Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Nguyên tắc dân tộc tự quyết trong luật quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.86 KB, 11 trang )

A.

LỜI NÓI ĐẦU :
Luật quốc tế về quyền con người thừa nhận về mặt pháp lý các giá trị tự
nhiên, xã hội và nhận loại của quyền con người, trong đó, giá trị nhân loại
của quyền con người với tư cách là quyền tập thể chính là độc lập, chủ
quyền, bình đẳng giữa các dân tộc. Nói cách khác, quyền con người cơ
bản là sự gắn kết của quyền cá nhân và quyền tập thể. Chính vì vậy, trong
quan hệ quốc tế hiện nay, tôn trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc có ý
nghĩa là sự tôn trọng các chuẩn mực quốc tế về quyền con người nhằm
mục đích bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc. Đây cũng chính là
cơ sở của hòa bình và an ninh quốc tế, của hợp tác và phát triển trong xu
thế toàn cầu hóa, kkhu vực hóa. Nguyên tắc dân tộc tự quyết của luật quốc
tế về quyền con người thể hiện xu thế của thời đại là phát triển quyền con
người gắn với hòa bình, độc lập dân tộc, an ninh, dân chủ và tiến bộ xã
hội.


B.

NỘI DUNG:
I.
Nguyên tắc dân tộc tự quyết trong luật quốc tế:
1. Sự hình thành và cơ sở pháp lý của nguyên tắc :

- Tôn trọng quyền của các dân tộc được tự do lựa chọn con đường và hình thức
phát triển là một trọng những cơ sở quan trọng để thiết lập các quan hệ quốc tế.
Quyền này được thể hiện một cách tập trung nhất trong nguyên tắc dân tộc tự
quyết, dựa trên nền tảng chủ quyền dân tộc.
- Ra đời trong giai đoạn khi mà quá trình phi thuộc địa hóa đã đạt tới đỉnh điểm,
nguyên tắc dân tộc tự quyết đã thể hiện vai trò của Liên hợp quốc (LHQ) trong


quá trình đấu tranh cho quyền của các dân tộc. Đồng thời, nguyên tắc này đã
hướng tới việc chống chủ nghĩa thực dân, tập trung chú ý vào việc giải phóng
các dân tộc khỏi ách đô hộ.
Tôn trọng quyền dân tộc tự quyết đã trở thành nguyên tắc pháp lý
quốc tế, được ghi nhận trong Hiến chương LHQ và trong nhiều văn bản pháp lý
quốc tế quan trọng khác như:
- Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nưpớc và dân tộc thuộc địa năm
1960;
- Công ước về các quyền dân sự chính trị, quyền kinh tế-xã hội-văn hóa
năm 1966; tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc của LQT.
- Nghị quyết 2625 (XXV) của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày
24/10/1970
2. Nội

dung của nguyên tắc:
"Quyền dân tộc tự quyết" được hiểu là việc một dân tộc hoàn toàn tự
do trong việc tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế
chính trị, đường lối phát triển đất nước.
Khoản 2 điều 1 Hiến chương LHQ ghi nhận "phát triển quan hệ hữu nghị giữa
các dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và dân
tộc tự quyết". Như vậy, khái niệm "dân tộc tự quyết" được nhắc đến trong Hiến
chương LHQ không phải là quyền tự quyết của dân tộc theo nghĩa là sự tập hợp
của các sắc tộc hoặc quyền tự quyết của các dân tộc thiểu số trong từng quốc gia.
Quyền dân tộc tự quyết ở đây chỉ thuộc về nhân dân theo nghĩa là tất cả dân cư
thường xuyên sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định - chủ thể luật
quốc tế.
* Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của LQT đã khẳng định "Việc
thiết lập một nhà nước độc lập có chủ quyền hay tự do gia nhập vào nhà nước



độc lập khác 17 hoặc liên kết với quốc gia đó cũng như việc thiết lập bất cứ chế
độ chính trị nào do nhân dân tự do quyết định là các hình thực thể hiện quyền
dân tộc tự quyết". Nguyên tắc dân tộc tự quyết bao hàm các nội dung sau:
- Được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc
gia liên bang (hoặc đơn nhất) trên cơ sở tự nguyện;
- Tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế xã hội;
- Tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài;
- Quyền các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu tranh
vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ và ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp
đỡ về quân sự;
- Tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống, lịch sử văn hóa,
tín ngưỡng, điều kiện địa lý.
Tất cả các quyền nêu trên của mỗi dân tộc đều được các dân tộc và các quốc gia
khác tôn trọng.
Đặc điểm của nguyên tắc:
Tính mệnh lệnh chung:
Biểu hiện ở chỗ:
o Tất cả các loại chủ thể đều phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc cơ
3.

-

-

o

bản của LQT.
Không một chủ thể hay nhóm chủ thể nào của LQT có quyền hủy bỏ

o


nguyên tắc.
Bất kỳ hành vi đơn phương nào không tuân thủ triệt để nguyên tắc đều

o

bị coi là sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế.
Các quy phạm điều ước và tập quán quốc tế có nội dung trái với các

nguyên tắc đều không có giá trị pháp lý.
Tính bao trùm: là chuẩn mực để xác định tính hợp pháp của toàn bộ hệ
thống các quy phạm pháp lý quốc tế. Đồng thời chúng được thực hiện

-

trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế giữa các quốc gia.
Tính hệ thống: Các nguyên tắc của LQT có mối quan hệ mật thiết với
nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Biểu hiện ở chỗ: việc tôn trọng hay
phá vỡ nguyên tắc này sẽ làm ảnh hưởng đến nội dung và việc tuân thủ

-

nguyên tắc khác.
Tính thừa nhận rộng rãi: được áp dụng trong phạm vi toàn thế giới, đồng
thời chúng được ghi nhận trong hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế quan


trọng như: Hiến Chương LHQ, Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ
bản của LQT, Định ước Hen-xin-ki năm 1975 về an ninh và hợp tác các


-

nước Châu Âu, Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á...
4. Vai trò của nguyên tắc dân tộc tự quyết:
Là thước đo giá trị hợp pháp của mọi nguyên tắc, mọi quy phạm pháp luật
của LQT
Là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp quốc tế
Là công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
LQT.
Nguyên tắc này vừa mang tính xã hội vừa mang tính lịch sử
5. Ngoại lệ của nguyên tắc:
- Nguyên tắc này không thừa nhận bất kỳ ngoại lệ nào
II.
Thực tiến áp dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết trong bối cảnh thế
giới hiện nay.
1. Bối cảnh thế giới hiện nay
Hiện nay, tình hình chính trị thế giới có nhiều thay đổi:
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế gặp khó khăn lớn. Đây không phải bắt nguồn từ học thuyết Mác Lênin mà là từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sai lầm trong việc vận dụng
học thuyết đó. Cục diện chính trị thế giới có nhiều biến động lớn, nhất là từ
cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX.
- Cuộc "chiến tranh lạnh" đã kết thúc nhưng nền hòa bình thế giới lại đứng
trước thách thức lớn. Đó là những cuộc chiến tranh cục bộ, những cuộc xung
đột sắc tộc, tôn giáo, các thế lực khủng bố quốc tế gây ra những cuộc khủng
bố đẫm máu. Đó là những âm mưu và hành động của các thế lực phản động
can thiệp thô bạo đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhiều
nước trên thế giới bất chấp các chế định hành xử của luật pháp quốc tế cũng
như các nguyên tắc của Liên hợp quốc.
- Chủ nghĩa tư bản tiếp tục có sự điều chỉnh để phát triển. Trong tình hình
hiện nay, các nước tư bản sử dụng được ngày càng tốt hơn, nhanh hơn các

thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Đồng thời với quá
trình đó, chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục có những khó khăn do không thể khắc
phục được những mâu thuẫn vốn có trước đây.
- Toàn cầu hoá, sự phụ thuộc lẫn nhau và tự do hoá thương mại. Tiến trình
toàn cầu hoá các quá trình sản xuất và các thị trường cùng với những tiến bộ
trong công nghệ làm cho các nền kinh tế trên thế giới ngày càng phụ thuộc
lẫn nhau. Quá trình tự do hoá thương mại cũng đã có những bước tiến đáng


o
o
o

kể, như đã được phản ánh trong các thoả thuận tham gia WTO và Khu vực
Mậu dịch Tự do ASEAN.
- Các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng như khu vực châu Á - Thái
Bình Dương là những khu vực phát triển năng động của thế giới song đang
tiềm ẩn những biến cố khó lường, những yếu tố gây mất ổn định.
- Thế giới hiện nay đang diễn ra cả hai tình hình tưởng như mâu thuẫn nhau
nhưng nó lại thống nhất trong một chỉnh thể. Đó là đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp diễn ra gay gắt và phức tạp với nhiều hình thức, đồng thời thế
giới cũng đang diễn ra một quá trình hợp tác trong xu thế toàn cầu hóa. Vừa
hợp tác vừa đấu tranh, luôn luôn phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong
xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa là nét chủ đạo của tình hình thế giới hiện
nay.
2. Thực tiến áp dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết trong bối cảnh thế
giới hiện nay.
- Ngày nay, nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết được hiện thực hóa trong
đời sống quốc tế thông qua các quyền dân tộc cơ bản, bao gồm:
quyền được độc lập của dân tộc;

quyền bình đẳng với các dân tộc khác;
quyền được sống trong hòa bình, an ninh, phát triển bền vững...
Các đặc điểm của nguyên tắc này đã tạo căn cứ cho các dân tộc đang đấu
tranh giành độc lập là chủ thể của luật quốc tế thực hiện sự nghiệp bảo vệ quyền
độc lập tự quyết thiêng liêng, bất khả xâm phạm cho dân tộc mình.
Ta có thể kể đến các cuộc chiến tranh, nội chiến, ly khai nổi bật trong
những năm gần đây làm dẫn chứng cho việc thực hiện nguyên tắc quyền tự quyết
trong LQT như:
o Nam Sudan( tên đầy đủ là Cộng hòa Nam Sudan.)
Là một quốc gia ở Đông Phi, không giáp biển nằm trên phần phía nam của
Cộng hòa Sudan trước đây. Thủ đô là thành phố Juba. Đất nước này có biên giới
với Ethiopia ở phía đông; Kenya, Uganda, và Cộng hòa Dân chủ Congo ở phía
nam; và Cộng hòa Trung Phi ở phía tây. phía bắc giáp với Sudan, là nước có dân
cư chủ yếu là người Ả Rập và người Phi theo Hồi giáo. Nam Sudan gồm vùng
đầm lầy Sudd rộng lớn mà nguyên là sông Nin trắng, người dân địa phương gọi
nơi này là Bahr al Jebel.
Tình trạng tự trị của khu vực là một điều kiện của Hiệp ước Hòa bình Toàn
diện giữa Quân đội/Phong trào Giải phóng Nhân dân Sudan (SPLA/M) và Chính
phủ Sudan, đại diện là Đảng Quốc Đại để kết thúc Nội chiến Sudan lần 2. Một
cuộc trưng cầu dân ý về độc lập của Nam Sudan được tổ chức vào tháng 1 năm
2011, với kết quả 98,83% cử tri lựa chọn ly khai. Tổng thống Sudan, Omar al-


Bashir, chấp nhận kết quả và ra một Sắc lệnh Cộng hòa phê chuẩn kết quả của
cuộc trưng cầu dân ý.
Nam Sudan tuyên bố độc lập vào ngày thứ bảy, 9 tháng 7 năm 2011, và hình
thành nên một quốc gia trẻ nhất tại Châu Phi và cả thế giới.
 Xung đột này là cuộc nội chiến kéo dài nhất trong lịch sử tại Châu Phi,
nhờ vào việc cuộc trưng cầu dân ý về độc lập của Nam Sudan (Cuộc trưng
cầu ý dân này là kết quả của hiệp định Naivasha năm 2005 giữa chính

phủ trung ương Khartoum và nhân dân thuộc Quân Giải phóng Sudan.)
dân tộc ở Nam Sudan được quyết định vận mệnh của dân tộc mình, ly khai
hay không ly khai khỏi Sudan.
 Cuộc trưng cầu dân ý này là việc thể hiện rõ nhất nguyên tắc dân tộc tự
quyết được tôn trọng, được các bên ký kết và cộng đồng thế giới công
nhận, đảm bảo vai trò là căn cứ giải quyết tranh chấp quốc tế, là công cụ
pháp lý bảo vệ quyền vầ lợi ích hợp pháp cảu các chủ thể của nguyên tắc.
Tương tự, ta có thể xét đến cuộc ly khai của người dân Đông Timor và
Kosovo, dù có sự giúp đỡ của bên ngoài nhưng việc bảo vệ quyền độc lập tự chủ
của dân tộc này cũng là một minh chứng cho việc thực hiện nguyên tắc trong bối
cảnh thế giới diễn biến phức tạp hiện nay.
o Đông Timor đã tuyên bố độc lập khỏi Bồ Đào Nha ngày 28 tháng 11 năm
1975 và đã bị các lực lượng của Indonesia chiếm đóng trong 9 ngày sau.
Lãnh thổ này đã được hợp nhất vào Indonesia tháng 7 năm 1976 làm thành
tỉnh Đông Timor. Một chiến dịch bình định bất thành trong hai thập kỷ
sau, qua đó ước có từ 100.000-250.000 người thiệt mạng.
Ngày 30 tháng 8 năm 1999, một cuộc trưng cầu dân ý phổ thông do Liên
Hiệp Quốc giám sát và đa số áp đảo dân Đông Timor bỏ phiếu thuận đồng ý độc
lập khỏi Indonesia. Giữa giai đoạn trưng cầu dân ý và thời gian lực lượng gìn giữ
hòa bình quốc tế đến đầy vào cuối tháng 9 năm 1999, các lực lượng quân sự
chống việc Đông Timor độc lập - được Indonesia tổ chức và hỗ trợ, đã bắt đầu
một chiến dịch báo thù sâu rộng. Lực lượng này đã giết chết 1.400 người Timor
và khiến cho 300.000 người Đông Timor. Đa số hạ tầng của quốc gia này như
nhà cửa, các hệ thống thủy lợi, các hệ thống cấp nước, trường học và gần 100%
hệ thống mạng lưới điện đã bị phá hủy.
Ngày 20 tháng 9 năm 1999, các đội quân của lực lượng gìn giữ hòa bình của
Úc thuộc Lực lượng quốc tế cho Đông Timor (INTERFET) đã điều quân vào
nước này và chấm dứt bạo động. Ngày 20 tháng 5 năm 2002, Đông Timor đã
được quốc tế công nhận là một quốc gia độc lập.



o Kosovo tuyên bố độc lập vào ngày 17 tháng 2 năm 2008 và trong vài

ngày sau đó, một số quốc gia có chủ quyền (Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ
Kỳ, Albania, Áo, Croatia, Đức, Ý, Pháp, Anh Quốc, Trung Hoa Dân
Quốc (Đài Loan),] Úc, Ba Lan và các quốc gia khác) công nhận sự độc
lập của Kosovo, bất chấp phản đối của Nga và các thành viên Liên Hiệp
Quốc khác.
Liên minh châu Âu không có quan điểm chính thức về tình trạng của
Kosovo, song quyết định triển khai Phái bộ Pháp quyền đến Kosovo để đảm bảo
sự hiện diện dân sự quốc tế sẽ được tiếp tục tại Kosovo. Đến tháng 4 năm 2008,
hầu hết các quốc gia thành viên của NATO, EU, Liên minh Tây
Âu và OECD công nhận Kosovo là một quốc gia độc lập.
Tính đến ngày 11 tháng hai năm 2014, 108 trên 193 thành viên Liên Hợp
Quốc, 23 trên tổng số 28 thành viên Liên minh châu Âu, 24 trên tổng số 28 thành
viên NATO, 35 trên tổng số 61 thành viên Tổ chức Hợp tác Hồi giáo đã công
nhận Kosovo.
….Bên cạnh việc áp dụng nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết của pháp luật
quốc tế để bảo vệ lợi ích chính đáng hợp pháp của dân tộc thì nhiều thế lực lợi
dụng nó để kêu gọi phát động, gây hấn và tạo ra những cuộc chiến tranh phi
nghĩa lấy cớ vì mục đích cao cả chống khủng bố, bảo vệ độc lập dân tộc, loại trừ
vũ khí sinh học , vũ khí hạt nhân …nhưng thực chất mang tính vụ lợi trong đó,
như cuộc chiến tại Iraq, Afghanistan và Libya…
Như cuộc chiến tại Lybia, theo các nhà phân tích, những cuộc biểu tình của
người dân Libya vô tình đã trở thành công cụ phục vụ cho lợi ích của phương
Tây. NATO can thiệp vào tình hình đất nước Libya dựa trên cái cớ là thực hiện
nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.Từ kinh nghiệm ở Iraq và
Afghanistan, chúng ta có thể thấy sự can thiệp của nước ngoài vào một nước
khác hầu hết có liên quan đến quyền lợi kinh tế và chính trị. Dầu mỏ của Libya
chiếm đến “2/3 nhu cầu của một số nước tham gia chiến dịch áp đặt vùng cấm

bay ở Libya và những nước đó đang tìm cách bảo đảm quyền lợi về dầu mỏ của
họ ở Libya. Tham vọng của các cường quốc lớn là đóng vai trò then chốt trong
việc thay đổi chiều hướng của các cuộc biểu tình ở Libya và rõ ràng, có những
nước lớn đang tìm cách vẽ lại một bản đồ mới cho khu vực Bắc Phi và nam Địa
Trung Hải. Sự kiện ở Libya đã tạo ra một cơ hội lớn cho phương Tây thực hiện
kế hoạch tham vọng của họ. Mục tiêu chính nằm đằng sau chiến dịch can thiệp


quân sự của phương Tây vào Libya là nhằm chia đất nước này thành hai phần:
phía đông và phía tây và đưa đất nước Bắc Phi quay trở lại một thời kỳ lịch sử
tồn tại từ trước thời của Quốc vương Al-Sanousi. Cuộc chiến hiện nay ở Libya
phục vụ nền kinh tế phương Tây bởi các cường quốc lớn một mặt bán vũ khí cho
các lượng Libya một mặt lại đầu tư vào đây .
Trong cuộc chiến tại Libya sự can thiệp của nước ngoài có thể ảnh hưởng
đến việc tạo ra và lan tỏa của các nhóm nổi dậy. Trường hợp của Tuareg là biểu
tượng để hiểu tác hại có thể có của sự can thiệp quân sự nước ngoài. Mặc dù việc
đổi mới của cuộc đấu tranh của Tuareg tự quyết có thể đã được dự báo bởi
HĐBA, khả năng này được đánh giá thấp bởi cộng đồng quốc tế. kinh nghiệm
quá khứ, như Afghanistan hay Iraq, đã không dạy cho cộng đồng quốc tế để
tránh ảnh hưởng mà khoảng trống quyền lực gây ra bởi sự can thiệp có thể có
trên các phong trào nổi dậy. sự tham gia của NATO tại Libya đã không chỉ bị ảnh
hưởng sự hồi sinh và phát triển của phong trào ly khai Tuareg, mà còn là sự bùng
nổ của một cuộc nội chiến ở Mali.
Mặt khác,một điểm bất cập khi các thế lực thù địch lợi dụng nguyên tắc này,
mở ra những cuộc ly khai tự phát thậm chí có thể ly khai lập “Nhà nước riêng”
hay chí ít cũng được quyền “tự trị dân tộc”.
Ví như tại Việt Nam, một số kẻ lại tung hô ủng hộ việc lập “Vương quốc
Mông” sau sự kiện Mường Nhé tháng 5 năm 2011 hoặc tán dương, cổ vũ với
việc lập “Nhà nước Đê Gar độc lập” ở Tây Nguyên, phục hồi “Vương quốc
Cham pa” ở Nam Trung Bộ.v.v… nguyên nhân là sự nhầm lẫn đáng tiếc, sự sai

lầm nghiêm trọng về cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn của một số người thiếu
hiểu biết, thiếu nhận thức hay cố tình làm sai ; sau đó là luận điệu tuyên truyền
xuyên tạc hoặc quan điểm, tư tưởng và hoạt động “ly khai dân tộc”, “tự trị dân
tộc”…của những kẻ phản dân, hại nước trong thời gian qua. Những kẻ này chỉ
đem lại sự mất ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở các vùng
chiến lược; sự xáo trộn trong đời sống kinh tế - xã hội của một bộ phận không
nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số hay cao hơn là cản trở sự phát triển đi lên của
cộng đồng quốc gia.
Tóm lại, việc áp dụng đúng đắn nguyên tắc trong việc xử lý các tranh chấp,
xung đột quốc tế trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp hiện nay
bằng các biện pháp phi vũ trang giúp duy trì hòa bình, ổn định, ngày càng phát
triển của cộng đồng thế giới. Việc tôn trong nguyên tắc này cũng là tiền đề cho


việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản khác của luật quốc tế.Tạo cơ hội cho các
dân tộc được độc lập, tự quyết định vận mệnh cho dân tộc mình, có được sự
công nhận, bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới.
Còn việc lợi dụng nguyên tắc này để sủ dụng chi mục đích riêng thì chỉ tạo ra
căng thẳng, thiệt hại cho người vô tội, diễn biến thế giới càng rối ren hơn, về lâu
về dài thì tất cả các bên đều bị ảnh hưởng một cách tiêu cực không bên nào chiến
thắng một cách tuyệt đối.
3. Nguyên tắc dân tộc tự quyết cho dân tộc Việt Nam:
Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Dân tộc
Việt Nam được quyền tự quyết, trước hết là quyền làm chủ đối với vận
mệnh của dân tộc mình, quyền tự quyết định, lựa chọn chế độ chính trị xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình mà không một dân tộc
nào khác có quyền can thiệp. Thay mặt cho quốc dân, đồng bào, Người
trịnh trọng tuyên bố: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền
tự do và độc lập ấy.

Từ xa xưa, dân tộc ta sớm hình thành ý thức về độc lập, chủ quyền dân
tộc, xem quyền lợi của dân tộc là tiền đề để thực hiện quyền lợi của mỗi cá
nhân, từ đó đặt quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy. Tư tưởng này thấm
đẫm trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đến nay vẫn
còn nguyên vẹn giá trị thời sự. Việc bảo vệ và thực hiện quyền con người
không thể tách rời việc bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Nước Việt Nam là của người Việt Nam. Mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc
gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Trong nhiều năm qua,
chúng ta đã kiên định thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, là
bạn, là đối tác tin cậy và có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế, chung
sống hoà bình, hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới trên cơ sở tôn
trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
C.

KẾT LUẬN:

Hiện nay, xu thế toàn cầu hoá đang mang đến cả thời cơ và thách thức, cả mặt
tích cực và tiêu cực đối với sự tồn vong, phát triển của tất cả các dân tộc. Điều


đó đòi hỏi mỗi dân tộc phải có sự phân tích và đánh giá một cách đúng đắn về
những ảnh hưởng của toàn cầu hoá đối với dân tộc mình, trên cơ sở đó có chính
sách phù hợp nhằm tranh thủ thời cơ, khắc phục hạn chế, biến thách thức thành
thời cơ để phát triển. Trong thế giới hiện đại, các dân tộc đang ngày càng xích lại
gần nhau hơn, có quan hệ hợp tác ngày càng rộng rãi và chặt chẽ hơn; đồng thời,
sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các dân tộc cũng ngày càng lớn hơn. Tuy
nhiên, điều đó không làm mất đi ý nghĩa của nền độc lập, tự chủ của các quốc
gia, dân tộc; trái lại, giá trị của độc lập dân tộc vẫn không thay đổi và cần được
khẳng định hơn bao giờ hết.
Để phát triển, các dân tộc giờ đây phải “mở cửa” và thiết lập quan hệ hợp tác

đa phương, đa diện; biết kết hợp lợi ích của dân tộc mình với lợi ích của các dân
tộc khác và chung hơn cả là lợi ích của toàn nhân loại. Song, cũng cần luôn nhớ
rằng, hội nhập, hoà nhập quốc tế không phải là “hoà tan” để rồi đánh mất chính
mình, và do vậy, tôn trọng nền độc lập của nhau và giữ vững nền độc lập của dân
tộc mình là vấn đề có tính nguyên tắc trong điều kiện hiện nay .
Dù trong lĩnh vực đối nội hay đối ngoại thì một dân tộc có độc lập phải
có quyền dân tộc tự quyết. Đó là quyền tự do quyết định vận mệnh của quốc gia
dân tộc mình trong mọi lĩnh vực, kể cả việc thành lập một nhà nước độc lập hay
liên minh với quốc gia khác trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Tất cả các dân tộc
đều phải có quyền tự quyết, quyền tự do lựa chọn thể chế chính trị; quyết định
đường lối và chiến lược phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của mình. V.I.Lênin
khẳng định rằng: “Quyền dân tộc tự quyết có nghĩa là quyền phân lập về mặt nhà
nước của các dân tộc đó ra khỏi các tập thể dân tộc khác, có nghĩa là sự thành lập
một quốc gia dân tộc độc lập”.
Quyền dân tộc tự quyết là một trong những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc. Nguyên tắc này thừa nhận quyền tự quyết của các quốc
gia, dân tộc; kêu gọi các tầng lớp nhân dân lao động của tất cả các nước đoàn kết
đấu tranh chống lại mọi tệ áp bức, thống trị của dân tộc này đối với dân tộc khác.
V.I.Lênin đã từng phê phán sự thôn tính, xâm lược của một dân tộc này đối với
một dân tộc khác là sự vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết dân tộc, là kiến lập
biên giới của một quốc gia trái với ý muốn của dân cư. Quyền dân tộc tự quyết là
vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với mọi dân tộc. Nếu không có quyền dân tộc tự
quyết thì sẽ không có quyền bình đẳng, tự do cho các dân tộc trên thế giới. Một
dân tộc không có quyền dân tộc tự quyết là một dân tộc bị lệ thuộc, mất tự do,
cho dù dân tộc đó có chính quyền, có quân đội riêng.





×