Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Cải thiện dự trữ ngoại hối của việt nam trong bối cảnh ổn định kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 68 trang )

Đề tài:

Cải thiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong bối
cảnh ổn định kinh tế vĩ mô
Lời mở đầu
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỰ TRỮ NGOẠI HỐI
1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển của dự trữ ngoại hối

Dự trữ ngoại hối (DTNH) ra đời cùng với chế độ đồng bản vị vào cuối thế
kỷ XVIII, nhưng để có thể hiểu rõ hơn về quá trình hình thành của dự trữ ngoại
hối, chúng ta sẽ nhìn lại quá khứ trước đó, thời kỳ gắn liền với chế độ bản vị hàng
hoá.
1.1.1. Chế độ bản vị hàng hoá
Từ thời cổ đến thời cận đại, thương mại quốc tế hoạt động trên cơ sở bản vị
hàng hóa, trong đó, kim loại (chủ yếu là vàng và bạc) là hàng hóa được đúc thành
các khối với chức năng làm phương tiện trao đổi và lưu thông trong nền kinh tế.
Trong thời kì đầu, tiền kim loại được đúc chủ yếu dưới dạng tùy ý hoặc thành
những thỏi hay những chiếc vòng, về sau những phát kiến đã tiêu chuẩn hóa tiền tệ
về trọng lượng, chất lượng kim loại và nhãn mác. Những đồng xu mang những dấu
hiệu về giá trị theo trọng lượng và chất lượng kim loại, đồng thời chất lượng của
các đồng xu được quốc gia bảo hộ. Do đó, hệ thống tiền đúc (tiền xu) đã tạo điều
kiện cho các giao dịch và giúp những nhà buôn tiết kiệm được thời gian trong việc
nhận dạng, định lượng và đánh giá chất lượng kim loại.
Trong lịch sử, vàng và bạc luôn là hai kim loại được ưa chuộng đặc biệt hơn
hẳn các kim loại khác bởi những đặc tính của chúng đã đáp ứng được những gì mà
một đồng tiền hàng hóa cần có. Không những thế, sự chấp nhận rộng rãi vàng và
bạc như là tiền còn được củng cố từ thực tế là các kim loại này có giá trị sử dụng
phi tiền tệ trong các ngành công nghiệp và trang sức.



1


Chính vì sự thống nhất giá trị đồng tiền theo trọng lượng và giá trị của các
kim loại mà trong thời kì này, dự trữ ngoại hối không có ý nghĩa do đồng tiền mỗi
nước đều được chấp nhận rộng rãi và có thể quy đổi theo giá trị mà nó chứa đựng.
Chế độ bản vị hàng hóa này đã bị sụp đổ do quy luật Gresham “Đồng tiền
xấu đuổi đồng tiền tốt” (Bad money drives out good money). Ở dạng tinh khiết,
chế độ bản vị hàng hóa hoạt động trên cơ sở giá trị đầy đủ của các đồng xu, tức là
giá trị tiền tệ của chúng cũng là giá trị kim loại của đồng xu. Tuy nhiên, sau một
thời gian, khi các quốc gia ngày càng thường xuyên giảm tỷ trọng của vàng hay
bạc trong các đồng xu, đã dẫn đến hiện tượng, đồng tiền xấu được ưu tiên sử dụng
hơn đồng tiền đầy đủ giá trị, đẩy đồng tiền tốt này ra khỏi lưu thông.
1.1.2. Chế độ đồng bản vị (Từ 1792 đến nửa cuối thế kỷ XIX)
Thời kỳ này dự trữ ngoại hối chính thức xuất hiện và tài sản trong dự trữ
chủ yếu là vàng và bạc, chế độ đồng bản vị ra đời gắn liền với Luật đúc tiền năm
1792 ở Mỹ, khi giá trị của đồng đô la Mỹ được gắn cố định với vàng và bạc. Từ đó
xuất hiện tỷ lệ trao đổi cố định giữa vàng và bạc. Tuy nhiên, do giữa các quốc gia,
tỷ lệ trao đổi này là khác nhau đã dẫn đến hiện tượng, ở các quốc gia này các đồng
tiền được định giá cao thấp khác nhau. Vàng chảy ra khỏi những nước nào mà nó
bị định giá thấp và chảy vào những nước nào được định giá cao. Chính vì thế, trên
thực tế, chế độ đồng bản vị đã hoạt động như chế độ đơn bản vị. Tuy nhiên trong
thời kỳ này, dự trữ của các nước chủ yếu vẫn là vàng và bạc, đồng thời là tiền tệ
của các quốc gia khác do những đồng tiền này đã được đảm bảo bằng vàng và bạc
và được chuyển đổi tự do ra vàng và bạc.
1.1.3. Chế độ bản vị vàng ( Từ cuối thế kỷ XIX đến 1924)
Chế độ bản vị vàng được áp dụng sớm ở Anh trong hầu hết thế kỷ XIX
(1816) và ở các nước khác vào cuối thế kỷ này. Trong chế độ bản vị vàng, giá trị
của các đồng tiền được các nước ấn định cố định với vàng và các đồng tiền được

sẵn sàng trao đổi với vàng tại mức cố định đó. Chính vì thế, dự trữ ngoại hối của
các nước trong thời kỳ này chủ yếu là vàng. Xuất khẩu và nhập khẩu vàng giữa các
quốc gia được tự do. Do đó đã xuất hiện tỷ giá giữa các loại tiền tệ gắn liền với bản
vị vàng. Ngoài ra, một trong những điều đáng chú ý trong chế độ bản vị vàng là
NHTW các nước phải duy trì một lượng vàng dự trữ trong mối quan hệ trực tiếp
với số tiền phát hành, số vàng dự trữ này cho phép các NHTW chuyển đổi tiền ra
vàng mà không gặp bất cứ trở ngại nào. Như vậy mức cung tiền của nền kinh tế
2


phụ thuộc hoàn toàn vào lượng vàng dự trữ của một quốc gia. Nguồn vàng của các
quốc gia có được chủ yếu từ ngành khai khoáng trong nước, ngoài ra do thặng dư
thương mại trong thanh toán quốc tế.
Trong thời kì hoàng kim của chế độ bản vị vàng (1880-1924), hệ thống tiền
tệ thế giới hoạt động có trật tự. Tiền tệ của các quốc gia luôn hoạt động thống nhất
bên cạnh nhau. Trong thời kì này, nước Anh có ảnh hưởng đặc biệt đến nền kinh tế
thế giới cũng như có vai trò quan trọng trong đầu tư và thương mại quốc tế. Chính
vì thế bảng Anh đã trở thành phương tiện thanh toán quốc tế rộng rãi và là đồng
tiền chính tronh dự trữ ngoại hối của các nước để hỗ trợ bản vị vàng cho đồng tiền
của nước mình. Những cam kết của chính phủ các nước, đặc biệt là chính phủ Anh,
về việc duy trì lâu dài sự chuyển đổi các đồng tiền ra vàng theo bản vị cố định đã
tạo ra lòng tin vào hệ thống này.
Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra năm 1914 đã buộc các nước chấm dứt
chuyển đổi đồng tiền của mình ra vàng. Hệ thống tỷ giá cố định đã hoạt động trong
35 năm nhường chỗ cho hệ thống tỷ giá thả nổi. Nguyên nhân là do trong Chiến
tranh thế giới Thứ nhất, các chính phủ đã thay đổi chính sách tiền tệ nhằm tài trợ
cho chiến tranh. Lạm phát bùng nổ ở các nước châu Âu. Với lợi thế trong chiến
tranh cũng như không chịu lạm phát cao như các nước châu Âu, sức cạnh tranh
thương mại của Mỹ tăng lên nhanh chóng. Hơn nữa, đô la được chuyển đổi ra vàng
trong khi đó các đồng tiền khác thì không đã làm tăng sự hấp dẫn đầu tư vào các

tài sản ghi bằng đô la. Đô la ngày càng trở thành đồng tiền có vị thế trong các giao
dịch quốc tế. Sau chiến tranh, hầu hết đồng tiền các nước châu Âu tiếp tục bị phá
giá và thả nổi so với đô la.
1.1.4. Chế độ bản vị hối đoái vàng (Từ 1925 đến 1931)
Trên danh nghĩa thì thời kỳ này vẫn được coi là thời kỳ của chế độ bản vị
vàng, năm 1925 nước Anh lại quay trở lại ấn định bản vị vàng ở mức giống như
trước chiến tranh xảy ra (1913). Việc một số đồng tiền trở lại chế độ bản vị vàng
đã làm hồi sinh chế độ này. Tuy nhiên chế độ này đã hoạt động không ổn định như
trước chiến tranh.
Dự trữ ngoại hối của nhiều nước trong thời kì này đã có sự thay đổi, chuyển
từ vàng sang các ngoại tệ có thể chuyển đổi ra vàng như bảng Anh, và đặc biệt là
đô la Mỹ.

3


Cuộc đại suy thoái kinh tế vào năm 1929 – 1933 đã khiến chế độ bản vị vàng
vừa quay trở lại đã không kéo dài được lâu. Hệ thống tiền tệ thế giới không còn
liên kết được với nhau với sự xuất hiện nhiều khối tiền tệ. Yêu cầu được đặt ra là
tái thiết lại hệ thống tiền tệ thế giới, một trong những kết quả là sự ra đời của hệ
thống Bretton Woods.
1.1.5. Hệ thống Bretton Woods (Từ 1944 đến 1971)
Hệ thống Bretton Woods ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II, dự trữ ngoại
hối của các nước trong thời kỳ này chủ yếu là vàng và USD. Một trong những đặc
điểm quan trọng nhất của hệ thống này là hệ thống chế độ tỷ giá là cố định nhưng
có thể điều chỉnh. Trong đó mỗi đồng tiền quốc gia được ấn định một tỷ giá trung
tâm với USD và được phép dao động trong biên độ ±1%. Tỷ giá của USD tự nó
được cố định với giá vàng là $35/ounce. Bởi lẽ trong thời gian này, Mỹ đang nắm
tới 70% dự trữ vàng của thế giới, và việc gắn đồng đô la vào vàng đã tạo ra niềm
tin vào hệ thống này.

Chính vì vị thế quan trọng của USD trong giai đoạn này cũng như việc gắn
giá trị và cam kết chuyển đổi ra vàng không hạn chế nên USD đã trở thành đồng
tiền hàng đầu trong dự trữ của các nước. Những năm đầu sau chiến tranh thế giới
thứ II, Mỹ bội thu cán cân vãng lai trong khi các nước, đặc biệt là châu Âu bị thâm
hụt nặng nề, nhu cầu USD tăng lên mạnh mẽ. Để giúp tái thiết châu Âu, Mỹ đã trợ
cấp các nước châu Âu thông qua gói cứu trợ Marshall. Đồng thời, do cán cân thanh
toán của các nước châu Âu liên tục thâm hụt nên một loạt những đồng tiền đã được
chấp nhận phá giá như Anh, Pháp..
Tuy nhiên, bước sang những năm 1950 trở đi, cán cân cơ bản của Mỹ từ chỗ
thặng dư sau chiến tranh đã dần dần trở nên thâm hụt. Ban đầu mức thâm hụt này
chưa đáng lo ngại khi Mỹ vẫn đủ lượng vàng để đảm bảo cho các tài sản nợ bằng
đô la Mỹ. Tuy nhiên, càng ngày tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán của Mỹ
càng trở nên đáng lo ngại, đặc biệt là từ 1958 - 1961. Trong quá trình tích lũy
USD, nhiều NHTW nước ngoài đã tiến hành chuyển đổi USD dự trữ của mình ra
vàng, dòng vàng chảy ra khiến Mỹ phải quan tâm đến tình trạng này, trong đó có
sự ra đời của “Thỏa thuận chung về vay mượn” và việc thỏa thuận của NHTW các
nước về việc ngừng chuyển đổi đồng đô la ra vàng.
Từ giữa những năm 60s, cùng với cuộc chiến tranh Việt Nam, cán cân thanh
toán của Mỹ ngày càng xấu đi, đồng USD và một số đồng tiền khác đang bị coi là
4


được định giá quá cao so với giá trị thực. Làn sóng đầu cơ vào những đồng tiền
xuất hiện, trong đó có đô la Mỹ. Vào năm 1971, hoạt động đầu cơ tấn công vào
đồng USD trở nên mạnh mẽ, làm cho USD ngày càng bị định giá quá cao, khiến áp
lực phá giá đồng USD (so với vàng) tăng lên. Trước những áp lực đầu cơ ngày
càng tăng, buộc nước Mỹ vào ngày 15/8/1971 đã chính thức công bố “đồng USD
không tiếp tục được chuyển đổi ra vàng nữa” cũng như áp đặt các hàng rào thuế
quan đối với hàng nhập khẩu. Mục đích là nhằm buộc các nước phải nhanh chóng
nâng giá đồng tiền của mình so với USD.

Trước động thái của Mỹ nhằm cho phép thả nổi tỷ giá và đồng ý tự do hóa
thương mại hơn nữa, cũng như thực tế sự chênh lệch về tỷ lệ lạm phát giữa các
nước công nghiệp ngày càng lớn và tình trạng cán cân của Mỹ ngày càng trở nên
xấu đi, từ năm 1972 đến đầu những năm 1973, một loạt đồng tiền đã tuyên bố thả
nổi với đồng đô la. Hệ thống Bretton Woods sụp đổ.
1.1.6. Chế độ bản vị tiền giấy không chuyển đổi ra vàng (Từ 1973 đến
nay)
Sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ cho đến đầu những năm 90s, hệ
thống tiền tệ thế giới trải qua nhiều biến động. Từ cú sốc cung dầu mỏ lần thứ nhất
năm 1973, lần thứ hai năm 1978, những sự thay đổi trong các chính sách của IMF,
sự hùng mạnh của đồng USD trong những năm 1980 – 1985 đã ảnh hưởng nhiều
đến dự trữ ngoại hối của các nước. Trong dự trữ ngoại hối, các tài sản bằng USD
vẫn được nắm giữ hàng đầu, ngoài ra là những đồng tiền mạnh như Yên Nhật, Mác
Đức, Franc Pháp và đồng bảng Anh.
Cũng trong giai đoạn những năm 90s, những tiền thân cho việc hình thành
một cộng đồng chung châu Âu đã ra đời, trong đó có sự liên minh về tiền tệ giữa
các nước châu Âu nhằm ổn định tỷ giá, tăng cường khả năng lưu chuyển vốn giữa
các nước trong châu Âu đã được thiết lập. Trên nền tảng những liên minh đó, ngày
1/1/1999, đồng tiền chung châu Âu, Euro, trở thành tiền tệ chính thức.
Với ảnh hưởng kinh tế và thương mại quốc tế, đồng Euro ngày càng trở
thành một trong những đồng tiền chủ chốt trong dự trữ ngoại hối của các nước.
Theo một bản nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương châu Âu tỷ lệ của đồng Euro
trong dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu tăng từ 13% trong năm 2001 lên 16,4% trong
năm 2002 và đến 18,7% trong năm 2003, cũng trong cùng thời gian này tỷ lệ của
đồng Đô la Mỹ giảm từ 68,3% (2001) xuống 67,5% (2002) và trong năm 2003 còn
5


64,5%. Trong dự trữ ngoại hối của thế giới hiện nay, những đồng tiền chủ chốt là
USD, Euro, bảng Anh, Franc Thụy Sỹ và Yên Nhật.

Như vậy, trong quá trình phát triển của dự trữ ngoại hối, đây luôn là quỹ sử
dụng trước hết với mục đích thanh toán quốc tế. Chính vì thế, không có gì ngạc
nhiên khi cơ cấu dự trữ ngoại hối luôn là những phương tiện thanh toán được chấp
nhận rộng rãi bởi nhiều quốc gia, có giá trị ổn định, được đảm bảo bởi vai trò kinh
tế của của các quốc gia phát hành.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Ngoại hối
“Ngoại hối” (the foreign exchange) bao gồm các phương tiện thanh toán có
giá trị được sử dụng trong thanh toán quốc tế. Trong đó, phương tiện thanh toán là
những thứ có sẵn để chi trả, thanh toán lẫn cho nhau.
Theo Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày 13/12/2005 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội nước CHXNCN Việt Nam, tại Điều 4, khoản 1 có quy định:
Ngoại hối bao gồm:
a) Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền
chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là
ngoại tệ);
b) Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu
đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
c) Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
d) Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của
người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và
mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
đ) Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường
hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong
thanh toán quốc tế.
Khái niệm ngoại hối thường được hiểu theo luật định và khá thống nhất giữa
các quốc gia.
1.2.2. Dự trữ ngoại hối


6


Dự trữ ngoại hối là một quỹ dự trữ vô cùng quan trọng mà hầu hết các quốc
gia trên thế giới hiện nay đều phải duy trì và sử dụng. Vậy dự trữ ngoại hối là gì?
(+) Trong Cẩm nang Cán cân Thanh toán Quốc tế, IMF định nghĩa Dự trữ
ngoại hối là toàn bộ tài sản bằng ngoại hối sẵn sàng sử dụng để can thiệp, thể hiện
trên bảng cân đối tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
(+) Theo Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày 13/12/2005 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội nước CHXNCN Việt Nam, tại Điều 4, khoản 19 có viết:
“Dự trữ ngoại hối nhà nước là tài sản bằng ngoại hối thể hiện trong bảng cân đối
tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.”
(+) Theo Nghị định của Chính phủ số 86/1999/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm
1999 về quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước, tại Điều 1 có quy định: Dự trữ ngoại
hối nhà nước là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước được thể hiện trong bảng cân
đối tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý dự
trữ ngoại hối nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả
năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Rõ ràng là khái niệm về dự trữ ngoại hối khá trùng khớp với nhau dù được
trích dẫn theo nguồn nào. Do đó, các thành phần của dự trữ ngoại hối cũng được
các quốc gia thống nhất một số khoản mục sau: Dự trữ ngoại hối nhà nước bao
gồm:
- Ngoại tệ tiền mặt, số dư ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi ở nước ngoài;
- Hối phiếu và các giấy nhận nợ của nước ngoài bằng ngoại tệ;
- Các chứng khoán nợ do Chính phủ, ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ
hoặc ngân hàng quốc tế phát hành, bảo lãnh;
- Vàng tiêu chuẩn quốc tế;
- Các loại ngoại hối khác.
Hiện nay, quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam được lập thành hai quỹ là quỹ
dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng.

1.2.3. Đánh giá quy mô dự trữ ngoại hối
7


Việc xác định qui mô của dự trữ ngoại hối như thế nào là phù hợp còn tuỳ
thuộc vào nhu cầu của mỗi nước. Nếu chỉ đảm bảo các nhu cầu giao dịch thông
thường thì các NHTW thường xác định mức dự trữ ngoại hối tương đương một số
tuần và tháng nhập khẩu nhất định. Trong trường hợp NHTW muốn theo đuổi
chính sách tỷ giá cố định thì đòi hỏi phải có một qui mô dự trữ lớn hơn nhiều. Với
cơ chế tỷ giá mang tính cố định, nếu không có lượng dự trữ ngoại hối đủ lớn để
can thiệp kịp thời vào thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái trở nên biến động,
không đảm bảo cho NHTW ổn định tỷ giá.
Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá quy mô dự trữ ngoại hối nhà nước
Để đo lường quy mô dự trữ ngoại hối của một quốc gia, xác định mức dự trữ
đó là đủ hay còn thiếu, người ta sử dụng một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Tỷ lệ dự trữ ngoại hối/Giá trị 1 tuần nhập khẩu trong năm tiếp theo
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng thanh toán của quốc gia nhằm tài trợ
cho nhu cầu nhập khẩu sắp đến. Thông thường hiện nay, dự trữ của một quốc gia
đáp ứng được 12-14 tuần nhập khẩu thì được đánh giá là đủ.
- Tỷ lệ dự trữ ngoại hối/Nợ ngắn hạn nước ngoài.
Chỉ tiêu này chủ yếu được dùng để đo lường khả năng trả nợ ngắn hạn và
chống đỡ đối với các cuộc tấn công tiền tệ hoặc đối với việc rút vốn ào ạt ra khỏi
một quốc gia. Để đạt tiêu chuẩn, tỷ lệ này phải lớn hơn 1, nghĩa là dự trữ ngoại hối
một quốc gia ít nhất phải lớn hơn tổng nợ ngắn hạn nước ngoài thì mới đảm bảo
tính thanh khoản của quốc gia đóc trước các chủ nợ nước ngoài.
- Tỷ lệ dự trữ ngoại hối/mức cung tiền rộng M2
Tỷ lệ này theo chuẩn quốc tế là từ 10 đến 20%. Tuy nhiên, theo nhiều
nghiên cứu thì tỷ số dự trữ trên M2 lại không có mối tương quan cao với tỷ số dự
trữ so với nợ ngắn hạn. Do đó, một tỷ lệ dự trữ so với M2 cao hay thấp không nhất
thiết phải dẫn đến sự biến động tương ứng trong tỷ lệ dự trữ so với nợ. Tỷ lệ

DTNH/M2 có tầm quan trọng đặc biệt ở những quốc gia có khả năng thất thoát vốn
trong nước do hệ thống ngân hàng quá yếu kém hoặc chính sách điều hành tỷ giá
cứng nhắc theo kiểu cố định.

8


1.3. Vai trò của dự trữ ngoại hối

Dự trữ ngoại hối ngày càng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của một
quốc gia. Có nhiều yếu tố cấu thành lên tầm quan trọng của dự trữ ngoại hối,
nhưng một số yếu tố chủ yếu là:
1.3.1. Dự trữ ngoại hối dùng để giải quyết các khoản nợ và các khoản thanh
toán quốc tế giữa chính phủ các nước.
Trong quá trình phát triển, các nước thường xuyên thiếu vốn. Chính vì thế, vay
nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng. Nguồn vốn vay này thường
dùng chi cho cơ sở hạ tầng, chi tiêu chính phủ và trợ cấp xã hội.
Dự trữ ngoại hối góp phần làm tăng khả năng trả nợ của một quốc gia. Thông
qua mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và dự trữ ngoại hối, ta có thể đánh giá được
khả năng thanh toán của quốc gia đó. Nếu khả năng thanh toán tốt sẽ là một trong
những điều kiện làm tăng hệ số tín nhiệm quốc gia.
Với lượng lớn DTNH, các nước có thể sử dụng sức mạnh dự trữ này để yêu cầu
giảm giá hàng hóa với hàng mua lượng lớn đồng thời giảm lãi suất khi đi vay, từ
đó giúp tăng khả năng thu hút các dòng vốn nợ của nước ngoài. Đây là một trong
những nguồn vốn quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước, đặc biệt đối
với những nước đang phát triển.
1.3.2. Dự trữ ngoại hỗi giúp quốc gia tăng khả năng can thiệp vào thị trường
ngoại hối
DTNH giúp điều chỉnh các dòng chu chuyển tiền tệ, giúp ổn định tỷ giá hối
đoái, cung cấp một môi trường kinh tế thuận lợi hơn, đặc biệt cho mục đích xuất

nhập khẩu. Đây là vai trò chính của dự trữ ngoại hối. Với chức năng như một quỹ
bình ổn của nền kinh tế, dự trữ ngoại hối góp phần làm ổn định cung cầu ngoại tệ
trên thị trường. Chính sách này hết sức linh hoạt tùy thuộc vào từng quốc gia cũng
như trong từng giai đoạn khác nhau. Để làm cho đồng nội tệ mạnh hơn và ổn định
hơn, các quốc gia có thể dùng dự trữ ngoại hối để mua đồng nội tệ vào, từ đó làm
tăng cầu nội tệ và xác định giá trị cao hơn cho nó. Ngược lại, nếu muốn hạ thấp giá
trị của đồng nội tệ, thúc đẩy xuất khẩu, các nước có thể dùng dự trữ để mua những
ngoại tệ khác, thay đổi cơ cấu trong dự trữ của mình, làm tăng cầu ngoại tệ, tác
động gián tiếp đến đồng nội tệ. Đây cũng là cơ chế chống giảm phát trong nền kinh
tế.
9


Ngoài ra, đồng tiền định giá thấp còn giúp thu hút các nhà đầu tư chứng khoán
do các loại chứng khoán rẻ hơn so với thị trường quốc tế. Chính vì thế, để thu hút
các khách hàng và nhà đầu tư nước ngoài, một nước có thể dùng dự trữ ngoại hối
để làm định giá thấp đồng tiền của mình.

E

D1
D2

E1
E2
S

Q1 Q2

Q (nội tệ)


Hình 1.

Hình 1. Dùng dự trữ ngoại hối mua đồng nội tệ làm tăng cầu nội tệ, khiến cho
giá nội tệ tăng lên.
E

S

E2
E1
D2
D1
Q1 Q2

Q (ngoại tệ)
10


Hình 2
Hình 2: Dự trữ ngoại hối mua ngoại tệ làm tăng cầu ngoại tệ, khiến tỷ giá tăng
lên.
1.3.3. Dự trữ ngoại hối bảo vệ nền kinh tế
Dự trữ ngoại hối của một quốc là một tấm lá chắn giúp bảo vệ nền kinh tế
của đất nước chống lại những cuộc tấn công đầu cơ vào đồng nội tệ và bảo vệ nền
kinh tế khi có khủng hoảng xảy ra. Ở những nước có dấu hiệu bất ổn về kinh tế và
có dự trữ ngoại hối thấp, các quỹ đầu cơ thường nhằm vào những yếu kém này để
tiến hành đầu cơ với mục đích làm mất giá đồng bản tệ và thu lời. Thông qua
những hợp đồng mua bán phái sinh tiền tệ, những tổ chức này gây nên hiện tượng
khan hiếm giả tạo ngoại tệ trên thị trường. Khi đó, nếu dự trữ ngoại hối đủ mạnh,

ngân hàng trung ương có thể can thiệp bằng cách bán ra ngoại tệ, giữ vững giá trị
và ổn định của đồng nội tệ. Như vậy, dự trữ ngoại hối như một tấm đệm giúp ổn
định lại thị trường, vô hiệu hóa sự tấn công của các quỹ đầu cơ này.
Tương tự khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, các dòng vốn đầu tư nước ngoài sẽ ồ
ạt chảy ra khỏi nền kinh tế, cung ngoại tệ trong nền kinh tế sẽ sụt giảm mạnh, dẫn
đến nguy cơ phá giá đồng nội tệ, lạm phát có thể gia tăng. Nếu nắm giữ dự trữ
ngoại hối đủ mạnh, ngân hàng trung ương các nước có thể can thiệp nhằm bình ổn
tỷ giá cũng như thị trường ngoại hối. Từ đó góp phần hạn chế những tác động tiêu
cực của cuộc khủng hoảng kinh tế.
1.3.4. Dự trữ ngoại hối làm tăng vị thế quốc gia và doanh nghiệp
DTNH thể hiện sức mạnh kinh tế của mộ quốc gia, làm tăng vị thế quốc gia
và doanh nghiệp trên trường quốc tế, giúp mở rộng thương mại quốc tế, giảm chi
phí tài chính doanh nghiệp trong nước, ngăn ngừa và giải quyết rủi ro tài chính
quốc tế. Dự trữ ngoại hối giúp làm tăng niềm tin của những nhà đầu tư quốc tế vào
thị trường trong nước khi mà những khoản đầu tư này được đảm bảo khả năng
chuyển đổi khi quá trình đầu tư kết thúc. Chính vì thế, những nước có dự trữ ngoại
hối lớn sẽ có lợi hơn trong thu hút đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, xây dựng dự
trữ ngoại hối mạnh giúp các nước ở trong một vị thế tốt với các đồng minh và góp
phần cân bằng kinh tế thế giới.
11


1.3.5.

Tăng niềm tin vào các chính sách tỷ giá và tiền tệ của Chính phủ

Dự trữ ngoại hối lớn giúp tăng niềm tin của người dân vào các chính sách tỷ giá
và tiền tệ của chính phủ. Như đã phân tích ở trên, với những lợi ích đem lại, dự trữ
ngoại hối giúp ổn định tâm lý người dân trong nước. Việc ổn định của thị trường
cũng như tâm lý tin tưởng của người dân là một trong những điều kiện để các quy

định và chính sách của nhà nước được thực thi có hiệu quả.
Tuy nhiên, nắm giữ ngoại hối cũng có những chi phí nhất định. Dự trữ ngoại
hối thường có những tiêu chuẩn nhất định, khi dự trữ vượt mức quá lớn, các nước
có thể phải chịu những chi phí gọi là chi phí dự trữ ngoại hối.
Thứ nhất, chi phí phát sinh từ rủi ro tỷ giá. Thị trường ngoại hối trên thế giới
biến đổi không ngừng, trong đó có tỷ giá. Khi có biến động tỷ giá theo chiều
hướng xấu, giá trị của nó sẽ giảm đi một cách tương đối khiến cho giá trị dự trữ
giảm đi. Thậm chí, việc tỷ giá thay đổi có thể gây ra những khoản lỗ lớn mặc dù
nền kinh tế không có khủng hoảng.
Thứ hai, lạm phát. Ảnh hưởng của việc giảm sức mua đồng tiền trong dự trữ
ngoại hối thường xuyên do lạm phát cũng làm giảm giá trị của nguồn dự trữ này.
Chính vì thế, chính phủ các nước phải thường xuyên gia tăng dự trữ ngoại hối
nhằm duy trì sức mạnh ảnh hưởng của mình.
Thứ ba, chi phí cơ hội. Nắm giữ ngoại hối thường là những tài sản an toàn, có khả
năng sinh lời thấp như trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ hay của các địa phương.
Việc nắm giữ dự trữ ngoại hối sẽ làm mất đi các cơ hội đầu tư có khả năng sinh lợi cao.
Chính vì thế ngày nay các nước có dự trữ ngoại hối lớn thường đa dạng hóa các khoản
đầu tư của mình, trong đó có những quỹ dành cho việc đầu tư vào những tài sản có khả
năng sinh lời cao, tuy cũng phải chịu rủi ro lớn.

1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối của Quốc gia
Dự trữ ngoại hối là một quỹ được hình thành từ rất nhiều nguồn và sự biến
động của bất cứ nguồn nào cũng làm ảnh hưởng đến lượng dự trữ ngoại hối. Bên
cạnh đó dự trữ ngoại hối còn được quản lý bởi NHTW và Nhà nước nên mỗi động
thái của các cơ quan này cũng ít nhiều tác động đến lượng dự trữ của quỹ. Sau đây
là những nhân tố chính tác động đến dự trữ ngoại hối quốc gia.

12



1.4.1 Cán cân thanh toán quốc tế
Theo định nghĩa của IMF, cán cân thanh toán quốc tế là một bản báo cáo
thống kê ghi chép và phản ánh các giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người
không cư trú. Nó cũng là một bảng thống kê chi tiết về các nguồn cung cầu ngoại
tệ của một quốc gia. Khi có bất cứ một giao dịch nào phát sinh thì đồng thời trên
cán cân thanh toán cũng ghi lại giao dịch đó là phát sinh cung hay cầu ngoại tệ.
Tuy nhiên, cán cân thanh toán không chỉ phản ánh trạng thái ngoại tệ của
một quốc gia mà một số cán cân thành phần còn có tác động trực tiếp đến nguồn
cung hay cầu ngoại tệ, từ đó ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối của quốc gia.
.4.1.1.

Cán cân thương mại:

Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh
toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập
khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng
như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch
là lớn hơn không cán cân thương mại thặng dư, nhỏ hơn không thì cán cân thương
mại bị thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng không, cán cân thương mại ở
trạng thái cân bằng.
Nếu cán cân thương mại thặng dư sẽ có một lượng ngoại tệ chảy vào nền
kinh tế, ngược lại, nếu cán cân thương mại thâm hụt, một lượng ngoại tệ sẽ đi ra.
Do đó, cán cân thương mại là một trong những nhân tố chính ảnh hưởng trực tiếp
đến nguồn cung dự trữ ngoại hối.
Tuy nhiên, cán cân thương mại không phải là một yếu tố có thể tự biến đổi
mà bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, vì thế những nhân tố đó có thể coi là có tác
động gián tiếp đến dự trữ ngoại hối.
Thứ nhất: năng lực sản xuất của quốc gia
Một nước có nền kinh tế phát triển, tư liệu sản xuất hiện đại, công nghệ tiên
tiến sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Khi đó không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước

mà còn nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hoá ra thị truờng thế giới. Dẫn đến kim
ngạch xuất khẩu lớn hơn kim ngạch nhập khẩu. Ngoại tệ do các quốc gia khác
thanh toán sẽ chảy vào. Ngược lại, với các quốc gia kém phát triển, kĩ thuật thô sơ,
công nghệ lạc hậu, nhân lực yếu kém thì việc đáp ứng các nhu cầu trong nước cũng
khó khăn nên sẽ phải nhập khẩu nhiều. Hơn thế nữa, các nước này lại không có
13


được lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế đối với các sản phẩm của mình nên
kim ngạch xuất khẩu cũng thấp. Từ đó dẫn đến tình trạng nhập siêu, ảnh hưởng
tiêu cực đến tăng trưởng quy mô dự trữ ngoại hối.
Thứ hai: các chính sách thương mại quốc tế của Nhà nước
Các quyết định của Nhà nước có thể tác động đến mọi thành phần tham gia
thương mại quốc tế. Hầu hết Chính phủ các quốc gia đều khuyến khích các doanh
nghiệp trong nước xuất khẩu.Các chính sách khuyến khích này phần nào tạo lợi thế
cho các công ty xuất nhập khẩu trong nước, làm sản lượng hàng hoá xuất khẩu
tăng, hạn chế nhập khẩu, từ đó cải thiện tình hình của cán cân thương mại và tăng
cung ngoại tệ cho nền kinh tế.
Thứ ba: hành vi hay thói quen của người tiêu dùng
Một quốc gia có truyền thống sử dụng hàng nội địa sẽ không phải tốn kém
một khoản ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa nước ngoài khi nền sản xuất trong nước
hoàn toàn có thể đáp ứng được. Điều ngược lại xảy ra với những quốc gia mà dân
chúng có tâm lý thích dùng hàng ngoại. Khi đó, dù hàng trong nước hoàn toàn có
khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thì dân chúng vẫn lựa chọn hàng hoá nước
ngoài do ý thích của mình. Một lượng ngoại tệ sẽ chảy ra khỏi quốc gia đơn giản
chì vì thói quen tiêu dùng của người dân. Điều này còn đặc biệt có tác động xấu
đến dự trữ ngoại hối nếu như nguời dân có xu hưóng tiêu dùng những hàng hóa
nhập ngoại xa xỉ vì khi đó nhập siêu là không thể tránh khỏi và lượng cầu ngoại tệ
cho tiêu dùng sẽ rất lớn.
1.4.1.2. Cán cân vốn

Cán cân vốn là một bộ phận của cán cân thanh toán, nó ghi lại tất cả
những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động sản hay tài sản tài
chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú với người không cư trú.
1.4.1.2.1. Cán cân di chuyển vốn ngắn hạn
Cán cân di chuyển vốn ngắn hạn bao gồm các khoản vốn đi ra hay đi vào
của khu vực tư nhân (chiếm tỷ trọng lớn) và khu vực nhà nước nhưng dưới rất
nhiều các các hình thức khác nhau: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, các
hoạt động trên kinh doanh ngoại hối và giấy tờ có giá ngắn hạn kể cả các luồng
vốn đầu cơ.

14


Khi các luồng vốn chảy vào sẽ làm tăng cung ngoại tệ, từ đó có xu hướng
làm tăng dự trữ ngoại hối. Ngược lại, các luồng vốn đi ra sẽ làm tăng cầu ngoại tê.
Các luồng vốn ngắn hạn này phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố sau: Chênh lệch tỷ
giá, tỷ suất lợi tức kỳ vọng ngắn hạn, lãi suất và các yếu tố thuộc về môi trường
kinh tế, chính trị - xã hội...
Vì vậy, khi lợi tức kì vọng cao hay lãi suất cao sẽ thu hút được nhiều luồng
vốn ngắn hạn chảy vào nhằm đầu tư sinh lãi. Hoặc khi có biến động về tỷ giá, các
luồng vốn này cũng sẽ tích cực tham gia thị trường nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Một
phần của luồng vốn này sẽ được chảy vào dự trữ ngoại hối ( tuỳ theo mục đích điều
tiết của Nhà nước) làm tăng DTNH
1.4.1.2.2. Cán cân di chuyển vốn dài hạn
Cán cân di chuyển vốn dài hạn bao gồm các khoản vốn đi ra hay đi vào khu
vực tư nhân và khu vực nhà nước dưới các hình thức đầu tư trực tiếp, gián tiếp và
các hình thức đầu tư dài hạn khác.
Tương tự như cán cân vốn ngắn hạn, việc đi vào hay đi ra của các nguồn vốn
cũng làm phát sinh cung hay cầu ngoại tệ. Quy mô và tình trạng cán cân vốn dài
hạn phụ thuộc vào các nhân tố như: Tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng dài hạn, hiệu quả

biên của vốn đầu tư (MEI hay ICOR) và các yếu tố thuộc về môi trường đầu tư, sự
ổn định về chính trị, xã hội.
.4.2. Các chính sách tiền tệ, tỷ giá và các biện pháp quản lý ngoại hối của
Nhà nước
.4.2.1. Chính sách tỷ giá
Là những hoạt động của chính phủ (mà đại diện thường là NHTW) thông
qua một cơ chế điều hành tỷ giá và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì
một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến 1 mức cần thiết phù
hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Qua đó Nhà nước sử dụng một cách
hợp lý, có hiệu quả cho các nhu cầu phát triển kinh tế và hoạt động đối ngoại.
Nội dung chính của chính sách tỷ giá bao gồm:
- Hành vi phá giá nội tệ, tức là những can thiệp của chính phủ để đồng nội tệ

15


trở nên được định giá thấp hơn. Để đạt được mục đích này, chính phủ có thể sử
dụng DTNH hấp thụ ngoại tệ trên thị trường ngoại hối nhằm làm giảm cung ngoại
tệ đồng thời “bơm” nội tệ ra, động thái này sẽ làm tăng dự trữ ngoại hối.
- Hành vi nâng giá nội tệ, tức là những can thiệp của chính phủ để đồng nội tệ
trở nên định giá cao hơn. Chính phủ có thể bán ngoại tệ ra thị trường ngoại hối
nhằm tăng cung ngoại tệ, giảm lượng nội tệ, động thái này sẽ làm giảm dự trữ
ngoại hối.
- Hành vi duy trì tỷ giá ở một mức độ nhất định, bao gồm những can thiệp của
chính phủ để duy trì tỷ giá là ổn định không đổi, để có thể duy trì một tỷ giá cố
định, chính phủ phải không ngừng mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, điều
này làm thay đổi quy mô dự trữ ngoại hối.
- Không can thiệp, để cho tỷ giá biến động tự do theo quan hệ cung cầu thị
trường. Với chính sách này, Nhà nước không cần thiết sử dụng dự trữ ngoại hối để
can thiệp vào tỷ giá chính vì thế dự trữ ngoại hối không bị ảnh hưởng.

.4.2.2.
Chính sách quản lý dự trữ ngoại hối
Dự trữ ngoại hối thuộc quyền quản lý của Nhà nước hoặc NHTW nhưng các
cơ quan này không chỉ có nhiệm vụ bảo quản và cất giữ mà còn phải có những
biện pháp quản lý nhằm đảm bảo quy mô và cấu trúc dự trữ ngoại hối. Hơn thế
nữa, Nhà nước hoặc NHTW còn phải biết sử dụng để phục vụ cho đầu tư phát triển
kinh tế, luôn đảm bảo an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị
trường quốc tế. Bên cạnh ban hành các đạo luật về quản lý dự trữ ngoại hối NHTW
còn can thiệp mua bán, chuyển đổi cũng như đầu tư để chống thất thoát, xói mòn
quỹ.
.4.2.3.

Các quy định về kiều hối

Nếu một quốc gia có ý định kìm hãm lượng kiều hối sẽ ban hành chính sách,
cơ chế về kiều hối với những biện pháp cứng rắn. Ví dụ như thủ tục để người trong
nước có thể nhận đựoc kiều hối là rất phức tạp. Hơn thế nữa còn có các quy định
về hạn mức và số lần nhận tiền. Điều này đã gây khó khăn cho những người được
nhận kiều hối, tác động xấu đến dòng ngoại tệ nhận về theo cách này. Khi đó dự
trữ ngoại hối sẽ mất đi một nguồn cung cấp.
Tuy nhiên nếu quốc gia theo hướng tự do hoá, tháo gỡ hết các khó khăn,
vướng mắc trong quá trình tiếp nhận kiều hối. Đồng thời một loạt cơ chế mới về
quản lý ngoại hối thông thoáng, linh hoạt được ban hành thì lượng kiều hối chuyển
vào sẽ tăng lên rõ rệt.

16


1.4.2.4. Các biện pháp quản lý ngoại hối khác
Ngoài ra, các biện pháp quản lý ngoại hối khác của Nhà nước cũng có ảnh

hưởng thường xuyên đến dự trữ ngoại hối. Các pháp lệnh hạn chế việc đầu tư nước
ngoài vào quốc gia hay đầu tư từ trong nước ra nước ngoài, hay các quy định kết
hối, về việc sử dụng ngoại hối trong phạm vi lãnh thổ, …. sẽ có những tác động
làm thay đổi quy mô cũng như cấu trúc của dự trữ ngoại hối quốc gia.
.4.3.

Biến động tỷ giá

Sự thay đổi tỷ giá của các đồng tiền trong dự trữ ngoại hối sẽ làm thay đổi
giá trị của dự trữ ngoại hối khi quy đổi ra một đồng tiền nào đó làm thước đo. Giả
sử đồng tiền làm thước đo được chọn là USD, nếu USD giảm giá so với các đồng
tiền khác, khi đó giá trị tương đối giữa các đồng tiền đó với USD sẽ tăng lên, làm
giá trị dự trữ ngoại hối được tính bằng USD tăng lên. Điều ngược lại xảy ra khi
USD lên giá.
.4.4.

Tình hình kinh tế thế giới

Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, mối liên hệ và sự trao đổi giữa các
quốc gia ngày càng trở nên khăng khít. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, các nền
kinh tế không chỉ tác động qua lại lẫn nhau mà còn chịu ảnh hưởng không nhỏ từ
sự biến động chung của tình hình thế giới. Khi nền kinh tế bị tác động, dự trữ
ngoại hối của quốc gia cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng. Có thể phân những
ảnh hưởng này ra làm 2 loại: Tích cực và tiêu cực.
.4.4.1.

Tác động tích cực

Những tác động tích cực là những tác động góp phần giúp chính phủ quản lý
dự trữ ngoại hối một cách hiệu quả và dễ dàng hơn. Khi tình hình kinh tế thế giới

biến đổi theo chiều hướng tốt giúp:
Thứ nhất: tốc độ tăng trưởng các nước tăng cao, nhất là các nước đang phát
triển, năng lực sản xuất tốt, góp phần thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh
toán, giúp tăng dự trữ ngoại hối quốc gia.
Thứ hai: tăng đầu tư, tăng dòng vốn từ nước ngoài chảy vào (đặc biệt là các
nước đang phát triển). Những dòng vốn này có thể là : vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu
tư gián tiếp, vay nợ … Tác động tích cực đến dự trữ ngoại hối.

17


Thứ ba: Tiêu dùng tăng cao, khi nền kinh tế phát triển, thu nhập được cải
thiện, người dân có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn, trong đó có việc tiêu dùng hàng
nhập ngoại. Điều này có lợi cho những nhà xuất khẩu từ các nước đối tác, tăng
thặng dư thương mại, cải thiện dự trữ ngoại hối.
Ngoài ra, khi có biến động xảy ra (ví dụ như thiên tai, bão lũ, chiến tranh…)
làm cho một số nước khan hiếm hàng xuất khẩu của nước sở tại, làm tăng cầu hàng
hoá của nước này, điều này cũng góp phần cải thiện dự trữ ngoại hối của nước sở
tại.
.4.4.2.

Tác động tiêu cực

Ngược lại, khi nền kinh tế thế giới gặp khó khăn sẽ gây những tác động tiêu
cực đến dự trữ ngoại hối:
Thứ nhất: thâm hụt thương mại gia tăng, nền kinh tế các nước đi vào suy
thoái, sản xuất bị thu hẹp, cầu về hàng hoá xuất khẩu giảm, ảnh hưởng tiêu cực đến
dự trữ ngoại hối.
Thứ hai: sụt giảm đầu tư do sự giảm sút của dòng vốn từ bên ngoài chảy
vào. Giảm cung ngoại tệ vào quốc gia, tác động xấu đến qui mô dự trữ ngoại hối.

Thứ ba: tiêu dùng giảm sút, khi sản xuất bị đình trệ, một số người có khả
năng mất việc làm, hay chí ít là thu nhập bị ảnh hưởng cộng với dòng kiều hối
chảy vào giảm sẽ kéo theo sụt giảm trong tiêu dùng của các hộ gia đình, trong đó
có tiêu dùng các hàng hoá nhập ngoại, điều này ảnh hưởng tới các đối tác xuất
khẩu, dự trữ ngoại hối cũng có xu hướng giảm.
1.4.5. Những nhân tố khác
1.4.5.1. Tâm lý
Niềm tin của người dân vào đồng nội tệ hay các chính sách của Nhà nước có
ảnh hưởng rất lớn đến dự trữ ngoại hối, niềm tin vào đồng nội tệ suy giảm sẽ dẫn
đến hiện tượng Đô la hoá – hiện tượng mà trong một nền kinh tế, ngoại tệ được sử
dụng rộng rãi thay thế cho đồng nội tệ trong toàn bộ hay một số chức năng tiền tệ,
nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc đô la hoá 1 phần – khi đó lượng
ngoại tệ trôi nổi ngoài hệ thống ngân hàng không ngừng tăng lên, đồng thời luồng

18


ngoại tệ thu về từ xuất khẩu, kiều hối… cũng không chảy nhiều vào hệ thống ngân
hàng. Điều này gây ra khó khăn cho chính phủ trong việc tăng dự trữ ngoại hối.
…..

CHƯƠNG II
DỰ TRỮ NGOẠI HỐI CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN
HÌNH: KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
2.1. Bài học kinh nghiệm về dự trữ ngoại hối Thái Lan trong khủng hoảng
châu Á 1997
Như đã phân tích ở chương I, vai trò của dự trữ ngoại hối đối với mỗi quốc
gia là vô cùng quan trọng. Ở bất cứ quốc gia nào, việc không duy trì được sự ổn
định và hợp lý của dự trữ ngoại hối sẽ là một trong những nhân tố tiềm ẩn dẫn đến
khủng hoảng tài chính. Nghiên cứu dự trữ ngoại hối trong thực tiễn các cuộc khủng

hoảng là điều cần thiết khi muốn tìm hiểu và vận dụng vào nền kinh tế nước ta.
Một trong những cuộc khủng hoảng lớn trong thế kỷ XX không những đã gây nên
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của các nước trực tiếp đối mặt mà còn
gây ra những ảnh hưởng lớn đến kinh tế thế giới là cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Á 1997. Trong đó, điểm bùng phát và chịu thiệt hại nặng nề nhất của cuộc
khủng hoảng này là Thái Lan. Dự trữ ngoại hối mỏng đã không thể giúp Thái Lan
tránh khỏi cơn bão khủng hoảng có sức ảnh hưởng lâu dài này.
2.1.1. Bối cảnh nền kinh tế Thái Lan trước khủng hoảng
Cho đến đầu thập niên 90, nền kinh tế các nước khu vực Đông Á trải qua
thời kỳ tăng trưởng nhanh và ổn định. Cùng lúc, nhiều nền kinh tế khu vực như
Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore và Hàn Quốc có tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế khá ấn tượng, đạt được 8-12% tổng sản lượng nội địa (GDP) liên tục
trong khoảng thời gian cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90. Thành quả đạt được
này đã được nhiều viện nghiên cứu kinh tế hoan nghênh, bao gồm cả quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF) và ngân hàng thế giới (World Bank), và nó được biết đến như một
phép lạ của kinh tế Đông Nam Á. Cho đến năm 1997, Châu Á thu hút gần một nửa
tổng số vốn nước ngoài dành cho những nước đang phát triển. Các nền kinh tế
19


Đông Nam Á có tỷ lệ lợi tức cao đặc biệt có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài tìm kiếm tỷ lệ hoàn vốn cao. Kết quả là nhiều nền kinh tế trong khu
vực thu nhận được một lượng lớn “tiền nóng” (hot money) và trải qua một thời kỳ
giá tài sản tăng vọt. Thái Lan cũng không phải là ngoại lệ khi có tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm là 9%, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, nguồn nhân lực chất
lượng cao, đẩy mạnh xuất khẩu và công nghiệp hóa.
Tuy nhiên, đằng sau những con số tăng trưởng ấn tượng ấy, những dấu hiệu
bất ổn của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng cũng dần lộ diện.
Trong suốt 30 năm, Thái Lan đã ra sức đẩy nền kinh tế phát triển với tốc độ cao,
vượt quá khả năng nội tại của nền kinh tế. Họ sử dụng tối đa nguồn tài nguyên

thiên nhiên hạn hẹp của mình, mở rộng vay nợ nước ngoài và kêu gọi đầu tư ồ ạt.
Kinh tế phát triển với tốc độ đứng đầu thế giới nhưng nợ nước ngoài cũng không
ngừng tăng lên, trong đó nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn. Sau một thời kì tăng
trường kinh tế mạnh, đến năm 1996, nền kinh tế Thái Lan đã tăng trưởng chậm lại.
Thị trường bất động sản sau một thời gian tăng trưởng nóng, trở nên bong bóng,
bắt đầu giảm giá và khủng hoảng. Hơn thế nữa, chính sách tỷ giá bị dồn nén miễn
cưỡng kết hợp với chính sách tự do hóa dòng vốn một cách thái quá của thị trường
tiền tệ gây ra nguy cơ mất thanh khoản trong hệ thống ngân hàng . Những mầm
mống cho một cuộc khủng hoảng đã xuất hiện.
2.1.2. Thực trạng dự trữ ngoại hối Thái Lan trước khủng hoảng.
Trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh của mình, tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu cao đã giúp cho cán cân thanh toán của Thái Lan thặng dư trong một thời
gian dài. Không những thế, cán cân vốn thặng dư và liên tục tăng. Điều đó đã giúp
cho Thái Lan tích trữ được một lượng dự trữ ngoại hối lớn.

20


Bảng 1. Tỷ giá và dự trữ ngoại hối của Thái Lan
Nguồn: Ngân hàng trung ương Thái Lan

Trong giai đoạn 1993-1996, dự trữ ngoại hối Thái Lan có mức tăng khá đều
đặn, trung bình hàng năm là 18%. Chỉ trong vòng bốn năm, mức dự trữ đã tăng
15,38 tỷ USD (từ 23,756 tỷ USD năm 1993 đến 39,137 tỷ USD năm 1996). Với
lượng tăng nhanh như vậy, liệu Thái Lan đã tích trữ đủ mức dự trữ ngoại hối? Để
có thể đánh giá sức mạnh dự trữ ngoại hối của Thái Lan, đo lường khả năng chống
đỡ lại những biến động hay các cuộc tấn công vào nền kinh tế, ta sẽ xem xét thông
qua các chỉ tiêu quan trọng được sử dụng dưới đây:
- .Tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên giá trị một tháng nhập khẩu trong năm tiếp
theo.

- .Tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên mức cung tiền rộng M2.
- .Tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên nợ ngắn hạn nước ngoài.
2.1.2.1. Phân tích tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên giá trị một tháng nhập khẩu
21


và trên mức cung tiền M2
Năm

1993

1994

1995

1996

DTNH (tỷ USD)

23,756

28,138

33,666

39,137

Mức tăng hàng năm

-


18,44%

19,65%

16,25%



6,3

6,6

Dự trữ ngoại hối tính
trên giá trị một tháng
nhập khẩu (tháng)
Nguồn: Ngân hàng trung ương Thái Lan

Qua bảng trên ta thấy được tỷ lệ (dự trữ ngoại hối / giá trị một tháng nhập
khẩu trong năm tiếp theo) rất khả quan. Cụ thể, năm 1995 là 6,3 tháng và năm
1996 là 6,6 tháng. Đây là một chỉ tiêu cao hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn 3 tháng
của thế giới. Do đó, xét trên khía cạnh đảm bảo thanh toán quốc tế thì dự trữ ngoại
hối của Thái Lan rất an toàn.

Tỷ lệ DTNH/M2 (đơn vị: %) và DTNH/tháng NK (đơn vị: tháng) qua các năm

Nguồn: Ngân hàng trung ương Thái Lan
Bên cạnh đó, trong mối tương quan với mức cung tiền rộng M2, dự trữ
ngoại hối Thái Lan cũng được đánh giá rất tốt. Trên thế giới, tiêu chuẩn cho chỉ số


22


này là từ 10-20% trong khi Thái Lan luôn duy trì dự trữ ngoại hối trên mức cung
tiền rộng là xấp xỉ 20% trong suốt giai đoạn 1990-1996. (Xem biểu đồ trên)
Liệu 2 chỉ tiêu này đã đủ để khẳng định rằng dự trữ ngoại hối Thái Lan là
lớn, là an toàn trong vai trò tấm đệm cho nền kinh tế trước những biến động bất lợi
trên thị trường ngoại hối? Chúng ta cần xem xét chỉ tiêu thứ 3.
2.1.2.2. Phân tích tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên nợ ngắn hạn nước ngoài
Chỉ tiêu này được dùng để đo lường khả năng trả nợ ngắn hạn và chống đỡ
đối với một cuộc tấn công tiền tệ hay sự rút vốn ào ạt từ các nhà đầu tư nước ngoài
của chính phủ Thái Lan. Như đã nói ở trên, trong một thời gian dài, luồng vốn từ
các nước phát triển chảy vào Thái Lan không ngừng gia tăng. Thêm vào đó, những
chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ Thái Lan tỏ ra quá dễ dãi, tự do hoá tài
chính được đẩy mạnh, bắt đầu từ việc nâng lãi suất nội địa, rồi tiến đến xoá bỏ
kiểm soát trong khi không tăng cường cơ chế giám sát, và mở cửa tài khoản vốn.
Những chính sách này cùng với chính sách duy trì tỷ giá hối đoái cố định đã
khuyến khích dòng vốn ngắn hạn nước ngoài chảy vào gây bong bóng tài sản và
nguy cơ bị tấn công tiền tệ cho nền kinh tế.
Năm

1995

1996

1997

1998

Dự trữ ngoại hối ròng


37.0

38.7

27.0

29.5

Nợ ngắn hạn nước ngoài 52.3

47.7

38.3

28.3

81.2

70.5

104.5

Dự trữ ngoại hối / Nợ
ngắn hạn nước ngoài
(%)

70.8

Dự trữ ngoại hối/ Nợ ngắn hạn nước ngoài

Nguồn: IMF
Trái ngược với 2 chỉ tiêu trước, chỉ tiêu này cho thấy dự trữ ngoại hối Thái
Lan chưa đủ lớn và không an toàn như người ta tưởng. Dự trữ ngoại hối Thái Lan 2
năm trước khủng hoảng đều không đủ để trang trải cho những khoản nợ ngắn hạn
nước ngoài trong trường hợp chủ nợ rút vốn ồ ạt. Trên thực tế, nợ ngắn hạn nước
23


ngoài chỉ là một phần trong tổng nguồn vốn ngắn hạn chảy vào thị trường Thái Lan
- nguồn vốn mà đặc điểm nổi bật nhất của nó là tính linh hoạt. Khi các nhà đầu tư
hoảng sợ, gần như toàn bộ nguồn vốn này có khả năng chảy khỏi nền kinh tế chỉ
trong vòng vài tuần thậm chí vài ngày. Trong trường hợp tấn công tiền tệ xảy ra,
dự trữ ngoại hối sẽ không chỉ phải bảo vệ đồng Baht trước động thái rút vốn của
nhà đầu tư nước ngoài mà còn từ chính những người dân Thái Lan. Bởi lẽ, khi
người dân mất lòng tin vào đồng nội tệ của mình, cầu ngoại tệ sẽ tăng đột biến, các
khoản tiền gửi bằng ngoại tệ sẽ không ngừng chảy ra khỏi hệ thống ngân hàng, các
nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và chuyển ra ngoài.
Các ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán và cứu cánh cuối cùng là dự trữ ngoại
hối quốc gia cũng không thể đủ mạnh để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng hệ
thống tài chính.
Nợ ngắn hạn nước ngoài Dự trữ ngoại tệ
(tỷ USD)
(tỷ USD)

Tỷ lệ dự trữ ngoại hối
so với nợ ngắn hạn (%)

45.57

68.96


31.36

Nợ ngắn hạn vào quý II năm 1997 (ngay trước khủng hoảng)
Nguồn: IMF
Vậy nguyên nhân nào làm cho nguồn vốn ngắn hạn lớn chảy vào Thái Lan
và gây ra rủi ro cho hệ thống tài chính đến như vậy? Trong những nguyên nhân
được đưa ra có hai nguyên nhân chủ yếu:
2.1.2.2.1. Hệ thống tài chính yếu kém
Khi tập trung quá nhiều vào tăng trưởng, các nhà hoạch định chính sách
Thái Lan đã quên đi lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế: Hệ thống tài chính ngân
hàng. Nếu như những dấu hiệu vĩ mô của nền kinh tế còn chưa rõ ràng và chưa đến
mức cảnh báo thì các dấu hiệu cảnh bảo quan trọng nhất của cuộc khủng hoảng đến
từ sự mong manh của hệ thống tài chính.
Trước hết là tâm lý ỷ lại. Từ đầu thập niên 1990, tự do hóa được thực hiện từ
từ ở hầu hết các nền kinh tế Đông và Đông Nam Á. Chính phủ ít có can thiệp và
phân bổ tín dụng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, với những tổ chức tài chính ở Thái
Lan, người cấp vốn vẫn tin rằng mình sẽ được bảo đảm khi tính tới những mối
24


quan hệ chính trị mà chủ sở hữu của tổ chức tài chính có được. Chính vì vậy, mặc
dù không có sự bảo lãnh chính thức của chính phủ, những tổ chức tài chính, đặc
biệt là những ngân hàng thuộc quyền sở hữu của nhà nước hay những ngân hàng
lớn, luôn coi mình là “quá lớn không thể thất bại”. Các tổ chức tài chính được bảo
lãnh ngầm có động cơ không chỉ thực hiện các hoạt động đầu tư rủi ro mà còn theo
đuổi tất cả các dự án có suất sinh lời kỳ vọng thấp nếu các dự án này được lợi lớn
trong trường hợp thành công.
Chính tâm lý ỷ lại, kết hợp với lòng tham lợi nhuận lớn của các tổ chức tài
chính mà hàng loạt các khoản vay nước ngoài ngắn hạn được đầu tư dài hạn dẫn

đến rủi ro thanh khoản lớn.
Hơn thế nữa, một tỷ trọng lớn vốn cho vay của ngân hàng và các tổ chức tài
chính phi ngân hàng được tập trung vào khu vực bất động sản, các khoản cho vay
bất động sản của những công ty tài chính tăng 41%/năm trong giai đoạn 1990-1995
(trong khi tổng tín dụng chỉ tăng 33%/năm). Bất động sản là tài sản có mức cung
cố định, chính vì thế giá bất động sản sẽ gia tăng. Mọi người đầu tư vào bất động
sản vì kỳ vọng giá bất động sản sẽ tăng lên. Bong bóng giá cả phình ngày một lớn
thì sẽ đến lúc bị vỡ; tức là đến khi các nhà đầu tư bắt đầu nhận thấy có lẽ tình hình
thực tế xảy ra không đúng với kỳ vọng. Tài sản bị bán ra ồ ạt làm giá của tài sản
giảm mạnh. Thị trường bất động sản đứng trên bờ vực sụp đổ, người dân Thái Lan
sẽ có cảm giác bất an, mất niềm tin vào hệ thống tài chính và đồng nội tệ. Họ có xu
hướng nắm giữ những tài sản có giá trị ổn định như USD, làm tăng cầu USD.
2.1.2.2.2. Chính sách tài chính tiền tệ không hợp lý ( bộ 3 bất khả thi)
Lý thuyết bộ ba bất khả thi - The Impossible Trinity (hay Inconsistent
Trinity hoặc Triangle of Impossibility) là một chính sách kinh tế quốc tế. Lý thuyết
phát biểu rằng: một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc 3 mục
tiêu chính sách vĩ mô:
• Cố định tỷ giá
• Tự do hoá dòng vốn
• Chính sách tiền tệ độc lập
Một quốc gia chỉ có thể chọn tối đa 2 trong 3. Nó có thể chọn một chính
sách ổn định tỷ giá nhưng phải hy sinh tự do hoá dòng vốn tức là tiếp tục kiểm
soát vốn và nó có thể chọn một chính sách tự do hoá dòng vốn nhưng vẫn tự chủ về
25


×