Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TIỂU LUẬN PHÁT TRIỂN bền VỮNG KINH tế tài NGUYÊN BIỂN ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.83 KB, 29 trang )

BÀI THẢO LUẬN NHÓM 3
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ TÀI NGUYÊN BIỂN Ở VIỆT NAM
Nhận xét của giáo viên:
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………..
Các thành viên trong nhóm:
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

HỌ VÀ TÊN
Dương Quốc Trung
Nguyễn Thị Hương
Trần Thị Diệu Hằng
Lê Thùy Dung
Vũ Thị Chiêm
Khuất Thị Thu Hường
TRần Thị Hảo
Bùi Thái Cẩm
Bùi Thanh Thảo


Lê Thanh Thủy
Nguyễn Thị Thơ

NHIỆM VỤ
Nhóm trưởng
Thuyết trình

ĐÁNH GIÁ

Nhận xét của nhóm trưởng:………………………………………………….
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………

1


MỤC LỤC

2


NAM:
1.Khái quát về biển, đảo Việt Nam:
Năm 1961 khi Bác Hồ đến thăm và nói chuyện với cán bộ, chiến sỹ
hải quân, Người căn dặn: "Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta
có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp ta phải biết giữ gìn lấy
nó".Lời căn dặn của Bác với các chiến sĩ hải quân ngày ấy ẩn chứa sâu xa luận
điểm của Người, là sự khái quát rất ngắn gọn và dễ hiểu về lịch sử truyền thống
về Tổ quốc, về tiềm năng của biển nước ta và trách nhiệm của mọi thế hệ người

Việt Nam phải biết khai thác, quản lý và bảo vệ biển.
Biển nước ta từ xưa tới nay luôn đóng vai trò to lớn, là không gian chiến
lược quan trọng đối với quốc phòng và an ninh quốc gia. Biển đã mang lại cho
nước ta rất nhiều lợi thế, tiềm năng và cơ hội phát triển, bên cạnh đó cũng đặt
ra không ít thách thức.“Việc tiến ra biển, làm chủ biển, bảo vệ và khai thác
nguồn lợi từ biển” đang là cơ hội, đồng thời là thách thức lớn đối với cả dân
tộc.
Với bờ biển dài 3.260km, từ Quảng Ninh ở phía đông bắc tới Kiên Giang ở
phía tây nam. Vùng biển Việt Nam có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa với diện tích trên 1 triệu km (gấp 3 diện tích đất liền: l
triệu km2/330.000km2). Trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và
2.577 đảo lớn, nhỏ, gần và xa bờ, hợp thành phòng tuyến bảo vệ, kiểm soát và
làm chủ vùng biển. Biển có vị trí chiến lược quan trọng: nối liền Thái Bình
Dương với Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu, châu Úc với Trung Đông. Giao
lưu quốc tế thuận lợi, phát triển ngành biển; có khí hậu biển là vùng nhiệt đới
tạo điều kiện cho sinh vật biển phát triển, tồn tại tốt; có tài nguyên sinh vật và
khoáng sản phong phú, đa dạng, quý hiếm. Vùng biển và hải đảo nước ta có vị
trí chiến lược hết sức to lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ nền
độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, có liên quan trực tiếp đến sự
phồn vinh của đất nước, đến văn minh và hạnh phúc của nhân dân.
Biển và đại dương được các nhà khoa học gọi là “Lục địa xanh”, phủ kín
3


70,8% bề mặt trái đất và đang “cất giấu” những kho nguyên liệu, khoáng vật
khổng lồ dưới dạng hòa tan trong nước, lắng đọng dưới đáy và vùi kín dưới
lòng đại dương. Do có đặc thù như vậy nên nhiều vùng biển, đại dương đang là
nơi tranh chấp trên thế giới, nhất là đối với những nước lớn ở gần biển và đại
dương có sức mạnh về kinh tế và quân sự.
Biển Đông là một biển nửa kín, nằm ở rìa Tây Thái Bình Dương, với

diện tích khoảng 3,5 triệu km2 trải rộng từ vĩ độ 30 lên đến vĩ độ 260 Bắc và từ
kinh độ 1000 đến 1210Đông. Biển Đông tiếp giáp với 9 nước là Việt Nam,
Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, Bruney, Malayxia, Singapore, Thái Lan,
Camphuchia và một vùng lãnh thổ là Đài Loan. Biển Đông có vị trí chiến lược
đối với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và các
quốc gia khác trên thế giới.
Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có địa
chính trị và địa kinh tế rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có.
Với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số
157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số chiều
dài bờ biển trên diện tích đất liền của nước ta là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ 100
km2 đất liền có 1km bờ biển). Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh,
thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển.
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển đảo
luôn gắn với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước và con người Việt
Nam.

4


Hải đăng trên đảo Song Tử Tây - Trường Sa - Ảnh: Văn Thành Châu
Vùng biển nước ta: bao gồm cả vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nước ta có
diện tích biển khoảng trên 1 triệu km 2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần
30% diện tích Biển Đông (cả Biển Đông gần 3,5 triệu km 2). Vùng biển nước ta
có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường
Sa, được phân bố khá đều theo chiều dài của bờ biển đất nước, với vị trí đặc
biệt quan trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía Đông
của đất nước. Một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng được sử dụng làm các

điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam,
từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên
các vùng biển.
2.Tầm quan trọng của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa:
a.Về kinh tế, chính trị- xã hội.
Biển Đông là vùng biển có một trong số 10 tuyến đường hàng hải lớn
nhất trên thế giới đi qua.Giao thông nhộn nhịp đứng thứ 2 thế giới (sau Địa
Trung Hải).Hàng ngày có khoảng 200-300 tàu từ 5.000 tấn trở lên qua lại
(không kể dưới 5.000 tấn) chiếm 1/4 lưu lượng tàu hoạt động trên biển của thế
giới. Là tuyến đường hàng hải và hàng không huyết mạch mang tính chiến lược
của các nước trong khu vực và thế giới; nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ
Dương, châu Âu, Trung Đông với châu Á và giữa các nước châu Á với nhau;
chuyên chở 1/2 sản lượng dầu thô và các sản phẩm toàn cầu. Với Mỹ: Là tuyến
hoạt động chính của Hạm đội 7, có 90% hàng hóa của Mỹ và đồng minh
chuyên chở qua Biển Đông; với Trung Quốc hàng năm nhập 160 triệu tấn dầu
tức 50% dầu nhập và 70% hàng hóa qua Biển Đông; với Nhật Bản 70% lượng
dầu nhập khẩu và 42% lượng hàng hóa xuất khẩu chuyên chở qua Biển Đông.
Đối với Việt Nam, vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên con
đường hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương
5


và Thái Bình Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật
Bản và các nước trong khu vực. Ngoài ra sự hình thành mạng lưới cảng biển
cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong
nội địa (đặc biệt là các tuyến đường xuyên Á) sẽ cho phép vùng biển và ven
biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng hóa nhập khẩu tới mọi miền của Tổ
quốc một cách nhanh chóng và thuận lợi. Cùng với đất liền, vùng biển nước ta

là một khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, một thị trường có sức mua khá lớn,
một vùng kinh tế nhiều thập kỷ phát triển năng động, đó là nơi rất hấp dẫn các
thế lực đế quốc, bành trướng nhiều tham vọng và cũng là nơi rất nhạy cảm
trước các biến chuyển trong đời sống chính trị thế giới.
Biển Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ
khí đốt. Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bề trầm tích
có triển vọng dầu khí với trữ lượng dự báo khoảng 10 tỉ tấn dầu quy đổi, trong
đó trữ lượng khai thác khoảng 2 tỉ tấn, đặc biệt khí thiên nhiên có tiềm năng rất
lớn. Hiện nay, chúng ta đã phát hiện hàng chục mỏ dầu khí có trữ lượng khai
thác công nghiệp, trong đó đã đưa vào khai thác gần một chục mỏ, hàng năm
cung cấp hàng chục triệu tấn dầu và hàng tỷ mét khối khí phục vụ cho phát
triển kinh tế và dân sinh. Ngoài ra còn có các khoáng sản quan trọng và có tiềm
năng lớn như than, sắt, titan, băng cháy, cát thủy tinh, muối và các loại vật liệu
xây dựng khác
Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu
vực. Ngoài cá biển là nguồn lợi chính còn có nhiều đặc sản khác có giá trị kinh
tế cao như: tôm cua, mực, hải sâm, rong biển,…Riêng cá biển đã phát hiện hơn
2.000 loài khác nhau, trong đó có trên 100 loài có giá trị kinh tế cao. Đến nay
đã xác định có 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó có 12 bãi cá phân bổ ở vùng
ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi. Dọc ven biển còn có hơn 80 vạn
héc-ta bãi triều và các eo vịnh, đầm phá ven bờ rất thuận lợi để nuôi trồng hải
sản có giá trị xuất khẩu cao như tôm, cua, ngọc trai, cá song, cá mú, rong câu…
Với tiềm năng trên, trong tương lai chúng ta có thể phát triển ngành nuôi trồng

6


hải sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại tạo ra nguồn xuất
khẩu có kim ngạch lớn và khả năng cạnh tranh cao.
Dọc bờ biển nước ta đã xác định nhiều khu vực có thể xây dựng cảng,

trong đó một số nơi có khả năng xây dựng cảng nước sâu như: Cái Lân và một
số điểm ở khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Lạch Huyện, Đình Vũ, Cát
Hải, Đồ Sơn, Nghi Sơn, Cửa Lò, Hòn La, Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng,
Dung Quất, Văn Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải,… Riêng khu vực Vũng
Tàu đến Hà Tiên do biển nông, nhiều sình lầy nên ít có khả năng xây dựng cảng
biển lớn, nhưng vẫn có thể xây dựng cảng quy mô vừa ở Hòn Chông, Phú Quốc
hoặc cảng sông Cần Thơ. Hiện nay nước ta có trên 100 cảng biển và 10 khu
chuyển tải hàng hóa, sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống các cảng biển
b.Về quốc phòng- an ninh:
Biển nước ta được ví như mặt tiền, sân trước, cửa ngõ quốc gia; biển,
đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành phên dậu, chiến lũy nhiều lớp, nhiều
tầng, bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn
bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử dân tộc đã ghi nhận có tới 2/3 cuộc chiến tranh
kẻ thù đã sử dụng đường biển để tiến công xâm lược nước ta. Những chiến
công hiển hách của cha ông ta trên chiến trường sông biển đã minh chứng: ba
lần đại thắng quân thù trên sông Bạch Đằng (năm 938, 981 và 1288; chiến
thắng trên phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077; chiến thắng Rạch Gầm Xoài Mút năm 1785 và những chiến công vang dội của quân và dân ta trên
chiến trường sông biển trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ là những minh chứng ghi đậm dấu ấn không bao giờ mờ phai trong
lịch sử dân tộc.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển đảo Việt
Nam có vai trò quan trọng, làm tăng chiều sâu phòng thủ đất nước ra hướng
biển. Do đặc điểm lãnh thổ đất liền nước ta có hình chữ S, trải dài ven biển từ
Bắc vào Nam, chiều ngang hẹp (nơi rộng nhất khoảng 600km, nơi hẹp nhất
khoảng 50km), nên chiều sâu phòng thủ đất nước bị hạn chế. Hầu hết các trung
tâm chính trị, kinh tế - xã hội của ta đều năm trong phạm vi cách bờ biển không
lớn, nên rất dễ bị địch tấn công từ hướng biển. Nếu chiến tranh xảy ra thì mọi
7



mục tiêu trên đất liền đều nằm trong tầm hoạt động, bắn phá của vũ khí trang bị
công nghệ cao xuất phát từ hướng biển. Nếu các quần đảo xa bờ, gần bờ được
củng cố xây dựng thành những căn cứ, vị trí trú đậu, triển khai của các lực
lượng Hải quân Việt Nam và sự tham gia của các lực lượng khác thì biển, đảo
có vai trò rất quan trọng làm tăng chiều sâu phòng thủ hiệu quả cho đất nước
Từ nhiều năm nay, nhất là vào những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX
đến nay trên Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp biển, đảo rất quyết liệt
và phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, tác động tới quốc phòng
và an ninh của nước ta. Trên Biển Đông vùng biển nước ta tiếp giáp với vùng
biển 7 nước trong khu vực là: Trung Quốc (phía Bắc), Campuchia và Thái Lan
(Tây Nam), Philippin, Malaysia, Indonexia, Brunay (phía Đông, Đông Nam và
Nam), nơi đây đang diễn ra những tranh chấp phức tạp và quyết liệt về chủ
quyền giữa các quốc gia, đẩy tới xu hướng tăng cường lực lượng quân sự, đặc
biệt là hải quân của các nước trong khu vực, nhất là những nước có tiềm lực
lớn về kinh tế, quân sự tận dụng ưu thế của mình trên biển đe dọa chủ quyền
trên vùng biển đảo, thềm lục địa của nước ta, gây ra những nhân tố khó lường
về sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và an ninh đất nước.
Vươn ra biển, làm giàu từ biển là định hướng đúng đắn phù hợp trong
điều kiện hiện nay. Việt Nam là một quốc gia có biển, một nhân tố mà thế giới
luôn xem như một yếu tố đặc lợi, chúng ta cần tăng cường hơn nữa những khả
năng quản lý, làm chủ vươn ra biển làm động lực thúc đẩy các vùng khác trong
đất liền phát triển, chúng ta phải có quyết tâm cao, tập trung huy động mọi tiềm
năng và lợi thế của biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố
quốc phòng - an ninh trên biển để tạo ra môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và ngư dân các địa phương
yên tâm làm ăn trên các vùng biển, đảo, nhất là ở vùng biển xa. Phải xây dựng
Hải quân nhân dân Việt Nam và các lực lượng vững mạnh, theo hướng cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ để



quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc./.
Biển Việt Nam được công nhận là 10 trung tâm đa dạng sinh học biển điển
hình trên thế giới. Do vậy, biển đảo đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự
8


tồn tại và phát triển của đất nước.Trong những năm vừa qua, ước tính kinh tế
biển đóng góp khoảng 48% GDP, trong đó các ngành kinh tế biển đóng góp
lớn là dầu khí 64%, đánh bắt và chế biến hải sản 14%, vận tải biển và dịch vụ
cảng biển 11%, du lịch biển 9%....
II.Khái quát tài nguyên biển ởViệt Nam
1.Tài nguyên sinh vật (living resources)
- Theo các số liệu thống kê, hiện có tới 11.000 loài sinh vật thủy sinh và
1.300 loài sinh vật trên đảo đã được biết đến trong các vùng biển-đảo Việt
Nam, trong đó có khoảng 6.000 loài động vật đáy và 2.000 loài cá. Có 83 loài
sinh vật biển được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam (37 loài cá, 6 loài san hô, 5 loài
da gai, 4 loài tôm rồng, 1 loài sam, 21 loài ốc, 6 loài động vật hai mảnh vỏ và 3
loài mực).
- Biển Việt Nam có 110 loài cá kinh tế (trích, thu, ngừ, bạc má, hồng,
v.v...) thuộc 39 họ, tổng trữ lượng cá biển khoảng 3 - 3, 5 triệu tấn và khả năng
khai thác cho phép là trên một triệu tấn mỗi năm. Trong số nguồn lợi về cá, thì
cá nổi đóng vai trò rất lớn. Những đánh giá gần đây cho thấy, trữ lượng cá nổi
trung bình ở các vùng biển Việt Nam vào khoảng 2.744.900 tấn và khả năng
khai thác là 1.372.400 tấn.
- Trong đó, vịnh Bắc bộ: trữ lượng là 433.100 tấn và khả năng khai thác
là 216.500 tấn; Trung bộ: trữ lượng là 595.600 tấn và khả năng khai thác là
297.800 tấn; Đông Nam bộ: trữ lượng là 770.800 tấn và khả năng khai thác là
385.400 tấn; Tây Nam bộ: trữ lượng là 945.400 tấn và khả năng khai thác là
472.700 tấn. Trữ lượng cá nổi chiếm 54,37% tổng trữ lượng cá. Tỷ lệ cá nổi
trong tổng trữ lượng cá ở vùng biển Việt Nam: vùng biển vịnh Bắc bộ (83,3%),

Trung bộ (89,0%), Đông Nam bộ (42,9%), Tây Nam bộ (62%), các gò nổi
(100,0%) và trung bình cho toàn vùng biển là 63,0%.
- Ngoài ra, còn có nguồn lợi động vật thân mềm (hơn 2.500 loài) với trữ
lượng đáng kể, có giá trị kinh tế cao. Rong biển có hơn 600 loài (sử dụng cho
chế phẩm công nghiệp 24 loài, dược liệu 18 loài, thực phẩm 30 loài, thức ăn gia
súc 10 loài và phân bón 8 loài). Trong vùng biển nước ta còn có nhiều loại
9


động vật quý như đồi mồi, rắn biển, chim biển và thú biển. Vì nằm trong vùng
khí hậu nhiệt đới, trong các vùng biển của nước ta còn có các hệ sinh thái rừng
ngập mặn, hệ sinh thái cỏ biển, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái đảo, hệ sinh
thái bờ đá, hệ sinh thái cồn cát, v.v...
-Trong các hệ sinh thái này, tính đa dạng sinh học rất cao. Tiềm năng
nuôi trồng thủy sản nước mặn, lợ trong các vùng cửa sông, đầm phá và vũng
vịnh và vùng biển ven bờ rất lớn. Diện tích tiềm năng nuôi trồng thủy sản của
nước ta khoảng 2 triệu héc-ta (thực tế năm 2001 mới sử dụng 755.000 ha mặt
nước), bao gồm 3 loại hình mặt nước đó là nước ngọt, nước lợ và vùng nước
mặn ven bờ, có thể nuôi trồng các loại đặc sản như tôm, cua, rong câu, nuôi cá
lồng... Nuôi trồng sinh vật biển cũng đã đóng góp một sản lượng lớn thủy sản
cho thực phẩm, dược phẩm, vật liệu công nghiệp, mỹ nghệ, v.v... phục vụ cho
cuộc sống.
- Tiềm năng nguồn lợi hải sản của nước ta rất lớn nhưng khả năng khai
thác còn hạn chế: chỉ mới tập trung khai thác ở ven bờ gây nên sự mất cân đối
làm cho nguồn hải sản ven bờ nhanh chóng bị cạn
2.Tài nguyên không sinh vật(non- living resources)
Nguồn tài nguyên không sinh vật của biển Việt Nam rất lớn bao gồm tài
nguyên khoáng sản, tài nguyên năng lượng và các loại tài nguyên khác.
- Tài nguyên khoáng sản. Nguồn tài nguyên khoáng sản có cả trong
khối nước, trên đáy và trong ḷng đất dưới đáy biển. Trong các vùng biển và

thềm lục địa nước ta, nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí đã được xác
định, trong đó các bể Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá là có triển
vọng dầu khí và điều kiện khai thác thuận lợi nhất, với tổng trữ lượng ước tính
khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đổi. Cùng với dầu - khí, trong các bể trầm tích ở thềm
lục địa nước ta còn có trữ lượng than rất đáng kể.
- Các loại sa khoáng ven bờ như ilmenit với trữ lượng dự đoán khoảng
13 triệu tấn; cát thủy tinh, trữ lượng ước tính hàng trăm tỷ tấn. Ngoài ra, còn
một khối lượng lớn vật liệu xây dựng khổng lồ có thể được khai thác từ đáy
biển (cát, sạn, sỏi cho xây dựng hoặc san lấp) để thay thế cho nguồn này trên
lục địa đang bị cạn kiệt dần. Ngoài ra còn có cát thủy tinh ở Vân Hải (Quảng
10


Ninh), Ba Đồn (Quảng Bình), Cam Ranh (Khánh Hòa), v.v... với trữ lượng
nhiều tỷ tấn.
- Trên sườn lục địa - chân lục địa và đáy biển sâu còn có tiểm năng các
kết hạch sắt - mangan, bùn đa kim rất đáng kể mà đến nay chưa thể xác định
được trữ lượng. Một loại khoáng sản khác rất có triển vọng trong trầm tích đáy
biển Việt Nam được các nhà địa chất mới phát hiện trong thời gian gần đây là
khí cháy (Hydrat methan). Nguồn tài nguyên khoáng sản trong khối nước biển
có trữ lượng lớn nhất là muối với trữ lượng rất lớn bởi vì độ muối trung bình
của nước biển là khoảng 32‰ và đường bờ biển dài khoảng 3.500km. Đây là
loại khoáng sản dễ khai thác phục vụ rất thiết thực cho công nghiệp và đời
sống.
- Tài nguyên năng lượng. Thủy triều, sóng và gió là nguồn năng lượng
tái tạo tiềm năng trên các vùng biển-đảo Việt Nam. Theo Bùi Văn Đạo, tiềm
năng điện gió ở Việt Nam rất lớn. Riêng dải duyên hải Nam Trung bộ và Nam
bộ có khả năng sản xuất tới 5 x 109Kw/giờ.năm.
3.Các nguồn tài nguyên đặc biệt.
Khác với hai loại tài nguyên trên có thể đánh giá được bằng trữ lượng,

còn một số điều kiện tự nhiên không thể đánh giá định lượng được, nhưng lại
được con người sử dụng, thậm chí từ rất lâu đời, trong các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội của mình đều có thể xếp vào loại tài nguyên đặc biệt này. Đó
chính là địa hình bờ và đảo cũng như không gian mặt biển.
- Không gian mặt biển. Như đã nói, vùng biển-đảo nước ta hoàn toàn
nằm trong vùng nhiệt đới và có diện tích rộng tới khoảng 3,5 triệu km2, quanh
năm nước không đóng băng. Đây chính là điều kiện để giao thông - thương mại
phát triển. Biển Việt Nam nói riêng và biển Đông nói chung nằm ở vị trí có
nhiều tuyến đường biển quan trọng của khu vực cũng như của thế giới, giữ một
vai trò rất lớn trong vận chuyển lưu thông hàng hóa thương mại phục vụ đắc
lực cho xây dựng nền kinh tế của nước ta cũng như các nước quanh bờ biển
Đông.
- Biển Việt Nam nối thông với nhiều hướng, từ các hải cảng ven biển
của Việt Nam thông qua eo biển Malacca để đi đến Ấn Độ Dương, Trung
Đông, châu Âu, châu Phi; qua eo biển Basi có thể đi vào Thái Bình Dương đến
11


các cảng của Nhật Bản, Nga, Nam Mỹ và Bắc Mỹ; qua các eo biển giữa
Philippines, Indonesia, Singapore đến Australia và New Zealand, v.v... Đây là
điều kiện rất thuận lợi để ngành giao thông vận tải biển nước ta phát triển, thúc
đẩy giao lưu kinh tế, văn hóa giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và
trên thế giới.
III, Phát triển bền vững kinh tế tài nguyên biển Việt Nam.
1.Công nghiệp dầu khí
Việt Nam nằm trong khu vực có tiềm năng dầu khí không nhỏ. Nhiều bể
trầm tích có triển vọng dầu khí đã được xác định trong đó có bể tầm tích Cửu
Long và Nam Côn Sơn có trữ lượng lớn nhất, điều kiện khai thác thuận lợi, trữ
lượng đánh giá khoảng 3- 4 tỷ m3 dầu quy đối, trong đó 0,9- 1,2 tỷ m3 dầu và
2.100- 2.800 tỷ m3 khí, phần lớp tập trung ở vùng nước sâu xa bờ. So với các

nước Đông Nam Á, trữ lượng dầu khí của nước ta đứng sau thứ 3, sau In-đônê- xi- a và Ma-lai-xi-a. Tuy nguồn phát hiện chưa thực hiện lớn, song đối với
nước ta nó có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn khởi động nền
kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngành dầu khí là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, trong những
năm qua, ngành Dầu khí đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cũng phải đối mặt với một số khó khăn, nhưng
ngành Dầu khí đã, đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò là ngành kinh tế then chốt,
phát triển trong tương lai…

+ Đặc trưng ngành dầu khí:
12


Dầu khí không chỉ mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho quốc gia mà còn là
nguồn năng lượng quan trọng nhất hiện nay cho sự phát triển kinh tế.
Dầu khí là nguồn năng lượng quan trọng bậc nhất đang đóng góp 64%
tổng năng lượng đang sử dụng toàn cầu, 36% năng lượng còn lại là gỗ, sức
nước, sức gió, địa nhiệt, ánh sáng mặt trời, than đá, và nhiên liệu hạt nhân.
Dầu khí tập trung chủ yếu ở Trung Đông, chiếm 2/3 trữ lượng dầu khí
thế giới, nhưng phần lớn nằm sâu trong lòng đất, lòng biển nên rất khó khăn
trong việc thăm dò, khai thác.
Bên cạnh đó, dầu thô phải qua chế biến mới sử dụng được nên đòi hỏi
công nghệ lọc dầu cao.Mặc dù trữ lượng dầu còn rất lớn nhưng đây là nguồn
năng lượng có giới hạn và không thể tái tạo.Chính vì vậy, mỗi quốc gia đều
phải có kế hoạch khai thác, kinh doanh và sử dụng hợp lý.
+ Vai trò ngành dầu khí đối với kinh tế Việt Nam
Đã xác định tiềm năng và trữ lượng dầu khí của Việt Nam khoảng 3-4 tỷ
m3 dầu quy đổi, trong đó 0,9-1,2 tỉ m3 dầu và 2100-2800 tỷ m3 khí. Năm 2003
đã khai thác 17,6 triệu tấn dầu thô và 2,17 tỷ m3 khí; xuất khẩu dầu thô đạt
17,143 triệu tấn. Đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn với công suất tối đa 7 tỷ m3

khí/năm đã hoàn thành vào cuối năm 2002, đưa dòng khí đầu tiên vào bờ.
TRong giai đoạn 2003-2004 cung cấp 2,1-2,7 tỷ m3 khí/năm cho các nhà máy
điện Phú Mỹ. Đang triển khai xây dựng đường ống dẫn khí Phú Mỹ – Thành
phố Hồ Chí Minh với công suất khoảng 2 tỷ m3 khí/năm, hoàn thành vào năm
2004 nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ khí ở miền Đông Nam Bộ. Ngành dầu
khí đóng góp phần lớn ngoại tệ cho quốc gia với các sản phẩm phục vụ nền
kinh tế là điện khí, xăng dầu, khí nén cao áp và năng lượng sạch. Trong giai
đoạn vừa qua, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) đã cung cấp gần 35
tỷ m3 khí khô cho sản xuất, 40% sản lượng điện của toàn quốc, 35-40% nhu cầu
ure và cung cấp 70% nhu cầu khí hóa lỏng cho phát triển công nghiệp và tiêu
dùng dân sinh.

13


Xuất khẩu dầu thô có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, đóng góp phần
lớn kim ngạch xuất khẩu cả nước, đặc biệt là giai đoạn trước đây, bình quân
khoảng 15%. Hiện nay, tỷ trọng này đã giảm và chỉ còn chiếm khoảng 7,5%.
Trong 8 tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt 5,5 tỷ
USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ, chiếm 7,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước, đồng thời đóng góp vào ngân sách Nhà nước khoảng 70,8 tỷ đồng, chiếm
16,9%.

14


+ Thực trạng phát triển ngành dầu khí Việt Nam
Ngành dầu khí Việt Nam hiện nay khá non trẻ với nguồn nhân lực còn
hạn chế nên năng lực cung cấp chưa đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng. Nước ta chủ
yếu xuất khẩu dầu thô, nhập khẩu dầu

tinh phục vụ cho nhu cầu nội địa. Một số nhà máy lọc dầu đã đi vào hoạt
động như nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn… nhưng
mới chỉ cung cấp được khoảng 35% nhu cầu trong nước. Trong khi đó, nhu
cầu sử dụng các sản phẩm từ dầu mỏ ngày càng tăng, không chỉ trong ngắn hạn
mà cả trong dài hạn do sự bùng nổ dân số, các ngành công nghiệp tiếp tục phát
triển, đặc biệt là sự tăng tốc của ngành giao thông do nhu cầu đi lại ngày càng
nhiều… Theo OPEC, nhu cầu sử dụng nguồn nhiên liệu dầu khí ngày càng tăng
nhanh, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, và đến năm 2025, nguồn cung
sẽ không đáp ứng kịp nhu cầu.
Sản lượng dầu khí khai thác hàng năm ở mức thấp, bình quân khoảng
24 triệu tấn. 5 tháng đầu năm 2012, PVN chỉ khai thác được 10,86 triệu tấn dầu
khí. Trong khi đó, trữ lượng khai thác ở Việt Nam đang đứng thứ 4 về dầu mỏ
và thứ 7 về khí đốt trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương (Theo BP, 2010),
đồng thời đứng thứ 25 và 30 trên thế giới. Chính vì vậy, Việt Nam có hệ số trữ
lượng/sản xuất (R/P) rất cao, trong đó R/P dầu thô là 32,6 lần (đứng đầu khu
vực Châu Á-TBD và thứ 10 thế giới) và R/P khí đốt là 66 lần (đứng đầu Châu
Á - TBD và thứ 6 thế giới). Điều này cũng cho thấy tiềm năng phát triển của
ngành trong tương lai còn rất lớn.
=> Chiến lýợc phát triển ngành Dầu khí ðến nãm 2020, tầm nhìn 2050.
Chiều 15/12, trong buổi họp chuyên sâu về năng lượng trong khuôn khổ Hội
nghị Tham tán Thương mại 2011, dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Bộ Công
Thương Hoàng Quốc Vượng, ông Lê Tuấn Phong - Phó tổng cục trưởng Tổng
cục Năng lượng đã trình bày một tham luận về "Tổng quan về hệ thống năng
lượng Việt Nam và định hướng phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2050".
15


Bài tham luận đánh giá về tiềm năng phát triển các nguồn năng lượng tại
Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến phát triển năng lượng dầu khí và những kết

quả đã đạt được trong hợp tác với nước ngoài của ngành Dầu khí Việt
Nam.Trong chiến lược phát triển ngành Năng lượng Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn 2050 là phát triển ngành Dầu khí đồng bộ, bao gồm các hoạt động tìm
kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tàng trữ, phân phối, dịch vụ và
xuất, nhập khẩu.
* Về tìm kiếm, thãm dò (TKTD) dầu khí sẽ gia tăng trữ lượng đạt 35-45
triệu tấn quy dầu/năm trong giai đoạn 2011 – 2015; trong đó: trong nước 25 –
30 triệu tấn quy dầu/năm, ngoài nước 10 – 15 triệu tấn quy dầu/năm.Định
hướng giai đoạn 2016 – 2025 sẽ gia tăng trữ lượng đạt 35 – 45 triệu tấn quy
dầu/năm, trong đó 25 – 35 triệu tấn quy dầu/năm ở trong nước và 15 triệu tấn
quy dầu/năm ở nước ngoài.
* Trong khai thác dầu khí sẽ tập trung nghiên cứu các giải pháp nâng cao
hệ số thu hồi dầu và duy trì mức sản lượng khai thác dầu khí tối ưu, đảm bảo an
toàn và hạn chế nguy cơ bị ngập nước của các mỏ đang khai thác; tích cực mở
rộng hoạt động đầu tư khai thác dầu khí ra nước ngoài. Phấn đấu khai thác 2538 triệu tấn quy dầu/năm, trong đó: khai thác dầu thô giữ ổn định ở mức 18-20
triệu tấn/năm và khai thác khí 8-19 tỉ m³/năm. Giai đoạn 2011-2015, phấn đấu
duy trì khai thác khoảng 20 mỏ dầu khí với sản lượng khai thác dầu dự kiến
trong nước hàng năm từ 18 – 19 triệu tấn và khí từ 9 – 14 tỉ m 3.Định hướng giai
đoạn 2016 – 2025 khai thác quy dầu đạt 40 – 45 triệu tấn quy dầu/năm, trong
đó sản lượng dầu khai thác trong nước khoảng 12 – 16 triệu tấn/năm.Sản lượng
dầu khai thác ở nước ngoài đạt khoảng 7 – 14 triệu tấn/năm.Sản lượng khai
thác khí đạt 15 – 19 tỉ m3/năm.
* Trong công nghiệp khí, tích cực phát triển theo hướng đa dạng hoá thị
trường tiêu thụ; khí sẽ được cung cấp cho các ngành: sản xuất điện, phân bón,
hoá chất, các ngành công nghiệp, giao thông vận tải và dân dụng với qui mô
sản lượng khoảng 19 tỉ m3/năm vào năm 2025. Nghiên cứu kết nối hệ thống
16


đường ống Đông – Tây Nam Bộ, đường ống dẫn khí xuyên quốc gia làm cơ sở

kết nối với đường ống dẫn khí khu vực Đông Nam Á.
Vận hành an toàn và hiệu quả các hệ thống đường ống dẫn khí hiện có và
nhà máy chế biến khí Dinh Cố. Tiếp tục khai thác để thu gom tối đa khối lượng
khí từ các mỏ khí có trữ lượng lớn, kết hợp tăng cường thu gom các mỏ khí có
trữ lượng nhỏ, các mỏ biên nhằm sử dụng tối đa công suất của các đường ống
sẵn có tại các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn và PM3-CAA-Cà Mau. Chuẩn bị cơ
sở hạ tầng, đẩy mạnh và khuyến khích các Nhà thầu đầu tư xây dựng hệ thống
thu gom khí ngoài khơi để nối với các hệ thống đường ống hiện có. Tiến hành
hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước
4.Kinh tế hàng hải:
A, Thực trạng ngành kinh tế hàng hải Việt Nam
Để biến những tiềm năng đó thành hiện thực, tinh thần và quyết tâm của
Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của ngành kinh tế hàng hải đã được thể
hiện trong Chiến lược biển Việt Nam. Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09-022007 của Hội nghị Trung ương 4 khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020 đã xác định rõ, ngành kinh tế hàng hải được ưu tiên thứ hai trong thứ tự
phát triển kinh tế biển, chỉ đứng sau khai thác, chế biến dầu khí (đứng trên khai
thác và chế biến hải sản; du lịch biển và kinh tế hải đảo; xây dựng các khu kinh
tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển
các khu đô thị ven biển). Vận tải biển được coi là một trong những ngành dịch
vụ mũi nhọn và trước mắt cùng với công nghiệp đóng tàu cần được tập trung
đầu tư phát triển.
Tại Thông báo số 188-TB/TW ngày 07-10-2008 của Ban Bí thư, ngành
kinh tế hàng hải cũng được yêu cầu tập trung đầu tư xây dựng nhanh một số
cảng biển hiện đại, đồng thời phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng sau cảng, xây
dựng các nhà máy đóng tàu và sửa chữa tàu biển, phát triển nhanh, mạnh đội
tàu biển Việt Nam theo quy hoạch đã được phê duyệt.

17



Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30-5-2007 của Chính phủ về
Chương trình hành động đã chỉ rõ: để bảo đảm phát triển nhanh, bền vững các
ngành kinh tế có tiềm năng, trước mắt cần tập trung vào xây dựng cảng biển;
phát triển công nghiệp đóng tàu và xây dựng đội tàu biển mạnh.
Việt Nam đã xây dựng được đội tàu biển quốc gia với tổng trọng tải là
2.322.703 DWT (gấp 2 lần số lượng tàu và 2,3 lần về trọng tải so với 1997,
bình quân tăng 6,4% về số lượng và 11% về trọng tải /năm). Nòng cốt của đội
tàu biển quốc gia là đội tàu của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, với số lượng
đội tàu trọng tải khoảng 1.125.159DWT, chiếm khoảng 50% tổng trọng tải của
đội tàu quốc gia. Không chỉ tăng năng lực vận tải mà còn có sự thay đổi cơ bản
về cơ cấu, chất lượng đội tàu, tạo thêm thị trường và trực tiếp tham gia thị
trường khu vực, khách hàng nước ngoài đã sử dụng trên 50% năng lực đội tàu
của Việt Nam .
Quy mô cảng ngày càng tăng, cuối năm 1995 nước ta chỉ có hơn 70 cảng
biển, thì đến nay Việt Nam đã xây dựng được hệ thống cảng biển gồm hơn 90
cảng lớn nhỏ với 25.617 m cầu bến, trải dài từ Nam chí Bắc; ngoài ra còn có
trên 10 khu chuyển tải để tăng cường khảnăng thông qua của hàng hóa và tạo
điều kiện cho những tàu có trọng tải lớn ra vào cảng dễ dàng, an toàn. Khối
lượng hang hóa cảng tăng nhanh , năm 1992 là 17,9 triệu tấn; năm 1995 tổng
năng lực thong qua là 52,4 triệu tấn/năm; năm 1999 đạt 63 triệu tấn và đến hết
năm 2002 , tổng công suất qua cảng của Việt Nam hơn 100 triệu tấn/năm, tốc
độ tăng bình quân 17%/năm.
Trong thực tế, gần 2 năm sau khi Chiến lược biển ra đời, ngành kinh tế
hàng hải đã có sự phát triển vượt bậc. Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt
Nam, năm 2008 sản lượng hàng hóa thông qua các cảng biển đạt xấp xỉ 196,58
triệu tấn, tăng 9% so với năm 2007; trong đó hàng công-ten-nơ đạt 5.023.312
TEUS, tăng hơn 12% so với năm 2007; hàng khô đạt 88 triệu tấn, tăng hơn
10%; hàng quá cảnh đạt gần 18 triệu tấn, tăng trên 3%; hành khách xuất nhập
cảnh thông qua các cảng biển Việt Nam đạt 511.229 lượt người, tăng trên 46%.
18



+ Đội tàu biển Việt Nam đã vận tải đạt 69,285 triệu tấn, tăng 13% so
với năm 2007, trong đó: vận tải biển nước ngoài đạt 47,39 triệu tấn, tăng 7%;
vận tải hàng hóa trong nước đạt 21,997 triệu tấn, tăng gần 29%; vận tải côngten-nơ đạt 1.451.552 TEUS, tăng 76,3%. Lần đầu tiên, tàu chở hàng khô
Vinalines Global có trọng tải 73.350 DWT lớn nhất từ trước đến nay đã được
Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam đầu tư và đưa vào khai thác từ tháng 7- 2008.
+ Hiện nay, cả nước có 46 nhà máy sửa chữa, đóng mới tàu có trọng tải
từ 1.000 DWT đến 400.000 DWT với 60 công trình nâng hạ, trong đó có 26
công trình nâng hạ tàu từ trên 1.000 DWT đến 400.000 DWT. Với cơ sở hạ
tầng hiện nay, ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam có khả năng đóng mới 150
tàu/năm. Đặc biệt, vừa qua Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam đã đóng
thành công kho nổi chứa dầu FSO5 có trọng tải 150.000 DWT.
Mặc dù có nhiều nỗ lực và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhưng
hiện trạng của ngành kinh tế hàng hải vẫn đang tồn tại một số vấn đề bất cập, chậm
được khắc phục về quy hoạch cảng biển, cơ cấu đầu tư, nguồn nhân lực,…
Mặt khác, làn sóng khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu không chỉ
ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam nói chung, mà còn tác động nghiêm
trọng tới từng lĩnh vực, ngành kinh tế, trong đó có ngành kinh tế hàng hải.
B. Một số ðề xuất, kiến nghị:
+ Tập trung khai thác các nguồn vốn, đầu tư nhanh cho việc xây dựng
2 cảng biển lớn (giai đoạn I) của đất nước là Cảng trung chuyển quốc tế Vân
Phong (Khánh Hòa) và Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng để sau 2 – 3 năm nữa
có thể đưa vào sử dụng.Điều này cũng phù hợp với tình hình đất nước hiện nay
đang cần kích cầu để ổn định tăng trưởng và chuẩn bị sẵn sàng sau 2 năm nữa
khi nền kinh tế đất nước sẽ bước vào giai đoạn tăng trưởng mới.
+ Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kinh tế hàng hải sao cho phù hợp
với thực tiễn và thông lệ, tập quán hàng hải quốc tế.Nghiên cứu, có chính sách
hợp lý về độ tuổi nghỉ hưu của các sĩ quan, thuyền viên, hoa tiêu để tận dụng
kinh nghiệm hàng hải của họ trong việc đào tạo, truyền đạt kinh nghiệm thực

19


tiễn cho thế hệ kế cận.Với ngành đóng tàu biển, nên có chính sách quản lý việc
đầu tư đóng mới tàu nhằm tránh lãng phí nguồn vốn đầu tư của cả xã hội, trong
khi nhiều lĩnh vực khác cần được quan tâm đầu tư hơn.Về cảng biển, cần nhanh
chóng xây dựng xong quy hoạch cảng biển quốc gia, khắc phục triệt để tình
trạng đầu tư xây dựng cảng một cách manh mún; xã hội hóa công tác đầu tư và
quản lý, khai thác một số cảng biển; làm tiền đề cho việc đầu tư xây dựng các
cảng biển quốc tế, hiện đại về công nghệ khai thác cảng và quản lý cảng…
+Tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
- Tăng cường hơn nữa việc đầu tư cơ sở vật chất cho khâu thực hành
nghề đi biển;
- Cần phải coi những môn học có liên quan đến văn hóa nghề là những
môn học bắt buộc trong các kỳ thi đối với sinh viên hàng hải và tuyển dụng
nhân lực cho ngành hàng hải;
- Ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, là một trong những tiêu chuẩn bắt buộc
để đánh giá năng lực của người học trong các trường đào tạo nghề đi biển.
Các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan kiểm tra và đánh giá ngay
tình hình đầu tư đóng mới tàu của các doanh nghiệp đóng tàu quy mô vừa và
nhỏ trong thời gian qua ở các địa phương ven biển, có biện pháp khắc phục
những hậu quả và thiệt hại về kinh tế của các doanh nghiệp cũng như của các tổ
chức tín dụng và ngân hàng cho vay./.
5.Du lịch biển:
Du lịch là một ngành công nghiệp và hơn thế nữa là “công nghiệp không
khói”, hay còn gọi là “công nghiệp xanh” có rất nhiều lợi thế. Vì vậy du lịch là
ngành kinh tế “xuất khẩu tại chỗ’, mang lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế quốc
dân và nâng cao đời sống cho người dân, trong đó thị phần du lịch biển chiếm
tỷ trọng cao nhờ nước ta có bờ biển dài, điều kiện thiên nhiên khí hậu thuận
lợi.Song vì chưa khai thác được đáng kể tiềm năng đó nên Việt Nam chỉ

đứng vị trí thứ 20/27 nước khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch biển.
Du lịch biển Việt Nam hiện có 3 dạng, đó là du lịch bờ biển bao gồm
nghỉ mát, tắm biển, điều dưỡng ở các resort trên bờ biển; du lịch du thuyền nội
20


hải như du lịch bằng những du thuyền cỡ nhỏ trong vùng lãnh hải; du lịch viễn
dương là du lịch bằng tàu viễn dương dạng khách sạn cao cấp, xuyên đại dương
đi đến nhiều nước.
Về du lịch bờ biển, những năm qua nước ta đã đầu tư xây dựng hàng loạt
resort trên bờ biển và trên các đảo nhỏ ven biển suốt từ Bắc đến Nam . Nhờ
thiên nhiên thuận lợi, bãi biển đẹp, ở Miền Nam nắng ấm 4 mùa nên đã thu hút
được hàng triệu khách du lịch khắp nơi trên thế giới, doanh thu năm 2010 là
5,05 tỷ USD, năm 2012 lên đến 6,8 tỷ USD.
Song du lịch bờ biển còn rất nhiều bất cập, khánh sạn, khu nghỉ dưỡng
cao cấp còn rất ít; các dịch vụ cung ứng cho du khách chưa được hấp dẫn, chưa
làm hài long du khách, nhất là thiếu nhà vệ sinh công cộng, nạn ăn xin, chèo
kéo khách mua hàng...
Du lịch thuyền nội hải chỉ mới có một số nơi, như ở Vịnh Hạ Long và
Nha Trang. Song cũng chưa có những du thuyền chuyên dụng đảm bảo an toàn
cho khách du lịch, chưa có đội ngũ phục vụ chuyên nghiệp, con người và
phương tiện tổ chức đảm bảo an toàn trên biển; đồng thời chưa áp dụng công
nghệ mới vào xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật như bến du thuyền, cơ sở bảo
dưỡng, bảo trì, cung ứng hậu cần cho du thuyền...
Còn du lịch viễn dương đòi hỏi đầu tư rất lớn, bao gồm mua sắm hoặc
đóng mới tàu du lịch khách sạn, đào tạo đội ngũ chuyên viên phục vụ chuyên
nghiệp, xây dựng uy tín và kinh nghiệm của hãng du lịch có thể thu hút được
nhiều du khách. Những yêu cầu này trong hiện tại và tương lai gần, Việt
Nam vẫn chưa có khả năng đáp ứng được.
A,THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN VIỆT NAM

+ Về kinh tế biển và vùng ven biển, theo những tính toán của cơ quan
chức năng, năm 2000, GDP của nền kinh tế biển và vùng ven biển đóng góp
39% GDP của cả nước; năm 2005 bằng 38% GDP của cả nước (trong đó kinh
tế biển là 13% và kinh tế ven biển là 25%). Trong các ngành kinh tế biển như
khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), đóng
góp của du lịch biển chiếm khoảng 17 - 20%.
21


+ Thực trạng phát triển du lịch biển trong những năm gần đây cho thấy,
vùng biển hàng năm thu hút khoảng 73% số lượng khách du lịch quốc tế đến
Việt Nam, khoảng 70% tổng thu nhập từ du lịch của cả nước. Năm 1997, số
lượt khách quốc tế đến vùng biển đạt 2,1 triệu người, năm 2000 đạt 3,29 triệu
người, năm 2002 đã đón khoảng 5,3 triệu lượt người; riêng năm 2003, do ảnh
hưởng của dịch SARS , số khách đạt khoảng 4,7 triệu lượt giảm so với năm
2002. Khách du lịch quốc tế đến các khu vực trọng điểm du lịch tăng nhanh,
riêng khu vực Quảng Ninh-Hải Phòng và Huế-Đà Nẵng tăng 41%/năm; Bà RịaVũng Tàu tăng 22,6%.
Đối với khách du lịch nội địa, biển thu hút tới trên 50% số lượt, với tốc
độ tăng trung bình thời kỳ 1994-2003 là 16%/năm. Năm 1997, toàn vùng đón
được 5,7 triệu lượt khách, năm 2000 đón 7,46 triệu lượt, năm 2002 đạt 10,8
triệu lượt và năm 2003 tới 12,4 triệu lượt khách.
Dọc ven biển Việt Nam đã có khoảng 125 bãi biển thuận lợi cho việc
phát triển du lịch, trên 30 bãi biển đã được đầu tư và khai thác. Hệ thống cơ sở
lưu trú vùng ven biển không ngừng tăng lên, đặc biệt số lượng những cơ sở lưu
trú từ 3 sao trở lên phần lớn tập trung ở các địa phương ven biển. Tính đến năm
2005, vùng ven biển có gần 1.400 cơ sở lưu trú với trên 45.000 buồng.
+Theo thống kê đội ngũ lao động du lịch vùng ven biển hiện chiếm
khoảng 65% tổng số lao động trực tiếp của cả nước, tập trung nhiều nhất ở TP.
Hồ Chí Minh - Bà Rịa - Vũng Tàu (trên 60%); Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng
(8,5%); Hải Phòng, Quảng Ninh (8,1%); trong đó tỷ lệ lao động được đào tạo

nghiệp vụ ở các trường du lịch hay các khóa đào tạo tại chỗ đạt 75%, tỷ lệ đạt
trình độ đại học và trên đại học chiếm khoảng 7,5%. Bên cạnh đó, sự phát triển
của du lịch biển còn tạo việc làm gián tiếp cho 60 vạn lao động là các dân cư
ven biển.
+ Một trong những nhân tố đóng góp vào sự phát triển du lịch biển trong
những năm qua là công tác tuyên truyền quảng bá. Hàng năm, nhiều tỉnh, thành
phố đã tổ chức lễ hội khai trương mùa du lịch biển. Đồng thời, các địa phương
đã tích cực tham gia xúc tiến du lịch tại các hội chợ du lịch quốc tế thông qua
22


các ấn phẩm, vật phẩm như đĩa VCD, CD Rom, mạng internet quảng bá các sản
phẩm dịch vụ và tiếp thị điểm đến.
+ Song áp lực của phát triển ngành kinh tế biển ngày càng gia tăng đối
với môi trường và tài nguyên thiên nhiên cũng như các giá trị khác của vùng
biển và ven biển luôn là vấn đề bức xúc hiện nay. Theo Báo cáo Môi trường
quốc gia năm 2010: môi trường nước mặt lục địa vùng ven biển đang đối mặt
với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do ô nhiễm đã và đang xảy ra ở nhiều
đoạn song. Tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp và y tế vùng ven
biển không ngừng gia tăng qua các năm. Vấn đề thu gom, xử lý chất thải vùng
ven biển tuy đã được các cấp, các ngành và chính quyền địa phương quan tâm
nhưng chưa được đầu tư đúng mức.
+ Đa dạng sinh học biển Việt Nam đang thật sự là chỗ dựa cho sự phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước.Tuy nhiên hiện nay mối đe dọa đối với đa
dạng sinh học biển Việt Nam đang tăng lên cùng với sự gia tăng dân số và mở
rộng các hoạt động kinh tế, khai thác biển.Phương thức đánh bắt hủy diệt, phát
triển kinh teesvaf các ngành nghề môt cách bất hợp lý…cùng với ý thức kém
của con người đã làm suy giảm tính đa dạng sinh học biển.
+ Các rạn san hô đã bị giảm sút cả về chất lượng và độ che phủ. Riêng ở
vùng biển miền Bắc, diện tchs rạn san hô đã giảm từ ¼ đế ½.85% các rạn san

hô còn sống đều có chất lượng không tốt hoặc xấu.Trong cỏ biển lớn như Tam
Giag, Phú quốc, một số vùng cũng đã bị suy giảm đáng kể.
Một trong những nguyê nhân khác làm ảnh hưởng tiêu cực môi trường
biển đó là sự cố tràn dầu diễn ra khá thường xuyeentaij các bờ biển Việt Nam,
do lượng tàu bè qua lại lớn. Các vụ tai nạn này đã đổ ra biển từ vài chục đến
hàng trăm tấn dầu, gây ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế và môi trường…..
Từ phân tích thực trạng phát triển du lịch biển, PGS. TS Phạm Trung
Lương cho rằng: du lịch biển Việt Nam vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đặc biệt
đối với khách du lịch. Bên cạnh đó, du lịch biển Việt Nam chưa thu hút được
nhiều khách du lịch quốc tế đi bằng đường biển. Nói một cách khác, Việt Nam
23


chưa được xem là điểm đến hấp dẫn trong hành trình du lịch tàu biển khu vực
và quốc tế, chứng tỏ du lịch biển Việt Nam chưa hình thành những sản phẩm
du lịch biển đặc sắc, có sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế.

Cho đến nay, cả nước chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt trình độ
quốc tế; tình trạng trùng lặp về sản phẩm du lịch ảnh hướng đến mức độ hấp
dẫn và thu nhập du lịch. Ngoài ra, việc đầu tư khai thác hệ thống các đảo, trước
hết là đầu tư phát triển du lịch cho các đảo ven bờ còn nhiều hạn chế. Việc khai
thác tài nguyên du lịch ở vùng ven biển còn thiếu bền vững do tình trạng chồng
chéo trong quản lý. Biểu hiện cụ thể nhất là việc khai thác rừng ngập mặn, khai
thác vật liệu xây dựng (cát biển, núi đá…), nước ngầm, thủy sản… làm suy
giảm tài nguyên vùng ven biển, ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền
vững…
B, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN VIỆT NAM
Nhằm phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển và ven biển đóng góp
khoảng 53 - 55% GDP của cả nước như mục tiêu Chiến lược biển đề ra, theo đó
du lịch biển là khâu đột phá thứ 4 sẽ có mức đóng góp khoảng 14 - 15% GDP

của nền kinh tế biển quốc gia. Để đảm bảo được vị trí và vai trò đó, theo các
chuyên gia về kinh tế biển cần có những giải pháp đồng bộ như vấn đề quy
hoạch và quản lý quy hoạch phát triển du lịch biển; đầu tư phát triển các loại
hình du lịch biển; vấn đề môi trường biển; củng cố và mở rộng thị trường
khách du lịch tàu biển; xây dựng một chương trình đào tạo toàn diện và các kế
24


hoạch đào tạo mới, đào tạo lại nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch biển;
vấn đề cạnh tranh trong phát triển du lịch; sự tham gia của cộng đồng vào hoạt
động phát triển du lịch; vấn đề quản lý tông hợp sự phát triển của các ngành
kinh tế biển…
Để phát triển du lịch biển Việt Nam bền vững, có nhiều vùng biển tầm cỡ
quốc tế, theo nhiều ýkiến: Tổng cục Du lịch cần xây dựng các tiêu chí về du
lịch biển phân theo vùng: du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh, du lịch thể thao giải
trí biển; du lịch biển dã ngoại; du lịch biển bình dân; du lịch biển phức hợp...
Các địa phương muốn khai thác du lịch biển sẽ dựa vào những tiêu chí ấy để
quy hoạch, khai thác đảm bảo phát triển bền vững; các cơ quan quản lý nhà
nước căn cứ vào những tiêu chí đó để đánh giá, xếp hạng... cho từng vùng du
lịch biển, từng khu du lịch cũng dễ dàng hơn. Mặt khác, sự phân vùng này sẽ
giảm thiểu sự thiếu đồng bộ trong đầu tư phát triển dulịch biển, tạo nên sự đa
dạng trong các sản phẩm du lịch biển, góp phần thu hút và kéo dài thời gian lưu
trú du khách và tăng thu nhập từ du lịch cho các địa phương
6, Đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản:
Nằm trong khu vực châu Á, khu vực đứng đầu Thế Giới về sản lượng
thủy sản, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển thủy sản. Việt Nam là
một quốc gia biển, có vùng biển rộng lớn, bờ biển dài và hội tụ nhiều đảo, đa
dạng về kiểu loại đất ngập nước với nhiều hệ sih thái đa dạng sinh học cao, đã
tạo ra cho đất nước ta tíh đa dạng hình về tiềm năng phát triển và nguồn lợi
thủy hải sản… tiền đề phát triển cho một ngành thủy sản phát triển mạnh trên

nhiều lĩnh vực. ^.^
* Vai trò của nguồn thủy sản
-Thứ nhất lá có gí trị về kinh tế:
+ Cung cấp nguồn thực phẩm
+Cung cấp nguyên liệu làm dược liệu, đồ mĩ nghệ, phục vụ xây dựng,
làm phân bón, thức ăn chăn nuôi.
+ Phục vụ vui chơi giải trí.
+ Phục vụ an ninh quốc phòng.
25


×