Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Phân tích khái niệm, cấu trúc của ý thức pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.69 KB, 11 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Có thể nói trong quản lý xã hội, việc pháp luật được thực hiện như thế nào
phụ thuộc rất lớn vào ý thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội. Như vậy, với
đời sống xã hội như hiện nay thì ý thức pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng.
Nó là phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường
của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một
công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự
phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần
bồi đắp nên những giá trị mới. Để hiểu thêm về vấn đề này, nhóm em xin phân
tích chi tiết thông qua đề tài:" Phân tích khái niệm, cấu trúc của ý thức pháp
quyền"


NỘI DUNG
1. Khái niệm của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một dạng của ý thức xã hội, bao gồm tổng thể những
quan điểm lý luận khoa học, tư tưởng, tình cảm, sự đánh giá của con người về
pháp luật, về những hành vi của con người và hoạt động của cơ quan tố chức
trong xã hội trong việc thực hiện pháp luật.
Từ khái niệm này, ta có thể thấy:
- Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, có nguồn gốc từ thực tiễn
đời sống xã hội và phản ánh tồn tại xã hội từ góc nhìn pháp luật;
- Con đường hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tuân theo quy luật
chung của quá trình nhận thức: xuất phát từ nhận thức cảm tính (tình cảm, tâm
trạng, thái độ của con người đối với pháp luật và các sự kiện pháp lý), tiếp theo
là giai đoạn nhận thức lý tính (hình thành nên các khái niệm, quan điểm, học
thuyết về các vấn đề pháp luật);
- Ý thức pháp luật là toàn bộ những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan
niệm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật
Ý thức pháp luật có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối trong quan hệ tồn tại


với xã hội. Điều này thể hiện ở việc ý thức pháp luật có thể lạc hậu hơn tồn tại xã
hội. Thực tế đã chứng minh: tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng những tàn dư của quá
khú được giữ lại đặc biệt ngoan cố trong lĩnh vực tâm lý pháp luật, nơi mà các
thói quen truyền thống đóng vai trò to lớn ý thức nói chung, điều này khiến cho
nhiều người có thái độ ngoan cố, coi thường pháp luật "phép vua thua lệ làng".
Mặt khác, nhiều tư tưởng pháp luật, đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học có
thể vượt lên trên sự phát triển của tồn tại xã hội. Nhà làm luật xây dựng những
VBPL có tính dự trù, tiên liệu, nó vượt trước tồn tại xã hội, nhất là bộ phận tư


tưởng pháp luật. Ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Nó có
thể là động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các sự vật hiện tượng.
Thứ hai, ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp: thế giới quan
pháp lý của 1 giai cấp nhất định được quy định bởi địa vị pháp lý của giai cấp đó
trong xã hội. Mỗi quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật, nhưng tồn tại một số
hình thái ý thức pháp luật: Có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp
luật của giai cấp bị trị và ý thức pháp luật của các tầng lớp trung gian. Về nguyên
tắc, ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được phản ánh vào trong pháp
luật và ý thức pháp luật của giai cấp bị trị sẽ mâu thuẫn với ý thức pháp luật của
giai cấp thống trị trong xã hội.Trong xã hội ta, giữa giai cấp công nhân, nông dân
và các tầng lớp lao động khác trong xã hội có lợi ích thống nhất với nhau về cơ
bản, do đó ý thức pháp luật mang tính thống nhất cao. Nó phản ánh sự thống
nhất về chính trị, tư tưởng của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.


2. Cấu trúc của ý thức pháp luật:
2.1 Căn cứ theo cấp độ và giới hạn nhận thức
Căn cứ theo cấp độ và giới hạn nhận thức, ý thức pháp luật được chia thành:
ý thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật mang tính lý luận và ý thức pháp
luật nghề nghiệp.

- Ý thức pháp luật thông thường là kinh nghiệm của chủ thể về pháp luật, chỉ
phản ánh được các mối liên hệ bên ngoài của pháp luật mà chưa phản ánh được
bản chất của pháp luật.Ý thức pháp luật thông thường biểu hiện ở khả năng phản
ánh các hiện tượng pháp lí, khả năng nhận thức pháp luật còn có những hạn định,
bên ngoài, phiến diện và riêng rẽ. Cấp độ ý thức pháp luật này mang tính phổ
thông trong xã hội nên nó chưa có tính hệ thống, tính hợp lý và khoa học như ý
thức lí luận. Nó có tính ổn định không cao như ý thức pháp luật mang tính lí luận
nhưng có tính sống động, linh hoạt hơn vì nó sát thực và gẫn gũi với đời sống
hiện thực xã hội.
- Ý thức pháp luật mang tính lí luận là hệ thống các học thuyết, tư tưởng,
quan điểm, quan niệm về pháp luật, phản ánh được mối quan hệ bên trong, bản
chất của pháp luật.Ý thức pháp luật mang tính lí luận thể hiện sự nhận thức về
pháp luật và các hiện tượng pháp lí một cách sâu sắc, toàn diện cả về bản chất,
nội dung và hình thức. Cấp độ ý thức pháp luật này thường đi liền với ý thức và
hoạt động khoa học, do đó về mặt chủ thể nó tồn tại các nhà khoa học, luật gia,
luật sư hoặc là các giáo viên giảng dạy pháp luật, cá nhận trong cơ quan có thẩm
quyền áp dụng pháp luật... Ý thức pháp luật mang tính lí luận có tính ổn định cao
hơn ý thức pháp luật thông thường bởi nó đã trải qua quá trình kiểm chứng về
mặt thực tiễn và tìm kiếm sự phù hợp với tri thức xã hội nói chung.
- Ý thức pháp luật nghề nghiệp là dạng ý thức được nhận diện theo từng lĩnh
vực nghề nghiệp… So với ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật
mang tính lý luận, ý thức pháp luật nghề nghiệp mang tính đặc trưng bởi sự kết


hợp hài hòa giữa yếu tố tư tưởng và yếu tố tâm lý. Bởi ý thức pháp luật nghề
nghiệp không chỉ mang những đặc trưng của ý thức pháp luật nói chung vừa
mang những đặc thù riêng biệt của từng lĩnh vực chuyện ngành cụ thể. Ví dụ như
ý thức pháp luật trong lĩnh vực giao thông có những nội dung, yêu cầu các thức
thể hiện, cấp độ tồn tại khác biệt nhất định so với ý thức pháp luật trong lĩnh vực
kinh tế. Chính vì lẽ đó mà nhận thức về các quy định pháp luật chuyên ngành

cũng như thái độ pháp lí của các cá nhân tổ chức ở từng lĩnh vực cụ thể có những
đặc điểm riêng biệt. Ý thức pháp luật nghề nghiệp thể hiện mức độ chuyên sâu
về sự hiểu biết am hiểu trong các lĩnh vực chuyên ngành cụ thể mà còn đặc trúng
bởi khả năng thực tế cao do thường xuyên áp dụng pháp luật trong thực tiễn công
việc cuộc sống.


2.2 Căn cứ theo nội dung, tính chất
Căn cứ theo nội dung, tính chất, ý thức pháp luật được cấu thành từ hai bộ
phận: hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
- Hệ tư tưởng pháp luật:Hệ tư tưởng pháp luật là toàn bộ những quan điểm,
tư tưởng, học thuyết, trường phái lí luận về pháp luật. Hệ tư tưởng pháp luật có
thể có những nhân tố mang tính khoa học hoặc phản khoa học. Nếu là một hệ tư
tưởng pháp lí khoa học thì nó phản ánh đúng đắn các mối quan hệ vật chất và
quy luật phát triển khách quan của xã hội. Ngược lại hệ tư tưởng pháp lí phản
khoa học cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất của xã hội nhưng đó lại là sự
phản ánh sai lầm, xuyên tạc và thiếu tính khách quan. Hệ tư tưởng pháp luật
không đơn thuần là sản phẩm mang ý chí của giai cấp cầm quyền mà nó còn hàm
chứa các giá trị khoa học được đúc kết, kế thừa từ thực tế của nền văn minh nhân
loại.


- Tâm lý pháp luật:Tâm lý pháp luật được thể hiện qua thái độ, tình cảm, tâm
trạng, xúc cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác, được hình
thành một cách tự phát thông qua giao tiếp và dưới tác động của các hiện tượng
pháp lý, là phản ứng trực tiếp và ở cấp độ đầu tiên, phản ứng một cách tự nhiên
của con người đối với các hiện tượng đó. Tâm lý pháp luật được biểu hiện ở sự
đồng tình, ủng hộ, sự phản đối lên án, sự coi trọng hay coi thường pháp luật..
Tư những phân tích trên , có thể nhận thấy mối quan hệ biện chứng giữa hệ
tư tưởng pháp luật với tâm lý xã hội. Chúng có cùng nguồn gốc là tồn tại xã hội

và cùng phản ánh tồn tại xã hội, có sự gắn bó chặt chẽ với nhau , tác động lẫn
nhau và đều là tiền đề, điều kiện của nhau. Tri thức, sự hiểu biết pháp luật là cơ
sở để hình thành thái độ, tình cảm pháp luât. Đồng thời, thái độ tình cảm pháp
luật là động lực thúc đêỷ sự tìm tòi, hiểu biết và tư tưởng trong tư tưởng về pháp
luật.
Ví dụ: Trong một xã hội đã hình thành nhà nước thì hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị được thể hiện trong nội dung, hình thức, trong quá trình thực hiện pháp
luật hiện hành; thể hiện tư tưởng quan điểm cách thức cai trị của giai cấp thống
trị đối với toàn xã hội; còn tâm lý pháp luật của các giai cấp, tầng lớp xã hội
khác chủ yếu được thể hiện thông qua thái độ, quan điểm, hành vi của họ đối với
pháp luật hiện hành và phản ứng của họ trước việc duy trì quản lý xã hội của nhà
nước để bảo vệ quyền lợi của mình.
2. Căn cứ theo chủ thể mang ý thức pháp luật.
Bên cạnh việc phận chia pháp luật theo cấp độ nhận thức, hay theo nội dung
tính chất, ý thức pháp luật còn được phân loại theo chủ thể mang ý thức pháp
luật. Từ sự nhìn nhận của các chủ thể ở những góc độ khác nhau, ý thức pháp
luật sẽ được tiếp cận một cách toàn diện và sâu sắc hơn, từ đó góp phần xây
dựng lý thuyết hoàn chỉnh về ý thức pháp luật phục vụ xây dựng Nhà nước pháp


quyền. Căn cứ theo chủ thể thể mang ý thức pháp luật, ý thức pháp luật được
phận chia như sau:
- Ý thức pháp luật cá nhân: Ý thức pháp luật của cá nhận được hình thành do
sự tác động bởi tư tưởng, tình cảm, tâm lý, thái độ của mỗi người đối với pháp
luật. Điều này được thể hiện qua hành vi ứng xử của họ đối với các quy định của
pháp luật. Ví dụ: tại ngã tư có tin hiệu đèn đỏ, ý thức pháp luật cá nhận được thể
hiện ở việc người tham gia giao thông dừng xe lại hay vượt đèn đỏ. Người dừng
xe lại là người có ý thức chấp hành pháp luật. Việc chấp hành ý thức pháp luật
của người này có thể bắt nguồn từ nhiều lí do: người đó là một người văn minh
lịch sự, người đó muốn an toàn tính mạng hoặc do tâm lý sợ công an bắt và xử

phạt.... Ngoài ra, ý thức pháp luật cá nhân còn được hình thành và phát triển do
sự do sự tác động của các yếu tố xã hội như điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa,
giáo dục và đặc biệt là dư luận xã hội. Một mặt, dư luận xã hội có tác động trực
tiếp phê phán những hành vi vi phạm pháp luật, biểu dương khích lệ những hành
vi phù hợp với lợi ích chung. Mặt khác, dư luận xã hội có ảnh hưởng lâu dài đến
việc xây dựng tới nhân cách, ý thức pháp luật của cá nhân. Điều này được thể
hiện qua những bình luận của mọi người trên mạng xã hội ngày này đối với một
sự kiện pháp lý. Nó không chỉ thể hiện hiện nhận thức của mỗi người đối với sự
việc mà nó còn tác động trở lại tới ý thức pháp luật của từng cá nhân thông qua
đọc những lời nhận xét của dư luận.
-Ý thức pháp luật của nhóm xã hội: nhóm xã hội là những người có những
nét tương đồng về điều kiện sống, lao động, sinh hoạt, nhu cầu, lợi ích cơ bản và
có chung quan điểm, thái độ, lập trường, tình cảm đối với pháp luật. Do đó, các
thành viên trong nhóm xã hội có nhận thức, thái độ tương đối giống nhau về
pháp luật, làm hình thành nên ý thức pháp luật chung của nhóm xã hội.
Dư luận xã hội có vai trò, tác động quan trọng đối với ý thức pháp luật của
nhóm xã hội. Dưới tác động của luồng thông tin về các sự kiện, hiện tượng pháp


luật các thành viên trong nhóm xã hội sẽ cùng được lôi cuốn vào quá trình bày
tỏ sự quan tâm của mình thông qua quá trình trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến của
mình với những người xung quanh. Thông qua sự bàn bạc qua lại giữa các thành
viên trong nhóm xã hội, nhóm đi đến một sự phán xét, đánh giá chung thể hiện
quan điểm của số đông người trong nhóm xã hội. Từ những phán xét đó, các
nhóm xã hội và cộng đồng xã hội đi tới hành động thống, nêu lên những kiến
nghị của họ trước thực tiễn đời sống pháp luật của xã hội.
- Ý thức pháp luật xã hội:Ý thức pháp luật xã hội là ý thức của bộ phận tiến
bộ đại diện cho xã hội chứa đựng các quan điểm, tư tưởng khoa học về những
vấn đề cơ bản nhất của pháp luật.
Ý thức pháp luật xã hội thường được chính thức hóa trong xã hội. Tuy nhiên,

không phải ý thức pháp luật xã hội chính là ý thức của giai cấp cầm quyền. Do
đó, không phải lúc nào nó cũng có tính thống trị trong xã hội. Rất nhiều trường
hợp giai cấp thống trị đã lỗi thời, lạc hậu nhưng nó vẫn áp đặt, duy trì ý thức
pháp luật của nó đối với toàn xã hội. Chẳng hạn như trong xã hội tư bản, ý thức
pháp luật xã hội là ý thức pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
vì nó tiến bộ, tích cực và thuộc về số đông nhưng chưa bao giờ là ý thức chính
thống đối với xã hội vì chính quyền chưa thuộc về họ. Mặt khác, ý thức pháp
luật xã hội không có nghĩa là ý thức chung của toàn xã hội mà nó tồn tại không
có sự đồng nhất giữa ý thức của các giai cấp, lực lượng xã hội. Ý thức pháp luật
xã hội vận động theo xu hướng phù hợp với sự phát triển của cơ sở hạ tầng và
những khuynh hướng chính trị phổ biến trong xã hội. Đương nhiên, những
nguyên lý của pháp luật, các giá trị nhân bản và những lợi ích thiết yếu của con
người đòi hỏi phải được nhận thức, thể hiện trong hệ thống pháp luật. Do đó, ý
thức pháp luật xã hội là đối tượng luôn tại nên sự quan tâm của các đối tượng xã
hội từ những giá trị cụ thể được hiện thực hóa bởi nhà nước và các thiết chế xã
hội khác.


Khác với ý thức pháp luật của cá nhân và ý thức pháp luật của nhóm xã hội, ý
thức pháp luật xã hội mang tính khái quát ở trình độ cao và tính hệ thống chặt
chẽ. Hệ thống quan điểm, tư tưởng của ý thức pháp luật xã hội giữ vai trò đính
hướng và quyết định đối với nội dung các phán xét đánh giá của dư luận xã hội
về các vấn đề pháp luật. Đến lượt mình, dư luận xã hội cũng có tác động nhất
định đối với ý thức pháp luật xã hội.
Trong xã hội có các giai cấp đối kháng, các giai cấp khác nhau lại có những ý
thức khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích của giai cấp mình. Do đó, các giai
cấp khác nhau thì ý thức về pháp quyền của các giai cấp là khác nhau. Điều đó
có nghĩa là không có ý thức pháp luật chung cho mọi giai cấp. Ý thức pháp
quyền của giai cấp nào thì phản ánh những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
làm nảy sinh, duy trì sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển hoặc dẫn đến sự diệt

vong của giai cấp đó. Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào
sức mạnh cưỡng chế của nhà nước mà còn phụ thuộc và trình độ hiểu biết pháp
luật của xã hội.
Đối với giai cấp thống trị, việc nắm giữ tư liệu sản xuất trong tay, luôn tìm
cách áp đặt ý thức pháp quyền của nó lên giai cấp khác cho thấy ý thức pháp
quyền của giai cấp thống trị có ảnh hưởng lớn tới ý thức pháp quyền của giai cấp
bị trị. “Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì nó cũng chi phối
luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của người
không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi
phối”1. Như vậy, có thể thấy về mặt xã hội, ý thức pháp quyền luôn mang tính
giai cấp.
Ở Việt Nam hiện nay, ý thức pháp quyền của xã hội ta là ý thức pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Sự thống nhất cao về mặt lợi ích cơ bản giữa giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đã tạo nên hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành.
1


Việc thể hiện ý chí của giai cấp công nhân cũng đồng thời phản ánh và thể hiện
lợi ích dân tộc trong công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân.
KẾT BÀI
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của ý
thức pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm
mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến
bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính.




×