GCCN Việt Nam. Người
cho rằng, đây là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định
trước hết đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Theo Nguyễn Ái
Quốc: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững mạnh thì cách mạng
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo chủ nghĩa ấy”[44; tr.267 - 268].
Theo Hồ Chí Minh, ĐCS Việt Nam được xây dựng trên nguyên tắc về
đảng vô sản kiểu mới, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Với đặc thù của một nước thuộc
địa nửa phong kiến như Việt Nam, Người đã khái quát được "quyền lợi của
GCCN và NDLĐ và của cả dân tộc là một" [45; tr.175]. Chính vì vậy, ĐCS
Việt Nam mang bản chất của GCCN, là Đảng của GCCN nhưng cũng đồng
thời là Đảng của dân tộc Việt Nam.

7


Đa ̣i hô ̣i lầ n thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) đã thông qua Điề u lê ̣ củ a
Đảng (sửa đổ i) – trong đó, phần giới thiệu về Đảng đã xác định rõ:
“ ĐCS Việt Nam là đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên
phong của của NDLĐ và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích
của GCCN, NDLĐ và của cả dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không
còn người bóc lột người, thực hiện thành công CNXH và cuối cùng là CNCS.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư

tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan,
xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra CLCT, đường lối cách mạng
đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân...
ĐCS Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng
lãnh đạo HTCT, đồng thời là một bộ phận của HTCT ấy. Đảng lãnh đạo, tôn
trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, MTTQ Việt Nam và các đoàn thể
CTXH. Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của GCCN, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, ĐLDT, dân
chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. ĐCS Việt Nam được xây dựng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức
chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng”.
Vai trò, vị trí của ĐCS Việt Nam đã được khẳng định trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm
2011): “ĐCS Việt Nam là đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên
phong của NDLĐ và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của

8


GCCN, NDLĐ và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản…
ĐCS Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng
lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm
tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng phải thống

nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan
lãnh đạo của HTCT. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên
hoạt động trong các tổ chức của HTCT, tăng cường chế độ trách nhiệm cá
nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm
quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong HTCT.
Đảng lãnh đạo HTCT, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn
bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao
trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo.
Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ
và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình,
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến
đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo
lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”[22; tr.89 - 91].
9


Thực tiễn cách ma ̣ng nước ta đã chứng minh sự lañ h đa ̣o của Đảng đố i
với xã hô ̣i là mô ̣t tấ t y ếu khách quan. Ngay từ khi mới ra đời , ĐCS Việt Nam
đã là người duy nhấ t lañ h đa ̣o cách ma ̣ng . Bởi, “...ngoài lợi ích của giai cấp
công nhân và NDLĐ, Đảng ta không có lơ ̣i ích nào khác”; bởi đó là Đảng của
dân, do dân, dựa vào dân và vì dân. Nhờ đó Đảng đã phát huy đươ ̣c sức ma ̣nh
to lớn của nhân dân để làm nên những chiế n công vi ̃ đa ̣i


, đưa đất nước Viê ̣t

Nam từ một dân tộc thuộc địa nửa phong kiến đã anh dũng đấu tranh giành
ĐLDT, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh
thổ và xây dựng đất nước vươn lên ngang tầ m thời đa ̣i , vai trò vị thế trên
trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Từ lý luận và thực tiễn, có thể khẳng định rằng: ĐCS Việt Nam là đảng
chính trị duy nhất hợp hiến của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, là lực
lượng tinh tú nhất của GCCN Việt Nam, là đại biểu trung thành quyền lợi của
GCCN và của NDLĐ và của cả dân tộc. ĐCS Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động cách
mạng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện công cuộc xây
dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. ĐCS Viê ̣t Nam
là đội tiên phong chính trị của toàn xã hội, là hạt nhân lãnh đạo HTCT.
1.1.1.2. Khái niệm, vai trò, vị trí của MTTQ Việt Nam trong HTCT
MTTQ Việt Nam - một hình thức, tên gọi của MTDTTN Việt Nam ở
giai đoạn hiện nay do ĐCS Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh
đạo, được thành lập ngày 18/11/1930. Hơn 80 năm qua, trong từng thời kỳ
cách mạng, MTTQ Việt Nam đã có nhiều hình thức và tên gọi khác nhau: Hội
Phản đế đồng minh (1930), Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936), MTDTTN
Phản đế Đông Dương (1939), Mặt trận Việt Minh (1941), Hội Liên hiệp quốc
dân Việt Nam (1946), Mặt trận Liên Việt (1951), MTTQ Việt Nam (1955),
MTDTGPMN (1960), LMCLLDTDC và hòa bình Việt Nam (1968). Từ năm

10


1977, MTTQ Việt Nam, MTTDGPMN Việt Nam và LMCLLDTDC và hòa
bình Việt Nam được thống nhất lại với tên gọi là MTTQ Việt Nam. Sự thay
đổi hình thức, tên gọi ở từng giai đoạn của MTTQ Việt Nam nhằm đáp ứng

yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn, nhưng tựu trung lại đều nhằm
mục tiêu tập hợp lực lượng to lớn của toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc và xây dựng, BVTQ XHCN, vì ĐLDT, vì hạnh phúc của
nhân dân.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của MTTQ Việt Nam gắn liền với sự ra
đời và phát triển của ĐCS Việt Nam. Ngay từ khi mới thành lập, ĐCS Việt
Nam, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã quan tâm đến việc đoàn kết,
tập hợp lực lượng cách mạng để đấu tranh giải phóng dân tộc. MTTQ Việt
Nam trở thành tổ chức quần chúng rộng rãi nhất, tập hợp, đoàn kết các thành
viên khác nhau của dân tộc Việt Nam. Các thành viên có thể khác nhau về lợi
ích cụ thể; về chính kiến, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo... nhưng cùng thống
nhất hành động theo một cương lĩnh chung vì lợi ích chung nhất, cao cả nhất
là lợi ích của dân tộc.
Trải qua các thời kỳ hoạt động với những hình thức và tên gọi khác nhau,
Mặt trận không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân
tộc Việt Nam, MTDTN Việt Nam đã không ngừng phát triển và trưởng thành,
đã có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, là một trong
những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giành độc lập
dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và BVTQ. Kế tục và phát huy vai trò
lịch sử của MTDTTN Việt Nam qua các thời kỳ, MTTQ Việt Nam ngày nay
là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ
chức CTXH, các tổ chức xã hội, các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các
tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam sinh sống ở nước
ngoài.

11


MTTQ Việt Nam chủ trương phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự
hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, doàn kết mọi người Việt Nam ở trong và

ngoài nước, không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng,
quá khứ, ý thức hệ và chính kiến, miễn là tán thành công cuộc đổi mới, nhằm
mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh
thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, góp phần tích cực
vào sự nghiệp hoà bình, ĐLDT, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Khoản 1, Điều 1 Luật MTTQ Việt Nam quy định: "MTTQ Việt Nam là
tổ chức LMCT, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức CTXH,
tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội,
các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài".
MTTQ Việt Nam không chỉ là tổ chức LMCT, mà còn là liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức CTXH, tổ chức CTXH - nghề
nghiệp, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người
Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. Tính liên hiệp tự nguyện thể hiện ở chỗ
MTTQ Việt Nam không có hội viên, chỉ có các thành viên bao gồm thành
viên tổ chức và thành viên cá nhân, các thành viên tham gia Mặt trận theo
nguyên tắc liên hiệp tự nguyện, độc lập về tổ chức và có địa vị bình đẳng
trong mọi sinh hoạt của Mặt trận.
Về vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của MTTQ Việt Nam được quy
định cụ thể tại Điều 1, Điều 2 trong Luật MTTQ Việt Nam năm 1999 như
sau:
“MTTQ Việt Nam là tổ chức LMCT, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức CTXH, các tổ chức xã hội, các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.
12


MTTQ Việt Nam là một bộ phận của HTCT của nước Cộng hoà XHCN

Việt Nam do ĐCS Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân,
nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành
động của các thành viên, góp phần giữ vững ĐLDT, chủ quyền quốc gia, toàn
vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
MTTQ Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tuyên
truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật; PBXH
đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công
chức nhà nước, tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị
với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân;
cùng Nhà nước chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân;
tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân
dân các nước trong khu vực và trên thế giới”[59; tr.5-6].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển năm 2011) cũng đã khẳng định: “MTTQ Việt Nam, các ĐTND có
vai trò quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và
BVTQ; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân,
chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã
hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo
đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa
nhân dân với Đảng, Nhà nước.

13


ĐCS Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận… Đảng

tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và
chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng,
Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các ĐTND hoạt
động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và PBXH” [22; tr.86 - 87].
Như vậy, ĐCS Việt Nam là Đảng cầm quyền, là lực lượng duy nhất lãnh
đạo Nhà nước và xã hội; Đảng lãnh đạo MTTQ Việt Nam và các đoàn thể
CTXH. MTTQ Việt Nam là tổ chức LMCT do ĐCS Việt Nam, Đảng của
GCCN nước ta thực hiện sự liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp
xã hội khác thành lập nên nhằm liên kết các lực lượng với nhau thành một
khối thống nhất để thực hiện mục tiêu chính trị chung là giành chính quyền,
giữ chính quyền và sử dụng chính quyền để BVTQ, bảo vệ thành quả cách
mạng, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. ĐCS Việt Nam là
hạt nhân của khối liên minh, là thành viên giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo của
Mặt trận. Đảng vừa là người lãnh đạo Mặt trận, vừa là thành viên của Mặt
trận.
1.1.2. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1.1.2.1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mối quan hệ giữa ĐCS Việt Nam với MTTQ Việt Nam có một đặc
điểm đáng chú ý: Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
"MTQ Việt Nam là một bộ phận của HTCT, là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân. ĐCS Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt
trận" [22 ; tr.87].
MTTQ Việt Nam là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, là nơi
quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước của người Việt Nam ở trong và ngoài
nước. Đó là một khối đại đoàn kết có tổ chức trên nền tảng liên minh công nông - trí thức, do ĐCS Việt Nam lãnh đạo. ĐCS Việt Nam đội tiền phong

14


của GCCN, mang bản chất của GCCN; MTTQ Việt Nam là khối đại đoàn kết

toàn dân tộc Việt Nam, đại diện cho các giai tầng, các dân tộc, các tôn giáo
của nhân dân Việt Nam.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là
vấn đề mang tính nguyên tắc, là một tất yếu bảo đảm cho Mặt trận tồn tại,
phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn; chỉ có chính đảng của GCCN được
vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lê nin mới đánh giá đúng được vai trò của
quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới chỉ ra được đường lối chiến lược và
sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng trong Mặt trận để làm
cách mạng. Người cũng luôn xác định: “mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận
là mối quan hệ máu thịt. Không có Mặt trận, Đảng không có lực lượng, không
thể thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng; không có sự lãnh đạo của
Đảng, Mặt trận không thể hình thành, phát triển và không có phương hướng
hoạt động đúng đắn”. Bởi vậy, ĐCS Việt Nam vừa là một thành viên của
MTTQ, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
Mặt trận thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện các quy luật khách
quan của sự vận động lịch sử để vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng
phù hợp. Mặc dù vậy, quyền lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận chỉ có được
khi có sự thừa nhận của nhân dân. “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận
quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt
động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi
quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của
Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” [44 ; tr.3, tr.139].
Quan hệ giữa Đảng với Mặt trận trong HTCT là mối quan hệ giữa lãnh
đạo và bị lãnh đạo, trong đó, Đảng là Người lãnh đạo, và Mặt trận chịu sự
lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận được thể chế hóa
ngay trong Hiến pháp (Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

15



năm 1992) và tại Khoản 2, Điều 1, Luật MTTQ Việt Nam cũng quy định:
"MTTQ Việt Nam là một bộ phận của HTCT nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam do ĐCS Việt Nam lãnh đạo...".
Đảng lãnh đạo Mặt trận toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ
và kiểm tra. Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, là một bộ
phận của Mặt trận. Đảng lập ra Mặt trận là kết quả tuyên truyền vận động tổ
chức của Đảng, nhưng Mặt trận là một tổ chức độc lập; Mặt trận hoạt động
theo mục đích, Điều lệ đã được xác định của mình.
Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính
sách đúng đắn, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các
tầng lớp nhân dân. Đảng tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, thuyết
phục, tổ chức kiểm tra, giám sát và bằng sự gương mẫu của đảng viên. Đảng
lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận và đại diện của cấp uỷ Đảng
tham gia Uỷ ban Mặt trận cùng cấp. Đảng chăm lo bồi dưỡng cán bộ và giới
thiệu những đảng viên có phẩm chất, có tín nhiệm trong các tầng lớp nhân
dân, có năng lực làm công tác Mặt trận để Mặt trận chọn cử theo đúng Điều
lệ. Đảng lãnh đạo sự phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên,
sự phối hợp giữa Mặt trận với chính quyền.
ĐCS Việt Nam là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo MTTQ Việt Nam
và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Đồng thời, Đảng là thành viên của
Mặt trận. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận đến nay đã chứng tỏ
các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng. Với tư cách là người lãnh đạo, để lãnh đạo được Mặt trận, Đảng phải ở
trong Mặt trận, là một thành viên của Mặt trận. Đảng thực hiện vai trò lãnh
đạo đối với Mặt trận bằng cách đề ra các chủ trương, đường lối, chính sách
đúng đắn, xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, đáp ứng yêu
cầu nguyện vọng và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân.

16



Đảng tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, tổ
chức, kiểm tra và bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Đảng lãnh đạo Măt trận thông qua Đảng đoàn MTTQ Việt Nam và
Đảng đoàn, BTV các tổ chức thành viên của Mặt trận. Đảng cử đại diện
Thường vụ cấp uỷ trực tiếp tham gia Phó Chủ tịch Mặt trận không chuyên
trách (ở cấp TW là một đồng chí trong Ban Bí thư tham gia Đoàn Chủ tịch Uỷ
ban TW MTTQ Việt Nam), phụ trách công tác Mặt trận; trực tiếp trình bày
những chủ trương của Đảng cho Mặt trận, kiến nghị những vấn đề liên quan
đến MTTQ Việt Nam để Uỷ ban MTTQ thảo luận, thống nhất chương trình
phối hợp thống nhất hành động để thực hiện các chủ trương, nghị quyết của
Đảng. Đồng thời, Đảng chăm lo bồi dưỡng và giới thiệu những cán bộ, đảng
viên có phẩm chất, trình độ, có năng lực, kinh nghiệm làm công tác Mặt trận,
có tín nhiệm trong các tầng lớp nhân dân để tham gia công tác Mặt trận, để
Mặt trận hiệp thương chọn cử theo đúng quy định của Điều lệ MTTQ Việt
Nam... Đảng lãnh đạo Mặt trận còn thể hiện ở việc Đảng lãnh đạo phối hợp
thống nhất hành động giữa các thành viên của Mặt trận, giữa Mặt trận với
chính quyền, tôn trọng tính độc lập về mặt tổ chức và khuyến khích mọi hoạt
động sáng tạo của Mặt trận vì lợi ích của đất nước và của nhân dân. Đảng
lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận đối với sự lãnh đạo của Đảng và đối
với cán bộ đảng viên. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là vấn đề có tính
nguyên tắc, đảm bảo cho Mặt trận không ngừng được củng cố và mở rộng.
Mặt trận có nhiệm vụ truyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức
mới, động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Mặt trận có trách nhiệm tổ chức, vận động nhân dân thực hiện
chính sách của Đảng và Nhà nước, trong việc xây dựng mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vì mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước là yếu tố cực kỳ quan trọng bảo đảm sự đoàn kết, thống
nhất, vững mạnh của chế độ.
17



1.1.2.2. ĐCS Việt Nam với tư cách là thành viên của MTTQ Việt Nam
MTTQ Việt Nam là tổ chức LMCT, ĐCS Việt Nam là thành viên hạt
nhân của khối liên minh, là thành viên giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo của Mặt
trận. Đảng vừa là người lãnh đạo Mặt trận, vừa là thành viên của Mặt trận.
Với tư cách là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ
như mọi hành viên khác và phải làm tròn trách nhiệm thành viên Mặt trận của
mình. Không những thế, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng phải là thành viên
gương mẫu nhất. Đảng cử đại diện của mình tham gia tổ chức của Mặt trận.
Đại diện cấp ủy Đảng tham gia Ủy ban Mặt trận có trách nhiệm sinh hoạt đầy
đủ, chủ động trình bày các chủ trương và những kiến nghị của Đảng đối với
Mặt trận, đồng thời lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của các thành viên,
đối thoại, thuyết phục, thực hiện hiệp thương dân chủ và thống nhất hành
động.
Là một thành viên bình đẳng trong tổ chức Mặt trận, ĐCS Việt Nam
thực hiện vai trò lãnh đạo của mình bằng cách phát huy vai trò hạt nhân chính
trị, làm cho ảnh hưởng chính trị của mình lan tỏa đến mọi thành viên khác
trong Mặt trận. Nguyên tắc hoạt động của Mặt trận là hiệp thương dân chủ và
phối hợp thống nhất hành động. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi vấn đề của Mặt
trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên trong Mặt trận cùng nhau
bàn bạc công khai, đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình
thức. Đảng là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, nhưng cũng là thành viên của Mặt
trận, vấn đề của Đảng cũng là vấn đề của Mặt trận. Vì vậy, đối với mọi chủ
trương, chính sách của mình, Đảng cũng cần và có trách nhiệm phải đem ra
trình bày trước Mặt trận, cùng với các thành viên khác của Mặt trận bàn bạc,
hiệp thương một cách dân chủ để tìm kiếm được giải pháp tích cực và thống
nhất trong Mặt trận cùng hành động, hướng phong trào quần chúng thực hiện
thắng lợi các mục tiêu mà Đảng đã đề ra.


18


Đại diện cấp uỷ Đảng tham gia Uỷ ban Mặt trận có trách nhiệm tham gia
đầy đủ các sinh hoạt của Mặt trận, thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Mặt trận là tự nguyện, hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất
hành động. Cấp uỷ Đảng phải giáo dục, vận động cán bộ đảng viên gương mẫu
thực hiện chương trình hành động chung của Mặt trận đã được các tổ chức
thành viên hiệp thương dân chủ, thống nhất thoả thuận và tích cực tham gia các
họat động của Mặt trận, tham gia công tác Mặt trận tại khu dân cư.
1.2. Chủ trương đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt
Nam
1.2.1. Những chủ trương đổi mới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối
với MTTQ Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước từ năm 1986 đến
nay
Chủ trương đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng mới được bắt nguồn từ sau khi giải phóng hoàn
toàn Miền Nam thống nhất đất nước, thống nhất các tổ chức Mặt trận trong cả
nước thành MTQ Việt Nam; chuyyển hướng cách mạng Việt Nam sang một
giai đoạn mới, thời kỳ xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN. Đặc biệt là từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng vào tháng 12 năm 1986, Đại
hội đánh dấu sự mở đầu cho đường lối đổi mới của Đảng, xó bỏ trình trạng
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Báo cáo chính trị của BCH TW Đảng khoá V trình Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI đã chỉ rõ: “MTTQ Việt Nam, Đảng dân chủ, Đảng xã
hội và các đoàn thể quần chúng, trước hết là Công đoàn, Hội liên hiệp nông
dân tập thể, đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp phụ nữ,
có vai trò to lớn trong việc động viên các tầng lớp nhân dân tham gia xây
dựng, quản lý kinh tế và quản lý xã hội...


19


×