Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích khái niệm,cấu trúc của ý thức pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.12 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
NỘI DUNG...............................................................................................................2
1. Khái niệm ý thức pháp quyền.........................................................................2
2. Cấu trúc của ý thức pháp quyền....................................................................5
2.1. Dựa trên cấp độ và giới hạn nhận thức..................................................5
2.2. Căn cứ theo nội dung, tính chất..............................................................7
2.3. Căn cứ vào chủ thể mang ý thức pháp luật.............................................8
KẾT LUẬN.............................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................12


MỞ ĐẦU
Trong quản lý xã hội, việc pháp luật được thực hiện như thế nào phụ thuộc
rất lớn vào ý thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội. Như vậy, với đời sống xã
hội hiện nay thì ý thức pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là phương tiện
không thể thiếu để bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói
chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý
Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thứ
đạo đức làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị
mới. Để hiểu thêm về vấn đề này, em xin phân tích đề tài: “Phân tích khái niệm,
cấu trúc của ý thức pháp quyền.”

1.

NỘI DUNG
Khái niệm ý thức pháp quyền.

Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về
bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức


xã hội và công dân, về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người
trong xã hội1.
Dưới góc độ triết học, ý thức pháp luật được tiếp cận với tư cách một trong
những hình thái ý thức xã hội (ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức,
ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo, ý thức khoa học). Ý thức pháp luật là một bộ
phận của ý thức xã hội ra đời từ thực tiễn đời sống xã hội và phản ánh tồn tại xã
hội. Ý thức pháp luật xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, phản ánh trực tiếp
các quan hệ kinh tế - xã hội mà trước hết, là những quan hệ sản xuất được thể hiện
trong các luật lệ nhà nước. Ý thức pháp luật xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
pháp luật. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển xã hội, chịu ảnh hưởng sâu sắc
1 Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.587-588.


bởi các hệ tư tưởng, quan điểm, quan niệm trong xã hội. Dưới góc độ tiếp cận của
triết học, ý thức pháp luật là toàn bộ những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan
niệm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật; mang lại cái nhìn sâu
sắc và khái quát về bản chất và vai trò của ý thức pháp luật trong ý thức xã hội nói
chung. Đây là cơ sở lý luận để tiếp cận nghiên cứu ý thức pháp luật dưới góc nhìn
của các khoa học cụ thể.
Dưới góc độ tiếp cận luật học, nhiều quan niệm về ý thức pháp luật đã được
các nhà luật học đưa ra. Chẳng hạn, “ý thức pháp luật - đó là trình độ hiểu biết của
các tầng lớp nhân dân về pháp luật..., là thái độ đối với pháp luật, ý thức tôn trọng
hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với hành vi phạm pháp luật và phạm
tội”2. Quan niệm này thiên về việc xác định chủ thể của ý thức pháp luật, chỉ ra
những biểu hiện cụ thể của ý thức pháp luật: trình độ hiểu biết pháp luật, thái độ
đối với pháp luật, thái độ đối với hành vi phạm pháp, phạm tội.
Tuy có thể tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu
một cách chung nhất về ý thức pháp luật như sau:
“Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan

niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp
luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về
tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, cũng như
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội”3.
Quan niệm này khá đầy đủ, chi tiết, nói lên được cả chủ thể của ý thức pháp
luật cũng như trình độ hiểu biết đối với pháp luật và thái độ, sự đánh giá, điều
chỉnh hành vi con người theo pháp luật.
2 Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.609.
3 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà nội, 2004,
tr.409.


Về cơ bản, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng, ý thức pháp
luật có hai đặc trưng như sau:
Thứ nhất, ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội có tính độc lập
tương đối.
Với tư cách là một bộ phận của ý thức xã hội, ý thức pháp luật xuất hiện,
nảy sinh trên nền tảng tồn tại xã hội nhất định, cụ thể là nó ra đời, biến đổi cùng
với nhà nước và pháp luật, tức là khi xã hội đã phân chia thành giai cấp. Ý thức
pháp luật bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Tuy nhiên, ý thức pháp luật cũng có tính
độc lập tương đối, được biểu hiện cụ thể trên các phương diện sau:
- Ý thức pháp luật có thể lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Mỗi kiểu nhà
nước và pháp luật tương ứng với một kiểu phương thức sản xuất đã không còn,
nhưng ý thức pháp luật của nó vẫn có thể tồn tại dai dẳng trong tồn tại xã hội mới.
- Ý thức pháp luật có thể tiến bộ hơn so với tồn tại xã hội. Những tư tưởng
pháp luật, đặc biệt là những tư tưởng khoa học pháp lý của các lực lượng tiến bộ
đang cầm quyền có tác dụng to lớn trong việc hình thành và phát triển một nền
pháp luật tiên tiến, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp.

Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, các giai cấp khác nhau luôn có những
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, lợi ích khác nhau và do vậy, ý thức
pháp luật của các giai cấp cũng có những nội dung và hình thức phát triển khác
nhau. Giai cấp thống trị, vì muốn củng cố, duy trì, bảo vệ địa vị chính trị và lợi ích
kinh tế của giai cấp mình, nên luôn luôn tìm mọi cách để hợp thức hóa ý chí của
giai cấp mình thành pháp luật thông qua con đường nhà nước.


Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Ý chí đó được nâng lên thành
luật, thành các quy tắc ứng xử mang tính chất bắt buộc phải thực hiện đối với toàn
xã hội. Pháp luật luôn bảo vệ cho giai cấp thống trị, là vũ khí chính trị của giai cấp
thống trị để chống lại các giai cấp, tầng lớp xã hội khác và đưa hoạt động quản lý
xã hội đi theo quỹ đạo, ý muốn của mình. Các giai cấp, tầng lớp xã hội không được
nắm quyền thống trị cũng có ý thức pháp luật của mình, song ý thức pháp luật của
những bộ phận xã hội này không được phản ánh đầy đủ trong hệ thống luật pháp.
Chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được phản ánh đầy đủ trong nội
dung, hình thức biểu hiện và quá trình thực thi pháp luật hiện hành.
2.
2.1.

Cấu trúc của ý thức pháp quyền.
Dựa trên cấp độ và giới hạn nhận thức.

Căn cứ vào cấp độ và giới hạn nhận thức, ý thức pháp quyền được chia
thành ba bộ phận cơ bản: ý thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật lý luận
và ý thức pháp luật nghề nghiệp.
-

Ý thức pháp luật thông thường: thể hiện mức độ nhận thức hạn chế,


thông qua sự phản ánh trực tiếp, giản đơn về các sự kiện, hiện tượng pháp luật xảy
ra trong đời sống xã hội, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa. Ý thức xã hội
thông thường có thể được ở đa số các thành viên trong xã hội, được hình thành
dưới ảnh hưởng trực tiếp của những điều kiện sống, lao động, sinh hoạt hàng ngày
và kinh nghiệm của các cá nhân khi họ tiếp xúc, va chạm với các sự việc, sự kiện
pháp lý. Ý thức pháp luật thông thường thể hiện kinh nghiệm của chủ thể nhận
thức trong việc xử lý các thông tin pháp luật, nói lên khả năng lý giải các sự kiện
pháp luật; do đó, nó chủ yếu mang tính kinh nghiệm, kém sâu sắc và thiếu sự ổn
định.


Ở cấp độ nhận thức này, ý thức pháp luật nhìn chung mới biểu hiện ở việc
con người thừa nhận, tiếp thu các nguyên tắc, quy định chung của pháp luật và xử
sự theo sự thừa nhận tiếp thu đó. Ý thức pháp luật thông thường mang có vai trò rất
quan trọng trong cuộc sống hàng ngày, giúp các chủ thể pháp luật nhận thức, xử lý
nhanh chóng, kịp thời các tình huống pháp luật xảy ra trong thực tế, định hướng và
điều chỉnh hành vi pháp luật phù hợp với các quy định của pháp luật trong chừng
mực chấp nhận được. Trước khi các lý luận khoa học pháp lý có thể can thiệp vào
từng tình huống pháp luật cụ thể thì ý thức pháp luật thông thường là cái cần thiết,
thường trực trong mỗi người khi học tham gia vào các quan hệ pháp luật. Ý thức
pháp luật thông thường mang tính phổ thông, phong phú, đặc trưng bằng các yếu tố
tâm lý xã hội, là nền tảng để xây dựng và phát triển ý thức pháp luật lý luận.
-

Ý thức pháp luật lý luận: thể hiện trình độ nhận thức cao, mang tính

hệ thống và sâu sắc về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng
pháp luật dưới dạng các khái niệm, các phạm trù khoa học pháp lý. Nó là sự nhận
thức có căn cứ khoa học, chỉ ra được bản chất, mối quan hệ bên trong của các hiện
tượng pháp luật. Để đạt tới cấp độ nhận thức lý luận thì ngoài các điều kiện cần

thiết về tuyên truyển, giáo dục chung như đối với ý thức pháp luật thông thường,
còn cần trải qua một quá trình học tập, nghiên cứu có hệ thống, qua hoạt động thực
tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống pháp luật. Ý thức pháp luật lý
luận là cơ sở cho hoạt động sáng tạo pháp luật, truyền bá tư tưởng, quan điểm pháp
lý cũng như hoạt động pháp luật thực tiễn. Như vậy, ý thức pháp luật lý luận thể
hiện tính tư tưởng và tính khoa học sâu sắc.
-

Ý thức pháp luật nghề nghiệp: là dạng nhận thức được nhận diện theo

từng lĩnh vực, nghề nghiệp; là ý thức của các luật gia và các nhà chức trách mà
nghề nghiệp có liên quan đến việc hoạch định chính sách pháp luật, nghiên cứu
pháp luật, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật. Ý thức pháp luật nghề nghiệp


là sự kết hợp hài hòa của những yếu tố hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
Nó không chỉ biểu hiện ở trình độ hiểu biết cao về pháp luật mà còn phản ánh trình
độ nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng và áp dụng pháp luật vào việc giải quyết các vấn đề
của thực tiễn đời sống.
2.2.

Căn cứ theo nội dung, tính chất:

Căn cứ theo nội dung, tính chất, ý thức pháp luật được cấu thành từ hai bộ
phận: Hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
-

Hệ tư tưởng pháp luật: Hệ tư tưởng pháp luật là toàn bộ những quan

điểm, tư tưởng, học thuyết, trường phái lí luận về pháp luật. Hệ tư tưởng pháp luật

có thể có những nhân tố mang tính khoa học hoặc phản khoa học. Nếu là một hệ tư
tưởng pháp lý khoa học thì nó phản ánh đúng đắn các mối quan hệ vật chất và quy
luật phát triển khách quan của xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng pháp lý phản khoa
học cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất của xã hội nhưng đó lại là sự phản ánh
sai lầm, xuyên tạc và thiếu tính khách quan. Hệ tư tưởng pháp luật không đơn
thuần là là sản phẩm mang chí của giai cấp cầm quyền mà nó còn hàm chứa các giá
trị khoa học được đúc kết, kế thừa từ thực tế của nền văn minh nhân loại.
Tâm lý pháp luật: Tâm lý pháp luật được thể hiện qua thái độ, tình
cảm, tâm trạng, xúc cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác, được
hình thành một cách tự phát thông qua giao tiếp và dưới tác động của các hiện
tượng pháp lý, là phản ứng trực tiếp và ở cấp độ đầu tiên, phản ứng một cách tự
nhiên của con người đối với các hiện tượng đó. Tâm lý pháp luật được biểu hiện ở
sự đồng tình, ủng hộ, sự phản đối lên án, sự coi trọng hay coi thường pháp luật.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy mối quan hệ biện chứng giữa hệ tư
tưởng pháp luật với tâm lý xã hội. Chúng có cùng nguồn gốc là tồn tại xã hội và
cùng phản ánh tồn tại xã hội, có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau và
đều là tiền đề, điều kiện của nhau. Tri thức, sự hiểu biết pháp luật là cơ sở để hình


thành thái độ, tình cảm pháp luật. Đồng thời, thái độ, tình cảm pháp luật là động
lực thúc đẩy sự tìm tòi, hiểu biết và tư tưởng trong tư tưởng về pháp luật.
Ví dụ: Trong một xã hội đã được hình thành nhà nước thì hệ tư tưởng của
giai cấp thống trị được thể hiện trong nôi dung, hình thức, trong quá trình thực hiện
pháp luật hiện hành; thể hiện tư tưởng, quan điểm, cách thức cai trị của giai cấp
thống trị đối với toàn xã hội; còn tâm lý pháp luật của các giai cấp, tầng lớp xã hội
khác chủ yếu được thể hiện thông qua thái độ, quan điểm, hành vi của họ đối với
pháp luật hiện hành và phản ứng của họ trước việc duy trì quản lý xã hội của Nhà
nước để bảo vệ quyền lợi của mình.
2.3.


Căn cứ vào chủ thể mang ý thức pháp luật.

Căn cứ theo chủ thể mang ý thức pháp luật, ý thức pháp luật được phân chia
như sau:
-

Ý thức pháp luật cá nhân: ý thức pháp luật của cá nhân được hình

thành do sự tác động bởi tư tưởng, tình cảm, tâm lý, thái độ của mỗi người đối với
pháp luật. Điều này được thể hiện qua hành vi ứng xử của họ đối với các quy định
của pháp luật. Ví dụ: tại ngã tư có tín hiệu đèn đỏ, ý thức pháp luật của cá nhân
được thể hiện ở việc người tham gia giao thông dừng xe lại hay vượt đèn đỏ.
Người dừng xe lại là người có ý thức chấp hành pháp luật. Việc chấp hành ý thức
pháp luật của người này có thể bắt nguồn từ nhiều lý do: người đó là một người
văn minh, lịch sự, người đó muốn an toàn cho tính mang hoặc do tâm lý sợ công an
xử phạt,… Ngoài ra, ý thức pháp luật cá nhân còn được hình thành và phát triển do
sự tác động của các yếu tố xã hội như điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục
và đặc biệt là dư luận xã hội. Một mặt, dư luận xã hội có tác động trực tiếp phê
phán những hành vi vi phạm pháp luật, biểu dương khích lệ những hành vi những
hành vi phù hợp với lợi ích chung. Mặt khác, dư luận xã hội có ảnh hưởng lâu dài


đến việc xây dựng tới nhân cách, ý thức pháp luật của cá nhân. Điều này được thể
hiện qua những bình luận của mọi người trên mạng xã hội ngày nay đối với một sự
kiện pháp lý. Nó không chỉ thể hiện quan nhận thức của mỗi người đối với sự việc
mà nó còn tác động trở lại tới ý thức pháp luật của từng cá nhân thông qua đọc
những lời nhận xét của dư luận.
Ý thức pháp luật của nhóm xã hội: nhóm xã hội là những người có nét
tương đồng đề điều kiện sống, lao động, sinh hoạt, nhu cầu, lợi ích cơ bản và có
chung quan điểm, thái độ, lập trường, tình cảm đối với pháp luật. Do đó, các thành

viên trong nhóm xã hội có nhận xét, thái độ tương đối giống nhau về pháp luật, làm
hình thành nên ý thức pháp luật chung của nhóm xã hội. Dư luận xã hội có vai trò,
tác động quan trọng đối với ý thức pháp luật của nhóm xã hội. Dưới tác động của
luồng thông tin về các sự kiện, hiện tượng pháp luật các thành viên trong nhóm xã
hội sẽ cùng được lôi cuốn vào quá trình bày tỏ sự quan tâm của mình thông qua
quá trình trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến của mình với những người xung quanh.
Thông qua sự bàn bạc qua lại giữa các thành viên trong nhóm xã hội, nhóm đi đến
một sự phán xét, đánh giá chung thể hiện quan điểm của số đông người trong nhóm
xã hội. Từ những phán xét đó, các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội đi tới hành
động thống nhất, nêu lên những kiến nghị của họ trước thực tiễn đời sống pháp luật
của xã hội.
Ý thức pháp luật xã hội: ý thức pháp luật xã hội là ý thức của bộ phận
tiến bộ đại diện cho xã hội chứa đựng các quan điểm, tư tưởng khoa học về những
vấn đề cơ bản nhất của pháp luật.
Ý thức pháp luật xã hội thường được chính thức hóa trong xã hội. Tuy nhiên,
không phải ý thức pháp luật xã hội chính là ý thức của giai cấp cầm quyền. Do đó,
không phải lúc nào nó cũng có tính thống trọ trong xã hội. Rất nhiều trường hợp
giai cấp thống trị đã lỗi thời, lạc hậu nhưng nó vẫn áp đặt, duy trì ý thức pháp luật
của nó đối với toàn xã hội. Chẳng hạn như trong xã hội tư bản, ý thức pháp luật xã


hội là ý thức pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vì nó tiến bộ,
tích cực và thuộc về số đông nhưng chưa bao giờ là ý thức chính thống đối với xã
hội vì chính quyền chưa thuộc về họ. Mặt khác, ý thức pháp luật xã hội không có
nghĩa là ý thức chung của toàn xã hội mà nó tồn tại không có sự đồng nhất giữa ý
thức của các giai cấp, lực lượng xã hội. Ý thức pháp luật xã hội vận động theo xu
hướng phù hợp với sự phát triển của cơ sở hạ tầng và những khuynh hướng chính
trị phổ biến trong xã hội. Đương nhiên, những nguyên lý của pháp luật, các giá trị
nhân bản và những lợi ích thiết yếu của con người đòi hỏi phải được nhận thức, thể
hiện trong hệ thống pháp luật. Do đó, ý thức pháp luật xã hội là đối tượng luôn tạo

nên sự quan tâm của các đối tượng xã hội từ những giá trị cụ thể được hiện thực
hóa bởi Nhà nước và các thiết chế xã hội khác.
Khác với ý thức pháp luật của cá nhân và ý thức pháp luật của nhóm xã hội,
ý thức pháp luật xã hội mang tính khái quát ở trình độ cao và tính hệ thống chặt
chẽ. Hệ thống quan điểm, tư tưởng của ý thức pháp luật xã hội giữ vai trò định
hướng và quyết định đối với nội dung các phán xét đánh giá của dư luận xã hội về
các vấn đề pháp luật. Đến lượt mình, dư luận xã hội cũng có tác động nhất định đối
với ý thức pháp luật xã hội.
Trong xã hội có các giai cấp đối kháng, các giai cấp khác nhau lại có ý thức
khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích của giai cấp mình. Do đó, các giai cấp
khác nhau thì ý thức pháp quyền của các giai cấp là khác nhau. Điều đó có nghĩa là
không có ý thức pháp luật chung cho mọi giai cấp. Ý thức pháp quyền của giai cấp
nào thì phản ánh những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội làm nảy sinh, duy trì sự
tồn tại và thúc đẩy sự phát triển hoặc dẫn đến sự diệt vong của giai cấp đó. Do đó,
hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước mà còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết pháp luật của xã hội.


Đối với giai cấp thống trị, việc nắm giữ tư liệu sản xuất trong tay, luôn tìm
cách áp đặt ý thức pháp quyền của nó lên giai cấp khác cho thấy ý thứ pháp quyền
của giai cấp thống trị có ảnh hưởng lớn tới ý thức pháp quyền của giai cấp bị trị.
Như vậy, có thể thấy về mặt xã hội, ý thức pháp quyền luôn mang tính giai cấp.
Ở Việt Nam hiện nay, ý thức pháp quyền của xã hội ta là ý thức pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Sự thống nhất cao về mặt lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân
và nhân dân lao động đã tạo nên hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành. Việc
thể hiện ý chí của giai cấp công nhân cũng đồng thời phản ánh và thể hiện lợi ích
dân tộc trong công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân
dân.
KẾT LUẬN

Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của ý
thức pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm
mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến
bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

o/index.php/DHTL/article/viewFile/19630/17296



×