Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Luận văn thạc sỹ - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp ở thành phố Hải Phòng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.77 KB, 119 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

2. CCKT:

Cơ cấu kinh tế

3. CNH:

Công nghiệp hóa

4. CCN:

Cụm công nghiệp

5. HĐH:

Hiện đại hóa

6. KHCN:

Khoa học công nghệ

7. KHKT:

Khoa học kỹ thuật

8. KCN:



Khu công nghiệp

9. KT-XH: Kinh tế - xã hội
10. LĐXH:

Lao động xã hội

11. LLSX:

Lực lượng sản xuất

12. NXB:

Nhà xuất bản

13. QHSX:

Quan hệ sản xuất

14. SXCN:

Sản xuất công nghiệp

15. SXKD:

Sản xuất kinh doanh

16. TLSX:


Tư liệu sản xuất

17. XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

18. WTO:

Tổ chức Thương mại Thế giới


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT LUẬN VĂN


DANH MỤC BẢNG BIỂU


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cũng như một địa phương đòi hỏi
phải có một CCKT hợp lý, xác định rõ và giải quyết đúng mối quan hệ giữa
các ngành, vùng và các thành phần kinh tế, các yếu tố, lĩnh vực của nền kinh
tế quốc dân. Xây dựng CCKT hợp lý là nội dung cơ bản của CNH, HĐH,
trong đó xây dựng CCKT công nghiệp là rất quan trọng.
Hải Phòng là thành phố Cảng lâu đời, nằm ở vị trí trung tâm vùng duyên

hải Bắc bộ, lá chắn cho Thủ đô Hà Nội, là đầu mối giao thông quan trọng và cửa
ngõ chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, thuận lợi cho giao lưu với các địa
phương trong nước và quốc tế. Những năm qua, Đảng bộ, quân và dân thành
phố luôn phát huy truyền thống cách mạng và năng động sáng tạo trong sự
nghiệp đổi mới, Hải Phòng đã trở thành thành phố CN, đô thị loại I trung tâm
cấp quốc gia, một cực tăng trưởng của vùng kinh tế động lực phía Bắc, một
trọng điểm kinh tế biển - đảo, có vị trí trọng yếu về quốc phòng, an ninh. Hải
Phòng đang chuyển dịch CCKT công nghiệp theo hướng CNH, HĐH.
Nghị quyết số 32 NQ/TW ngày 05/8/2005 cuả Bộ Chính trị về xây dựng
và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ CNH, HĐH đã xác định “Với
vị trí, vai trò của mình, từ nay đến năn 2020, thành phố Hải phòng tập trung
xây dựng và phát triển để Hải Phòng xứng đáng là thành phố Cảng, công
nghiệp, hiện đại; là trung tâm đô thị cấp quốc gia; đầu mối giao thông quan
trọng và cửa ngõ chính ra biển của các tỉnh phía Bắc; một cực tăng trưởng
của vùng kinh tế động lực phía Bắc; một trọng điểm phát triển kinh tế biển,
có cảng nước sâu; một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn
của cả nước và trung tâm dịch vụ, thuỷ sản, giáo dục và y tế của vùng duyên
hải Bắc bộ; một pháo đài bất khả xâm phạm về quốc phòng, an ninh và hệ


2
thống chính trị không ngừng lớn mạnh, đời sống nhân dân ngày càng được
nâng cao.
Phấn đấu Hải Phòng là một trong những địa phương đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp văn minh,
hiện đại trước năm 2020.”
Là thành phố có nhiều tiềm năng cho phát triển CN, song trong thời gian
qua, sự chuyển dịch CCKT công nghiệp của Hải Phòng còn chậm, chưa tương
xứng với tiềm năng, lợi thế, vị trí, vai trò là cực tăng trưởng quan trọng của
vùng kinh tế trọng điểm, chuyển dịch CCKT chậm, chưa vững chắc. Làm thế

nào để chuyển dịch CCKT công nghiệp ở thành phố Hải Phòng với tốc độ
nhanh và chất lượng cao trong quá trình CNH, HĐH thời gian tới. Lời giải
cho vấn đề đặt ra, cần có sự nghiên cứu, phân tích kỹ trên cả 2 mặt lý luận và
thực tiễn. Để góp phần tìm ra những giải pháp cho vấn đề trên, tác giả chọn đề
tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp ở thành phố Hải Phòng trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm luận văn Thạc sĩ Kinh tế,
chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề chuyển dịch CCKT đã có nhiều công trình, đề tài và nhiều tác giả
nghiên cứu ở những khía cạnh và mức độ khác nhau như:
- Ngô Đình Giao (chủ biên), Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH nền
kinh tế quốc dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
- Phạm Khiêm Ích - Nguyễn Đình Phan, CNH, HĐH ở Việt Nam và các
nước khu vực, NXB Thống kê, Hà Nội, 1995.
- Trần Văn Nhưng, Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ, năm 2001.
- Nguyễn Ân, Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp ở thành phố Hồ


3
Chí Minh trong quá trình CNH, HĐH, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, năm 2005.
Nhìn chung các đề tài đã nghiên cứu và công bố, phản ánh nhiều mặt của
chuyển dịch CCKT trong cả nước hoặc một địa phương nhất định. Song, cho
đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề : “Chuyển dịch CCKT
công nghiệp ở thành phố Hải Phòng trong quá trình CNH, HĐH” một cách
có hệ thống, cả về lý luận và thực tiễn vẫn, vì thế đề tài được chọn là vấn đề
mới và cần thiết, nhất là đối với thành phố Hải Phòng
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích của luận văn
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển dịch CCKT công

nghiệp trong quá trình CNH,HĐH.
- Khảo sát thực trạng về chuyển dịch CCKT công nghiệp ở Hải Phòng.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục chuyển dịch
CCKT công nghiệp ở thành phố Hải Phòng trong quá trình CNH, HĐH.
* Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến chuyển dịch CCKT
công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH. Khảo sát kinh nghiệm trong và ngoài
nước về chuyển dịch CCKT công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH, từ đó rút
ra những bài học có thể tham khảo cho thành phố Hải Phòng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch CCKT công nghiệp ở thành
phố Hải Phòng thời gian qua, chỉ ra những mặt được, chưa được và nguyên
nhân làm cơ sở cho việc đề xuất phương hướng và giải pháp thúc đẩy chuyển
dịch CCKT công nghiệp ở Hải Phòng thời gian tới.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục chuyển
dịch CCKT công nghiệp ở thành phố Hải Phòng trong quá trình CNH, HĐH.


4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Dưới góc độ của chuyên ngành kinh tế chính
trị, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển dịch
CCKT công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH. Cụ thể là trong phạm vi
chuyển dịch CCKT trong nội bộ ngành công nghiệp
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: trên địa bàn cụ thể là thành phố Hải Phòng nhưng được
đặt trong bối cảnh chung của quá trình CNH, HĐH nền kinh tế của đất nước.
- Thời gian nghiên cứu khảo sát thực trạng từ 2001- 2007 và lấy giai
đoạn 2008 - 2010 và tầm nhìn đến 2020 để đề xuất phương hướng và các giải
pháp cơ bản tiếp tục chuyển dịch CCKT công nghiệp ở thành phố Hải Phòng
trong quá trình CNH, HĐH.

- Luận văn nghiên cứu cơ cấu kinh tế công nghiệp được hiểu là cơ cấu
trong nội bộ ngành công nghiệp, bao gồm 3 nhóm ngành chính: công nghiệp
khai thác, công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước
(không tính đến nhóm ngành xây dựng).
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
làm phương pháp luận chung, đặc biệt là phương pháp trừu tượng hoá khoa
học. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: lôgíc và lịch
sử, thống kê, phân tích và tổng hợp, định lượng so sánh, mô hình, đồ thị ...
6. Những đóng góp của luận văn
- Làm rõ nội dung chuyển dịch CCKT công nghiệp trong quá trình CNH,
HĐH, những nhân tố tác động đến chuyển dịch và chứng minh sự cần thiết
khách quan phải chuyển dịch CCKT công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH.


5
- Giới thiệu với thành phố Hải Phòng kinh nghiệm của một số quốc gia
và địa phương trong nước về chuyển dịch CCKT công nghiệp trong quá trình
CNH, HĐH.
- Đánh giá khách quan và chân thực về thực trạng chuyển dịch CCKT
công nghiệp ở thành phố Hải Phòng thời gian qua.
- Đưa ra phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục chuyển
dịch CCKT công nghiệp ở thành phố Hải Phòng trong quá trình CNH, HĐH.
7. Tên và kết cấu của luận văn
-

Luận văn có tiêu đề: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp ở

thành phố Hải Phòng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
-


Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham

khảo, Nội dung của luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch CCKT công
nghiệp trong quá trình CNH, HĐH.
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch CCKT công nghiệp ở thành phố
Hải Phòng trong quá trình CNH, HĐH.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục
chuyển dịch CCKT công nghiệp ở thành phố Hải Phòng
trong quá trình CNH, HĐH.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ CÔNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH CNH, HĐH

1.1.1. Quan niệm về cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế công nghiệp
1.1.1.1. Cơ cấu kinh tế
Trong phát triển KT-XH của một quốc gia hay một địa phương vấn đề quan
trọng là phải xác định được một CCKT hợp lý, khoa học. Quá trình phát triển
kinh tế luôn có những nhân tố tác động tạo ra sự chuyển dịch CCKT. Khi nghiên
cứu về kinh tế, nhất là nghiên cứu để hoạch định chính sách phát triển KT-XH
cần làm rõ về lý luận CCKT, chuyển dịch CCKT, từ đó làm rõ sự chuyển dịch
CCKT ngành, chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp.

+ Cơ cấu (structure) được dùng để chỉ về cách tổ chức, cấu tạo, sự điều
chỉnh các yếu tố tạo nên một hình thể, một vật, một bộ phận, sau này khái
niệm cơ cấu được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học, trong đó có
các ngành kinh tế của nền kinh tế quốc gia.
+ Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì CCKT là tổng thể các ngành,
lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
Theo K.Mark: CCKT của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất, quá trình phát triển nhất
định của lực lượng sản xuất vật chất của xã hội.
Như vậy, có thể hiểu: CCKT là tổng thể các mối quan hệ về chất lượng
và số lượng giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế tương ứng với
những điều kiện KT-XH trong một thời kỳ nhất định.


7
Xét về mặt chất, thì CCKT là các quan hệ gắn bó giữa các yếu tố kinh tế
trong một chỉnh thể thống nhất. Về mặt lượng, đó là quan hệ tỷ lệ giữa các
yếu tố cấu thành nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế có ý nghĩa thiết thực trong việc
thúc đẩy nền kinh tế phát triển đa dạng, năng động, phát huy tiềm năng, lợi
thế của vùng, quốc gia về nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực...
Thuật ngữ "cơ cấu kinh tế" vận dụng không chỉ ở góc độ của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân mà còn vận dụng ở phạm vi một địa phương, một ngành,
một lĩnh vực nào đó của KT-XH.
1.1.1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế được nghiên cứu phân tích dưới các góc độ khác nhau như:
cơ cấu ngành kinh tế, CCKT theo vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế, đây
là ba bộ phận cơ bản hợp thành CCKT và có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong
đó cơ cấu ngành kinh tế giữ vị trí chủ yếu trong CCKT của mọi quốc gia.
Một là, Cơ cấu thành phần của nền kinh tế: gắn với chế độ sở hữu về
TLSX, sở hữu về TLSX hình thành nên cơ cấu thành phần kinh tế. Tùy theo

phương thức sản xuất mà có thành phần kinh tế chiếm địa vị chi phối hay chủ
đạo và các thành phần kinh tế khác cùng tồn tại trong nền kinh tế.
Hai là, Cơ cấu các vùng của nền kinh tế: là sự phân chia nền kinh tế
quốc dân theo chuyên môn hóa về chức năng, nhằm để chuyên môn hóa sản
xuất đạt hiệu quả cao về KT-XH.
Ba là, Cơ cấu ngành của nền kinh tế: là tổ hợp các nhóm ngành hợp
thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các nhóm ngành của
nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh trình độ phân công lao động và
trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nền kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế
gồm ba nhóm ngành chủ yếu là:
- Nhóm ngành khai thác tài nguyên (khu vực I): bao gồm nông, lâm, ngư
nghiệp, khai thác quặng mỏ khoáng sản .


8
- Nhóm ngành công nghiệp (khu vực II): bao gồm công nghiệp và xây dựng.
- Nhóm ngành dịch vụ (khu vực III ): bao gồm thương mại, dịch vụ, bưu
chính viễn thông.
1.1.1.3 Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp
- Cơ cấu nội bộ ngành kinh tế : là một cấu trúc bao gồm các phân ngành
trong nội bộ một ngành nhất định và mối quan hệ giữa các phân ngành đó.
Mối quan hệ giữa các phân ngành được thể hiện ở: 1) Tương quan tỷ lệ giữa
các phân ngành trong nội bộ ngành đó; 2) Sự tác động qua lại giữa các phân
ngành tạo nên tính chỉnh thể của CCKT nội bộ ngành. Nói đến CCKT nội bộ
ngành là nói đến CCKT nội bộ ngành công nghiệp - xây dựng hoặc CCKT nội bộ
ngành nông nghiệp hoặc CCKT nội bộ ngành dịch vụ...
Do thời gian và điều kiện nghiên cứu, Luận văn này đi sâu nghiên cứu
CCKT nội bộ ngành công nghiệp hay còn được gọi là CCKT công nghiệp,
trong cơ cấu ngành công nghiệp - xây dựng.
- Cơ cấu kinh tế công nghiệp

Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân, là
ngành sản xuất ra TLSX và tư liệu tiêu dùng; là ngành tạo ra sự phát triển của
lực lượng sản xuất, nhất là sự phát triển của khoa học công nghệ, nâng cao
năng suất lao động góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Công nghiệp được phân chia thành ba nhóm ngành chính là: Công nghiệp
khai thác; Công nghiệp chế biến; Công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước.
- Công nghiệp khai thác: nhằm khai thác những tài nguyên thiên nhiên
để tạo nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến.
- Công nghiệp chế biến: là ngành sử dụng các nguyên vật liệu để sản xuất
ra sản phẩm phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng, trong đó các ngành công
nghiệp sản xuất ra TLSX và các ngành công nghệ cao có vai trò quyết định đối
với việc phát triển công nghiệp của mỗi nước. Công nghiệp chế biến là tiêu
thức quan trọng để đánh giá trình độ phát triển công nghiệp của một quốc gia.


9
- Công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước: là các ngành sản xuất
kết cấu hạ tầng phục vụ cho các ngành, lĩnh vực sản xuất và đời sống xã hội.
Vậy, cơ cấu kinh tế công nghiệp là một cấu trúc bao gồm tổng thể
các phân ngành của sản xuất CN và tương quan tỷ lệ giữa các phân
ngành đó
Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp chính là mối quan hệ tỷ lệ giữa các
nhóm ngành công nghiệp khai thác; công nghiệp chế biến; công nghiệp sản xuất
và phân phối điện nước trong tổng thể ngành công nghiệp được xác định bằng tỷ
trọng của mỗi ngành trong tổng sản phẩm của ngành công nghiệp tạo ra.
Cơ cấu của ngành công nghiệp được hình thành từ sự phát triển của phân
công lao động xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ, từ cuộc cách mạng
KHKT lần thứ nhất đến lần thứ hai và hiện nay là cuộc cách mạng KHKT lần
thứ ba trên thế giới. Cơ cấu ngành công nghiệp luôn thay đổi theo từng thời
kỳ, từng giai đoạn và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố

Nhà nước đề ra mục tiêu lựa chọn quy mô phát triển các ngành công nghiệp
có vai trò hết sức quan trọng, góp phần thúc đẩy việc xây dựng cơ cấu ngành
công nghiệp một cách tối ưu, nhằm thực hiện CNH, HĐH ở mỗi quốc gia.
1.1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế và những yêu cầu
đặt ra về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH, HĐH
1.1.2.1. Những vấn đề cơ bản về CNH, HĐH nền kinh tế
CNH, HĐH là xu hướng đang diễn ra ở các nước đang phát triển, để đạt
trình độ là nước công nghiệp. Trong lịch sử, nước Anh là nước mở đầu CNH
nền kinh tế. Thời điểm tiến hành CNH và thời gian ở các nước cũng không
giống nhau. Ở Anh CNH diễn ra hơn 200 năm. Đối với các nước phát triển
đang đi vào giai đoạn hậu công nghiệp. Thực tiễn lịch sử cho thấy: để khắc
phục những hạn chế, đẩy mạnh phát triển và đi đến thủ tiêu tình trạng lạc hậu
về KT-XH, khai thác tối ưu nguồn lực, lợi thế và bảo đảm nhịp độ tăng


10
trưởng nhanh, ổn định, bền vững thì mỗi quốc gia phải xác định CCKT hợp
lý, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế... Vì vậy, tiến
hành quá trình CNH, HĐH nền kinh tế là một tất yếu khách quan.
Do mỗi các quốc gia có những đặc điểm KT-XH riêng, do đó quá trình
CNH, HĐH có những nét riêng. CNH, HĐH là một quá trình lâu dài, phức
tạp, song CNH, HĐH có một số vấn đề cơ bản là:
- CNH thực chất là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại
cho các ngành kinh tế quốc dân, trước hết tập trung vào các ngành chủ đạo
của nền kinh tế. Trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ phát triển
nhanh, mạnh như hiện nay, việc thực hiện CNH trang bị và trang bị lại công
nghệ cho các ngành kinh tế phải gắn với quá trình HĐH. Quá trình này đồng
thời là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp, cải biến các ngành
kinh tế, các hoạt động theo phong cách công nghiệp hiện đại. CNH, HĐH tác
động mạnh mẽ, làm cho tốc độ phát triển kinh tế nhanh, bền vững; thu hẹp

khoảng cách về trình độ KT-XH giữa các vùng trong một quốc gia và với các
nước phát triển. Hiện đại hóa là mục tiêu phải đạt tới của CNH. Trong điều
kiện nhân lực dồi dào, trình độ quản lý còn hạn chế, nguồn vốn đầu tư có hạn,
muốn phát triển vững chắc thì phải có bước đi thích hợp, ưu tiên HĐH các
ngành, lĩnh vực quan trọng để thúc đẩy phát triển các ngành khác, khẳng định
vị thế quốc tế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế.
- CNH là quá trình diễn ra sâu, rộng và toàn diện trên tất cả các ngành,
lĩnh vực KT-XH của quốc gia, mỗi địa phương. CNH, HĐH vừa là quá trình
kinh tế - kỹ thuật, vừa là quá trình KT-XH. Kết quả của CNH, HĐH sẽ khắc
phục và tiến tới thủ tiêu tình trạng lạc hậu về KT-XH, nâng cao dân trí, mức
sống của dân cư, đưa xã hội đạt trình độ văn minh công nghiệp. Kinh tế - kỹ
thuật và KT-XH là hai quá trình không thể tách rời. Kinh tế - kỹ thuật tạo điều
kiện vật chất và kỹ thuật để thực hiện các nội dung KT-XH và ngược lại KTXH tạo động lực thực hiện quá trình kinh tế - kỹ thuật.


11
- CNH còn là quá trình mở rộng quan hệ quốc tế, nhất là trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng, mở rộng phân công lao động
quốc tế và quốc tế hóa đời sống kinh tế là xu thế phát triển tất yếu khách
quan. Mỗi nước trở thành một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, tác động
và chịu sự ảnh hưởng lẫn nhau.
- Về nguyên tắc thực hiện, CNH phải phát huy nội lực là yếu tố quyết
định, phát huy lợi thế so sánh của đất nước để tham gia tích cực vào quan hệ
kinh tế quốc tế. Song trong bối cảnh quốc tế ngày nay, việc tranh thủ sự trợ
giúp về tài chính, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý... của quốc tế là
yếu tố rất quan trọng để CNH, HĐH. Tuy vậy, đây là yếu tố hỗ trợ, chứ không
phải là yếu tố thay thế, yếu tố quyết định.
- CNH là phương thức có tính phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi
quốc gia. Song nghiên cứu thực tiễn CNH, HĐH ở các nước trên thế giới đều
có những mục tiêu tương đồng. Đó là: Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện

đại, khai thác có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên; tập trung phát triển kinh tế
với tốc độ nhanh, ổn định, cải thiện đời sống của dân cư...
CNH là quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo ra sự chuyển biến đột phá, căn
bản về KT-XH của mỗi quốc gia trên cơ sở khai thác có hiệu quả nguồn lực
và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xây dựng CCKT với
trình độ khoa học - công nghệ ngày càng hiện đại.
1.1.2.2. Những yêu cầu đặt ra về chuyển dịch CCKT trong quá trình
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tốc
độ nhanh, toàn diện, đúng hướng, muốn vậy phải quán triệt các yêu cầu sau:
- Yêu cầu chuyển dịch CCKT trên cơ sở trang bị và trang bị lại công
nghệ hiện đại cho các ngành, lĩnh vực của kinh tế quốc dân, trước hết là các
lĩnh vực trọng yếu; chuyển dịch CCKT trong quá trình CNH, HĐH phải được


12
hiểu là quá trình chuyển dịch CCKT - kỹ thuật gắn với quá trình KT-XH đồng
thời gắn với quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Trong chuyển dịch
CCKT phải hết sức coi trọng nhân tố khoa học và công nghệ, tập trung thực
hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, hóa học và sinh học hóa.
- Chuyển dịch CCKT tạo sự thúc đẩy phân công lao động, trên cơ sở
phát huy lợi thế so sánh giữa các địa phương, các vùng và cả nước. Kết quả
của sự chuyển dịch CCKT làm cho sản xuất hàng hóa phát triển, mở rộng thị
trường vốn, thị trường công nghệ, lao động, tài nguyên, hàng hoá, dịch vụ.
Chuyển dịch CCKT trong quá trình CNH, HĐH đòi hỏi sự chuyển dịch
về số lượng, chất lượng với cơ cấu hợp lý; đòi hỏi phải có cơ cấu nguồn nhân
lực hợp lý, đội ngũ chuyên gia, cán bộ hoạch định chính sách, các nhà doanh
nghiệp, cán bộ KHKT, công nhân lành nghề... Nguồn nhân lực vừa là nội
dung vừa là điều kiện giữ vai trò quyết định đối với quá trình phát triển,
chuyển dịch CCKT cũng như đối với toàn bộ quá trình CNH, HĐH. Giai đoạn

đầu rất cần quy mô nguồn nhân lực, sau đó cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực
đóng vai trò quan trọng trong chuyển dịch CCKT và quá trình CNH, HĐH.
- Chuyển dịch CCKT trong quá trình CNH, HĐH gắn liền với vốn và
công nghệ, đòi hỏi lượng vốn lớn để bảo đảm tính vượt trội, hơn hẳn công
nghệ truyền thống. Trên cơ sở phát huy nội lực để HĐH sản xuất, tiếp thu
công nghệ mới, mở rộng và phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh; đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế, quan hệ kinh tế quốc tế để
thu hút các dòng vốn và công nghệ trên thế giới để đẩy nhanh chuyển dịch
CCKT và quá trình CNH, HĐH.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu,
đang trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề chuyển dịch CCKT
phải được đặc biệt coi trọng trong quá trình CNH, HĐH, coi đây là nhiệm vụ
trọng tâm của thời kỳ quá độ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.


13
1.1.3. Chuyển dịch CCKT trong quá trình CNH, HĐH.
Quá trình CNH là một quá trình toàn diện và đồng bộ, bao trùm tất cả
các ngành, lĩnh vực hoạt động của một quốc gia. Vì nền kinh tế là một hệ
thống thống nhất các ngành, lĩnh vực liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy, quá
trình CNH, HĐH luôn gắn liền với quá trình chuyển dịch CCKT.
Chính vì vậy, chuyển dịch CCKT là quá trình biến đổi cả về số lượng và
chất lượng các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế, gắn liền với đó là sự thay đổi
về mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Xét về bản chất, chuyển dịch CCKT chính
là sự chuyển dịch về số lượng và chất lượng của các bộ phận cấu thành
CCKT, là sự thay đổi của CCKT từ trạng thái này sang trạng thái khác phù
hợp với môi trường phát triển của nền kinh tế.
Chuyển dịch CCKT chính là sự điều chỉnh cơ cấu trên ba mặt: CCKT
ngành, CCKT vùng, cơ cấu thành phần kinh tế hướng sự phát triển nền kinh
tế theo các mục tiêu KT-XH đã được xác định trong từng thời kỳ phát triển

của mỗi quốc gia, địa phương.
Chuyển dịch CCKT phải dựa trên cơ cấu hiện có, cải tạo cơ cấu cũ lạc
hậu, không còn phù hợp, bổ sung, xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện
thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Sự chuyển dịch này theo quy luật
vận động biện chứng, từ sự biến đổi lượng dẫn đến chuyển hóa về chất lượng
của nền kinh tế.
Hiện nay, các nước trên thế giới và nhất là các nước đang phát triển đều
thực hiện việc điều chỉnh CCKT, thông qua việc thu hút đầu tư trực tiếp của
nước ngoài, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghệ vào sản xuất, tăng cường xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và
mở rộng thị trường nhằm chủ động thúc đẩy chuyển dịch CCKT đạt được
mục tiêu đề ra, rút ngắn giai đoạn phát triển để theo kịp các nước công
nghiệp. Chuyển dịch CCKT của nước ta hiện nay được thực hiện theo định


14
hướng giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng của
ngành công nghiệp và dịch vụ trong tổng giá trị sản phẩm quốc dân.
Quy luật lượng đổi dẫn đến chất đổi được thể hiện khá rõ nét trong quá
trình chuyển dịch CCKT. Việc chuyển dịch CCKT trước hết được bắt đầu từ
sự thay đổi về lượng bên trong của các bộ phận cấu thành CCKT. Sự thay đổi
về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Bản thân CCKT cũng không ở trạng
thái tĩnh mà luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, chuyển hóa lẫn nhau:
cơ cấu cũ dần dần chuyển sang cơ cấu mới và rồi sau một thời gian nhất định
cơ cấu mới lại được thay bằng cơ cấu khác hoàn thiện hơn và ở trình độ cao
hơn. Chuyển dịch CCKT trong quá trình CNH tất yếu dẫn đến thay đổi vị trí
của các ngành trong CCKT. Cơ cấu nền kinh tế của mỗi quốc gia cấu thành
theo 3 ngành tổng hợp gồm: Nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ.
Chuyển dịch CCKT ở các nước đang phát triển diễn ra theo xu hướng sau:
- Giai đoạn đầu nông nghiệp giữ vị trí hàng đầu, là hoạt động kinh tế cơ

bản, tạo ra hàng hóa tiêu dùng thiết yếu và bảo đảm điều kiện cho phát triển
công nghiệp. Khi đạt tới trình độ phát triển nhất định, nhu cầu cơ bản của dân
cư về lương thực, thực phẩm được bảo đảm thì vị trí ngành nông nghiệp, tỷ
trọng lao động và giá trị sản lượng nông nghiệp trong tổng giá trị sẽ giảm dần.
- Công nghiệp là ngành quan trọng nhưng ở giai đoạn đầu của CNH, chủ
yếu công nghiệp nhỏ bé, sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu. Trong quá trình
CNH, công nghiệp được ưu tiên phát triển, dần dần chiếm lĩnh vị trí hàng đầu
trong CCKT quốc dân.
- Các hoạt động dịch vụ sản xuất và dịch vụ đời sống là điều kiện để phát
triển các ngành kinh tế và cải thiện đời sống của dân cư. CNH cần tập trung
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng để phát triển sản xuất và thu hút đầu tư.
Sự chuyển dịch CCKT của mỗi quốc gia trong quá trình CNH trải qua các
giai đoạn: Từ cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ chuyển sang cơ cấu công nông nghiệp - dịch vụ; tiến tới cơ cấu dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp.


15
1.2. CHUYỂN DỊCH CCKT CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CNH

1.2.1. Quan niệm về chuyển dịch CCKT công nghiệp trong quá trình
CNH, HĐH.
Chuyển dịch CCKT công nghiệp: là sự thay đổi về số lượng, sự thay đổi
về quan hệ tỷ lệ giữa các phân ngành sản xuất trong ngành công nghiệp, thay
đổi cơ cấu ngành công nghiệp từ chỗ chưa phù hợp sang một cơ cấu ngành
công nghiệp tiên tiến, hiện đại, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế của đất
nước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp chính là tăng tỷ trọng ngành
sản xuất có thiết bị và công nghệ hiện đại, ứng dụng nhiều thành tựu KHKT
vào sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm dần những ngành sản xuất sử
dụng nhiều lao động, công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp đạt hiệu quả, đòi hỏi nhà
nước phải xác định xu hướng vận động, định hướng sự chuyển dịch, có bước

đi, giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp phù hợp. Chuyển dịch cơ
cấu ngành công nghiệp là nội dung cơ bản, quan trọng hàng đầu, là vấn đề có
tính chiến lược trong quá trình CNH, HĐH của mỗi nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp theo hướng CNH, HĐH chính
là khai thác thế mạnh của từng ngành sản xuất trong nội bộ ngành công
nghiệp, ưu tiên phát triển các ngành trọng điểm, sản xuất các sản phẩm mũi
nhọn, đồng thời kết hợp tối ưu quy mô sản xuất với kỹ thuật công nghệ và
chuyên môn hóa hợp lý trong từng ngành sản xuất, làm tăng nhanh tỷ trọng
giá trị của công nghiệp, ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến bằng cách
ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại với sự phát triển cơ khí
hóa, tự động hóa, hóa học hóa vào SXCN. Ngoài ra phải kết hợp sử dụng
công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại, đi tắt đón đầu, phát triển theo
chiều sâu, tạo ra những ngành công nghiệp mũi nhọn theo kịp trình độ
KHCN tiên tiến thế giới.


16
1.2.2. Nội dung chuyển dịch CCKT công nghiệp trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chuyển dịch CCKT công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH là một
quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ, toàn diện... tập
trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, Phải tập trung chuyển nền công nghiệp mang tính thủ công, nửa
cơ khí sang nền công nghiệp hiện đại, gắn với điện tử, tin học, số hóa
Đây là nội dung rất quan trọng đối với tất cả các nước tiến hành CNH,
HĐH, vì nền kinh tế của các nước khi bước vào CNH, HĐH kém phát triển,
tỷ lệ GDP công nghiệp trong CCKT rất thấp. Cơ sở vật chất của nền kinh tế
nói chung và cơ sở vật chất cho công nghiệp nói riêng kém phát triển, phương
thức sản xuất công nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ, có tính chất khép kín, tư
liệu sản xuất, trình độ sản xuất thấp, sản phẩm không có khả năng cạnh tranh

nên giá trị sản xuất công nghiệp thấp.
Vì vậy, chuyển dịch CCKT công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH phải
phát huy nội lực, đồng thời triệt để tận dụng thời cơ, phát huy cao nhất thành
quả của cách mạng khoa học kỹ thuật, nhất là thành quả của công nghệ thông
tin. Trong thời đại ngày nay, cách mạng khoa học kỹ thuật và thông tin bùng
nổ, phải biết tranh thủ kinh nghiệm, tiếp thu thành quả của khoa học - công
nghệ của các nước phát triển, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện
đại với sự phát triển của cơ khí hóa, tự động hóa, hóa học hóa, số hóa... để đi
tắt, đón đầu, phát triển theo chiều sâu, tập trung phát triển các ngành công
nghiệp mũi nhọn tạo ra sản phẩm có lợi thế so sánh, chất lượng đạt trình độ
khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới, tức là thực hiện chuyển dịch CCKT
công nghiệp bảo đảm chuyển nền công nghiệp từ chỗ còn mang nặng tính thủ
công, nửa cơ khí sang nền công nghiệp hiện đại, cơ khí hóa, tự động hóa gắn
với điện tử hóa, tin học hóa, số hóa để đạt mục tiêu CNH, HĐH.


17
Hai là, Chuyển nền công nghiệp sử dụng nhiều lao động sống sang nền
công nghiệp có hàm lượng khoa học và công nghệ cao
Lực lượng lao động là một nguồn lực quan trọng đối với phát triển
KTXH và phát triển công nghiệp, ở các nước đang phát triển, đây là một lợi
thế lớn vì cơ sở vật chất kỹ thuật của công nghiệp lạc hậu do đó phải sử dụng
lao động sống là chủ yếu, nhất là đối với công nghiệp khai thác và công
nghiệp chế biến. Ví dụ như ngành công nghiệp khai thác than trước đây chủ
yếu là sử dụng sức lao động của công nhân, hiện nay công nghiệp dệt may, da
giày... chủ yếu sử dụng lao động sống, lao động trực tiếp, giản đơn, hàm
lượng khoa học công nghệ kết tinh trong sản phẩm ít, giá trị sản xuất công
nghiệp thấp, đặc biệt là đối với một số ngành công nghiệp làm gia công cho
nước ngoài, thu nhập của người lao động thấp, không bảo đảm cuộc sống là
một trong những nguyên nhân dẫn đến ngừng việc tập thể, đình công... Vì

vậy, một trong những nội dung quan trọng của chuyển dịch CCKT công
nghiệp là phải trên cơ sở các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, đầu
tư cơ sở vật chất hiện đại cho ngành công nghiệp, ứng dụng thành tựu khoa
học công nghệ vào sản xuất công nghiệp, đi đôi với đào tạo, sử dụng nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH. Phải chuyển đổi
công nghiệp theo hướng: giai đoạn đầu chủ yếu sử dụng lao động sống, lao
động giản đơn, năng xuất thấp sang nền CN có hàm lượng khoa học công
nghệ cao, sản xuất ra các sản phẩm CN có giá trị, kết tinh hàm lượng chất
xám cao, giải phóng sức lao động, tạo ra bước chuyển quan trọng sang nền
CN hiện đại, văn minh.
Ba là, Chuyển dịch nền công nghiệp mang nặng tính lắp ráp sang nền
công nghiệp chế tạo các sản phẩm có giá trị cao.
Kinh nghiệm của một số nước đã thực hiện CNH, HĐH và thực tế của
Việt Nam những năm đầu của thời kỳ đổi mới cho thấy: Giai đoạn đầu của


18
quá trình CNH, HĐH chuyển dịch nền kinh tế tập trung vào các ngành công
nghiệp nhẹ đầu tư ít vốn, trình độ kỹ thuật trung bình, sử dụng nhiều lao
động, tận dụng lợi thế so sánh về lao động giá rẻ để sản xuất những mặt hàng
cạnh tranh trên thị trường bằng giá rẻ, tính chất sản xuất chủ yếu mang tính
gia công lắp ráp (ví dụ như ở Hải Phòng công nghiệp dệt may, da giày, kể cả
lĩnh vực đóng tàu) sử dụng nhiều nguyên liệu gây ô nhiễm môi trường, tỷ lệ
nội địa hóa thấp, chủng loại hàng hóa đơn điệu, giá trị gia tăng của sản phẩm
còn thấp, sản xuất công nghiệp với quy mô nhỏ, năng lực, trình độ kỹ thuật
sản xuất thấp, khả năng cạnh tranh của sản phẩm yếu; mới đạt được mục tiêu
giải quyết việc làm cho người lao động
Vì vậy, phải đầu tư phát triển tạo bước đột phá nhanh chóng theo hướng
nâng cao trình độ công nghệ, chế tác, phát triển các ngành công nghiệp công
nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin viễn thông điện tử, tự động hóa, chú

trọng phát triển công nghiệp phần mền, tin học, có tốc độ tăng trưởng vượt
trội; phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế
xuất, hình thành các khu kinh tế, khắc phục tình trạng nền công nghiệp chủ
yếu là sản xuất nhỏ và vừa, chất lượng sản phẩm và giá trị sản phẩm thấp.
Qua trình CNH, HĐH phải đi vào công nghiệp hiện đại, đầu tư hiện đại hóa
cơ sở vật chất của ngành công nghiệp, chuyển công nghiệp từ gia công cho
nước ngoài sang sản xuất, chế biến từ nguyên liệu trong nước. Phát triển các
ngành có yêu cầu công nghệ cao, khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng và sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản của đất nước, chấm
dứt tình trạng khai thác với hệ số hữu ích thấp, sản xuất, xuất khẩu khoáng
sản dạng thô. Cần tập trung phát triển các ngành điện, hóa dầu, các ngành chế
tạo máy, điện tử, công nghệ thông tin ( sản xuất phần mền ) công nghệ sinh
học và tự động hóa, đẩy mạnh xuất khẩu; tin học hóa các ngành công
nghiệp... sản xuất ra các sản phẩm có giá trị cao.


19
Đây là giai đoạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm đạt được mục tiêu,
tạo tiền đề cho nền kinh tế cất cánh và đẩy mạnh CNH, HĐH để đến năm
2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Bốn là, Chuyển dịch các ngành công nghiệp sử dụng nhiều tài nguyên
thiên nhiên và gây ô nhiễm môi trường sang nền công nghiệp sử dụng các vật
liệu nhẹ và thân thiện với môi trường
Thực tế quá trình CNH, HĐH ở các nước trên thế giới và những năm đầu
của thời kỳ CNH ở Việt Nam cho thấy: Khi công nghiệp phát triển tất yếu dẫn
đến tiêu hao nhanh nguồn tài nguyên thiên nhiên, lãng phí tài nguyên thiên
nhiên, trong khi đó nguồn tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận, nhiều
nguồn tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo, sản xuất công nghiệp tiềm ẩn
hiểm họa ô nhiễm môi trường sinh thái (rác thải, khí thải, nước thải...). Vấn
đề này đang diễn ra rất phức tạp, là thách thức to lớn đối với quá trình phát

triển công nghiệp nói riêng và phát triển bền vững của một đất nước nói
chung và của toàn cầu. Ở các thành phố lớn của Việt Nam và Hải Phòng đang
phải gánh chịu và đang phải khắc phục hậu quả rất lớn về ô nhiễm môi trường
do quy hoạch phát triển công nghiệp không đồng bộ, những năm đầu của quá
trình CNH, thu hút đầu tư đã không quan tâm thỏa đáng đến vấn đề môi
trường.
Vì vậy, chuyển dịch CCKT công nghiệp phải là quá trình chuyển nền
công nghiệp từ chỗ công nghiệp sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và gây
ô nhiễm môi trường sang nền công nghiệp sử dụng các vật liệu nhẹ và thân
thiện với môi trường, phát triển mạnh các ngành sản xuất có trình độ tinh xảo,
chính xác, phát triển các sản phẩm chứa hàm lượng chất xám cao, công nghệ
cao, giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế cao. Công tác bảo vệ môi trường phải
được quan tâm đồng bộ, nghiêm ngặt ngay từ khi quy hoạch, xét duyệt chủ
trương đầu tư, duyệt dự án đầu tư, thực hiện dự án đầu tư phát triển công


20
nghiệp và kiểm tra, kiểm soát quá trình sản xuất công nghiệp.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH
Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp chịu sự tác động của nhiều nhân
tố, có những nhân tố tích cực thúc đẩy phát triển, có những nhân tố làm kìm
hãm phát triển. Có hai nhóm nhân tố sau:
1.2.3.1. Nhóm nhân tố tác động từ bên trong của nền kinh tế
a) Nhân tố thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Thị trường là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, nơi mà nhà
kinh doanh và người tiêu dùng gặp nhau nhằm xác định ba vấn đề chính là:
sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu, sản xuất như thế nào và sản xuất hàng hóa
bán cho ai?. Căn cứ vào nhu cầu tiêu dùng của xã hội, các doanh nghiệp lập
kế hoạch sản xuất hàng hóa phù hợp, đáp ứng nhu cầu của xã hội, thị trường

là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế, sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu
ngành công nghiệp của một nước, địa phương ở các khía cạnh sau:
- Tạo ra quá trình mở rộng và khai thác những tiềm năng phát triển của
ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
- Thúc đẩy phân công LĐXH, đa dạng hóa ngành nghề, khuyến khích mở
rộng đầu tư trong và ngoài nước tạo ra tăng trưởng nhanh ngành công nghiệp.
- Sự cạnh tranh và nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao trên thị trường kích
thích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ ở trong ngành
công nghiệp và trong nội bộ từng ngành công nghiệp.
- Kích thích lợi ích kinh tế và tạo ra động lực mới phát triển ngành công
nghiệp và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường hiện có một số loại thị trường: thị trường
hàng hóa dịch vụ, khoa học - công nghệ, thông tin, vốn, bất động sản, lao
động và thị trường chứng khoán. Nhà nước quản lý thị trường bằng các công


21
cụ quản lý gián tiếp, đó là thể chế, chính sách kinh tế tạo điều kiện để thị
trường hoạt động, tác động các doanh nghiệp chuyển dịch cơ cấu theo hướng
sản xuất ra hàng hóa phù hợp với nhu cầu của xã hội. Vì vậy, thị trường tác
động đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Khi nhu cầu tiêu dùng
tăng làm cho SXCN phát triển, đáp ứng sản phẩm tiêu dùng xã hội; thu nhập
bình quân đầu người tăng, kéo theo sự dịch chuyển lao động từ nông thôn vào
thành thị, cơ cấu SXCN tăng lên, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu trong ngành
CN nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng cao và đa dạng.
b) Nhân tố các nguồn lực.
Nguồn lực của một quốc gia, địa phương có vai trò quan trọng hình
thành và tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Nguồn lực tác động
đến chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp gồm:
- Vị trí địa lý của một quốc gia, địa phương góp phần hình thành và

chuyển dịch CCKT. Những nước và địa phương có biển, thuận lợi về đường
biển, đường hàng không, nhất là nằm trong một khu vực phát triển năng động
về kinh tế cho phép phát triển mạnh ngành công nghiệp khai thác các nguồn lợi
tự nhiên trong đại dương, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp đánh bắt và chế
biến thủy hải sản... Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn về biển, lại nằm
trong khu vực ASEAN với nền kinh tế phát triển năng động, tạo điều kiện cho
Việt Nam đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH. Đây là yếu tố quan trọng tác động
mạnh đến quá trình chuyển dịch CCKT và cơ cấu ngành công nghiệp.
- Tài nguyên thiên nhiên: là một trong các nguồn lực cơ bản của quá
trình sản xuất, là điều kiện cần thiết cho sản xuất công nghiệp, một quốc gia
có nguồn tài nguyên phong phú, nếu khai thác và sử dụng có hiệu quả sẽ cho
phép phát triển các ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản để
thỏa mãn nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tuy vậy, tài nguyên thiên nhiên
không phải là vô tận, phải sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên,


22
tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
- Dân số, sức lao động là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế và
công nghiệp. Dân số và tốc độ tăng dân số của một nước có ảnh hưởng đến
quá trình tăng trưởng kinh tế cũng như chuyển dịch CCKT của một nước. Nếu
tốc độ tăng dân số quá cao, không phù hợp, sẽ làm kinh tế chậm lại. Chất
lượng nhân lực là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ
thuật cao. Quy mô dân số và thu nhập của dân cư tăng sẽ tạo ra một thị trường
tiêu thụ rộng lớn, đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp chế biến,
sản xuất hàng tiêu dùng cho xã hội, làm tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp.
- Vốn đầu tư là nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, Nhà nước
sử dụng vốn ngân sách và huy động vốn xã hội, trong nước và ngoài nước đầu
tư phát triển sản xuất, tạo sự chuyển dịch CCKT, nhất là chuyển dịch cơ cấu
ngành công nghiệp; mua sắm máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ

làm tăng trưởng kinh tế. Việt Nam đang tiến hành CNH, HĐH cần một khối
lượng vốn lớn, cần huy động từ trong nước và nước ngoài. Vốn trong nước có
tính quyết định để đầu tư vào sản xuất, thúc đẩy nhanh, bền vững quá trình
chuyển dịch CCKT và cơ cấu ngành công nghiệp. Nguồn vốn nước ngoài
gồm: vốn viện trợ phát triển chính thức ODA, vốn FDI, vốn viện trợ của các
tổ chức phi chính phủ, vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài. Các nguồn vốn
này bù đắp những thiếu hụt của vốn trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
qua đó có thể tiếp nhận chuyển giao công nghệ, mô hình quản lý tiên tiến, tiếp
cận thị trường tiêu thụ, thực hiện chuyển dịch CCKT và hội nhập kinh tế quốc
tế. Nhà nước phải có chiến lược đầu tư hợp lý, phân bổ và sử dụng vốn có
hiệu quả để nền kinh tế phát triển và chuyển dịch CCKT đúng hướng.
- Nhân tố tiềm năng khoa học kỹ thuật công nghệ
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ đang phát
triển như vũ bão trên thế giới, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch CCKT của


×