Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tạo hứng thú cho HS trong giờ học ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.32 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Ngữ văn là môn học có vai trò vô cùng quan trọng trong chương trình THCS
và có tác động rất lớn đối với việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh.
Trong guồng quay hối hả của cuộc sống hiện đại như ngày nay, môn Ngữ văn
không chỉ có tác dụng bồi đắp tâm hồn các em, hướng các em tới những giá trị
Chân – Thiện – Mỹ của cuộc sống mà còn khơi gợi ở các em lòng yêu nước, thái
độ trân trọng truyền thống và ngôn ngữ dân tộc. Thế nhưng, hiện nay có một bộ
phận học sinh không nhỏ có xu hướng tìm đến Ngoại ngữ, Tin học và các môn
khoa học tự nhiên như là một sự bảo đảm cho tương lai và loại bỏ môn Ngữ văn ra
khỏi hành trang tri thức khi bước vào đời.
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân dẫn đến, một trong những nguyên
nhân đó là phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp, chưa khơi gợi được
mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học. Như vậy, với vai trò là người
đưa đò trên dòng sông tri thức, cùng với việc thực hiện một cách đồng bộ đổi mới
nội dung, chương trình, sách giáo khoa, chúng ta phải không ngừng đổi mới
phương pháp giảng dạy để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
và phải xem đây là một nhiệm vụ vừa bức thiết lại vừa trọng tâm, xuyên suốt cả
quá trình đổi mới.
Có nhiều phương pháp dạy học tích cực được đưa ra trong những năm gần
đây và đã được bạn bè, đồng nghiệp sử dụng thường xuyên. Riêng đối với bản thân
tôi, bên cạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng bản đồ tư duy trong
giảng dạy, tôi thường tổ chức cho các em thảo luận nhóm va chơi trò chơi. Qua
thực tiễn, tôi nhận thấy phương pháp dạy học này đã thật sự đem lại “luồng sinh
khí mới” cho học sinh, bước đầu đã giảm bớt được tâm lý chán học Ngữ văn, khơi
gợi trong học sinh tình yêu đối với môn học, đồng thời đem đến cho các em cái
nhìn mới, cách tư duy mới, sự hưng phấn, lôi cuốn đối với môn học này.
Tuy nhiên, việc tổ chức thảo luận nhóm và trò chơi là vấn đề còn khó
khăn, lúng túng đối với nhiều giáo viên. Nhiều đồng nghiệp tỏ ra băn khoăn không
biết nên cho các em thảo luận nhóm trong thời gian bao lâu, chia lớp thành mấy
nhóm, thiết kế trò chơi như thế nào…
Từ những lí do trên, trong điều kiện và giới hạn nghiên cứu, tôi chọn đề tài


“Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Ngữ văn bằng tổ chức thảo luận
nhóm và trò chơi” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình để trao đổi, chia sẻ
kinh nghiệm với bạn bè, đồng nghiệp.
1


NỘI DUNG
I. Thực trạng vấn đề tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Ngữ văn bằng
phương pháp thảo luận nhóm và trò chơi
1. Về phía giáo viên
Khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm và tổ chức trò chơi trong giờ Ngữ
văn, hầu hết giáo viên còn lúng túng ở một số thao tác sau:
Thao tác lựa chọn vấn đề thảo luận và hình thức trò chơi: việc lựa chọn vấn đề
thảo luận chưa mang tính chất tranh luận, hấp dẫn; hình thức trò chơi chưa sinh
động, phong phú, trò chơi lặp đi lặp lại nên chưa tạo được hứng thú cho học sinh.
Một số giáo viên lạm dụng khi sử dụng trò chơi, tổ chức quá nhiều trò chơi trong
một tiết học dẫn đến học sinh mệt mỏi vì phải chơi nhiều.
Thao tác chia nhóm, chia đội chơi: có trường hợp chia nhóm, chia đội chơi quá
lớn hoặc quá nhỏ, không phù hợp với vấn đề cần thảo luận và trò chơi cũng như
đặc điểm của lớp học. Việc chia nhóm, chia đội chơi còn đơn điệu, chủ yếu chia
theo bàn, theo dãy (2 bàn/nhóm, 1 dãy/đội chơi). Khi chia nhóm, chia đội chơi lớp
học dễ rối loạn hoặc mất trật, bị lãng phí nhiều thời gian.
Thao tác chọn nhóm trưởng: nhóm trưởng không do nhóm tự bầu hoặc luân
chuyển giữa các thành viên trong nhóm mà do giáo viên chọn một học sinh khá
trong nhóm chuyên trách. Điều này khiến cho các học sinh khác trong nhóm mất đi
cơ hội thể hiện mình cũng như cơ hội rèn luyện năng lực trình bày vấn đề trước
nhóm và tập thể lớp.
Thao tác quan sát, hỗ trợ học sinh khi thảo luận: thông thường, các lớp đều có
số lượng học sinh khá đông (trên 40 em). Một số giáo viên khi giao nhiệm vụ xong
thường ngồi tai chỗ nên không quan sát, bao quát hết được học sinh trong lớp làm

gì trong thời gian thảo luận, dẫn tới tình trạng có học sinh làm việc riêng, nói
chuyện trong thời gian này. Giáo viên cũng không nắm bắt được những khó khăn,
lúng túng của học sinh trong quá trình thảo luân để có sự gợi ý, hỗ trợ kịp thời.
Thao tác phổ biến cách chơi, luật chơi: một số giáo viên, khi tổ chức trò chơi
chưa quy định rõ về cách chơi, luật chơi khiến các em lúng túng trong quá trình
tham gia, làm mất sự hứng thú và thời gian tiết học.
Thao tác tổng kết: sau khi viết phương án trả lời ra bảng hoặc ra giấy, nhóm
trưởng thay mặt nhóm đọc kết quả thảo luận trước lớp hoặc viết lên bảng. Giáo
viên gọi học sinh khác nhận xét, bổ sung và kết luận. Thao tác này được lặp đi lặp
lại khá đơn điệu, nhàm chán.
2


Thời gian học tập trên lớp bị bó hẹp ở tiết học (45 phút/ tiết) nên khi sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm hay tổ chức trò chơi, giáo viên rất dễ bị “cháy” giáo
án.
Không gian lớp chật hẹp, gây khó khăn cho việc tổ chức một số trò chơi đòi
hỏi phải có sự vận động.
Một số giáo viên chưa có sự chuẩn bị, đầu tư khi tổ chức thảo luận nhóm và tổ
chức trò chơi nên chưa đạt hiệu quả mong muốn.
2. Về phía học sinh
Trong thời gian thảo luận, chỉ có số ít học sinh làm việc thật sự (nhóm trưởng
và học sinh khá, giỏi trong nhóm), còn lại các em thường ngồi chơi, nói chuyện,
làm việc riêng. Một số học sinh không ý thức được sự cần thiết phải hợp tác để
chiếm lĩnh tri thức nên nhiều khi các em biến hoạt động thảo luận thành cơ hội để
tán gẫu, lãng phí thời gian, gây ồn ào, ảnh hưởng tới lớp khác.
Câu trả lời của học sinh thường lặp lại những kiến thức trong sách giáo khoa,
thiếu sức sáng tạo.
Nếu trình độ học sinh trong nhóm không đều nhau thì những học sinh giỏi, khá
sẽ lấn lướt những học sinh trung bình, yếu. Các em trung bình, yếu sẽ không có

những điều kiện nói lên ý kiến riêng của mình. Từ đấy, các em sẽ mặc cảm, bất
mãn, lơ là và không chú ý vào buổi thảo luận.
Đa số học sinh khá hứng thú khi tham gia vào các trò chơi. Tuy nhiên cũng có
một số em nhút nhát, thụ động.
Vì những hạn chế trên mà phương pháp thảo luận nhóm và tổ chức trò chơi
thường được vận dụng mang tính hình thức, đối phó, chủ yếu trong các tiết dự giờ,
thao giảng, hầu như rất ít được vận dụng trong những giờ học bình thường. Mặt
khác, thảo luận nhóm và tổ chức trò chơi là phương pháp mất nhiều thời gian mà
quỹ thời gian dành cho giờ dạy Ngữ văn lại hạn chế và số lượng học sinh trong lớp
quá đông cũng là nguyên nhân dẫn đến việc giáo viên ít vận dung phương pháp
này.
II. Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm và tổ chức trò chơi để tạo hứng
thú cho học sinh trong giờ học Ngữ văn
1. Phương pháp thảo luận nhóm
1.1.
Khái niệm
Thảo luận nhóm là đặt học sinh vào môi trường học tập theo các nhóm nhằm
khuyến khích học sinh trao đổi và biết cách làm việc hợp tác. Thảo luận nhóm giúp

3


học sinh tích cực tham gia vào quá trình học tập, lắng nghe, ghi lại và chia sẻ từ đó
đưa ra ý kiến giải quyết một vấn đề chung.
1.2.
Tác dụng
- Phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh.
- Phát triển năng lực cộng tác làm việc của học sinh
- Giúp cho học sinh có điều kiện trao đồi, rèn luyện khả năng ngôn ngữ thông qua
cộng tác làm việc trong nhóm, phát triển năng lực giao tiếp, biết lắng nghe,

chấp nhận và phê phán ý kiến người khác. Đồng thời, các em biết đưa ra những
ý kiến và bảo vệ những ý kiến của mình.
- Giúp cho học sinh có sự tự tin trong học tập, vì học sinh học tập theo hình thức
hợp tác và qua giao tiếp xã hội - lớp học, cho nên các em sẽ mạnh dạn và không
sợ mắc phải những sai lầm.
- Hình thành phương pháp nghiên khoa học cho học sinh.
- Tăng cường tri thức, hiệu quả trong học tập: qua học nhóm, học sinh có thể nắm
bài ngay trên lớp, hình thành những tri thức sáng tạo thông qua sự tự tư duy của
mỗi thành viên.
1.3.
Nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong giờ thảo luận nhóm
1.3.1. Nhiệm vụ của giáo viên
Trước khi tiến hành thảo luận nhóm, giáo viên trước hết cần chuẩn bị vấn đề
thảo luận. Tiếp theo, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm và đọc tài liệu liên quan đến
vấn đề thảo luận. Tài liệu bao gồm sách giáo khoa và các tài liệu khác sách tham
khảo, phim ảnh… Sau cùng, giáo viên tiến hành phân nhóm. Việc thành lập nhóm
(số lượng nhóm và thành viên trong nhóm) dựa trên số lượng học sinh trong lớp và
nội dung bài học. Số lượng thành viên trong nhóm tối ưu là từ 4 đến 7 người. Cách
chia nhóm có thể hoàn toàn ngẫu nhiên, hoặc tùy theo tiêu chuẩn của giáo viên, có
thể chia từng cặp hoặc theo bàn…
Khi học sinh thảo luận nhóm, giáo viên di chuyển chung quanh các nhóm, im
lặng quan sát các nhóm làm việc. Khi học sinh gặp khó khăn, bế tắc hay tranh luận
ngoài đề, giáo viên kịp thời can thiệp, hướng dẫn nhóm ra khỏi bế tắc hoặc quay lại
vấn đề đang thảo luận. Hướng dẫn ở đây là đưa ra vài chi tiết liên quan đến giải
pháp, đặt lại câu hỏi cho sáng rõ hơn chứ không đưa ra giải pháp. Nếu nhóm im
lặng quá lâu do hết ý hay không ai có ý kiến, giáo viên tìm hiểu lí do và đặt câu hỏi
cho học sinh trả lời. Trường hợp trong nhóm có thành viên “ngôi sao” hoặc có
thành viên quá nhút nhát, giáo viên khéo léo giải quyết vấn đề bằng cách cho rằng
ý kiến của thành viên nổi trội là đáng ghi nhận nhưng giáo viên muốn nghe ý kiến
của học sinh nhút nhát.

4


Cuối buổi thảo luận, nhiệm vụ của giáo viên là nhận xét, bổ sung, định hướng
đúng vấn đề, ghi nhận đóng góp của nhóm, cho điểm.
1.3.2. Nhiệm vụ của học sinh
Học sinh phải chuẩn bị ý kiến cho vấn đề thảo luận, tham gia thảo luận. Nếu ý
kiến trùng với ý kiến của bạn đã đề cập trước thì học sinh cần phải bổ túc thêm hay
đưa ra một ý khác. Học sinh bảo vệ ý kiến của mình bằng những dẫn chứng thuyết
phục nếu ý kiến của bản thân khác với ý kiến của cả nhóm và phải chấp nhận ý
kiến đúng đắn. Trong khi thảo luận, học sinh cần ghi chép những ý kiến thảo luận
trên vở nháp. Cuối buổi thảo luận, học sinh nhóm trưởng có trách nhiệm trình bày
ý kiến của nhóm trước lớp.
1.4.
Những nguyên tắc khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
1.4.1. Câu hỏi thảo luận phải có tính chất tranh luận
Sự thành công của thảo luận nhóm là giáo viên đưa ra được các vấn đề thú vị,
thách thức học sinh, buộc học sinh cùng nhau hợp tác để tìm ra câu trả lời, đồng
thời kích thích được tính tích cực, chủ động và phát huy tư duy sáng tạo trong hoạt
động học tập của học sinh. Vì vậy, thao tác lựa chọn vấn đề có vai trò rất quan
trọng trong thảo luận nhóm. Vấn đề được lựa chọn phải là vấn đề có tính chất tranh
luận nghĩa là vấn đề có nhiều cách lí giải, suy tưởng, đôi khi có mâu thuẫn.
Ví dụ :
a) Khi dạy bài “Bức tranh của em gái tôi” (tiết 87, 88 – Ngữ văn 6), giáo
viên có thể cho các em thảo luận câu hỏi: “Tại sao khi đứng trước bức tranh của
em gái, người anh lại ngỡ ngàng, rồi đến hãnh diện, sau đó là xấu hổ?”
b) Khi dạy bài “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến (tiết 33,34 - Ngữ văn
7), giáo viên có thể cho các em thảo luận vấn đề: “Cụm từ “ta với ta” trong bài
thơ của Nguyễn Khuyến có gì khác so với cụm từ “ta với ta” trong bài thơ “Qua
Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan”?

Câu hỏi có tính chất tranh luận không nhằm mục đích tái hiện tri thức đã có
mà yêu cầu học sinh phải biết sử dụng “cái đã biết” để làm phương thức tìm tòi,
nghiên cứu những giá trị tri thức mới.
1.4.2 Việc thành lập nhóm dựa trên số lượng học sinh trong lớp và nội dung
bài học
Trong việc thành lập nhóm, giáo viên nên áp dụng linh hoạt các hình thức
chia nhóm như:
Chia nhóm ngẫu nhiên: học sinh đếm 1,2,3,4... rồi vòng trở lại. học sinh đếm
số nào thì vào nhóm ấy. Giáo viên cũng có thể chia theo bàn, theo tổ.

5


Chia nhóm theo năng lực học học tập: giáo viên dựa vào năng lực học tập
của học sinh để chia thành nhóm giỏi, khá, trung bình, yếu. Những học sinh yếu
hơn sẽ xử lý các bài tập cơ bản, những học sinh đặc biệt giỏi sẽ nhận được thêm
những bài tập bổ sung.
Chia nhóm gồm đủ các trình độ: Cách chia này thường được sử dụng khi nội
dung thảo luận cần có sự hỗ trợ lẫn nhau.
Chia nhóm cố định trong một thời gian dài: nhóm được duy trì trong một số
tuần hoặc một số tháng. Các nhóm này thậm chí có thể được đặt tên riêng.
Số lượng thành viên trong nhóm: nhóm nhỏ (2 học sinh), nhóm vừa (4 - 5
học sinh), nhóm lớn (7 - 10 học sinh).
Số lượng nhóm, số lượng thành viên trong nhóm và thời gian thảo luận phải
phụ thuộc vào số lượng học sinh trong lớp hoặc vấn đề thảo luận nảy sinh từ nội
dung bài học. Cụ thể:
Với vấn đề thảo luận có tính chất phức tạp như vấn chứa nhiều nội dung cần
làm sáng tỏ, hoặc có nhiều cách lí giải như “Phân tích diễn biến hành động, cử
chỉ, ngôn ngữ của chị Dậu trong quá trình đối phó với tên cai lệ” (tiết 9,10 - Tức
nước vỡ bờ – Ngữ văn 8), chúng ta nên chia nhóm gồm đủ trình độ học sinh, số

lượng thành viên từ 4-5 học sinh thời gian thảo luận khoảng 4 - 7 phút. Với thời
gian và cấu trúc nhóm đó, các em sẽ chia nhau đảm nhận những vấn đề khác nhau
nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà giáo viên giao phó.
Với vấn đề thảo luận có tính chất đơn giản như “Tìm những hình ảnh, chi
tiết miêu tả mùa xuân đất Bắc.” (tiết 65 – Mùa xuân của tôi – Ngữ văn 7) , chúng
ta nên sử dụng loại nhóm 2 học sinh và thời gian thảo luận trong khoảng (1-2
phút).
Sau khi chia nhóm, mỗi nhóm sẽ bốc thăm để chọn nhóm trưởng, thư ký
hoặc tự bầu ra nhóm trưởng. Giáo viên có thể chỉ định nhóm trưởng, thư ký luân
phiên để khắc phục tình trạng chỉ có một học sinh chuyên trách nhiệm vụ này.
1.4.3 Giáo viên cần quan sát, hỗ trợ học sinh trong quá trình thảo luận
nhóm
Trong khi học sinh thảo luận nhóm, giáo viên di chuyển chung quanh các
nhóm, im lặng quan sát các nhóm làm việc. Khi học sinh gặp khó khăn, bế tắc,
giáo viên kịp thời can thiệp, hướng dẫn nhóm ra khỏi bế tắc bằng những câu hỏi
gợi mở.
Ví dụ: M.Gorki từng nói: “Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới”.
Em hiểu gì về câu nói này. (Câu hỏi thảo luận sau bài Bàn về đọc sách – Ngữ văn
9)
6


Vấn đề này phức tạp, để giải quyết được học sinh cần phải nắm vững bài học
và có cách nhìn tổng quát. Ban đầu, các em sẽ gặp lúng túng, thậm chí nói lan man
không vào trọng tâm. Để các em giải quyết được, giáo viên cần định hướng gợi mở
như:
- “Chân trời mới” ở đây ý nói đến điều gì?
- Tại sao sách lại mở ra trước mắt tôi những chân trời mới? Sách cung cấp
cho chúng ta những điều gì?
- Có phải tất cả các loại sách đều có tác dụng như nhau không?

Trên những định hướng đó, các em sẽ dễ dàng tiến hành thảo luận.
Giáo viên dẫn dắt học sinh vận dụng tư duy vốn có của các em giải quyết
từng vấn đề: gợi lại những tri thức đã có từ trước, khơi gợi những suy nghĩ trong
các em thông qua vốn sống của các em.
Khi gặp trường hợp trong nhóm có thành viên “ngôi sao” hoặc có thành viên
quá nhút nhát, giáo viên kịp thời can thiệp hạn chế những học sinh nói quá nhiều,
khích lệ, động viên học sinh nhút nhát phát biểu ý kiến bằng cách giáo viên có thể
trực tiếp hỏi học sinh nhút nhát rắng: “Cô nhận thấy nhóm bạn rất có tinh thần
tham gia thảo luận, đã đưa ra được rất nhiều ý kiến, quan điểm của các bạn như
vậy còn ý kiến của em như thế nào? Em thấy chúng ta cần bổ sung những gì cho
những ý các bạn vừa nêu?”.
1.4.4 Trình bày và đánh giá kết quả
Đại diện các nhóm sẽ lên trình bày kết quả trước toàn lớp: trình bày miệng
hoặc trình bày miệng với báo cáo viết kèm theo. Có thể kèm theo minh họa bằng
tranh ảnh hoặc biểu diễn. Đại diện nhóm có thể là nhóm trưởng hoặc một thành
viên khác trong nhóm do giáo viên chỉ định. Kết quả trình bày của các nhóm được
đánh giá và rút ra những kết luận cho việc học tập tiếp theo. Giáo viên đóng vai trò
trọng tài chốt lại những nội dung cơ bản, khen thưởng những nhóm thảo luận tốt,
động viên, khuyến khích để tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức khen thưởng có
thể là biểu dương cũng có thể là cho thêm điểm thưởng vào điểm hoạt động nhóm.
1.5.
Quy trình thảo luận nhóm
+ Giới thiệu thiệu vấn đề thảo luận
+ Xác định nhiệm vụ của các nhóm
+ Thành lập các nhóm
+ Chuẩn bị chỗ làm việc nhóm
+ Lập kế hoạch làm việc
+ Tiến hành giải quyết nhiệm vụ
+ Báo cáo kết quả thảo luận trước lớp
7



Muốn thành công với phương pháp thảo luận nhóm giáo viên phải nắm vững
phương pháp thực hiện và có những chuẩn bị trước. Để chuẩn bị, giáo viên cần trả
lời những câu hỏi sau:
+ Vấn đề đặt ra trong bài học có phù hợp với dạy học nhóm không?
+ Các nhóm làm việc với nhiệm vụ giống nhau hay khác nhau?
+ Học sinh đã có đủ kiến thức và tài liệu cho công việc nhóm chưa?
+ Cần trình bày nhiệm vụ làm việc nhóm nhóm như thế nào?
+ Cần chia nhóm theo tiêu chí nào?
+ Cần tổ chức phòng làm việc, kê bàn ghế như thế nào?
+ Thời gian học có đảm bảo cho việc thảo luận nhóm không?

Học sinh lớp 6A6 trường THCS Đông Thạnh
đang thảo luận nhóm trong giờ Ngữ văn
1.6.
Các dạng bài tập có thể vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
Như đã nói ở trên, việc lựa chọn vấn đề thảo luân là khâu then chốt quyết định
sự thành bại của phương pháp này. 80% thành công của thảo luận nhóm là giáo
viên đưa ra được các vấn đề thảo luận thú vị. Để vận dụng thành công phương
pháp này vào dạy học Ngữ văn, chúng ta cần xây dựng được các dạng bài tập thảo
luận phù hợp.
1.6.1 Dạng bài tập thảo luận trên lớp
Dạng bài tập thảo luận so sánh: So sánh giữa các nhân vật, nhóm nhân vật
trong tác phẩm; so sánh các giai đoạn trong cuộc đời nhân vật như ; so sánh các từ
ngữ, hình ảnh trong tác phẩm; so sánh yếu tố trong tác phẩm với nguyên mẫu ngoài
đời...
8



Dạng bài tập phân tích: phân tích hình ảnh, chi tiết và từ ngữ; phân tích
nhân vật bao gồm các sự kiện có liên hệ trực tiếp nhân vật: diện mạo, hành động,
tính cách nhân vật; phân tích các biện pháp và thủ pháp nghệ thuật: đối với thơ: các
biện pháp tu từ (so sánh, lặp, chơi chữ, láy…); đối với văn xuôi: nghệ thuật xây
dựng nhân vật, kết cấu, không gian, thời gian…
Dạng bài tập lập biểu đồ, sơ đồ: sử dụng hình tròn, hình vuông, khung, các
mũi tên đường thẳng và hình vẻ để biểu thị mối quan hệ giữa các khái niệm trừu
tượng hoặc các sự kiện. Loại này thích hợp trong các giờ ôn tập, giờ rèn luyện kỹ
năng khái quát, hệ thống và khắc sâu kiến thức.
1.6.2 Dạng bài tập thực hiện ở nhà, tiết học sau trình bày
Giáo viên cho các bài tập để mỗi nhóm chuẩn bị. Bài tập có thể là tìm những
vấn đề có liên quan đến bài học, hoặc sưu tầm tư liệu, hoặc tìm hiểu một vấn đề,
hoặc toàn bộ của bài học. Bài tập này có tác dụng giúp học sinh tìm hiểu trước vấn
đề, khi vào lớp học, các nhóm sẽ góp ý kiến bổ sung những mảng kiến thức còn
thiếu, từ đó các em sẽ hiểu vấn đề hơn. Hạn chế của dạng bài tập này là giáo viên
không thể nắm bắt tình hình học nhóm của các em, do vậy sẽ có những học sinh
không tham gia trực tiếp với các bạn của mình để thảo luận.
2. Phương pháp tổ chức trò chơi
2.1.
Ý nghĩa của việc tổ chức trò chơi trong giờ học Ngữ văn
Trò chơi là một hoạt động bổ trợ trong dạy học Ngữ văn. Hoạt động này
thiên về phần chơi nên nó giúp xóa đi nặng nề. Học sinh được tiếp thu nhiều kiến
thức, kỹ năng qua những hoạt động dễ dàng, gây hứng thú.
Học sinh không chỉ có cơ hội tìm hiểu, ôn tập kiến thức mà còn có cơ hội thể
nghiệm hành vi, rèn luyện kỹ năng, sự tư duy, phản ứng nhanh. Các em sẽ được
rèn khả năng chọn phương án đúng, cách giải quyết tình huống. Đây là bước trải
nghiệm thực tế trước khi học sinh rút ra một kết luận, lý thuyết trừu tượng.
Trò chơi cũng là biện pháp tăng cường sự ganh đua, phấn đấu tích cực trong
cá nhân hoặc các nhóm học sinh. Nếu tổ chức trò chơi nhóm còn giúp tăng cường
hoạt động làm việc nhóm. Từ đó, phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh.

2.2. Nguyên tắc tổ chức
2.2.1. Trò chơi phải gắn với bài học, vừa sức, dễ thực hiện:
- Mỗi trò chơi phải củng cố được một nội dung phần học cụ thể trong
chương trình (cụ thể là kiến thức cần kiểm tra bài cũ, kiến thức bài mới, kiến thức
thực hành, luyện tập…)
9


- Các trò chơi được xây dựng từ các dạng bài tập có chọn lọc của các tiết học
phải gây hứng thú, gúp phần hình thành, củng cố hoặc hệ thống kiến thức.
- Các trò chơi phải giúp học sinh rèn luyện kỹ năng phán đoán, phát huy trí
tuệ, óc phân tích, tư duy sáng tạo.
- Trò chơi phải phù hợp với quỹ thời gian (từ 5 - 10 phút), thích hợp với môi
trường học tập.
-Trò chơi có sức hấp dẫn, thu hút được sự chú ý, tham gia của học sinh, tạo
không khí vui vẻ, thoải mái.
- Trò chơi cần phải gần gũi, sát thực, phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh
THCS. Tổ chức trò chơi không quá cầu kỳ, phức tạp.
2.2.2. Nguyên tắc khai thác và thực hành:
- Sử dụng triệt để yêu cầu, nội dung kiến thức cơ bản, cũng như đồ dùng,
phương tiện có sẵn của môn học (ở thư viện, đồ dựng của giáo viên, học sinh…).
- Các đồ dùng tự làm của giáo viên khai thác từ những vật liệu gần gũi xung
quanh sao cho đồ dùng vừa đảm bảo tính khoa học, tính giáo dục, tính thẩm mỹ
nhưng ít tốn kém.
- Sử dụng các phương tiện hỗ trợ như máy chiếu, bảng phụ, máy projector
để tiết học trở nên sinh động hơn.
2.3. Một số lưu ý khi tổ chức trò chơi trong dạy học Ngữ văn
2.3.1. Lựa chọn hình thức chơi
Đối với trò chơi học tập đòi hỏi giáo viên phải tư duy, sáng tạo lựa chọn hình
thức chơi cho phù hợp với mục đích, yêu cầu từng bài tập, từng tiết học, từng đối

tượng sao cho đạt được kết quả hoạt động cao nhất. Giáo viên có thể xem trò chơi
là một hình thức tổ chức cho một đơn vị kiến thức nhỏ trong giờ học để triển khai
ở các bước khác nhau của bài giảng (phần tìm hiểu chung, tìm hiểu ngữ liệu, phần
đọc - hiểu văn bản, phần luyện tập, củng cố bài…) hoặc tổ chức tiết học thành một
trò chơi lớn đối với một số tiết ôn tập hoặc khái quát.
Ví dụ: Khi dạy bài “Ôn tập truyện dân gian” – Ngữ văn 6, giáo viên có thể
tổ chức tiết học này thành một cuộc thi với ba vòng thi như Trắc nghiệm kiến thức,
hái hoa dân chủ, nhìn hình đoán chữ hoặc sau khi đã ôn tập kiến thức, giáo viên
cho các em chơi trò chơi “Nhìn hình đoán chữ” để khắc sâu kiến thức đã ôn tập.
2.3.2. Luật chơi
Phải rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho
việc hướng dẫn, huấn luyện
2.3.3. Đối tượng tham gia trò chơi
10


Trò chơi phải hướng tới học sinh đảm bảo tất cả học sinh trong lớp học đều
được tham gia. Tuy nhiên đối với những em học sinh học còn yếu, nhút nhát giáo
viên chỉ nên chỉ định tham gia vào những trò chơi dễ để tạo cơ hội cho các em hình
thành được nhiệm vụ của mình, từ đó có thể khích lệ tinh thần học tập, giúp các
em tự tin, mạnh dạn hơn trong học tập
Giáo viên phải định hướng, hướng dẫn nhằm đạt được mục đích, ý đồ bài
học.
2.3.4. Chuẩn bị
Tuỳ nội dung bài mà chuẩn bị ở nhà hay trên lớp. Dùng bảng phụ , phiếu học
tập hay tự làm phương tiện dạy học.
Bố trí chia lớp phù hợp.
2.3.5. Tiến trình tổ chức trò chơi
Muốn sử dụng thành công trò chơi học tập giáo viên cần chú ý đến những
vấn đề sau:

Thiết kế, lựa chọn trò chơi phải có mục đích học tập, gắn với bài học và gây
hứng thú để thu hút sự tham gia của học sinh. Trò chơi phải đơn giản, dễ thực hiện
và không tốn nhiều thời gian.
Đảo bảo thực hiện theo trình tự sau:
- Giáo viên giới thiệu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi và thời gian chơi
- Chơi thử nếu cần
- Tổ chức chơi
- Nhận xét kết quả chơi
- Kết thúc trò chơi ( Học sinh đợc gì qua trò chơi)
Chuẩn bị bài một cách chu đáo, dự kiến những tình huống có thể nảy sinh trong
khi tổ chức trò chơi để khi gặp có thể giải quyết cho tốt.
Ngoài ra trong quá trình tổ chức trò chơi giáo viên cần tạo điều kiện cho tất cả
học sinh trong lớp cùng đợc tham gia. Có như vậy hiệu quả đạt đợc mới cao.

11


Một số trò chơi có thể tổ chức trong giờ Ngữ văn
2.4.1. Trò chơi “Nhìn hình đoán chữ”
* Mục đích: Trò chơi này giúp học sinh củng cố lại những kiến thức đã học.
Đồng thời rèn luyện khả năng tư duy và phản ứng nhanh nhẹn cho các em.
* Chuẩn bị: Để trò chơi sinh động, hấp dẫn, giáo viên nên thiết kế trò chơi này
bằng phần mềm powerpoint. Nếu không có điều kiện, giáo viên in những tranh đố
ra giấy.
* Luật chơi: Giáo viên có thể cho học sinh chơi cá nhân hoặc theo nhóm. Nếu
chơi cá nhân thì cho các em giơ tay trả lời. Nếu chơi theo nhóm thì cho các nhóm
giành quyền trả lời hoặc sau thời gian quy định (tùy vào tình hình cụ thể, giáo viên
có thể quy định thời gian suy nghĩ và trả lời cho mỗi tranh đố, có thể từ 10 – 15
giây) các nhóm đồng loạt giơ bảng trả lời.
* Cách tiến hành:

- Giáo viên trình chiếu hoặc treo tranh đố.
- Sau thời gian quy định, giáo viên cho học sinh trả lời.
* Phạm vi áp dụng: Trò chơi này có thể áp dụng ở những bài ôn tập về Văn
bản và một số tiết Tiếng Việt về từ vựng như Ôn tập truyện dân gian (tiết 53, 54 Ngữ văn 6), Ôn tập truyện và kí (tiết 125 - Ngữ văn 6), Danh từ, Động từ, Tính từ
(tiết 31, 35, 55, 58, 62, 63 – Ngữ văn 6), Từ ghép, Từ láy (tiết 3, tiết 11 – Ngữ văn
7), Từ tượng hình, từ tượng thanh (tiết 15 – Ngữ văn 8), Tổng kết từ vựng (tiết 43,
44, 49, 53 – Ngữ văn 9)…
2.4.

2.4.2.

2.4.2.

2.4.3.
2.4.4.

Nhìn hình đoán
chữ
Nhìn
hình đoán chữ
bàigian
Từ láy
Ngữvăn
văn 67
bài Ôn tập truyện dân
– –Ngữ
12


Trò chơi “Giải ô chữ”

* Mục đích: Giúp học sinh:
- Củng cố, khắc sâu kiến thức của tuần học, tháng học.
Rèn luyện kĩ năng nhớ, vận dụng kiến thức của các loại văn bản vào giải ô
chữ để thực hiện yêu cầu của bài tập Tiếng Việt
- Phát huy tư duy nhanh nhạy, sáng tạo của học sinh.
* Chuẩn bị
- Bảng ô chữ
- Câu hỏi, đáp án
(Có thể thiết kế trò chơi bằng phần mềm powerpoint để tạo tính sinh động,
hấp dẫn cho trò chơi)
* Thực hiện: Giáo viên hoặc cán sự bộ môn đọc lần lượt từng câu hỏi để học
sinh xung phong giải ô chữ. Nếu tra lời đúng thì ghi dòng chữ đó lên bảng.
* Phạm vi áp dụng: Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi trong
bất cứ tiết học nào. Khi tổ chức, cần chú ý xây dựng hệ thống câu hỏi sao cho
phù hợp với nội dung bài học.
* Một số ví dụ:
+ Ô chữ dùng cho bài: “Từ tượng hình, từ tượng thanh” (Ngữ văn 8, tập 1)
2.4.2.

-

1
2
3
4
5
6

N


C
1

G

H
2

Ơ
L
L
O
3

N
E

G
O

A
N
4

D
T
G
5

A

K
B
U
D
Q
6

C
H
I
D
A
U
7

E
C
A
T
E
8

O
H
Y
O
9

Câu hỏi hàng ngang:
1.

2.

Ô chữ hàng ngang số 1 (7 chữ cái): Từ tượng hình gợi tả dáng vẻ của tên
người nhà Lý trưởng khi cai lệ bảo trói anh Dậu lại.
Ô chữ hàng ngang số 2 (8 chữ cái): Từ tượng hình miêu tả dáng vẻ của “ anh
chàng nghiện” trong cuộc đánh nhau với chị Dậu.
13


Ô chữ hàng ngang số 3 (4 chữ cái): Từ tượng thanh mô phỏng âm thanh cú
đấm của cai lệ vào ngực chị Dậu.
4. Ô chữ hàng ngang số 4 ( 5 chữ cái ): Từ tượng hình còn thiếu trong câu văn:
“Hai người giằng co nhau, [….] nhau rồi ai nấy đều buông gậy ra áp vào vật
nhau.”
5. Ô chữ hàng ngang số 5 (6 chữ cái ): Từ tượng hình miêu tả dáng vẻ của bà
lão láng giềng khi ở nhà chị Dậu về.
6. Ô chữ hàng ngang số 6 ( 9 chữ cái ): Từ tượng hình gợi tả dáng vẻ của cai lệ
khi bị chị Dậu xô ngã.
7. Ô chữ hàng dọc ( 6 chữ cái ): Tên nhân vật chính trong tác phẩm “ Tắt đèn”
của Ngô Tất Tố?
+ Ô chữ dùng cho bài “Ôn tập truyện trung đại” – Lớp 9
3.

V

Ũ
Đ

N


1.
2.
3.
4.

5.
6.
7.
8.

C
G

N
V
Ò
N
H
U

C
Ư
Ũ
N
G

Y

H
Ơ

T
B
U
H

T


N
R

Y
Á
N
R

N
G
U
Y

N
D
U

Ô

M

N


G

T

Ù

Y

B

Ú

T

N

Đ

Ì

N

H

C

H

I



Y



N

K

Ì



U

Câu hỏi:
Ô chữ hàng ngang số 1( 6 chữ cái): “Truyện Kiều” là loại truyện thơ viết
bằng…?
Ô chữ hàng ngang số 2 (7 chữ cái): Nhân vật chính trong truyện “Chuyện người
con gái Nam Xương”
Ô chữ hàng ngang số 3 (13 chữ cái): Tuỳ bút viết trong những ngày mưa
Ô chữ hàng ngang số 4 (6 chữ cái): Ngoài biện pháp ước lệ, đoạn trích “Chị em
Thuý Kiều” còn sử dụng biện pháp nghệ thuật nào để miêu tả chị em Thúy
Kiều ?
Ô chữ hàng ngang số 5 (15 chữ cái): Một nhà thơ lớn của dân tộc sớm phải chịu
cảnh mù loà ở tuổi 27
Ô chữ hàng ngang số 6 (6 chữ cái): Tác phâm “Hoàng Lê nhất thống chí” của
Ngô Gia văn phái viết bằng chữ gì ?
Ô chữ hàng ngang số 7 (8 chữ cái): Tác giả truyện “Chuyện người con gái nam

Xương”
Ô chữ hàng ngang số 8 (14 chữ cái): Thể văn ghi chép những điều kì lạ vẫn
được lưu truyền .
14


Trò chơi “Điền bảng” (Kết hợp với thảo luận nhóm)
* Mục đích:
- Giúp học sinh củng cố lại kiến thức đã học.
- Hình thanh kỹ năng hoạt động nhóm cho học sinh.
* Chuẩn bị:
Giáo viên làm một bảng tổng kết trong đó chỉ có đề mục và các tiêu chí
thống kê. Phần nội dung các ô trong bảng sẽ được chuyển thành các thẻ, các thẻ
này phát cho các nhóm.
* Cách chơi:
- Các nhóm học sinh nhận thẻ kiến thức và tiến hành trao đổi thảo luận để
tìm và đưa ra những thẻ kiến thức phù hợp với các ô trống.
- Đại diện các nhóm học sinh lên trình bày và dán phiếu vào bảng tổng kết.
Nhóm nào dán đúng thì tất cả thành viên sẽ được khen.
* Phạm vi áp dụng: Các tiết ôn tập có lập bảng thống kê như Ôn tập truyện
và kí Ôn tập truyện ký Việt Nam (Ngữ văn 8)
* Ví dụ:
Ngữ văn 8 –tập 1: ÔN TẬP TRUYỆN KÝ VIỆT NAM
Trong phần lập bảng thống kê các văn bản truyện ký Việt Nam, ta giữ lại các
ô: Tên các tác phẩm, thứ tự, tác giả, tác phẩm, thể loại, năm sáng tác, phương thức
biểu đạt, nội dung chủ yếu, đặc điểm nghệ thuật. Các ô nội dung khác bỏ trống để
học sinh dán thẻ kiến thức.
2.4.3.

TT

01

02

03
04

Tác phẩm,
tác giả
Tôi đi học
(Thanh
Tịnh)
Trong Lòng
Mẹ
(Nguyên
Hồng)
Tức nước vỡ
bờ
(Ngô tất Tố)
Lão Hạc

T.loại

Năm
ST

PTBĐ

15


Nội dung chủ yếu

Đặc sắc nghệ
thuật


(Nam Cao)
Bảng để học sinh dán thẻ kiến thức

TT

Tác phẩm,
tác giả

01

Tôi đi học
(Thanh
Tịnh)

02

Trong Lòng
Mẹ
(Nguyên
Hồng)

03

04


Tức nước vỡ
bờ
(Ngô tất Tố)

Lão Hạc
(Nam Cao)

T.loại

Truyện
ngắn

Hồi ký
(trích)

Tiểu
thuyết
(trích)

Truyện
ngắn
(trích)

Năm
ST

PTBĐ

1941


Những kỷ niệm
Tự sự, trong sáng về
trữ tình ngày đầu tiên đến
trường.

1940

1939

1943

Nội dung chủ yếu

Nỗi đau của chú
Tự sự, bé mồ côi và tình
trữ tình yêu thương mẹ
của chú bé.
Phê phán chế độ
tàn ác bất nhân và
ca ngợi vẻ đẹp
Tự sự tâm hồn, sức sống
tiềm tàng của
người phụ nữ
nông thôn.
Số phận bi thảm
của người nông
Tự sự,
dân cùng khổ và
trữ tình

nhân phẩm cao
đẹp của họ.

16

Đặc sắc nghệ
thuật
Tự sự kết hợp
với trữ tình; kể
chuyện kết hợp
miêu tả và biểu
cảm, đánh giá;
những hình ảnh
so sánh mới mẻ
và gợi cảm.
Văn hồi ký chân
thực, trữ tình
thiết tha
Khắc hoạ nhân
vật và miêu tả
hiện thực một
cách chân thực,
sinh động.
Nhân vật được
đào sâu tâm lý,
cách kể chuyện
tự nhiên, linh
hoạt, vừa chân
thực vừa đậm
chất triết lý và

trữ tình.


Bảng sau khi học sinh đã dán các thẻ kiến thức
2.4.4. Trò chơi “Đọc thơ”
* Mục đích:
Học sinh thường sợ đọc thuộc lòng các bài thơ hay đoạn thơ. Nhưng với trò
chơi này sẽ giúp học sinh hứng thú hơn và thuộc thơ nhanh hơn. Hoạt động này
nên sử dụng sau những tiết học xong bài thơ hặc ca dao.
* Chuẩn bị:
- Sau khi học xong bài thơ, giáo viên cho học sinh nhẩm lại bài thơ.
- Học sinh nhẩm lại các câu thơ trong bài thơ vừa học xong.
* Cách chơi:
- Sau khi học xong một bài thơ, giáo viên cho học sinh nhẩm lại và sau đó
tiến hành thực hiện trò chơi.
- Giáo viên đọc trước một câu:
- Sau đó yêu cầu học sinh đọc câu thơ tiếp theo:
- Học sinh vừa đọc xong thì có quyền chỉ định một bạn bất kỳ trong lớp đọc
tiếp các câu còn lại của bài thơ .
- Tương tự thực hiện cho đến khi hết bài thơ hoặc có yêu cầu dừng của giáo
viên.
- Bạn nào đọc sai sẽ làm một hoạt động do lớp hoặc giáo viên yêu cầu.
* Ví dụ:
Ngữ văn 9 – tập 2: Văn bản: VIẾNG LĂNG BÁC CỦA VIỄN PHƯƠNG
- Sau khi học xong bài thơ này, giáo viên cho học sinh nhẩm lại trong vài phút.
- Giáo viên đọc:
“ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
Sau đó gọi học sinh đọc câu thơ tiếp theo.
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”.
- Học sinh vừa đọc xong thì có quyền chỉ định một bạn bất kỳ trong lớp đọc tiếp

các câu còn lại của bài thơ. Cứ như thế đến hết bài thơ. - Bạn nào đọc sai sẽ làm
một hoạt động do lớp hoặc giáo viên yêu cầu.
2.4.5. Trò chơi “Hiểu ý đồng đội”
* Mục đích: trò chơi này là giúp các em rèn luyện kỹ năng làm văn, chủ yếu là
văn thuyết minh.
* Chuẩn bị: một số từ khóa (về đồ vật, cây cối, đồ chơi. Chẳng hạn: bình thủy,
bút bi, con diều…)
* Cách tiên hành:
17


- Giáo viên chia lớp thành các đội chơi.
- Mỗi đội sẽ có 2 đến 3 lượt chơi. Mỗi lượt chơi sẽ có 2 em tham gia . Một em
xem từ khóa và diễn đạt cho em còn lại đoán xem từ khóa đó là gì. Khi diễn đạt,
không được dùng những từ đồng âm hoặc đồng nghĩa với từ có trong từ khóa.
Thời gian cho mỗi lượt chơi khoảng 45 đến 60 giây (tùy tình hình thực tế, giáo
viên quy định thời gian chơi cho phù hợp). Kết thúc trò chơi, đội nào diễn đạt
được nhiều từ hơn là đội thắng.
* Phạm vi áp dụng: Trò chơi này có thế áp dụng trong các tiết Tập làm văn.
2.4.6. Trò chơi “Ai nhanh, ai giỏi”
* Mục đích: Giúp học sinh
- Hình thành được yêu cầu về kiến thức sách giáo khoa
- Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng các thành viên trong
nhóm
- Giáo dục ý thức tích cực và tinh thần hợp tác trong các hoạt động tập thể.
* Chuẩn bị:
- Lớp đọc kĩ và xác định yêu cầu bài tập
- Chia học sinh thành 2 - 4 nhóm tuy vào từng bài, đặc điểm lớp học
- Chia bảng, phấn, phiếu học tập…..cho nhóm
- Quy định thời gian chơi

* Tiến hành:
- Giáo viên hô hiệu lệnh, các nhóm cùng làm theo kiểu tiếp sức
Với hình thức trò chơi này, giáo viên có thể thiết kế thành nhiều trò chơi
khác nhau để tránh sự nhàm chán cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài Danh từ (Ngữ văn 6), giáo viên có thể cho học sinh chơi trò
chơi như sau:
- Chia lớp ra thành 4 đội chơi, chia bảng thành 4 phần.
- Phổ biến luật chơi và tiến hành chơi: các thành viên trong mỗi đội sẽ lần lượt
lên bảng ghi một danh từ chỉ hiện tượng tự nhiên. Mỗi thành viên sẽ lên một
lần. Bạn này về bạn khác mới được lên. Trong vòng 3 phút, đội nào ghi được
nhiều từ hơn là đội chiến thắng.

Trò chơi “Sắm vai”
* Mục đích của trò chơi này là giúp cho các em học sinh khắc sâu nội dung các
văn bản đã học. Đồng thời phát huy năng khiếu diễn xuất của các em.
2.4.7.

18


* Chuẩn bị: để thực hiện được trò chơi này, giáo viên cần yêu cầu học sinh
chuẩn bị trước kịch bản, đạo cụ ở nhà. Tùy vào điều kiện cụ thể, giáo viên có thể
cho các em chơi vào cuối tiết học hoặc tổ chức thành một buổi ngoại khóa. Nếu
tổ chức thành một buổi riêng, giáo viên chia lớp thành các đội và cho bốc thăm
hoặc tự chọn tiết mục sẽ diễn.
* Cách tiến hành:
Cuối tiết học, giáo viên cho các em (đã được phân công) lên trước lớp sắm vai
để “diễn” lại văn bản vừa học. Sau khi tiết mục kết thúc, giáo viên cho cả lớp
nhận xét về nội dung kịch bản, cách nhập vai của các bạn. Sau đó, giáo viên nhận
xét, rút kinh nghiệm. Nếu chia đội thì giáo viên có thể cho cả lớp bình chọn tiết

mục hay nhất.
Ví dụ: Khi dạy bài Thi kể chuyện (Ngữ văn 6), giáo viên có thể chia lớp thành
4 đội, yêu cầu mỗi đội sẽ diễn lại một câu chuyện dân gian đã học trong chương
trình. Khi diễn phải có chuẩn bị trang phục, đạo cụ (chỉ yêu cầu các em chuẩn bị
đơn giản). Mỗi đội sẽ có 5 phút để diễn. Sau mỗi tiết mục, giáo viên mời cả lớp
nhận xét. Cuối cùng, giáo viên nhận xét và cùng cả lớp bình chọn tiết mục hay
nhất.

Học sinh lớp 6A4 trường THCS Đông Thạnh
với hoạt cảnh Em bé thông minh (trái) và Ếch ngồi đáy giếng (phải)

III. Kết quả đạt được
Qua tiết dạy có vận dụng hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi, tôi
đã thu được một số kết quả sau:
19


- Tiết học trước đây trầm lắng, tẻ nhạt, chỉ có thầy hỏi trò trả lời thì bây giờ các
em cảm thấy thoải mái hơn, sôi nổi thảo luận với nhau và đưa ra các ý kiến của bản
thân.
- Giờ học không còn là thầy hỏi rồi tự trả lời mà đã có học trò tham gia đối thoại,
tranh luận
- Các em cảm thấy hứng thú hơn, không uể oải trong giờ học .
- Các em rất thích thú với việc tổ chức trò chơi, hầu như tất cả học sinh đều muốn
tham gia vào cuộc chơi đó. Đặc biệt, có những em học yếu cũng tích cực tham gia
trò chơi .Và khi học sinh đã tích cực tham gia sôi nổi thì sẽ tránh được hiện tượng
không chú ý khi thầy cô giảng bài.

20



KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Với hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi trong dạy học Ngữ văn ở
trường Trung học cơ sở đã một phần gây hứng thú hơn trong tiết học, học sinh đã
có sự chuyển biến hơn, tích cực giao lưu với thầy cô giáo hơn, trong mỗi giờ học
tất cả học sinh đều tham gia và muốn tham gia vào quy trình dạy – học. Các em
không còn thụ động ngồi nghe giáo viên giảng bài mà cảm thấy hứng thú hơn;
hăng say phát biểu, hiểu bài hơn. Tuy nhiên, đây chưa phải là phương pháp tối ưu
nhất bởi vì cũng không phải tiết dạy văn nào chúng ta cũng áp dụng được các trò
chơi một cách hiệu quả. Chính vì vậy khi dạy bất kì một tiết học nào chúng ta
cũng cần kết hợp rất nhiều các phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao trong
quá trình giảng dạy của mình.
2. Kiến nghị:
Hình thức thảo luận nhóm thì chúng ta đã áp dụng từ rất lâu và ít nhiều đã đạt
kết quả trong dạy học, còn hình thức sử dụng trò chơi khi giảng dạy môn Ngữ văn
theo suy nghĩ của bản thân tôi, đây là hình thức đang còn khá mới mẻ đối với mỗi
giáo viên. Hơn nữa đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian, phương tiện nhất
là về máy chiếu và máy tính xách tay mà ở vùng kinh tế khó khăn, các trường học
cũng không hoặc chưa thể đầu tư được. Cá nhân giáo viên với kinh tế hạn hẹp nên
càng khó khăn hơn. Bản thân tôi, trong quá trình giảng dạy cũng nhận thấy còn
một số thiếu sót, hạn chế khi áp dụng các hình thức trên.
Để kinh nghiệm này có tính khả thi cao, ngoài việc mỗi giáo viên phải không
ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, tâm huyết với nghề, bản thân tôi cũng như
các giáo viên khác rất mong được sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp lãnh đạo nhà
trường và ngành giáo dục như đầu tư thêm tài liệu tham khảo về môn văn, sắp xếp
để các em học sinh có điều kiện tham khảo, nghiên cứu. Có thể trang bị thêm cho
các tổ, nhóm chuyên môn máy chiếu, máy tính xách tay để việc giảng dạy thuận lợi
hơn, nên tăng cường mở các hội nghị, chuyên đề trao đổi về phương pháp dạy học
phù hợp với đối tượng học sinh .


21



×