Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích khái niệm, đặc điểm của tổ chức xã hội nghề nghiệp và nêu vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quản lý hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.38 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Ngày nay trong công cuộc xây dựng đất nước nói chung và quản lý hành chính nhà
nước nói riêng các cơ quan, tổ chức không hoạt động riêng rẽ, đơn lẻ mà phải có sự phối
kết hợp với nhau để đạt hiệu quả công việc cao nhất. Không có cơ quan tổ chức nào tồn
tại và hoạt động mà không có mối liên hệ với các cơ quan tổ chức khác. Hoạt động quản
lý nhà nước là một hoạt động phức tạp nên sớm đặt ra yêu cầu thành lập các tổ chức
giúp đỡ. Trong đó không thể không thể không kể đến vai trò to lớn của các tổ chức xã
hội. Và trong tổ chức xã hội ở nước ta thì các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ngày càng có
xu hướng đông đảo và giữ vị trí đóng góp cho tổ chức xã hội cũng như hoạt động quản
lý nhà nước cụ thể hơn. Vì những lý do đó, chúng em xin chọn đề số 5: “ Phân tích
khái niệm, đặc điểm của tổ chức xã hội - nghề nghiệp và nêu vai trò của các tổ chức
xã hội - nghề nghiệp trong quản lý hành chính nhà nước.”

1


NỘI DUNG
I.

Khái niệm tổ chức xã hội nghề nghiệp
Tổ chức xã hội nghề nghiệp là một trong năm tổ chức xã hội ở nước ta, là hình thức
tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam có chung mục đích tập hợp những
người có cùng nghề nghiệp, hoạt động theo pháp luật và điều lệ, không vì lợi nhuận mà
nhằm đáp ứng lợi ích chính đáng của các thành viên là hỗ trợ họ trong hoạt động nghề
nghiệp và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ từ đó góp phần tham gia vào hoạt động
quản lý nhà nước.
Tổ chức xã hội do nhà nước sáng kiến thành lập được hình thành theo quy định
của nhà nước. Hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp được đặt dưới sự quản lý
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng là
tổ chức hoạt động mang tính chất tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ của từng tổ chức do tổ
chức đó quyết định hoạt động không mang tính quyền lực nhà nước, đảm bảo nguyên


tắc tự nguyện khi hình thành tổ chức.
Thứ nhất , tổ chức xã hội nghề nghiệp là loại hình tổ chức xã hội do nhà nước sáng
kiến thành lập được hình thành theo quy định của nhà nước. Tức là bao gồm những tổ
chức do nhà nước đề xuất thành lập, các tổ chức này hỗ trợ nhà nước giải quyết các vấn
đề nhất định như là :
Đối với Hiệp hội trọng tài ( bao gồm trọng tài thương mại và trọng tài viên ) trong
đó, trọng tài thương mại giải quyết tranh chấp trong thương mại và các tranh chấp khác
do pháp luật quy định; trọng tài viên đứng ra giải quyết các tranh chấp và cung cấp nội
dung các vụ tranh chấp mà mình giải quyết cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật.
Đối với Đoàn luật sư, Liên đoàn luật sư : Luật sư tham gia tố tụng, đại diện cho
khác hàng ngoài tố tụng, tư vấn pháp luật…
2


Thứ hai, tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng là tổ chức hoạt động mang tính tự quản,
tức là được thành lập theo dấu hiệu riêng của nghề nghiệp như: Hội đông y, Hội châm
cứu… Huy động rộng rãi những người có cùng nghề nghiệp nhằm đáp ứng các yêu cầu
đa dạng của các tầng lớp nhân dân như học tập, nâng cao trình độ các mặt, giúp đỡ,
động viên nhau trong cuộc sống, tham gia sinh hoạt văn hóa, thể thao, du lịch… cùng
nhau giải quyết các vấn đề liên quan nhưng mang tính chất chủ động, tự quản, không có
sự quản lí của nhà nước, hoàn toàn trên tinh thần tự nguyện.
Các tổ chức xã hội nghề nghiệp có quy mô rất khác nhau: có tổ chức hình thành hệ
thống trong cả nước, ở các địa phương,…Các tổ chức xã hội nghề nghiệp phát triển và
hoạt động có kết quả là sự phản ánh mức độ tiến bộ về dân trí và dân chủ trong xã hội.
Nhà nước có trách nhiệm quản lí, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội nghề
nghiệp ra đời và hoạt động đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của các tầng
lớp nhân dân. Và đồng thời các tổ chức xã hội nghề nghiệp, đặc biệt là các tổ chức được
thành lập theo sang kiến của nhà nước cũng có nghĩa vụ giúp đỡ, hỗ trợ nhà nước giải
quyết các vấn đề nhất định liên quan đến lĩnh vực của tổ chức đó.


3


Đặc điểm của các tổ chức xã hội nghề nghiệp

II.
1.

Đặc điểm chung
Các tổ chức xã hội nghề nghiệp là một loại tổ chức xã hội vì thế các tổ chức xã hội
nghề nghiệp cũng mang đặc điểm chung của các tổ chức xã hội, từ những đặc điểm này
ta có thể phân biệt tổ chức xã hội nghề nghiệp với các cơ quan nhà nước và tổ chức kinh

-

tế. Các đặc điểm đó bao gồm:
Các tổ chức xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự nguyện của những thành viên
cùng chung một lợi ích hay cùng giai cấp, cùng nghề nghiệp, sở thích….
+ Yếu tố tự nguyện được thể hiện rõ nét trong việc mỗi người được quyền tự do lựa
chọn và quyết định tham gia hay không tham gia vào một tổ chức xã hội nghề nghiệp
nào đó. Tuy nhiên yếu tố tự nguyện ở đây không đồng nghĩa với tự do vô tổ chức mà các
tổ chức đều đặt ra những tiêu chuẩn nhất định đối với người muốn trở thành thành viên
của tổ chức đó. Ví dụ: để tham gia vào đoàn luật sư của một tỉnh là hoàn toàn do tự
nguyện của mỗi người, nhưng để trở thành thành viên của đoàn luật sư đó thì phải đáp
ứng một số yêu cầu như: là công dân Việt Nam, có trình độ đại học luật, tốt nghiệp khóa
đào tạo nghề luật sư,…
+ Yếu tố tự nguyện được hiểu là việc kết nạp hay không khai trừ các thành viên của
tổ chức hoàn toàn do các tổ chức xã hội nghề nghệp và những thành viên của tổ chức đó
quyết định chứ nhà nước không can thiệp cũng như không sử dụng quyền lực nhà nước

để chi phối hoạt động đó.
- Khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước các tổ chức xã hội nghề nghiệp
nhân danh tổ chức mình chứ không phải nhân danh nhà nước. Chỉ trong một số trường
hợp đặc biệt do pháp luật quy định tổ chức này mới hoạt động nhân danh nhà nước.
Quyết định của tổ chức chỉ có hiệu lực với các thành viên của tổ chức mình, không có
hiệu lực với những người ngoài tổ chức đó, trừ một số trường hợp do quy định của pháp
luật.

4


- Các tổ chức xã hội nghề nghiệp hoạt động tự quản theo quy định của pháp luật và
điều lệ do các thành viên trong tổ chức xây dựng.
- Các tổ chức xã hội nghề nghiệp có thể là chủ thể của nhà nước nhưng không phải
là chủ thể mặc nhiên.
-Các tổ chức xã hội nghề nghiệp hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận
mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên. Mà cụ thể trong tổ chức
xã hội nghề nghiệp là quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên về hoạt động nghề
nghiệp của mình.
2.

Đặc điểm riêng
Bên cạnh những đặc điểm chung mà tổ chức xã hội nào cũng có thì các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp cũng có những đặc điểm riêng, là cơ sở để phân biệt tổ chức xã hội
-nghề nghiệp với các loại tổ chức xã hội khác. Các đặc điểm đó là:
- Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp được hình thành trên cơ sở cùng chung nghề
nghiệp giữa các thành viên trong tổ chức. Ví dụ: như hội luật sự bao gồm những người
làm nghề luật sư, hội nhà văn là tổ chức có cùng chung nghề nghiệp là nhà văn,...
- Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp là tổ chức do nhà nước sáng kiến thành lập,
được hình thành theo quy định của Nhà nước. Muốn trở thành thành viên của tổ chức xã

hội - nghề nghiệp phải đáp ứng đầy đủ điều kiện do Nhà nước quy định. Hoạt động
nghề nghiệp dưới sự quản lí của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khác với các tổ
chức xã hội khác, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có vai trò quan trọng, hỗ trợ và phối hợp
cùng cơ quan nhà nước giải quyết một số công việc xã hội vì thế các tổ chức này được
nhà nước sáng kiến thành lập. Đồng thời các điều kiện mà nhà nước đưa ra để trở thành
thành viên của một tổ chức xã hội – nghề nghiệp rất cụ thể. Ví dụ, để trở thành trọng tài
viên thuộc trung tâm trọng tài quốc tế cần đáp ứng đủ các yêu cầu sau: Có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ; Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan;Có bằng đại
học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ năm năm trở lên. Còn các hội nghề
5


nghiệp thì các thành viên là các cá nhân có cùng ngành nghề hoặc yêu thích ngành nghề
đó tự nguyện tham gia mà không yêu cầu đặc trưng như nhóm một.
- Tổ chức xã hội - nghề nghiệp tham gia hỗ trợ nhà nước giải quyết một số vấn đề
xã hội.
- Tổ chức xã hội - nghề nghiệp được đề cao bởi nó không chỉ là tập hợp các cá nhân
để giúp đỡ giữa các thành viên của tổ chức mà hoạt động nghề nghiệp còn liên quan đến
quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều các nhân, tổ chức khác, quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của tổ chức.
Ví dụ: Liên đoàn luật sư hoạt động tham gia tố tụng, đại diện cho các tổ chức xã
hội khác giải quyết các vụ việc liên quan đến lợi ích chính đáng của các tổ chức đó. Hay
tham gia tư vấn pháp luật. Hoặc có nhiều trường hợp tham gia giúp đỡ những hoàn cảnh
khó khăn đòi lại được công lí đúng đắn từ đó góp phần nâng cao uy tín của tổ chức cũng
như bảo vệ quyền và lợi ích của các ca nhân tổ chức khác.
III.

Phân loại các tổ chức xã hội - nghề nghiệp:

Tổ chức xã hội – nghề nghiệp bao gồm: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam,

1.

Đoàn Luật sư và các tổ chức kinh tế tự nguyện.
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam:
Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội – nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp về hợp đồng kinh tế, tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty,
giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc mua bán trái phiếu, cổ
phiếu, việc thành lập, giải thể công ty.
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp bao gồm
các thành viên thuộc các thành phần kinh tế, hoạt động theo điều lệ của tổ chức được
Chính phủ phê duyệt, được quyền xét xử các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán
ngoại thương đã được ký kết giữa các tổ chức kinh tế Việt Nam với phía nước ngoài bao
gồm cả thể nhân và pháp nhân, các tranh chấp trong giao giao thông vận tải quốc tế như
6


thuê tàu, vận tải hàng hóa quốc tế, cứu hộ tàu biển,... với một bên hay các bên đương sự
là người nước ngoài hoặc tổ chức kinh doanh nước ngoài.
2. Đoàn Luật sư:
Đoàn Luật sư là hội nghề nghiệp của các luật sư được thành lập nhằm mục đích tập
hợp, hướng dẫn, giám sát và bênh vực quyền lợi các luật sư, duy trì uy tín nghề nghiệp
và nâng cao hiệu quả hành nghề của các luật sư thành viên. Đoàn luật sư có tư cách pháp
nhân, có tài khoản và con dấu riêng, hoạt động bằng kinh phí do các luật sư đóng góp
hoặc bằng kinh phí hợp pháp khác.

7


3.


Các tổ chức kinh tế tự nguyện (theo tính chất sản xuất):
Trong các tổ chức xã hội nghề nghiệp này, thành viên là những cá nhân tổ chức có
cùng ngành nghề, yêu thích nghề đó, tự nguyện tham gia nhằm thu hút người lao động
vào các nhiệm vụ sản xuất. Các hội nghề nghiệp không có những đặc trưng riêng của tổ
chức xã hội – nghề nghiệp đặc thù. Hoạt động nghề nghiệp của các hội nghề nghiệp
không xác lập riêng biệt chỉ đối với thành viên tổ chức, không có chức danh nghề nghiệp
riêng. Việc thành lập, đăng kí hoạt động của hội nghề nghiệp được tiến hành theo quy
định chung về quản lí hội. Ví dụ: hội kiến trúc sư Việt Nam, hội nhà thầu xây dựng Việt
Nam…
Vai trò của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp trong quản lý hành chính nhà nước:
Vai trò của tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong quản lý hành chính nhà nước do nhà

IV.

nước quy định bằng cách đặt ra các quyền và nghĩa vụ cho các tổ chức đó. Quyền và
nghĩa vụ của tổ chức xã hội nghề nghiệp được quy định trong nhiều văn bản luật khác
nhau như: Hiến pháp, Luật Luật sư, Pháp lệnh trọng tài thương mại,…Các quyền và
nghĩa vụ này xác định địa vị pháp lí cũng như năng lực chủ thể để các tổ chức này khi
1.

tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Vai trò trong phối hợp quản lý hành chính nhà nước
Nhóm quyền, nghĩa vụ này được lồng ghép trong các quyền, nghĩa vụ tham gia
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, theo đó các tổ chức xã hội nghề nghiệp có
các quyền như: quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật về kinh tế - xã hội, lao
động và các chính sách liên quan đến quyền, nghĩa vụ các thành viên trong tổ chức;
quyền phối hợp với cơ quan nhà nước trong việc nghiên cứu ứng dụng khoa học kĩ
thuật;… Các tổ chức này là đại diện cho các hội viên tham gia với các cơ quan nhà nước
trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của của các
hội viên.

Nhà nước tạo điều kiện để các tổ chức này tham gia các phiên họp có nội dung
liên quan đến hoạt động của tổ chức, phát biểu ý kiến qua đó bảo vệ lợi ích hợp pháp của
8


các thành viên. Nhà nước khuyến khích, giúp đỡ các tổ chức trong hoạt động nghề
nghiệp, tạo hành lang pháp lý để các tổ chức này hoạt động ổn định.
VD: Hàng năm Đoàn luật sư chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung bồi dưỡng
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho luật sư thành viên đồng thời thông báo, trao đổi
với Sở Tư pháp kế hoạch, nội dung bồi dưỡng để Sở Tư pháp tham mưu, đề xuất với
UBND thành phố Hà Nội các biện pháp hỗ trợ tài chính để thúc đẩy phát triển nghề luật
sư trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Hay Bộ Tư pháp phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam trong việc quản lý nhà nước
về trọng tài (Khoản 3, Điều 6, Pháp lệnh Số: 08/2003/PL-UBTVQH11)

9


2.

Vai trò trong hoạt động xây dựng pháp luật
Theo khoản 9 Điều 23 Nghị định Số: 45/2010/NĐ-CP: Quyền của hội bao gồm:
“ Tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt
động của hội theo quy định của pháp luật. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển hội và lĩnh vực hội hoạt động. Được
tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức các hoạt động dịch vụ khác theo quy định của pháp
luật và được cấp chứng chỉ hành nghề khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.”
Như vậy các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có vai trò trong việc đóng góp ý kiến cho
các dự thảo pháp luật của nhà nước, đặc biệt là các văn bản chung có liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong tổ chức. Mục đích là để chỉ ra những khiếm

khuyết trong các dự án này; thay mặt những thành viên trong tổ chức xã hội phản ánh
những tâm tư, nguyện vọng chính đáng để nhà nước xem xét khi xây dựng, hoàn thiện
pháp luật. Ý nghĩa: đảm bảo mở rộng dân chủ, giảm bớt những sai lầm, thiếu xót trong
hoạt động ban hành pháp luật; tăng cường tính khả thi của pháp luật; góp phần làm cho
pháp luật được thực hiện tốt hơn trong thực tế.
VD: Về việc đóng góp ý kiến vào dự thảo Bộ luật Hình sự, Thường trực liên đoàn
luật sư Việt Nam đề nghị Ban chủ nhiệm các Đoàn Luật sư tổ chức lấy ý kiến của các

3.

luật sư thành viên đối với dự thảo Bộ luật Hình sự.
Vai trò trong lĩnh vực thực hiện pháp luật
Quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong phạm vi có liên quan đến mình; quyền thông báo với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của họ và yêu cầu các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử lý.
VD: Sở Tư pháp thực hiện kiểm tra về tổ chức, hoạt động của các tổ chức hành
nghề luật sư trên địa bàn thành phố. Khi có đề nghị của Sở Tư pháp về kiểm tra hoạt
động của các tổ chức hành nghề luật sư thì Đoàn luật sư phối hợp với Sở Tư pháp để
thực hiện việc kiểm tra.
Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp còn có vai trò tham gia giải quyết tranh chấp
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; có quyền và nghĩa vụ tuyên truyền,
10


giáo dục ý thức pháp luật đối với thành viên trong tổ chức và đối với nhân dân lao động
nói chung thông qua các phong trào quần chúng, sinh hoạt tập thể.
Ví dụ: Đoàn luật sư tổ chức các tọa đàm, khóa bồi dưỡng nghiệp vụ luật sư, bồi
dưỡng kĩ năng hành nghề. Thông qua đó, các Luật sư không chỉ có cơ hội bổ sung kiến
thức chuyên môn mà còn là dịp để trao đổi gặp gỡ và chia sẻ các kiến thức, kinh nghiệm

chắt lọc từ thực tiễn.
Ban chấp hành Đoàn thanh niên Đoàn luật sư trao tặng học bổng cho các bạn sinh
viên có thành tích học tập xuất sắc nhằm động viên các bạn sinh viên tiếp tục cố gắng
phát huy hơn nữa tinh thần học tập của mình.
Đoàn thanh niên Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tổ chức buổi tuyên truyền Luật, tư
vấn pháp luật để người dân có thể tiếp thu các quy định pháp luật mới.

11


KẾT LUẬN
Như vậy, dựa vào việc phân tích khái niệm, đặc điểm của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp và nêu vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong quản lý hành chính nhà
nước đã chứng tỏ được vị trí của các tổ chức này trong hệ thống các cơ quan tổ chức của
nước ta. Tuy nhiên, hoạt động của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp vẫn còn bị hạn chế
nên cần đưa ra những chính sách tích cực và phù hợp hơn để các tổ chức có thể phát huy
được hiệu quả cao và đóng góp được nhiều hơn. Bên cạnh vai trò, các tổ chức xã hội nghề nghiệp còn có quyền và nghĩa vụ liên quan đến quản lý hành chính nhà nước cần
thực hiện. Do hiểu biết và kiến thức còn chưa thật sâu rộng nên bài làm chúng em còn
nhiều hạn chế, mong các thầy cô sửa chữa và đóng góp để bài làm được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, xuất bản năm

2.

3.
4.
5.

2015.
Trang Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, />Trang Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, />Trang Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, />Trang tài liệu Luật,
/>
13



×