Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945 tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.44 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG THI MINH PHƯỢNG

§¶NG VËN §éNG TRÝ THøC TRONG §ÊU TRANH
GI¶I PHãNG D¢N TéC Tõ N¡M 1930 §ÕN N¡M 1945

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Mã số: 62 22 03 15

HÀ NỘI - 2015


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Hồ Thị Tố Lương
2. PGS.TS. Trần Trọng Thơ

Phản biện 1:.........................................................
.........................................................

Phản biện 2:.........................................................
.........................................................

Phản biện 3:.........................................................
.........................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện


họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2015

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kế thừa và phát triển giá trị mà dân tộc ta đã đúc kết “hiền tài là nguyên
khí quốc gia”, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi trọng và phát
huy vai trò của trí thức trong đấu tranh cách mạng.
Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay
nhân dân, từ năm 1930 đến năm 1945, được sự tuyên truyền, vận động của
Đảng, một bộ phận đông đảo trí thức yêu nước và tiến bộ đã hòa mình vào
phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân, đồng hành cùng dân
tộc, có nhiều đóng góp to lớn trong cuộc đấu tranh chống chế độ thuộc địa, khôi
phục và phát triển phong trào cách mạng, bảo vệ Đảng, chuẩn bị lực lượng mọi
mặt cho công cuộc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, góp phần tạo nên thắng lợi Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Công
tác vận động trí thức (CTVĐTT) của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945 chứa
đựng nhiều sáng tạo của Đảng, tầm cao tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng
và phát huy những giá trị truyền thống qúy báu của dân tộc, sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam.
Hiện thực lịch sử vận động trí thức thời kỳ 1930 - 1945 rất phong phú và
sinh động, đã thu hút nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, song, đến nay
vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng rõ, nhất là quá trình

Đảng vận động trí thức hướng tới mục tiêu đấu tranh giành chính quyền cần phải
được nghiên cứu toàn diện và thấu đáo. Việc nhìn nhận, đánh giá một số phong
trào yêu nước của trí thức, sự đóng góp của trí thức vào công cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc cũng cần được được nghiên cứu, luận giải để đánh giá xác đáng,
tương xứng với những đóng góp của bộ phận này đối với cách mạng và dân tộc
Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài: “Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng
dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945” làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng trong vận
động trí thức thời kỳ 1930 - 1945, từ đó rút ra một số kinh nghiệm về CTVĐTT.


2

2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu một cách có hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng và lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc về trí thức và CTVĐTT ở Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945.
- Luận giải quá trình các cấp bộ Đảng lãnh đạo thực hiện CTVĐTT, sự ra đời
và hoạt động của các tổ chức trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930 - 1945.
- Đánh giá một cách khoa học, khách quan vị trí, vai trò và những đóng
góp của trí thức trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945
- Khẳng định những thành công, phân tích hạn chế của Đảng trong vận
động trí thức thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc (1930 - 1945).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là công tác vận động trí thức của Đảng
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945. Đó là những quan
điểm, chủ trương, chính sách trí vận của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; những
hoạt động lãnh đạo của các cấp bộ Đảng về vận động, tập hợp trí thức; những tổ

chức, phong trào, hoạt động và đóng góp của ĐNTT nói chung, của các trí thức
tiêu biểu nói riêng từ năm 1930 đến năm 1945.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian, luận án giới hạn trong phạm vi 15 năm, từ đầu năm 1930
đến tháng 8 năm 1945. Tuy nhiên, để giúp trình bày cho nội dung chính được
lôgíc và khoa học, đề tài mở rộng thêm thời gian trước năm 1930, nhằm nêu bật
những đóng góp to lớn của những trí thức yêu nước đối với sự ra đời của Đảng.
Phạm vi không gian, luận án nghiên cứu CTVĐTT trên phạm vi cả nước,
trong đó trọng tâm là những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà
Nẵng, Sài Gòn - Chợ Lớn - là những nơi tập trung đông đảo lực lượng trí thức;
trong một số trường hợp còn đề cập đến hoạt động của trí thức khi họ hoạt động
ở nước ngoài.
Phạm vi nội dung, luận án tập trung nghiên cứu quá trình hình thành và
phát triển nhận thức của Đảng về công tác vận động trí thức; các khuynh hướng
tư tưởng của trí thức và các nhóm trí thức; sự chuyển biến về tư tưởng của trí
thức và những đóng góp của trí thức vào tiến trình cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Đảng thời kỳ 1930 - 1945.


3

4. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác vận động quần chúng, về CTVĐTT và xây dựng trí thức phục
vụ nhiệm vụ cách mạng.
4.2. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu chủ yếu sử dụng cho luận án gồm:
Các văn bản, nghị quyết, chỉ thị, báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã được công bố trong Văn kiện Đảng Toàn tập, của Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã được công bố trong Hồ Chí Minh toàn tập; đồng thời, khai thác tài liệu
của các cấp bộ Đảng, nhất là của các Xứ uỷ. Đây chính là nguồn tư liệu gốc để
thực hiện nội dung luận án.
Các tác phẩm hồi ký của các đồng chí cách mạng lão thành, lịch sử Đảng
địa phương, lịch sử chiến tranh nhân dân, các địa chí văn hóa của các tỉnh, thành
đã được xuất bản.
Các đề tài, luận án, luận văn, các công trình nghiên cứu khoa học về lịch sử
đã được công bố, các bài viết đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành. Các bài
tham luận được in, đăng trong các kỷ yếu hội thảo khoa học Một số bài viết có
liên quan trên các trang web trên mạng internet.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là: phương pháp lịch
sử và logic. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp khác như: phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.v.v... chú trọng phương pháp luận sử
học để phân tích, đánh giá, qua đó tái hiện quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 - 1945.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về khoa học:
Làm sáng tỏ công tác trí vận của Đảng thời kỳ 1930 - 1945, những quan
điểm của Đảng, của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách về công tác trí vận.
Đánh giá vai trò của công tác trí vận và những đóng góp của ĐNTT đối với
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945.


4

Về thực tiễn:
Cung cấp thêm những luận cứ khoa học, tư liệu, tài liệu trong việc vận
động trí thức tham gia vào công cuộc giải phóng dân tộc. Góp phần góp phần

vào việc nghiên cứu, giảng dạy và tuyên truyền Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam thêm toàn diện và sâu sắc, góp phần vào công tác giáo dục truyền thống
cách mạng cho ĐNTT, nhất là đội ngũ trí thức trẻ; động viên họ cống hiến tài
năng và trí tuệ cho đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả có
liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4
chương, 9 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Nghiên cứu về trí thức Việt Nam nói chung, về công tác vận động, tập hợp
trí thức của Đảng qua các thời kỳ cách mạng, trong đó có thời kỳ 1930 - 1945 nói
riêng, đã được đề cập trong nhiều tác phẩm, nhiều công trình nghiên cứu khoa
học, xã hội dưới dạng chuyên khảo, các công trình, các luận án, luận văn. Có thể
phân chia thành các nhóm sau đây:
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về Lịch sử Đảng có đề cập đến trí
thức và công tác vận động trí thức của Đảng thời kỳ 1930 - 1945
Một số công trình, bài viết cơ bản như: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
(sơ thảo), tập I (1920 - 1954) của Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương
(nay là Viện Lịch sử Đảng), NXB Sự thật, Hà Nội, 1981. Tác phẩm Lịch sử
Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập 1 (1930 - 1945) Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa
Thiên Huế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 1. Cuốn Lịch sử Đảng bộ
Thành phố Hà Nội (1930 - 2000), Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh
(1930 - 1975) của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, NXB
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015. Ngoài ra, có thể kể đến các luận án,
luận văn khác như: Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo



5

xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 1991 đến năm 200, bảo vệ năm 2009 của
Nguyễn Thắng Lợi, Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng và phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức từ năm 1997 đến năm 2007, bảo vệ năm 2012 của
Lương Quang Hiển v.v.. Ở mức độ khác nhau, các công trình, bài viết đó đều
phản ánh một số khía cạnh liên quan đến chủ đề của luận án.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về lịch sử dân tộc, về các danh
nhân văn hóa có đề cập đến trí thức và công tác vận động trí thức của Đảng
thời kỳ 1930 - 1945
Một số công trình tiêu biểu như: Tác phẩm Thanh niên Tiền phong và các
phong trào học sinh, sinh viên, trí thức Sài Gòn 1939 - 1945 của Huỳnh Văn
Tiểng, Bùi Đức Tịnh, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1995. Cuốn sách Một
số vấn đề về trí thức Việt Nam của Nguyễn Thanh Tuấn, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998. Tác phẩm Ho Chi Minh - a Life (Hồ Chí Minh - một cuộc
đời), Hyperion, New York, 2000. Tác phẩm Lịch sử cuộc vận động vì các quyền
dân sinh, dân chủ ở Việt Nam (1936 - 1939) NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2008 và Nội các Trần Trọng Kim - Bản chất, vai trò và vị trí lịch sử, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2009 của Phạm Hồng Tung. Cuốn sách của GS.TS. Trịnh
Nhu, TS. Trần Trọng Thơ với nhan đề Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi vĩ
đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.
Phạm Thị Huệ (2013), Phong trào dân tộc dân chủ ở Nam Kỳ 1930 - 1945,
nghiên cứu qua tài liệu lưu trữ, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Ngoài
các tác phẩm trên, có thể thể kể tên các công trình, như: Bàn về những cuộc đấu
tranh tư tưởng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại (1930 - 1945) của Vũ
Đức Phúc; Kẻ sĩ Gia Định của Trần Bạch Đằng; Vấn đề Phụ nữ trên báo chí
tiếng Việt trước năm 1945 của TS Đặng Thị Vân Chi v.v..
Ngoài ra, các hồi ký đã được xuất bản cũng là nguồn tư liệu phong phú về
CTVĐTT của Đảng trong thời kỳ 1930 - 1945. Đáng chú ý là các cuốn sách:

Vũ Đình Hòe - Hồi ký, NXB hội nhà văn, 1997; “Hồi ký Đào Duy Anh
(Nhớ nghĩ chiều hôm)” của Đào Duy Anh, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh,
2001; Trường Chinh một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách
mạng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Hồi ký Trần Huy Liệu,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991. Hồi ký Trần Văn Giàu 1940 - 1945.


6

Nhìn chung, những công trình trên đây mới đề cập đến CTVĐTT của Đảng
trong từng trường hợp và một số nội dung cụ thể, chưa đề cập trí thức với tư cách
là một bộ phận có vai trò quan trọng trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc
thời kỳ 1930 - 1945.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu lịch sử về trí thức có đề cập đến trí
thức và công tác vận động trí thức của Đảng thời kỳ 1930 - 1945
Các công trình nghiên cứu lịch sử về trí thức, tập trung nghiên cứu quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, vai trò của
trí thức trong lịch sử Việt Nam, các tổ chức trí thức, các nhân vật trí thức..., trong
đó có đề cập đến những quan điểm, đến CTVĐTT của Đảng trong thời kỳ 1930 1945. Có thể kể đến một số tác phẩm sau: tác phẩm The Rise of Nationalism in
Vietnam 1900 - 1941(Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam 1900 - 1941)
của Duiker, William, Cornell University Press, Ithaca an London, 1976.
L’histoire de la Guerre d’Indochine (Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương), của
Yves Gra, Plon, Paris, 1978. Stein Tonesson với tác phẩm The Vietnamese
revolution of 1945: Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World at War
(Cách mạng Việt Nam năm 1945: Rudơven, Hồ Chí Minh và Đờ Gôn trong một
thế giới chiến tranh), Prio, Oslo, 1991. Daniel Hémery với tác phẩm Saigon
1925-1945 (Sài Gòn 1925 - 1945), Autrement, Paris, 1992. David G.Marr, với
những tác phẩm như: Vietnam 1945: the Quest for Power (Việt Nam 1945: Cuộc
giành quyền lực), Vietnamese Tradition on Trial, 1920 - 1945 (Truyền thống Việt
Nam trong thử thách 1920 - 1945). Trí thức Việt Nam - thực tiễn và triển vọng

của Phạm Tất Dong, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Tác phẩm Một số
vấn đề về trí thức Việt Nam của Nguyễn Văn Khánh và Nguyễn Quốc Bảo, NXB
Lao động, Hà Nội, 2001. Tác phẩm Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức trong
sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước do Nguyễn Văn Khánh (chủ biên),
NXB Thông tấn, Hà Nội, 2004. Công trình Trí thức Việt Nam xưa và nay do
Trung tâm UNESCO phổ biến kiến thức Văn hóa và Giáo dục cộng đồng - Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam thực hiện, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2005.
Tác phẩm “Góp phần tìm hiểu Nho giáo - nho sĩ - trí thức Việt Nam trước 1945”
của tác giả Chương Thâu, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2007. Tác phẩm
“Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây thời Pháp thuộc” của
Trần Viết Nghĩa, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật ấn hành năm 2012. Tác phẩm
Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954). Nghiên cứu Lịch sử xã hội) của Giáo
sư Trịnh Văn Thảo, NXB Thế giới, 2013, (Nguyễn Văn Khánh tổ chức dịch).


7

Bên cạnh đó, các ấn phẩm hoặc các công trình nghiên cứu về trí thức, như cuốn
Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) của tác giả Hồ
Sơn Diệp, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2003 v.v.. Các công
trình trên đã đề cập đến những vấn đề lí luận chung về trí thức, quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng về
trí thức qua các thời kỳ cách mạng, trong đó có thời kỳ 1930 - 1945.
1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

Đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống
công tác vận động trí thức của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945. Trong hầu hết
các công trình đã công bố, CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 - 1945 1954 thường
chỉ được thể hiện một cách đơn lẻ, đề cập tới một cách khái quát, đặt trong mối
quan hệ chung giữa các phong trào yêu nước của trí thức với cuộc vận động giải

phóng dân tộc, giành chính quyền trong các giáo trình, sách giáo khoa, các công
trình chuyên khảo, hoặc những công trình nghiên cứu nói chung về lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam hoặc lịch sử cận đại Việt Nam. Chưa có công trình nào
nghiên cứu dưới góc độ Lịch sử Đảng phản ánh về CTVĐTT của Đảng thời kỳ
1930 - 1945 một cách độc lập. Chưa có những công trình nghiên cứu một cách
có hệ thống những sáng tạo của các cấp bộ Đảng, từ Trung ương đến các Xứ ủy
trong thu hút, tập hợp ĐNTT và vai trò của ĐNTT trong cuộc đấu tranh giành
chính quyền, giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT

Làm sáng tỏ những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng trong việc
tuyên truyền, vận động, qui tụ ĐNTT phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc thời kỳ 1930 - 1945.
Đánh giá một cách xác đáng năng lực và những đóng góp của trí thức, của
các nhóm trí thức cho phong trào cách mạng thời kỳ 1930 - 1945.
Làm rõ những sáng tạo, thành công và hạn chế của Đảng trong vận động
và tranh thủ trí thức phục vụ cách mạng thời kỳ 1930 - 1945.
Đúc kết những kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Vận dụng quan
điểm của Đảng trong thời kỳ đổi mới để đánh giá khách quan những sự kiện,
nhân vật còn có những đánh giá khác biệt trong các công trình nghiên cứu có liên
quan đã được công bố.


8

Chương 2
ĐẢNG VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939
2.1. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC
VIỆT NAM TRƯỚC KHI THÀNH LẬP ĐẢNG


2.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về trí thức
Khái niệm trí thức:
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa trí thức là “tầng lớp xã hội làm
nghề lao động trí óc, trong đó, bộ phận chủ yếu là những người có học vấn
cao, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng tạo và phát minh”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X (tháng
8/2008) “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” của Đảng định nghĩa: “Trí thức là những người lao động
trí óc có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư
duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh
thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”.
Tác giả khái quát như sau: “đội ngũ trí thức là tập hợp những người lao
động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn sâu cho ngành lao
động nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri
thức, ứng dụng tri thức khoa học vào phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội thành
một lực lượng đông đảo thống nhất về mặt tổ chức, hành động để cùng nhau
thực hiện mục tiêu đó là tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị
đối với xã hội”.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về trí thức và vai trò của trí thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trí thức là một tầng lớp đặc
biệt, không phải là một giai cấp, và không có một hệ tư tưởng độc lập. Tuy
nhiên, tầng lớp này có một vị trí đặc biệt vì trí thức bao gồm những phần tử tiên
tiến nhất trong một quốc gia dân tộc, trí thức là đại biểu cho đỉnh cao của tri thức,
lao động của trí thức là lao động đặc thù.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, trí thức cũng mang trong mình những
nhược điểm và hạn chế nhất định. Đó là tính hay dao động, thiển cận chính trị,
chủ nghĩa cá nhân v.v..


9


Trong quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện học thuyết của mình,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin coi trí thức là vốn quý của xã hội,
là lực lượng xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng
của giai cấp công nhân, là một bộ phận cấu thành của xã hội. Xã hội khó có thể
phát triển nếu thiếu đi ĐNTT, và ngược lại, ĐNTT sẽ tự vô hiệu hóa nếu tách
mình khỏi đời sống xã hội. Chính vì vậy, trong sự phát triển của xã hội cần phải
đấu tranh chống lại cả hai khuynh hướng hoặc coi nhẹ hoặc tuyệt đối hóa vai trò
của trí thức.
2.1.2. Đặc điểm của trí thức Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Trí thức Việt Nam giàu lòng yêu nước, mang trong mình ý thức dân tộc.
Trí thức gồm hai bộ phận trí thức Nho học (cựu học) và trí thức Tây học
(tân học) cùng tồn tại song song.
Trí thức là lực lượng đứng ra tiếp nhận và truyền bá các trào lưu tư tưởng
mới, châm ngòi nổ cho các phong trào đấu tranh.
2.1.3. Hoạt động của trí thức Việt Nam trước khi thành lập Đảng
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ĐNTT đã có những hoạt động
rất phong phú, khởi xướng và lãnh đạo phong trào yêu nước, thực hiện những cải
cách về văn hóa, xã hội, canh tân đất nước v.v.. góp phần đem lại những tiến bộ
của xã hội Việt Nam. ĐNTT cũng chính là lực lượng đóng vai trò quan trọng
trong việc tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận cách mạng giải
phóng dân tộc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam, góp phần vào sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
2.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC CỦA
ĐẢNG TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939

2.2.1. Đảng vận động trí thức giai đoạn 1930 - 1935
2.2.1.1. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc và Đảng về trí thức và vận động
trí thức giai đoạn 1930 - 1935
Ngay từ những năm hai mươi của thế kỷ XX, trong hành trình tìm đường

cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã rất coi trọng trí thức bởi theo Người: trong
truyền thống Việt Nam, người trí thức rất được trọng vọng, đứng vị trí hàng đầu
trong các thang bậc xã hội.


10

Nguyễn Ái Quốc nhận thức rõ, trí thức Việt Nam luôn mang trong mình ý
thức dân tộc sâu sắc, là lực lượng đi tiên phong tham gia cách mạng. Họ chính là
lực lượng đi đầu trong việc tiếp thu tư tưởng cách mạng tiến bộ của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tích cực truyền bá trong quần chúng nhân dân và hăng hái tham gia
vào các tổ chức cách mạng tiền thân của Đảng. Trí thức là những người có học
thức, hiểu biết do có điều kiện tiếp xúc với những tri thức mới trong hệ thống
giáo dục đương thời, nên họ rất nhạy bén với cái mới, với những tư tưởng tiến
bộ, nhưng là một bộ phận của một dân tộc bị thống trị, cùng chung số phận mất
nước, trí thức Việt Nam cũng bị đế quốc bạc đãi, khinh rẻ, vì vậy, phần lớn trong
số họ có tinh thần yêu nước, chống Pháp.
Tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, trong
Sách lược vắn tắt của Đảng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định nhiều quan điểm đúng
đắn về trí thức và CTVĐTT: “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và
phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo”; đồng thời, “Đảng phải hết sức liên lạc
với tiểu tư sản, trí thức, trung nông Thanh Niên, Tân Việt, v.v.. để kéo họ đi vào
phe vô sản giai cấp...” Báo cáo tóm tắt hội nghị cũng khẳng định phải: “đưa
những người ở các tầng lớp khác, trí thức, tiểu tư sản, v.v. vào tổ chức phản đế”.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương, đặc
điểm, tính chất và nhiệm vụ cách mạng Đông Dương, địa vị của các giai cấp
trong cuộc cách mạng Đông Dương, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản
Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) nhấn mạnh mặt tiêu cực của các
tầng lớp trên trong xã hội. Đối với tiểu tư sản, trí thức, Luận cương đánh giá:
trong giai cấp tiểu tư sản, thì bộ phận làm thủ công nghiệp "có ác cảm" với cách

mạng; tiểu thương "không tán thành cách mạng"; tiểu tư sản trí thức có "xu
hướng quốc gia chủ nghĩa", "đại biểu quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bổn bổn
xứ”. Từ đó, trong vấn đề xác định lực lượng cách mạng, Luận cương chỉ thấy
được vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân, mà không đánh giá
đúng mức vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tầng lớp trí thức.
Trong Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội “Phản
đế đồng minh”, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã có
những điều chỉnh trong nhận thức về quan điểm đối với trí thức mà Hội Nghị
Ban Chấp hành Trung ương tháng 10/1930 đã nêu lên, chủ trương đoàn kết rộng
rãi lực lượng toàn dân tộc, bao gồm các giai cấp, tầng lớp và cá nhân yêu nước.


11

Đầu tháng 4/1931, Xứ ủy Trung Kỳ đề ra chủ trương thanh Đảng.
Trước tình hình đó, trong Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ uỷ Trung Kỳ về vấn
đề thanh Đảng Trung kỳ, ban hành ngày 20/5/1931, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã nghiêm khắc phê phán chủ trương "thanh Đảng" của Xứ uỷ
Trung Kỳ, kịp thời uốn nắn những khuyết điểm của Xứ uỷ Trung Kỳ.
Đến năm 1935, trong dự thảo Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông
Dương vẫn đánh giá phong trào đấu tranh của học sinh còn theo chiều hướng tiêu
cực. Nhưng cũng trong dự thảo Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương,
Đảng đã có chuyển biến bước đầu về việc đánh giá khả năng cách mạng của học
sinh. Đối với tiểu tư sản, trí thức, Đảng cho rằng họ cũng bị chủ nghĩa đế quốc áp
bức bóc lột nặng nề nên giai cấp vô sản phải sử dụng họ như những lực lượng dự
trữ của mình cho cuộc cách mạng.
2.2.1.2. Biện pháp, hình thức và các hoạt động tiêu biểu của trí thức
dưới sự vận động của Đảng giai đoạn 1930 - 1935
Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 đến đời sống của các
tầng lớp, giai cấp trong xã hội và sự phân hóa của đội ngũ trí thức:

Cũng như nhiều giai cấp, tầng lớp khác, ĐNTT Việt Nam vốn đã bị phân
hóa nay càng bị phân hóa rõ rệt. Có thể phân chia thành các nhóm trí thức như:
nhóm trí thức có xu hướng cách mạng, nhóm trí thức hợp tác trong chính quyền
thực dân và nhóm trí thức trung lập.
Giai đoạn 1930 - 1935, bên cạnh ĐNTT ở trong nước, nhiều trí thức yêu
nước đang học tập và làm việc ở Pháp bị trục xuất về nước, họ đã tích cực hoạt
động trên nhiều lĩnh vực, góp một nhân tố tích cực cho phong trào cách mạng
phát triển.
Hoạt động của trí thức trong các nhà tù đế quốc:
Nếu như cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã kết thúc vai trò của Việt Nam Quốc
dân Đảng trên vũ đài chính trị thì trường học cộng sản trong nhà tù Côn Đảo đã
mở ra con đường cho những người trí thức chân chính trong hàng ngũ Việt Nam
Quốc dân Đảng. Nếu như năm 1930, trong Báo cáo tóm tắt hội nghị, Đảng mới
chỉ nêu vấn đề: “1. Chúng ta phải tranh thủ lực lượng của Quốc dân Đảng. 2. Tổ
chức đảng viên Quốc dân Đảng vào Hội Phản đế” thì qua cuộc đấu tranh về
chính trị, tư tưởng trong các nhà tù (tiêu biểu là nhà tù Côn Đảo), nhiều trí thức
của Việt Nam Quốc dân Đảng đã gia nhập hàng ngũ cộng sản ngay khi ở trong tù


12

và sau khi ra tù như Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Phương Thảo, Trần Huy Liệu, Tô
Chấn, Tô Hiệu v.v..
Trí thức yêu nước, cách mạng đấu tranh chống những quan điểm sai trái
của các phần tử phản động, vạch trần những hình thức mỵ dân, lừa bịp của
chính quyền thuộc địa
Sau khi thực dân Pháp đàn áp dã man cao trào cách mạng 1930 - 1931,
phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Sài Gòn tạm thời lắng xuống thì
một số trí thức cách mạng tiêu biểu là Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai,
Nguyễn Văn Nguyễn đã lợi dụng khả năng công khai hợp pháp để góp phần khôi

phục phong trào, vận động những trí thức yêu nước, tiêu biểu là Nguyễn An
Ninh hướng dần đến các cuộc đấu tranh do Đảng phát động và lãnh đạo.
2.2.2. Đảng vận động trí thức giai đoạn 1936 - 1939
2.2.2.1. Bước phát triển nhận thức của Đảng về trí thức và vận động trí
thức giai đoạn 1936 - 1939
Trong giai đoạn 1936 - 1939, quan điểm của Đảng về vận động, tập hợp trí
thức đã có sự thay đổi lớn nhằm đoàn kết lực lượng trí thức yêu nước, tiến bộ
vào mặt trận đấu tranh chung, sát cánh cùng giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, các tầng lớp nhân dân lao động đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, dân
sinh. Quan điểm đó được thể hiện rõ ngay tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (tháng 6/1936) và tiếp tục được khẳng định và đề cao tại các Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 3/1937, tháng 9/1937, tháng 3/1938 và
trong tác phẩm Tự chỉ trích của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Những văn kiện
này thể hiện sự chuyển hướng và từng bước hoàn chỉnh nhận thức của Đảng đối
với chính sách mặt trận, trong đó có những điểm tiến bộ trong việc đánh giá vai
trò của trí thức, là cơ sở để các cấp bộ Đảng tiến hành vận động trí thức tham gia
vào các phong trào đấu tranh của nhân dân.
2.2.2.2. Biện pháp, hình thức và các hoạt động tiêu biểu của trí thức
dưới sự vận động của Đảng giai đoạn 1936 - 1939
Trí thức tham gia đấu tranh trong phong trào Đông Dương Đại hội và
cuộc đấu tranh trên mặt trận công khai
Sau Hội nghị cán bộ chủ chốt Ban chỉ huy ở ngoài và Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (7/1936), Đảng chủ trương vận động Nguyễn An Ninh -


13

trí thức yêu nước tiến bộ đứng ra kêu gọi thành lập Ủy ban trù bị, tiến đến triệu
tập Đông Dương Đại hội. Trong phong trào này, Đảng tranh thủ được bộ phận
cấp tiến của Đảng Lập hiến và những nhân sĩ trí thức có tên tuổi cùng họ đấu

tranh buộc chính quyền thuộc địa thực hiện một số quyền tự do dân chủ.
Trí thức tham gia đấu tranh trên mặt trận báo chí công khai của Đảng
Trí thức trong thời kỳ này đã sử dụng báo chí làm phương tiện để tuyên
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
chống lại quan điểm của nhóm Tờrốtkít, đồng thời, cổ động cho cuộc đấu tranh
nghị trường, tổng tuyển cử, đòi tự do báo chí, cải thiện đời sống nhân dân.
Trí thức tham gia đấu tranh trên nghị trường
Được sự chỉ đạo sát sao của Đảng, cuộc đấu tranh nghị trường đã diễn ra sôi
nổi ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Thắng lợi trong đấu tranh nghị trường thể
hiện vai trò quan trọng của những người trí thức yêu nước, tiến bộ trong lĩnh vực
đấu tranh hợp pháp.
Trí thức đóng vai trò quan trọng góp phần nâng cao dân trí, cổ động lòng
yêu nước trong các tầng lớp nhân dân
Tháng 5/1938, Đảng vận động một số trí thức, nhân sĩ như: Phan Thanh,
Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng
Xuân Hãn, Quản Xuân Nam, Lê Thước, Nguyễn Văn Tố, Bùi Kỷ... đứng ra
thành lập Hội truyền bá chữ Quốc ngữ để đấu tranh chống nạn mù chữ. Thông
qua phong trào, Đảng đã vận động được đông đảo đ bộ phận nhân sĩ, trí thức yêu
nước và tiến bộ tham gia
*

*
*

Trong giai đoạn 1930 - 1935, quan điểm của Đảng về vận động, tập hợp
tầng lớp trí thức của Đảng chưa hoàn toàn nhất quán. Qua thực tiễn chỉ đạo
phong trào, Đảng đã từng bước nhận thức và sửa chữa những hạn chế, khuyết
điểm trong tư duy, nhận thức. Xuất phát từ thực tiễn của phong trào đấu tranh,
Thường vụ Trung ương Đảng đã có những điều chỉnh trong nhận thức về quan
điểm đối với trí thức trong Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành

lập Hội “Phản đế đồng minh”, ngày 18/11/1930, Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ
ủy Trung Kỳ về vấn đề thanh Đảng Trung Kỳ, ngày 20/5/1931. Đây chính là


14

bước chuyển biến nhận thức của Đảng, khắc phục hạn chế ở Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (tháng 10/1930) để CTVĐTT có những bước chuyển rõ
nét ở thời kỳ tiếp theo.
Đến giai đoạn 1936 - 1939, Đảng đã có những chuyển biến lớn trong nhận
thức về trí thức và CTVĐTT. Quan điểm phải “thâu phục tiểu tư sản ở thành thị”
và trong khi “tập hợp tất cả các đảng, tất cả các tầng lớp quần chúng để tranh đấu
đòi những yêu sách tối thiểu” thì phải “kéo được những lớp rộng trí thức, tiểu tư
sản, tư sản cấp tiến sang phe bình dân”, Đảng đề ra, áp dụng được các hình thức
vận động, tập hợp trí thức khá phong phú, linh hoạt. Trong giai đoạn này, một bộ
phận nhân sĩ, trí thức tiến bộ đã trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng
do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo.
Chương 3
ĐẢNG VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1945
3.1. ĐẢNG ĐẶT NHIỆM VỤ CHỐNG ĐẾ QUỐC, GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC LÊN HÀNG ĐẦU

3.1.1. Những chuyển biến mới của tình hình Đông Dương tác động đến
đời sống của nhân sĩ, trí thức, các tầng lớp nhân dân
Ngày 1/9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Dưới áp lực của
bối cảnh lịch sử quốc tế, tình hình trong nước, gây ra những tác động, xáo trộn
lớn đến các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của Việt Nam.
Cùng chung cảnh ngộ với toàn dân tộc, đời sống của bộ phận trí thức ngày
càng khó khăn. Mâu thuẫn giữa toàn thể các giai cấp, tầng lớp của dân tộc với đế
quốc Pháp, phát xít Nhật và tay sai của chúng trở nên cực kỳ gay gắt. Độc lập, tự

do đã trở thành mẫu số chung để qui các tầng lớp nhân dân Việt Nam, trở thành
yêu cầu cấp thiết của mỗi người dân Việt Nam.
3.1.2. Đảng “thay đổi chiến lược”, nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc
đáp ứng đúng nguyện vọng của trí thức và các tầng lớp nhân dân
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11/1939) xác định: “chiến
lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với
tình thế mới”, “nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc”, giải


15

phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội
nghị chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
thay. Lực lượng tham gia mặt trận bao gồm tất cả các giai cấp, đảng phái, các
phần tử phản đế muốn giải phóng dân tộc.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11/1940) chỉ rõ: “chính sách
bòn vét của đế quốc Pháp làm cho nhân dân Đông Dương từ giàu đến nghèo đều
cảm thấy sự thiệt thòi vô kể”, “các anh em trí thức học sinh đa số là con nhà địa
chủ, tư bản hoặc tiểu tư sản thành thị, chịu ảnh hưởng thiệt thòi không kém”. Hội
nghị chủ trương tiếp tục duy trì hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế.
Mặt trận thực sự là nơi đoàn kết các giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo nhằm
mục đích “thực hiện việc thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng cùng
tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực
lượng phản động ngoại xâm, diệt trừ phong kiến và các hạng phản bội quyền lợi
dân tộc, làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”.
Hội nghị lần Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5/1941) xác định: “Cần
phải thay đổi chiến lược. Sự thay đổi về kinh tế, chính trị Đông Dương, sự thay
đổi thái độ, lực lượng các giai cấp Đông Dương, buộc Đảng ta phải thay đổi
chính sách cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nguyện vọng chung của toàn
thể nhân dân Đông Dương”. Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập

Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh nhằm thu hút tối đa mọi thành phần giai cấp, tôn
giáo, dân tộc, chỉ trừ bộ phản động vào mặt trận đấu tranh giành độc lập, tự do
cho xứ sở.
Ngày 6/6/1941, Nguyễn Ái Quốc viết thư Kính cáo đồng bào kêu gọi mọi
con Lạc cháu Hồng, “các bậc hiền huynh chí sĩ” cùng nhau đoàn kết đặt quyền
lợi dân tộc cao hơn hết, quyết đánh đổ đế quốc và Việt gian, cứu giống nòi ra
khỏi “nước sôi, lửa nóng”.
Tháng 10/1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ:
chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu
nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng
cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn.


16

Những chủ trương của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã “bắt đúng
mạch” phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, tạo điều kiện và thôi
thúc đội ngũ trí thức cống hiến trí tuệ và tài năng cho công cuộc cứu quốc.
3.2. ĐẢNG VẬN ĐỘNG, TẬP HỢP TRÍ THỨC VÀO MẶT TRẬN DÂN
TỘC THỐNG NHẤT HƯỚNG ĐẾN MỤC TIÊU GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

3.2.1. Hoạt động của trí thức yêu nước
Giai đoạn 1939 - 1945, trí thức, công chức, sinh viên, học sinh, thanh niên
được tập hợp thành các hội, nhóm yêu nước hoạt động hết sức đa dạng, phong
phú dưới nhiều hình thức:
Hoạt động của nhóm sinh viên trí thức trong Tổng hội Sinh viên
Đông Dương.
Hoạt động của tổ chức Hướng đạo sinh Việt Nam.
Hoạt động của nhóm các nhà khoa học đứng tuổi có uy tín danh vọng cao
trong xã hội.

Nhóm các nhà nghiên cứu lịch sử, văn học, ngôn ngữ học thuộc trường
Viễn Đông Bác Cổ.
Hoạt động của nhóm trí thức trẻ có trình độ cao, chủ yếu du học từ Pháp về.
3.2.2. Đảng định hướng và thiết lập mô hình tổ chức để tập hợp trí
thức vào Mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp - Nhật
3.2.2.1. Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943
Tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Đông
Anh, Phúc Yên nay là Hà Nội). Hội nghị đã thông qua Đề cương văn hóa Việt
Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo. Đây là văn kiện quan trọng của
Đảng về văn hoá, văn nghệ, có tính chất mở đường cho quá trình phát triển ngày
càng hoàn thiện và làm sâu sắc hơn các quan điểm, đường lối của Đảng về văn
hoá, văn nghệ.
Đề cương văn hóa Việt Nam khẳng định phải xây dựng nền văn hóa “dân
tộc hóa”, “đại chúng hóa”, “khoa học hóa” và phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa. Đề cương văn hóa Việt Nam là văn kiện chính thức đầu tiên của Đảng
đề cập đến vận mệnh, nhiệm vụ, vai trò của người trí thức trên lĩnh vực văn hóa,
tư tưởng, là cương lĩnh tập hợp trí thức.


17

3.2.2.2. Hoạt động của Hội Văn hoá cứu quốc
Sau khi Đề cương Văn hóa Việt Nam được ban hành, các Hội văn hóa cứu
quốc được tổ chức.
Hoạt động của Hội văn hoá cứu quốc diễn ra tại các đô thị ở Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, như Hà Nội, Hải Phòng...đã góp phần quan trọng vào đấu tranh
chống các luận điệu phản động, thúc đẩy phong trào cứu quốc phát triển trong
các đô thị.
3.2.3. Hoạt động và đóng góp của trí thức vào cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh

3.2.3.1. Hoạt động của các nhóm học sinh, sinh viên và sự ra đời của
Đảng Dân chủ Việt Nam
Sau khi Mặt trận Việt Minh ra đời với cương lĩnh, điều lệ đúng đắn của
mình đã vận động, quy tụ được đông đảo trí thức, thanh niên, học sinh đứng
trong hàng ngũ cách mạng. Các phong trào thanh niên học sinh, Hội đoàn rồng,
đoàn SET... hoạt động ngày càng sôi nổi.
Tháng 6/1944, được sự ủng hộ và giúp đỡ của Mặt trận Việt Minh, Đảng
Dân chủ Việt Nam ra đời hoạt động trong giới sinh viên, trí thức, tiểu tư sản lớp
trên với mục tiêu tôn chỉ là đấu tranh cho độc lập dân tộc, tự do dân chủ, dân sinh
hạnh phúc. Ngay sau khi ra đời, Đảng Dân chủ Việt Nam tự nguyện đứng vào
hàng ngũ Việt Minh.
Trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Đảng Dân chủ Việt
Nam - chính đảng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản, trí thức yêu nước và tiến bộ
Việt Nam đã làm tốt vai trò vận động giải phóng dân tộc đặc biệt trong giới trí
thức, học sinh - sinh viên, công chức và tư sản dân tộc; có vai trò quan trọng
trong Tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội.
3.2.3.2. Hoạt động của trí thức yêu nước và tiến bộ tại Trường Thanh
niên Tiền tuyến
Trường Thanh niên tiền tuyến gắn liền với tên tuổi của những trí thức tiến
bộ. Học viên của trường là những trí thức, thanh niên, học sinh giàu hoài bão và
có khát vọng độc lập, được “Việt Minh hóa” và đóng vai trò quan trọng trong
giành chính quyền ở Huế.


18

3.2.3.3. Hoạt động của trí thức trong tổ chức Thanh niên Tiền Phong
Theo chủ trương của Xứ ủy Nam Kỳ, những trí thức yêu nước và tiến bộ,
do những trí thức cộng sản làm nòng cốt đã thành lập “Thanh niên Tiền Phong”
vào tháng 6/1945 tại Nam Kỳ.

Thanh niên Tiền phong hoạt động dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ và
ngày 22/8/1945 tuyên bố gia nhập Mặt trận Việt Minhh, trở thành hình thức công
khai của Mặt trận Việt Minh.
Thanh niên Tiền phong đóng vai trò to lớn trong Tổng khởi nghĩa tháng
Tám - 1945 tại Nam kỳ và Sài Gòn.
3.2.3.4. Trí thức góp phần quan trọng trong Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, trí thức góp phần cùng
toàn thể nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám - 1945 thắng lợi kịp
thời, nhanh chóng.
Đội ngũ trí thức tham gia thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Trong Uỷ ban dân tộc giải phóng do Đại hội Quốc dân Tân
Trào (Tuyên Quang) bầu ra cũng như trong Chính phủ lâm thời có sự tham gia
của nhiều trí thức tên tuổi.
Với những quan điểm đúng đắn và sự lãnh đạo linh hoạt, chủ động sáng
tạo của các cấp bộ Đảng, bộ phận trí thức Việt Nam đã được tập hợp thành đội
ngũ, được tạo điều kiện để đóng góp trí tuệ, tài năng vào công cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, góp phần đưa đến thắng lợi vĩ đại Cách mạng tháng Tám
năm 1945 và thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
*

*
*

Giai đoạn 1939 - 1945, ở Việt Nam tồn tại nhiều nhóm trí thức. Được sự
vận động của Đảng, đại bộ phận trí thức trong các nhóm trí thức đó đã có sự
chuyển biến trong lập trường tư tưởng chính trị, đều tin Đảng, theo Đảng, đứng
hẳn trong hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh, dưới lá cờ của Đảng làm cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc.
Dưới sự vận động, lãnh đạo trực tiếp của Đảng, trong thời điểm “đêm trước

của cách mạng”, ĐNTT Việt Nam hoặc được “Việt Minh hóa” trong tổ chức


19

Trường Thanh niên Tiền tuyến Huế, hoặc tuyên bố đứng trong hàng ngũ của Mặt
trận Việt Minh trong tổ chức Thanh niên Tiền Phong ở Nam Kỳ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, trí thức trở thành lực
lượng xung kích trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Uỷ ban Giải
phóng dân tộc Việt Nam do Đại hội Quốc dân Tân Trào (Tuyên Quang) bầu có
mặt nhiều trí thức tên tuổi. Cách mạng Tháng Tám thành công, ĐNTT tích cực
tham gia vào Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và kiến
thiến xây dựng, bảo vệ nền độc lập quý báu của dân tộc mà nhân dân ta vừa mới
giành được.
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. NHẬN XÉT

4.1.1. Những thành công trong công tác vận động trí thức của Đảng
thời kỳ 1930 - 1945
Trong quá trình chỉ đạo, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn coi trọng
CTVĐTT, khơi dậy ở trí thức tinh thần yêu nước và tiềm năng cách mạng, giáo
dục lý tưởng cách mạng, tập hợp, đoàn kết họ vào hàng ngũ cách mạng, làm cho
trí thức thực sự là “động lực” quan trọng của cách mạng.
Thứ nhất, quan điểm vận động trí thức của Đảng là một quá trình phát
triển nhận thức trong tư duy và ngày càng phù hợp, đúng đắn hơn.
Từ Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chỉ thị
của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”
(tháng 11/1930), Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ ủy Trung Kỳ về vấn đề thanh
đảng Trung Kỳ (tháng5/1931), Chung quanh vấn đề chiến sách mới (tháng

10/1936).v.v... đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, Nghị quyết
Hội nghị Trung ương tháng 5/1941, Hội nghị Ban thường vụ Trung ương mở
rộng tháng 2/1943, Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) v.v.. là những bước phát
triển về nhận thức, tư duy lãnh đạo của Đảng đối với trí thức. Để đi dần đến cái
chân lí, cái đúng, hoàn thiện dần từng bước quá trình nhận thức của Đảng đối với
trí thức và CTVĐTT, Đảng đã phải vượt lên trên những khuôn mẫu giáo điều,


20

trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài, có lúc rất gay gắt, từng bước vượt qua những
khó khăn về vận dụng lý luận và nhận thức thực tiễn nhằm đề ra chủ trương tập
hợp, vận động trí thức đúng đắn, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể ở một nước thuộc địa.
Thứ hai, Đảng đã đề ra những chủ trương sáng tạo để vận động đội ngũ trí
thức tham gia cách mạng.
Song song với việc đề ra các quan điểm đúng đắn để vận động trí thức vào
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong thời kỳ 1930 - 1945, Đảng còn đề ra
những chủ trương sáng tạo để vận động ĐNTT tham gia cách mạng.
Thứ ba, Đảng đã đề ra các hình thức tổ chức thích hợp để vận động trí
thức một cách có hiệu quả.
Từ các hội khác nhau trong các hình thức mặt trận như: Hội tương tế, Hội
Hướng đạo sinh, Hội Ái hữu, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ, đặc biệt là Hội Văn
hóa cứu quốc v.v.. cho đến Đảng Dân chủ là kết quả của quá trình lâu dài tìm
tòi, khảo nghiệm, nghiên cứu, đúc kết để tìm ra hình thức vận động trí thức phù
hợp vào từng thời điểm để có thể qui tụ, tập hợp được đông đảo nhất những trí
thức có thể vận động được, theo Đảng, làm cách mạng.
Thứ tư, hoạt động của trí thức yêu nước làm phong phú thêm các hình thức
vận động, tổ chức trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nếu như từ năm 1930 đến năm 1939, những trí thức yêu nước, tiến bộ vẫn
còn đang đứng ở “ngã ba đường” trong cuộc đấu tranh tư tưởng, chính trị, tranh

luận về “nghệ thuật vị nghệ thuật”, “nghệ thuật vị nhân sinh” thì đến giai đoạn
1939 - 1945, trước những chuyển biến nhanh chóng của thời cuộc, khi cả dân tộc
đều hướng chung về dòng chảy “giải phóng dân tộc” dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đại bộ phận trí thức đã từ bỏ được lớp vỏ bên ngoài để hòa mình vào đời sống
chính trị chung của nhân dân lao động và dân tộc. Phần lớn trí thức được qui tụ,
đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh. Sau khi Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời,
đông đảo ĐNTT tự nguyện theo Đảng, làm cách mạng trên lĩnh vực văn hóa tư
tưởng với nguyên tắc dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Đây cũng chính
là giai đoạn “chuyển mình” quan trọng trong tư tưởng, chính trị của ĐNTT.
Trong không khí sôi sục của Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đại bộ phận trí
thức được tôi luyện qua các phong trào, đã “Việt Minh hóa”, tự nguyện đứng vào


21

hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh, đóng góp trực tiếp vào thắng lợi của dân tộc
trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
4.1.2. Hạn chế trong công tác vận động trí thức của Đảng thời kỳ
1930 - 1945
Một là, một số cấp bộ Đảng còn chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò, khả
năng của đội ngũ trí thức.
Hai là, Đảng chưa có tổ chức cơ quan làm công tác trí vận.
Ba là, Công tác lựa chọn để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo của Đảng
còn nặng về công - nông, nặng thành phần giai cấp.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM

4.2.1. Đường lối cứu nước đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
thành công của công tác vận động trí thức
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trước hết là thắng lợi
của đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập,

tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đường lối đó phù hợp với nhu cầu,
nguyện vọng của trí thức nói riêng và đại bộ phận các tầng lớp nhân dân
Việt Nam nói chung.
4.2.2. Xây dựng và tập hợp trí thức vào Mặt trận dân tộc thống nhất là
một chủ trương chiến lược và nhiệm vụ to lớn của Đảng
Bên cạnh việc củng cố, tăng cường liên minh công - nông thì đoàn kết, tập
hợp rộng rãi trí thức để hình thành khối liên minh công - nông - trí vững chắc
trong Mặt trận dân tộc thống nhất phải phải luôn được coi là nội dung trọng tâm
của CTVĐTT, là quan điểm xuyên suốt mang tính chiến lược không những trong
thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn trong cả sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay.
4.2.3. Nhận thức đúng vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng
Trí thức Việt Nam có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu
sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp giữ gìn nền độc lập của quốc gia dân tộc, sự thống
nhất của đất nước, luôn trăn trở trước vận mệnh của dân tộc trước những bước
chuyển lớn của thời đại. Đánh giá đúng và đề cao vai trò của ĐNTT là trực tiếp
nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, tạo điều kiện thuận lợi


22

để trí thức thể hiện và phát huy lòng yêu nước, cống hiến trí tuệ và tài năng cho
cách mạng, là sự đầu tư cho phát triển bền vững của đất nước trong tương lai.
4.2.4. Nắm vững đặc điểm của trí thức Việt Nam, phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Kế thừa và phát huy những giá trị mà dân tộc đã đúc kết, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn khơi dậy tinh thần yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, trách
nhiệm, vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và phát triển kinh tế tri thức, tạo điều kiện làm việc thuận lợi, đầu tư cho phát

triển khoa học và công nghệ, có chế độ đãi ngộ các nhà khoa học.
*

*
*

Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc (1930 - 1945), CTVĐTT của Đảng
đạt được những thành công lớn. Tuy nhiên, trong một số thời gian, tại một số địa
phương, còn tồn tại những hạn chế nhất định. CTVĐTT của Đảng từ năm 1930
đến năm 1945 để lại những kinh nghệm quý cho công tác trí vận trong những
giai đoạn sau.
KẾT LUẬN
Vai trò, vị trí của trí thức đối với sự hưng thịnh của quốc gia đã được chiều
dài lịch sử dân tộc khẳng định, do vậy ngay từ khi ra đời, quán triệt những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định trí
thức là một lực lượng có thể sát cánh cùng công nhân, nông dân v.v.. hợp thành
đội quân cách mạng hùng hậu dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bước vào những năm đầu của thế kỷ XX, có thể nói, trí thức Việt Nam chủ
yếu là sản phẩm của nền giáo dục Pháp - Việt, của nền giáo dục Pháp, thậm chí,
có người còn có quốc tịch Pháp. Hơn nữa, phần lớn trí thức Tân học Việt Nam
thời bấy giờ đều xuất thân trong các gia đình đại điền chủ, địa chủ, quan lại v.v..
Sau 72 năm sống dưới ách thống trị của Pháp, họ thấu hiểu thân phận của người
Việt Nam mất nước. Trước thực trạng đó, ngoại trừ những trí thức cộng sản đã
trải qua phong trào vô sản hóa, hiện đang đứng dưới lá cờ của Đảng; và số ít trí
thức gắn chặt quyền lợi chính trị với bộ máy cai trị của Pháp; đại đa số trí thức


23

Tân học còn lại đang phân vân, dao động, mất phương hướng... dù trong họ

truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc vẫn cháy bỏng, họ vẫn xem nó là những
phẩm chất đã kết tinh thành cốt cách.
Đối với trí thức Việt Nam trong thời kỳ 1930 - 1945, bối cảnh lịch sử nhiều
biến động của thế giới và trong nước đã làm cho đội ngũ này phân hóa sâu sắc,
phân chia thành nhiều nhóm với nhận thức và thái độ chính trị khác nhau.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, trước tiềm lực to lớn của trí thức, từ sau
Hội nghị thành lập Đảng (đầu năm 1930), Đảng nhận thấy không có cách nào
khác là phải làm công tác trí vận; vận động, tập hợp trí thức thành đội ngũ, theo
Đảng, làm cách mạng. Do vậy, CTVĐTT trở thành một nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của Đảng lúc bấy giờ. Điều này được thể hiện rõ trong các văn kiện của
Đảng, từ Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng đến Nghị
quyết Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, Nghị quyết Hội nghị Trung ương
tháng 5/1941, Đề cương văn hóa Việt Nam (1943). Song song với việc đề ra chủ
trương, đường lối đúng đắn, Đảng còn đề ra những phương pháp, biện pháp, cách
thức trí vận linh hoạt, sáng tạo trong từng giai đoạn, để vận động trí thức tham
gia cách mạng một cách hiệu quả nhất.
Trong giai đoạn 1930 - 1935, do ảnh hưởng bởi những quan điểm “tả
khuynh” của Quốc tế Cộng sản, nên một bộ phận cán bộ lãnh đạo của Đảng chưa
đánh giá đúng vai trò, vị trí của ĐNTT, từ đó chưa đề ra những chủ trương, biện
pháp, hình thức vận động trí thức một cách hữu hiệu. Tuy nhiên, cũng cần khẳng
định rằng, những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về trí thức, trí vận và nội dung
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng đã tác động lớn,
khích lệ truyền thống yêu nước và tinh thần dân tộc của ĐNTT Việt Nam. Điều
này lý giải tại sao dù bị “bỏ rơi”, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ”, nhưng đại bộ phận
trí thức Việt Nam vẫn tự giác hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh.
Trong giai đoạn 1936 - 1939, khi những “khúc quanh” trong nhận thức về
vai trò, vị trí của ĐNTT phần nào được “khai thông”; công tác trí vận của Đảng
được thực hiện bằng cách vận động trí thức tham gia cùng công nhân, nông dân
và các tầng lớp nhân dân đoàn kết trong các hình thức mặt trận dân tộc thống
nhất để đấu tranh chống nguy cơ của chủ nghĩa phát xít, đòi tự do, cơm áo, hòa

bình. Trong thời gian này, Đảng đã đề ra các biện pháp vận động trí thức một
cách sáng tạo, linh hoạt, vận động được đông đảo trí thức tham gia thảo “bản


×