Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

CHƯƠNG TRÌNH QUY HOẠCH bảo vệ môi TRƯỜNG KHU CÔNG NGHIỆP NGUYỄN đức CẢNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 53 trang )

MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng hiện đại hóa, công nghiệp hóa, giúp con người nâng cao chất
lượng cuộc sống của mình. Phát triển công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ ngày một
vươn kéo theo các hệ lụy về môi trường mà ở đó con người vừa là nguyên nhân vừa phải
chịu hậu quả của những hệ lụy ấy. Cả nước nói chung, tính Thái Bình nói riêng, đang trên
đà phát triển kinh tế - xã hội hội nhập thế giới. Những vấn đề tồn tại, bất cập trong quản
lý môi trường đang đặt ra trước mắt đòi hỏi các nhà quản lý cần có các biện pháp hạn chế,
giảm thiểu và khắc phục các hệ lụy liên quan đến môi trường. Các hệ lụy ấy sẽ không
theo bám chúng ta nếu dựa trên phát triển bền vững ngay từ giờ phút này. Để làm được
việc ấy, tỉnh Thái Bình cần có những biện pháp quy hoạch môi trường thực sự hiệu quả.
Trước thực trạng đó, tôi tiến hành đề tài “Xây dựng phương án quy hoạch môi trường tỉnh
Thái Bình”.
I.ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
A.Điều kiện tự nhiên
1.Vị trí địa lý

Thái Bình là tỉnh đồng bằng ven biển, nằm ở phía Nam châu thổ sông Hồng, có ba mặt
giáp sông và một mặt giáp biển, vị trí toạ độ 20017’ đến 20044’ vĩ độ Bắc và 106006’
đến 106039’ kinh độ Đông. Từ Tây sang Đông dài 54 km, từ Bắc xuống Nam dài 49 km.
Phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ Phía Tây giáp tỉnh Hà Nam Phía Nam giáp tỉnh Nam Định
Phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải Phòng


Nằm trong vùng ảnh hưởng của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng Quảng Ninh; hành lang Hải Phòng - Hà Nội - Lạng Sơn - Nam Ninh và vành đai kinh tế
ven vịnh Bắc Bộ, có đường biển và hệ thống sông ngòi thuận lợi cho giao lưu kinh tế,
cách thủ đô Hà Nội 110 km, cách thành phố cảng Hải Phòng 70 km là hai thị trường lớn
để giao lưu, tiêu thụ hàng hoá, trao đổi kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý kinh
doanh.
2.Địa hình, địa mạo
Địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Bắc xuống Nam. Độ cao trung bình so
với mặt nước biển từ 1 - 2 m. Địa mạo được phân thành 2 khu vực: - Khu vực phía Bắc


sông Trà Lý đất được hình thành sớm, độ chia cắt phức tạp, đây là vùng tương đối cao
(trừ vùng Nam huyện Đông Hưng). - Khu vực phía Nam sông Trà Lý: tương đối bằng
phẳng, thấp hơn so với khu vực phía Bắc. Đây là vùng điển hình của phù sa sông Hồng.
Trong thực tế, từng khu vực cũng có độ chia cắt hình thành những tiểu vùng khác nhau về
độ cao, thấp tạo nên vùng thâm canh tăng vụ, bố trí cây trồng và hệ thống thuỷ lợi có
thuận lợi và những hạn chế nhất định. Nhìn chung địa hình, địa mạo tương đối bằng
phẳng, sự chia cắt ít, đất đai được hình thành do phù sa của sông Hồng, sông Luộc, sông
Hoá, sông Trà Lý do đó khá thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là
lúa nước. 1.1.3.Khí hậu Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, bức xạ mặt trời lớn
với tổng bức xạ trên 100 kcal/cm2/năm. Số giờ nắng trung bình từ 1.600 - 1.800 giờ/năm,
nhiệt độ trung bình trong năm từ 23 - 240C, lượng mưa trung bình trong năm 1.500 1.900 mm, độ ẩm từ 80 -90%: - Mùa hè: Bắt đầu từ giữa tháng 4 và kết thúc vào giữa
tháng 10. Mưa: Lượng mưa chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm, mưa mùa hè có cường
độ rất lớn 200 - 300 mm/ngày. Mưa lớn thường xẩy ra trong ngày có bão và dông, mưa
mùa này không ổn định, có khi cả tháng không mưa, có khi mưa suốt tuần nên trong mùa
này có thể gặp cả úng lẫn hạn. Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình trên 260C, cao nhất là
39,20C. Trong mùa hè thường gặp hai kiểu thời tiết, thời tiết dịu mát và thời tiết khô nóng
kiểu gió Lào. Những ngày dịu mát nhiệt độ dưới 250C, những ngày khô nóng nhiệt độ có
thể lên tới 39,20C, làm cho cây cối thoát nước mạnh, dễ bị khô héo. Gió: Thịnh hành là
gió Đông Nam. Tốc độ gió trung bình từ 2 - 4 m/giây. Vào mùa này thường hay xuất hiện
bão. Bão kèm theo gió mạnh và mưa to có sức tàn phá ghê gớm. Bình quân mỗi năm có từ
2 - 3 cơn bão, cá biệt có năm có 6 cơn bão.
Độ ẩm không khí: Mùa hè độ ẩm rất cao, nhất là những ngày mưa ngâu (tới 90%).
Nhưng khi có gió Tây Nam xuất hiện, độ ẩm xuống thấp (có khi dưới 30%). - Mùa đông
lạnh: Bắt đầu từ giữa tháng 10 và kết thúc vào giữa tháng 4. Mưa: chiếm lượng nhỏ,


khoảng 15 - 20% tổng lượng mưa cả năm. Các tháng 12 và 1 lượng mưa thường nhỏ hơn
lượng bốc hơi. Tháng 2 và tháng 3 là thời kỳ mưa phùn và ẩm ướt. Nhìn chung lượng
mưa giữa các tháng trong năm không đều. Gió: Gió hướng Bắc, Đông Bắc và Đông. Tuy
gió không mạnh nhưng hay gây ra lạnh đột ngột. Độ ẩm không khí: Ngày khô hanh độ ẩm

rất thấp, độ bốc hơi cao, thường xuất hiện vào đầu mùa. Trong thời kỳ này hay gặp hạn
nhưng có điều kiện làm ải đất. Ngày thời tiết nồm thường xẩy ra vào cuối đông và thời kỳ
chuyển sang hè, độ ẩm lớn trên 90%. - Các mùa chuyển tiếp thể hiện sự thay đổi của 2 hệ
thống gió mùa: Đông Bắc (mùa đông) và Tây Nam (mùa hè). Do có các đặc tính khí
tượng, thời tiết không ổn định. Song hai mùa chuyển tiếp thời tiết có tính chất gần như
mùa hè. Như vậy đặc trưng là khí hậu gió mùa nhiệt đới nóng ẩm rất thuận tiện cho phát
triển nông nghiệp. Tuy nhiên tính biến động mạnh mẽ với điều kiện thời tiết như bão,
dông, gió Tây Nam, gió bấc,... đòi hỏi phải có biện pháp phòng tránh úng, bão, hạn, lụt.
3.Thuỷ văn
Có 4 con sông lớn chảy qua: - Phía Bắc và Đông Bắc có sông Hoá chảy qua địa
phận ranh giới tỉnh có chiều dài 38 km. - Phía Bắc và Tây Bắc có sông Luộc chảy qua địa
phận ranh giới dài 53 km - Phía Nam và Tây Nam có sông Hồng chảy qua dài 77 km. Giữa tỉnh có sông Trà Lý, phân nhánh của sông Hồng dài 67 km. Ngoài ra tỉnh còn có hệ
thống sông ngòi chằng chịt. Đặc điểm chung là các sông đều chảy theo hướng Tây Bắc Đông Nam và đổ ra biển với độ dốc mặt nước nhỏ, thoát nước chậm. Do đó về mùa mưa
lũ mực nước các sông lớn gây úng và xói lở cục bộ vào đất canh tác ngoài đê; hệ thống đê
sông dài khoảng 285 km, ngăn lụt trong mùa mưa lũ và trên 70 km đê biển ngăn mặn. Là
tỉnh ven biển nên các con sông trên địa bàn đều chịu ảnh hưởng của thuỷ triều, mỗi chu
kỳ thuỷ triều từ 13 - 14 ngày, trung bình của triều cao là 1m về mùa mưa, thuỷ triều tác
động tới xâm nhập mặn trên các sông lớn ảnh hưởng đối với nước tưới cho nông nghiệp.
Nhìn chung hệ thống thuỷ văn thuận lợi về nguồn nước tưới cho sản xuất nông nghiệp, kể
cả vào mùa khô và bồi đắp phù sa cho vùng đất ngoài đê thuộc các hệ thống sông. Với 5
cửa sông lớn đổ ra biển tạo sự lắng đọng phù sa và bồi đắp phù sa ven biển là thế mạnh
lấn biển. Mặt hạn chế là hàng năm phải đầu tư sức người, sức của vào việc đắp đê, tu bổ
đê sông, đê biển đồng thời phải đầu tư cho việc thau chua, rửa mặn đất nông nghiệp ở ven
biển do bị ảnh hưởng của thuỷ triều.
4.Tài nguyên nước
Nguồn nước mặt: mật độ sông là 5,72 km/km2 các dòng sông đều uốn khúc, độ
dốc nhỏ từ 0,02-0,05 m/km. Toàn tỉnh có 4 sông lớn là sông Hoá, sông Luộc, sông Trà Lý
và sông Hồng, cùng hệ thống các sông trục nội đồng và các ao, hồ có sức chứa hàng triệu



m3 nước ngọt. Đây là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý, cung cấp chủ yếu cho sản xuất
nông nghiệp và phần lớn các nhà máy nước sinh hoạt của thành phố Thái Bình, thị trấn
Vũ Thư, Tiền Hải, Diêm Điền lấy nước từ nguồn này. Song điều đáng lo ngại là các
nguồn nước này hiện nay đang bị ô nhiễm với nguy cơ ngày càng tăng, do nước thải từ
thượng nguồn bị ô nhiễm vì các hoạt động nông nghiệp, nước thải công nghiệp gây ra.
Nguồn nước ngầm: Theo tài liệu địa chất, toàn bộ tỉnh nằm trong trầm tích bở rời hệ thứ
tư có nguồn nước biển hỗn hợp, nên khả năng tàng trữ nước ngầm rất tốt, đặc biệt là tầng
chứa nước cát, cuội, sỏi ở độ sâu 90 - 120 m, nước áp lực nên mực nước ngầm cách mặt
đất 0,5 - 10 m rất thuận lợi cho quá trình khai thác. Theo bản đồ phân đới thuỷ địa hoá
thẳng đứng và theo phương nằm ngang thì toàn bộ phía Nam sông Trà Lý bao gồm thành
phố Thái Bình, huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải và Thái Thuỵ nước ngầm ở đây có
nguồn gốc chôn vùi thường bị nhiễm mặn không sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt,
thường tại các vùng này nhân dân khoan giếng đến độ sâu 10 - 12 m để tắm, giặt nhưng
không dùng cho ăn uống. Tại phía Bắc sông Trà Lý bao gồm các huyện Đông Hưng,
Hưng Hà, Quỳnh Phụ và một phần huyện Thái Thuỵ nước ngầm ở đây không bị nhiễm
mặn nên có thể sử dụng cho sinh hoạt, sản xuất.
5.Tài nguyên rừng
Có 4.161,56 ha đất rừng (trong đó toàn bộ là diện tích đất rừng phòng hộ), phân
bố chủ yếu ở 2 huyện Tiền Hải và Thái Thuỵ. Diện tích rừng của tỉnh không lớn với ít
loài cây chủ yếu là rừng sú, vẹt, bần, phi lao song có vai trò và tác dụng rất lớn như phòng
hộ đê biển, tạo điều kiện cho lắng đọng phù sa của các sông bồi đắp ra biển, tăng diện tích
đất sản xuất nông, lâm nghiệp hàng năm, khôi phục hệ sinh thái ven biển và có giá trị lớn
về quốc phòng.
6.Tài nguyên biển
Bờ biển dài 54 km với hàng chục nghìn km2 lãnh hải, tiềm năng hải sản khá dồi
dào với trữ lượng cá ước tính khoảng 26.000 tấn trong đó trữ lượng cá 24.000 - 25.000
tấn, tôm 600 - 1.000 tấn, mực 700 - 800 tấn. Sản lượng đánh bắt nuôi trồng hải sản
khoảng 18.415 tấn/năm. Ngoài ra các khu vực cửa sông và ven bờ có khả năng lớn về
nuôi trồng thuỷ sản như tôm, cua, sò, vạng, ngao, vọp... Quai vùng đê bao khoảng 4.000
ha đầm mặn, lợ để nuôi trồng thuỷ sản trong đó diện tích nuôi trồng hữu hiệu khoảng

3.287 ha nuôi tôm, cua, rau câu... Bên cạnh đó, vùng ven biển có tiềm năng để khai thác
phát triển nghề làm muối.
7.Tài nguyên khoáng sản


Theo tài liệu địa chất, trên địa bàn tỉnh có các loại hình khoáng sản sau: Khí đốt:
phân bố tại huyện Tiền Hải, Thái Thụy với trữ lượng khoảng 60 tỷ m3, hiện nay đã được
khai thác phục vụ cho công nghiệp gốm, sứ, thuỷ tinh. Than nâu: nằm trong cấu trúc
chung của dải than Khoái Châu - Tiền Hải, tại Thái Bình phân bố trên địa bàn huyện Kiến
Xương, Tiền Hải, được đánh giá có trữ lượng rất lớn (trên 30 tỷ tấn) nhưng do phân bố ở
độ sâu 600 - 1.000 m nên hiện nay đang nghiên cứu để khai thác. Sét gốm Hưng Hà: đây
là điểm sét gốm duy nhất tại Thái bình có trữ lượng cấp P2, có chất lượng trung bình, bảo
đảm các chỉ tiêu để sản xuất gốm. Khoáng sản vật liệu xây dựng: là nguyên liệu chính để
sản xuất gạch ngói, thường nằm dưới tầng đất canh tác, vì vậy cần phải có quy hoạch khai
thác sử dụng hợp lý bảo đảm cho việc cung cấp nguyên liệu và sản xuất nông nghiệp. Cát
đen: trên sông Hồng, sông Trà Lý và các cồn cát ven biển, có khối lượng lớn cát đen để
xây dựng và lấp trũng. Nước khoáng: phân bố tại huyện Tiền Hải đang được khai thác ở
độ sâu 450 m có trữ lượng khoảng 12 triệu m3, đã khai thác từ năm 1992. Sản lượng khai
thác hàng năm khoảng hơn 10 triệu lít. Với sản lượng lớn và công nghệ sản xuất tiên tiến,
chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, sản phẩm đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong nước và
xuất khẩu.
Gần đây vùng đất xã Duyên Hải, huyện Hưng Hà đã thăm dò và phát hiện mỏ nước
nóng 570C ở độ sâu 50 m và nước nóng 720C ở độ sâu 178 m đang đầu tư khai thác phục
vụ phát triển du lịch và chữa bệnh cho người dân.
8.Tài nguyên du lịch
Cảnh quan thiên nhiên tương đối thuần khiết của miền đồng bằng ven biển trong
lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt văn hoá tinh thần người dân vẫn còn lưu giữ
được những nét truyền thống, đặc trưng của một miền quê vùng Đồng bằng Bắc bộ.
Ngoài ra nơi đây còn có những lễ hội truyền thống và những công trình văn hoá đã được
xếp hạng như đền thờ, lăng mộ, nơi phát tích của các vua Trần tại Hưng Hà, chùa Keo,

đền Tiên La, đền Đồng Bằng, từ đường Lê Quý Đôn, nhà lưu niệm Bác Hồ tại xã Tân
Hoà (Vũ Thư), Nam Cường (Tiền Hải), Hồng An (Hưng Hà) và có gần 82 lễ hội đặc sắc
của quê hương, 16 loại hát múa, nghệ thuật cổ truyền như: chèo, múa rối nước và làng
vườn Bách Thuận.
9.Tài nguyên nhân văn
Là vùng đất được hình thành muộn trong đồng bằng châu thổ sông Hồng (cách đây
khoảng 2000 năm. Người dân có truyền thống cần cù trong lao động, anh dũng trong đấu
tranh chống phong kiến, giặc ngoại xâm, sáng tạo và thông minh trong xây dựng quê
hương, đất nước. Lịch sử đã được ghi nhận công đức, tinh thần anh dũng chiến đấu hy


sinh qua các văn bia thành tích, sắc phong: Thời Hai Bà Trưng có Bát Nạn Tướng Quân,
Lễ Độ Tướng Quân. Thời Đinh có Minh công Trần Lãm Thời Lý có Thái uý Lưu Thạch
Đàm Thời Trần có Bùi Ngọc Dục, Bùi Quốc Huy Thời Lê có Quách Đình Bảo, Quách
Hữu Nghiêm, Lê Quý Đôn Trong phong trào chống Pháp tiêu biểu là phong trào nổi dậy
đấu tranh của nông dân Tiền Hải, của du kích làng Nguyễn... với hàng nghìn, hàng vạn
các chiến sỹ đã anh dũng tham gia chiến đấu chống Pháp, chống Mỹ trên khắp mặt trận để
bảo vệ quê hương đất nước. Ngày nay, lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật của tỉnh đứng
thứ 14 trong cả nước. Toàn tỉnh có 75 di tích lịch sử văn hoá được Bộ Văn hoá Thông tin
công nhận và 350 di tích được tỉnh đăng ký bảo vệ cùng với nhiều lễ hội cổ truyền nổi
tiếng như: lễ hội chùa Keo, lễ hội Tiên La ... Tỉnh có nguồn tài nguyên nhân văn phong
phú, đây là đặc điểm và thế mạnh cần được bảo vệ, phát triển trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
B.Kinh tế - xã hội
1.Dân số
Tỉnh Thái Bình có 7 huyện: Hưng Hà, Đông Hưng, Thái Thuỵ, Quỳnh Phụ, Tiền
Hải, Kiến Xương, Vũ Thư và 1 thành phố : thành phố Thái Bình. Toàn tỉnh có 267 xã, 10
phường, 9 thị trấn.
Bảng 1: Dân số trung bình qua các năm (nghìn người)
Năm


Dân số trung bình

2010

1.784,7

2011

1.785,9

2012

1.787,4

2013

1.788,1
(Nguồn: Cục thống kê Thái Bình)

2.Giáo dục
Hệ thống cơ sở giáo dục toàn diện với các trường Đại học, Cao đẳng, THPT và
nhiều trường tiểu học & THCS. Có 6 trường Đại học và Cao đẳng có 5 trường THPT
3.Giao thông
TP Thái Bình có hệ thống giao thông tương đối thuận lợi cả về đường thủy và
đường bộ
- Đường bộ:
+

QL10 mở rộng với mặt cắt 45m (Ngoài đô thị được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đường

đồng bằng cấp II).


+
+
+
+
+

+

QL39 mở rộng với mặt cắt là 32m (Ngoài đô thị được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đường
đồng bằng cấp II).
QL39B đoạn từ cầu Thái Bình đi huyện Kiến Xương mở rộng với mặt cắt là 45m
(Ngoài đô thị được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đường đồng bằng cấp II).
TL454 (phố Lý Bôn) mở rộng với mặt cắt là 36m (Ngoài đô thị được nâng cấp đạt tiêu
chuẩn đường đồng bằng cấp III).
Vành đai I: Hình thành trên cơ sở kết nối khép kín một số tuyến đường chính gồm:
Trần Thái Tông – Long Hưng – Quang Trung – Hai Bà Trưng.
Vành đai II: Hình thành do kết nối tuyến đường vành đai phía Bắc (tuyến tránh Quốc
lộ 10) với tuyến đường vành đai phía Nam (đang thi công). Đường xây dựng mới &
đạt tiêu chuẩn đường cấp I đồng bằng với tốc độ thiết kế là 80km/h
Vành đai III: định hướng có cự ly từ 3 – 5 km so với vành đai I, đi qua địa phận của
các huyện lân cận. Tuyến này nhằm gia tăng năng lực của hệ thống giao thông Thành
phố, các khu vực phụ cận, đồng thời gia tăng năng lực của các tuyến giao thông cấp
vùng đi như cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh, đường sắt, đường QL10,
QL39, ĐT 39B, ĐT 454.

- Đường thủy: nâng cấp, cải tạo các tuyến đường sông qua Thành phố đảm bảo cho các
phương tiện đi lại phục vụ du lịch, giải trí, sản xuất và chuyên chở vật liệu. Trong đó sông

Trà Lý đạt tiêu chuẩn đường thuỷ nội địa cấp II.
- Giao thông nội thị: một số đường nội thành chính: Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Quang Trung,
Trần Hưng Đạo, Trần Thái Tông, Lý Bôn, Lê Quý Đôn...
- Cầu:
+
+
+

+

Giữ nguyên 03 cầu hiện có qua sông Trà Lý: cầu Bo (cầu Độc Lập), cầu Thái Bình,
cầu Hoà Bình.
Tiếp tục xây dựng cầu trên đường vành đai II (đường vành đai phía Nam Thành phố).
Dự kiến xây dựng mới 1 cầu mới nối cực phát triển phía Bắc và phía Đông, gia tăng
hướng đối ngoại với vùng phía Đông. Ngoài Thành phố, trên tuyến vành đai III, đề
nghị nghiên cứu thêm 2 cầu mới cho định hướng phát triển dài hạn.
Các cầu khác: được cải tạo, xây mới phù hợp với yêu cầu chung của mạng giao thông
Thành phố.

d.Kinh tế (năm 2014)
- Tổng giá trị sản xuất ước đạt 19.868,3 tỷ đồng, tăng 10,02% so với năm 2013.Trong đó:
+ Công nghiệp - xây dựng 13.865,4 tỷ đồng, tăng gần 10% so với năm 2013
+ Thương mại - dịch vụ 5.276,1 tỷ đồng, tăng 9,5% so với năm 2013
+ Nông nghiệp đạt 726,8 tỷ đồng
- Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng chiếm 69,56%; thương mại, dịch vụ
chiếm 26,83%; nông nghiệp chiếm 3,61%.
- Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 1.841,5 tỷ đồng, đạt 140,8% dự toán, tăng
19,6% so với năm 2013.



- Tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 821,5 tỷ đồng, đạt 163,7% dự toán.
- Tổng số lao động toàn thành phố trên 100 nghìn người. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
đạt trên 70%.
- Danh sách các khu - cụm công nghiệp:
• KCN Nguyễn Đức Cảnh; diện tích 102 ha (xã Phú Xuân - phường Trần Hưng Đạo
- phường Tiền Phong)
• KCN Phúc Khánh; diện tích 300 ha (xã Phú Xuân - phường Phúc Khánh)
• KCN Tiền Phong; diện tích 56 ha (phường Tiền Phong)
• KCN Sông Trà; diện tích 250 ha (xã Tân Bình)
• KCN Gia Lễ; diện tích 85 ha (xã Đông Thọ - xã Đông Mỹ, thành phố Thái Bình &
xã Đông Dương - xã Đông Xuân, huyện Đông Hưng)
• KCN Hoàng Diệu; diện tích 50 ha (phường Hoàng Diệu)
• CCN Phong Phú; diện tích 78 ha (phường Tiền Phong)
• CCN Trần Lãm; diện tích 9,33 ha (phường Trần Lãm)
Các KCN và CCN trên đã thu hút hàng trăm dự án với số vốn đầu tư hàng chục ngàn tỷ
đồng, và tạo việc làm cho trên 50.000 lao động.
- Phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 - 2015 đạt 18,9%/năm; cơ
cấu kinh tế đến năm 2015 nâng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 64,6%, thương
mại - dịch vụ chiếm 33,1%, giảm tỷ trọng nông nghiệp xuống còn 2,3%. GDP bình quân
đầu người năm 2015 đạt khoảng 93,6 triệu đồng.
d.Văn hóa ẩm thực
-

Bánh cáy Làng Nguyễn (Nguyên Xá - Đông Hưng)

-

Canh cá Quỳnh Côi (T.T Quỳnh Côi - Quỳnh Phụ)

-


Bánh giò Bến Hiệp (Bến Hiệp - Quỳnh Phụ)

-

Ổi Bo - (Hoàng Diệu - TP Thái Bình)

-

Bánh chưng Cầu Báng (Tân Bình - TP Thái Bình)

-

Bánh gai Đại Đồng (Tân Hòa - Vũ Thư)

-

Gỏi Nhệch (Thái Thụy)

-

Bún cá, bún bung hoa chuối

4.Phát triển công nghiệp
Sản xuất công nghiệp tuy vẫn còn nhiều khó khăn nhưng đã có chuyển biến tích
cực hơn trước. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 ước đạt 39.060 tỷ đồng, gấp 1,7 lần
năm 2010, tăng trưởng bình quân 5 năm 2011-2015 tăng 11,2%/năm; có 13/23 nhóm sản
phẩm chủ yếu tăng so với năm trước, trong đó một số ngành chiếm tỷ trọng lớn hơn có
mức tăng trưởng khá cao. Đặc biệt từ tháng 10/2014 có thêm sản phẩm mới là Amon
nitrat với sản lượng dự kiến 240 nghìn tấn, đóng góp khá lớn vào tăng trưởng sản xuất



công nghiệp của tỉnh. Tuy nhiên, có 10 nhóm sản phẩm không tăng hoặc giảm sản lượng
so với các năm trước. Sản lượng điện thương phẩm năm 2014 đạt 1.137 triệu kwh, tăng
11,99% so với năm 2013. Sản xuất trong các khu công nghiệp được duy trì ổn định và có
mức tăng trưởng khá (đã có 22 dự án được cấp mới và điều chỉnh tăng vốn đầu tư, nâng
tổng số dự án đầu tư vào các khu công nghiệp của tỉnh đến nay là 143 dự án, vốn đầu tư
16.043 tỷ đồng; trong đó 125 dự án đã sản xuất, giá trị sản xuất tăng trưởng 11,3% và
chiếm 37% giá trị công nghiệp toàn tỉnh; tạo việc làm cho 50.210 lao động, tăng 8,9% so
với năm 2013). Nghề và làng nghề được duy trì phát triển (có 245 làng nghề được công
nhận đủ tiêu chuẩn, tăng 01 làng nghề so với năm 2013, đóng góp 23% giá trị công
nghiệp toàn tỉnh và tạo việc làm cho trên 152 nghìn lao động.
5.Phát triển nông nghiệp
Trong thời gian qua, ngành Nông nghiệp & PTNT có những thuận lợi cơ bản, song
cũng gặp không ít khó khăn, thách thức: suy thoái kinh tế thế giới tiếp tục ảnh hưởng sâu
rộng đến nước ta; tình hình dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi diễn biến phức tạp; thời tiết,
khí hậu, thiên tai biến đổi bất thường… Nhưng với quyết tâm cao của cả hệ thống chính
trị và nỗ lực của nông ngư dân, sản xuất Nông - Lâm - Thủy sản duy trì mức tăng trưởng
khá. Sản xuất nông, lâm, thủy sản phát triển toàn diện, chuyển biến tích cực theo hướng
sản xuất hàng hóa; khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế của tỉnh đồng bằng ven biển và
truyền thống thâm canh. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản năm 2015 (giá so sánh) ước
đạt 23.930,7 tỷ đồng, gấp 1,2 lần so với năm 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm
đạt 3,9%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 3,06%/năm; thủy sản tăng 9,07%/năm. Cơ cấu
nội bộ ngành chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng trồng trọt, tăng dần tỷ
trọng chăn nuôi và thủy sản. Đến năm 2015, tỷ trọng trồng trọt chiếm 53,2% giá trị ngành
nông nghiệp, giảm 5,7% so với năm 2010; chăn nuôi chiếm 42,3%, tăng 5,5%; tỷ trọng
thủy sản chiếm 16,1% tổng giá trị ngành nông, lâm, thủy sản, tăng 3,5% so với năm 2010.
Sản xuất cây màu đạt kết quả khá tốt. Năng suất nhiều loại cây màu đạt cao hơn hoặc tăng
tương đương năm trước. Phong trào xây dựng cánh đồng mẫu tiếp tục khẳng định hiệu
quả và phát triển nhanh, góp phần đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa của

tỉnh và tăng thu nhập cho nông dân. Chăn nuôi đạt tốc độ tăng trưởng khá, bình quân giai
đoạn 2011-2015 đạt 5,98% năm và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong ngành nông
nghiệp. Phương thức chăn nuôi phát triển mạnh theo hướng trang trại quy mô lớn, gia trại
áp dụng quy trình, công nghệ nuôi hiện đại, chăn nuôi an toàn sinh học theo quy trình
GAHP, dần thay thế chăn nuôi nhỏ lẻ, tận dụng; hình thành các hình thức hợp tác sản xuất
kinh doanh theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ và chế biến. Toàn tỉnh hiện có trên
700 trang trại, 1.600 gia trại, trong đó có 69 trang trại quy mô lớn, tăng 37 trang trại so
với năm 2010. Công tác phòng, chống dịch bệnh được quan tâm chỉ đạo thực hiện có hiệu


quả, khống chế kịp thời một số dịch bệnh nguy hiểm xảy ra trên đàn gia súc và gia cầm,
giảm thiểu thiệt hại gây ra. Cơ cấu sản phẩm chuyển dịch tích cực theo hướng tăng nhanh
đàn gia cầm, giảm đàn lợn f1, tăng đàn lợn f2, f3 và đàn lợn ngoại; mô hình chăn nuôi bò
thịt đưa vào sản xuất, bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao. Sản xuất thủy sản phát triển
khá cả về nuôi trồng, khai thác và dịch vụ. Diện tích nuôi thủy, hải sản được mở rộng,
năm 2015 đạt 15.352 ha, tăng 1.926 ha so với năm 2010; đặc biệt là nuôi ngao vùng bãi
triều ven biển phát triển mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao; nuôi thủy sản nước ngọt
tăng diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh; hình thành và phát triển mô hình nuôi cá
lồng trên sông đạt kết quả khá tốt; hoàn thành xây dựng 16 vùng nuôi thủy sản nước ngọt
tập trung, diện tích trên 618 ha và 9 vùng nuôi thủy sản nước lợ, diện tích trên 711 ha.
Tích cực triển khai Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ về một số chính sách phát
triển thuỷ sản và ban hành một số chính sách hỗ trợ ngư dân đóng mới và cải hoán tàu
khai thác hải sản. Năng lực khai thác thủy sản tăng nhanh cả về số lượng và công suất
theo hướng tăng số tàu khai thác xa bờ, giảm tàu khai thác ven bờ nhằm bảo vệ tốt hơn
nguồn lợi thủy sản và cân bằng sinh thái biển. Sản lượng khai thác thủy sản năm 2015
ước đạt 64.631 tấn, tăng 44,2% so với năm 2010 và vượt 3,3% so với kế hoạch đề ra.
II.ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG
1.Hiện trạng nước mặt lục địa
Nguồn nước mặt lục địa của tỉnh bao gồm nước mặt trong: các sông lớn, hệ thống
sông nội đồng và trong hệ thống ao hồ. Hiện nay, chúng đang ần bị ô nhiễm và thoái hóa

chất lượng mà chủ yếu do xả nước thải từ sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp,
làng nghề, nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý và xử lý chưa đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn cho
phép vào hệ thống sông nội đồng sau đó chảy ra các sông lớn. Các nguồn gây ô nhiễm đó
là:
a.Xả nước thải từ sản xuất nông nghiệp
Ngoài nhiệm vụ cung cấp nước, hệ thống sông ngòi còn đóng một vai trò rất quan
trọng là trục tiêu thoát nước chính trên địa bàn tỉnh. Tỉnh Thái Bình có hai hệ thống công
trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu nước cho sản xuất nông nghiệp là hệ thống thủy nông Bắc
Thái Bình và hệ thống thủy nông Nam Thái Bình. Nước thải từ sản xuất nông nghiệp gồm
nước thải từ các ruộng trồng lúa có các hoá chất của phân bón, các loại thuốc bảo vệ thực
vật, nước thải từ chăn nuôi, nước thải từ việc nuôi trồng thủy sản…đều tiêu ra hệ thống
sông trục nội đồng và gây ô nhiễm nguồn nước mặt của hệ thống thuỷ lợi sau đó được
tiêu ra biển và hạ lưu sông Trà Lý, sông Hồng và sông Hoá.
b.Xả nước thải sinh hoạt của các khu dân cư


Bốn con sông lớn: sông Hồng đi qua 29 xã thuộc các huyện Hưng Hà, Vũ Thư,
Kiến Xương và Tiền Hải; sông Trà Lý đi qua 41 xã thuộc các huyện Hưng Hà, Vũ Thư,
Đông Hưng, TP Thái Bình, Kiến Xương, Tiền Hải và Thái Thuỵ; sông Luộc đi qua 15 xã
thuộc các huyện Hưng Hà, Quỳnh Phụ; sông Hoá đi qua 19 xã thuộc các huyện Quỳnh
Phụ; Thái Thụy Các sông lớn trên không trực tiếp tiếp nhận nước thải sinh hoạt mà chỉ
đóng vai trò là nguồn cung cấp nước cho hệ thống tiêu thoát nước thải của các sông nội
địa. Các con sông trực tiếp tiếp nhận nước thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh bao gồm: sông
Pari, sông Vĩnh Trà, sông Bồ Xuyên, sông Bạch, sông 3/2, sông Kiến Giang, sông Long
Hầu, sông Diêm Hộ, sông Sa Lung và sông Tiên Hưng. Nước thải sinh hoạt lớn và tập
trung nhiều nhất là thành phố Thái Bình ước tính khoảng 14.800 m3/ngày đêm, tức là
5.402.000 m3/năm. Còn lại lượng thải sinh hoạt từ các cụm dân cư các xã, thị trấn vào hệ
thống sông không nhiều do phần lớn các khu dân cư chưa có hệ thống tiếp nhận nước thải
tập trung, nước thải chủ yếu được thu vào cống, rãnh đơn lẻ sau đó được xả vào hệ thống
kênh mương nội đồng, ao hồ trong khu dân cư. Về mùa kiệt, phần lớn lượng nước nước

thải ngấm xuống đất; Mùa mưa, nước thải hoà cùng nước mưa chảy vào hệ kênh mương
nông nghiệp và được tiêu ra hệ thống sông bằng động lực hoặc tiêu tự chảy.
c.Xả nước thải từ sản xuất của các làng nghề
Tỉnh Thái Bình có 245 làng nghề được công nhận thuộc các nhóm ngành nghề
truyền thống mang bản sắc văn hóa, cần được bảo tồn, chủ yếu là loại hình như mây tre
đan, dệt, thêu ren, nông sản thực phẩm… Các loại hình sản xuất làng nghề có sự biến
động, một số loại hình không còn sức cạnh tranh trên thị trường đã dần thu hẹp hoặc
không còn tồn tại (dệt đũi, ươm tơ, làm muối…). Hiện số làng nghề đang được khôi phục,
phát triển, mở rộng với các quy mô và cấp độ khác nhau nhưng công nghệ sản xuất ít
được thay đổi, chủ yếu vẫn dùng các công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều nhiên liệu đầu
vào, sản phẩm phế thải còn nhiều. Bên cạnh đó là quy trình sản xuất không khép kín, hệ
thống xử lý chất thải không được đầu tư, hệ thống tổ chức và quy chế quản lý môi trường
các làng nghề chưa hoàn chỉnh cũng là những nguyên nhân quan trọng làm cho tình trạng
ô nhiễm môi trường của các làng nghề tăng, kéo theo hàng loạt những vấn đề về ô nhiễm
không khí, nước mặt, nước ngầm…Sự ô nhiễm này sẽ lan rộng khi nguồn nước thải đổ
vào các dòng sông gây ô nhiễm dòng chảy mặt, ở mức độ nhẹ thì chỉ gây ô nhiễm ngay vị
trí xả thải, mức độ nặng sẽ là một đoạn sông, thậm chỉ là cả sông. Do vậy, vấn đề xả thải
của các làng nghề vào các con sông cần được xem xét một cách nghiêm túc. Hiện tại, tỉnh
đã quy hoạch 02 CCN làng nghề: CCN làng nghề Nguyên Xá - Vũ Thư và CCN làng
nghề Thái Phương - Hưng Hà, để di dời các cơ sở sản xuất trong làng nghề ra sản xuất tập


trung. Tuy nhiên, cần quyết liệt, triệt để trong chính sách di dời, không nên để các hộ sản
xuất tiếp tục hoạt động trong khu vực dân cư. Việc lập phương án di dời các cơ sở sản
xuất ra khỏi khu dân cư nông thôn cần xem xét cả tính thực tế của loại hình sản xuất, năng
lực tài chính và tập tính văn hóa của người dân. Hầu hết nước thải của các làng nghề
không được xử lý. Trong số đó có làng nghề thải trực tiếp nước thải xuống hệ thống sông,
có làng nghề thải về các kênh mương dẫn nước thuỷ lợi, được sử dụng cho nông nghiệp,
về mùa mưa tiêu ra ngoài các sông chính nhờ hệ thống cống tiêu, trạm bơm tiêu. Tỉnh
Thái Bình đã phê duyệt 03 dự án nhằm xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường cho 03 làng

nghề: làng nghề chế biến thủy sản xã Thụy Hải (huyện Thái Thụy), làng nghề chế biến
nông sản xã Vũ Hội (huyện Vũ Thư), làng nghề dệt nhuộm Phương La (xã Thái Phương,
huyện Hưng Hà). Tuy nhiên, hiện chỉ có dự án xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập
trung làng nghề dệt nhuộm Phương La đang được triển khai thực hiện (chưa hoàn thành
để đưa vào hoạt động).
d.Xả nước thải từ sản xuất của các khu, cụm công nghiệp
Tỉnh Thái Bình được Chính phủ chấp thuận quy hoạch 07 khu công nghiệp bổ
sung vào Danh mục các khu công nghiệp Việt Nam quy hoạch phát triển đến năm 2015
và định hướng đến năm 2020 với tổng diện tích là 1.213 ha. 07 KCN này đã có hệ thống
xử lý nước thải tập trung hoặc bản thân các KCN này đã có hệ thống xử lý nước thải
riêng. Bên cạnh đó còn lại 03 KCN (Tiền Hải, Cầu Nghìn, TBS Sông Trà) và hầu hết các
CCN chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung hoặc xây dựng thiếu đồng bộ, chậm
tiến độ. Các doanh nghiệp trong các KCN, CCN mới chỉ xử lý sơ bộ trước khi thải ra
cống thoát nước chung hoặc thải ra kênh mương nội đồng, do đó chất lượng nước thải ở
các KCN, CCN này hầu hết không đạt quy chuẩn cho phép trước khi thải ra môi trường
xung quanh.
2.Hiện trạng nước ngầm
Hiện trạng chất lượng môi trường nước duới đất của tỉnh: Theo báo cáo kết quả
quan trắc môi trường tự nhiên các năm 2012, 2013, 2014 của Trung tâm quan trắc tài
nguyên và môi trường - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Bình hiện trạng ô nhiễm
như sau:
Quy chuẩn dùng để so sánh kết quả phân tích: QCVN 09 : 2008/BTNMT - Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ngầm.
+ Các thông số: pH, độ cứng, NO2-, NO3- tại tất cả các vị trí quan trắc đều thấp
hơn QCVN 09:2008/BTNMT, trong đó thông số NO2-, NO3- thấp hơn quy chuẩn cho


phép nhiều lần. Độ cứng tại NG8 – giếng QTB06 tại trường tiểu học xã Đông Hòa, thành
phố Thái Bình vượt nhẹ vào tháng 3 so với quy chuẩn là 1,02 lần.
+ Thông số Coliform tại một số vị trí quan trắc vượt so với quy chuẩn đặc biệt tại

vị trí giếng NG12 – giếng QTB05 tại Ủy ban nhân dân xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà vượt
tất cả các thời điểm quan trắc. Cụ thể, hàm lượng dao động từ 1035 MPN/100ml vượt quy
chuẩn từ 3,33 – 11,67 lần. Các vị trí tại các giếng còn lại đều có những thời điểm vượt
quy chuẩn cho phép. Như vậy, nguồn nước dưới đất trong tỉnh đã bị ô nhiễm bởi
Coliform.
+ Các thông số kim loại được quan trắc bao gồm Fe, As, Pb, Cu, Zn, Cd, Hg, Mn.
Trong đó, hầu hết các thông số đều nằm trong giới hạn cho phép, riêng đối với thông số
Fe và Mn vượt quy chuẩn: Đối với thông số Fe tại tất cả các giếng vào các thời điểm quan
trắc đều vượt quy chuẩn (trừ giếng QTB08 tại Tây Tiến, Tiền Hải nằm trong giới hạn cho
phép). Với thông số Mn thì tại hầu hết các vị trí đều có thời điểm vượt nhẹ so với quy
chuẩn, điển hình tại vị trí giếng QTB06 tại trường tiểu học xã Đông Hòa, thành phố Thái
Bình có hàm lượng Mn vào tháng 12 là 1,66 mg/l vượt 3,32 lần so với quy chuẩn. Dưới
đây là các số liệu quan trắc môi trường qua các năm của một số thông số ô nhiễm nước
ngầm.
Bảng 2: Hàm lượng COD trung bình trong nước ngầm năm 2013- 2014

+ Nguồn nước ngầm trong tỉnh đã có dấu hiệu bị ô nhiễm các chất hữu cơ và các
chất dinh dưỡng thể hiện ở thông số COD, Hàm lượng COD trong nước ngầm ở tất cả các
giếng đều vượt quy chuẩn từ 1,05 – 1,85 lần. Trong đó hàm lượng COD cao nhất tại vị trí
giếng QTB05 với giá trị trung bình năm là 11 mg/l; quá trình ô nhiễm có dấu hiệu gia
tăng từ 1,07 -1,48 lần tại vị trí các giếng QTB 05a, QTB05 và QTB08.
Bảng 3: Hàm lượng Cl- trong nước dưới đất


Biểu đồ 1: Hàm lượng Cl- trung bình trong nước ngầm 2013-2014
+ Hàm lượng Cl- có dấu hiệu bị vượt nhẹ tại 02 giếng: QTB181b, QTB181a; đặc
biệt tại các vị trí giếng gần biển thuộc tầng chứa nước quan trắc là Neogen nên dễ bị
nhiễm mặn như giếng QTB08, vượt quy chuẩn tại tất cả các tháng đối với với hàm lượng
dao động từ 5716,58 - 5739,34 mg/l vượt quy chuẩn 22,8 – 22,9 lần. Giếng QTB06,
QTB06a tại trường tiểu học xã Đông Hòa, thành phố Thái Bình có hàm lượng Cl- dao

động từ 477,98 – 655,35 vượt quy chuẩn từ 1,9 đến 2,6 lần. Đối với 02 giếng QTB05,
QTB05a hàm lượng Cl- đều nằm trong quy chuẩn cho phép; như vậy nước ngầm những
nơi gần biển đều bị nhiễm mặn với nồng độ rất cao và độ mặn giảm dần tại các vị trí xa
biển; nước ngầm tại một số nơi xa biển đã có dấu hiệu gia tăng sự nhiễm mặn qua các
năm như tại giếng Giếng QTB06, QTB06a tại trường tiểu học xã Đông Hòa, thành phố
Thái Bình có hàm lượng Cl- dao động từ 477,98 – 655,35 mg/l vượt quy chuẩn từ 1,9 đến
2,6 lần.
+ Chất lượng nước ngầm bị ô nhiễm đặc trưng bởi hàm lượng Fe và NH4+ trong
năm 2012-2014 thể hiện ở bảng 28 và biểu đồ.
Bảng 4: Hàm lượng trung bình Fe và NH4+ năm 2012-2014


Biểu đồ 2: Hàm lượng trung bình của Fe năm 2012-2014.

Biểu đồ 3:Hàm lượng trung bình của NH4+ năm 2012-2014

Qua biểu đồ so sánh năm 2012 – 2014 cho thấy hàm lượng Fe tăng nhanh qua các
năm, còn hàm lượng NH4+ có xu hướng giảm từ năm 2012 đến 2013, từ năm 2013 đến
năm 2014 hàm lượng NH4+ có xu hướng tăng nhanh.
Như vậy, từ kết quả phân tích cho thấy môi trường nước ngầm bước đầu đã bị ô
nhiễm. Việc khai thác nguồn nước ngầm thiếu quy hoạch, không kiểm soát sẽ gây hậu


quả là tình trạng lún, sụt trên bề mặt. Quá trình khai thác bừa bãi làm cho tình hình càng
nghiêm trọng hơn. Đặc biệt là các giếng đã khai thác xong hoặc không sử dụng không
được trám lấp đã gây ô nhiễm nghiêm trọng cho nguồn nước, bởi các chất độc hại như
amoni, nước rác, nước thải... theo các giếng này xâm nhập vào lòng đất, khi sử dụng sẽ
gây hại cho sức khỏe của con người và động thực vật.
3.Hiện trạng chất lượng nước biển
Hiện nay, trước sức ép của tốc độ gia tăng dân số ngày càng nhanh, nhu cầu phát

triển kinh tế ngày càng cao trong bối cảnh các nguồn tài nguyên đất liền ngày càng cạn
kiệt đã đẩy mạnh khuynh hướng tiến ra biển, khai thác biển, làm giàu từ biển. Tuy nhiên,
các phương thức khai thác thiếu tính bền vững; các hoạt động khai thác chủ yếu chỉ tập
trung vào các mục tiêu phát triển kinh tế để đạt được các mong muốn tối đa, trong khi
xem nhẹ công tác bảo vệ môi trường, hoặc không có hoặc thiếu những qui hoạch, kế
hoạch chi tiết, cụ thể, cùng với cơ chế quản lý còn lỏng lẻo, đặc biệt trong bối cảnh tác
động của biến đổi khí hậu với các biểu hiện chính là sự gia tăng mực nước biển và nhiệt
độ của trái đất. Vấn đề khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển ở Thái Bình và
khu vực ngày càng đứng trước nhiều thách thức, nhiều nguồn tài nguyên bị khai thác cạn
kiệt, môi trường biển nhiều nơi bị ô nhiễm đến mức báo động.
Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển chủ yếu ở Thái Bình:
- Ô nhiễm môi trường có nguồn gốc từ đất liền và từ biển.
- Khai thác và đánh bắt thủy, hải sản quá mức
- Diễn biến ô nhiễm như sau:
a.pH
Độ pH trong nước biển dao động trong khoảng từ 7.07 - 8.27, giá trị trung bình
toàn vùng 7.89 với hệ số biến phân 2.07 % đặc trưng cho môi trường kiềm yếu của vùng
biển Thái Bình. Sự phân bố không gian của pH phản ánh sự tương quan với độ muối (R
= 0.55) và tăng dần từ bờ ra khơi. Tại các khu vực ven bờ, nơi có độ muối thấp, độ pH
giảm (8,20 - 8,28), đặc biệt tại khu vực cửa sông Ba Lạt, cửa Lân, cửa Trà Lý, cửa Diêm
Điền, cửa Thái Bình do ảnh hưởng của dòng nước lục địa độ pH đạt giá trị cực tiểu là
7,25. Giá trị cực đại của pH trong nước tầng mặt đạt 8,45. Theo số liệu quan trắc hằng
năm và kết quả nghiên cứu thì giá trị pH có sự biến thiên khá rõ (Biểu đồ 5)


Biểu đồ 5: Sơ đồ biến thiên của pH theo thời gian
b.Ô nhiễm dầu
Vùng biển Thái Bình là khu vực có nhiều tàu thuyền qua lại, vì vậy mà hoạt động
cung cấp xăng dầu cho tàu thuyền ở đây cũng diễn ra tấp nập, đặc biệt Khu vực cửa Ba
Lạt, Diêm Điền, Trà Lý, Thái Bình. Trong quá trình bốc dỡ, không tránh khỏi để xăng

dầu dò rỉ ra ngoài gây ảnh hưởng tới môi trường.
Theo kết quả khảo sát và lấy mẫu tại vùng cửa Ba Lạt, nồng độ dầu dao động trong
khoảng 0,09-0,16mg/l, trung bình 0,13mg/l. Như vậy, nồng độ dầu trong nước vùng biển
Ba Lạt vượt giới hạn cho phép đối với bãi tắm và nuôi trồng thủy sản. Dầu trong nước
chủ yếu có nguồn gốc từ lượng dầu vương vãi của tầu thuyền, dầu xả thải của động cơ, dò
rỉ từ các máy móc cũ, từ các trạm cung cấp xăng dầu bến cảng và ven biển.
c.Diễn biến phân bố của các nguyên tố tập trung
Các kim loại nặng được điều tra, khảo sát bao gồm Cu, Pb, Zn, Mn, Cd, Hg và As.
Hàm lượng tối đa của các nguyên tố này chưa vượt quá giới hạn cho phép theo quy chuẩn
môi trường (QCVN 10:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước
biển ven bờ), nhưng một số nguyên tố đạt hàm lượng cao (dị thường) tại một vài nơi trong
vùng tạo ra nguy cơ ô nhiễm. Đó là các nguyên tố Pb và Cu.
- Hàm lượng đồng (Cu); Hàm lượng đồng (Cu) trong nước biển tỉnh Thái Bình so
sánh với giới hạn cho phép của quy chuẩn nước biển ven bờ của Việt Nam dùng cho các
mục đích khác thì vẫn còn nằm trong giới hạn cho phép (Biểu đồ 6).
- Hàm lượng chì (Pb); Chì tồn tại chủ yếu dưới dạng ion hòa tan. Trong các mẫu
nước biển phân tích Pb dao động trong khoảng 0,002 - 0,0036 mg/l, hàm lượng trung bình
0,0029 mg/l, cao hơn tiêu chuẩn chung của thế giới 1,7 lần. So sánh với Quy chuẩn Việt
Nam (QCVN 10:2008/BTNMT) nằm trong giới hạn cho phép. Hàm lượng Pb trung bình
cũng có sự biến thiên không nhiều theo thời gian. Hàm lượng Pb cao tập trung chủ yếu


các khu vực có độ sâu 2 - 5 m gần các cửa sông lớn, cửa Ba Lạt, Diêm Điền, cửa Lân, cửa
Thái Bình và cửa Trà Lý. Vùng ngoài khơi có độ sâu 5 - 10 m cũng có hàm lượng Pb
tương đối cao.
Biến thiên hàm lượng Cu, Pb trung bình theo thời gian được biểu diễn trên đồ thị
(Biểu đồ 6).

Biều đồ 6: Sơ đồ biến thiên Cu, Pb(mg/l) trung bình theo thời gian
(Nguồn: Báo cáo chuyên đề đánh giá chất lượng nước vùng biển tỉnh Thái Bình của Sở Tài

nguyên và Môi trường)

- Hàm lượng kẽm (Zn); Kẽm tồn tại chủ yếu là các ion hòa tan. Hàm lượng Zn
trong vùng biển Thái Bình dao động trong khoảng 0.006 – 0.018mg/l, trung bình
0.0142mg/l, nếu so sánh với Quy chuẩn Việt Nam (QCVN 10:2008/BTNMT) thì các đợt
quan trắc năm 2012 hàm lượng Zn trung bình đều thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn Việt
Nam (Hình 3). Hàm lượng Zn trung bình trong các đợt quan trắc năm 2012 chưa vượt
ngưỡng theo QCVN. Dựa vào hàm lượng dị thường và các yếu tố thủy thạch động lực, đã
khoanh vùng được các khu vực Zn có hàm lượng cao đó là khu vực nuôi trồng thủy sản
xã Nam Thịnh, Nam Phú, cửa Ba Lạt, cửa Trà Lý, cửa Lân, cửa Diêm Điền, cồn Đen xã
Thái Đô, cửa Thái Bình.
Tóm lại, môi trường nước biển Thái Bình đã biểu hiện rõ rệt ô nhiễm dầu và nguy
cơ ô nhiễm Pb, Zn. Ô nhiễm dầu xảy ra trên diện rộng từ những khu vực gần bờ như ở
Nam Phú, Nam Thịnh, Thái Đô, cửa Diêm Điền trong khoảng độ sâu 0-2m nước đến
những khu vực xa bờ với độ sâu từ 14 - 20m nước. Nguyên nhân ô nhiễm dầu, chủ yếu là
do hoạt động tàu thuyền và bến bãi gây ra. Nguy cơ nhiễm kim loại nặng có thể liên quan
đến các chất thải công nghiệp từ trên bờ hoặc từ các nguồn xa hơn được sông Hồng
chuyển tới. Mặt khác, hàng ngày các tàu thuyền đánh bắt thủy sản vận chuyển vào trong


cảng cũng góp phần làm ô nhiễm dầu. Nước thải của các tàu thuyền, nhà máy, phân
xưởng có thể chứa nhiều chất hữu cơ và kim loại nặng gây ô nhiễm môi trường.
- Hàm lượng cadimi (Cd); Trong nước biển vùng nghiên cứu, Cd đạt hàm lượng
trung bình 0,0002 mg/l, thấp hơn rất nhiều so với (QCVN 10:2008/BTNMT). Sự tập
trung hàm lượng Cd trong nước ven bờ không cao. Khu vực xa bờ, hàm lượng Cd cao có
lẽ là do nguyên tố này bị giữ lại bởi hệ thống bẫy thuỷ văn khu vực. Đây là sự tập trung
hàm lượng của Cd trong tầng nước tầng giữa giảm dần theo hình quạt ra xa bờ với
gradient khoảng 0,09 - 1.10-3mg/l/km. Theo số liệu quan trắc và kết quả nghiên cứu hàm
lượng Cd có mức độ biến thiên khá ổn định, theo số liệu quan trắc thì hàm lượng Cd có
xu hướng tăng lên trong năm 2012 (Biểu đồ 7).

- Hàm lượng Asen (As); Trong môi trường nước biển khu vực ven bờ Thái Bình,
arsen có hàm lượng trung bình là 0.00388mg/l thấp hơn Quy chuẩn Việt Nam (QCVN
10:2008/BTNMT). Tuy nhiên, trong năm 2012 các mẫu phân tích cho thấy hàm lượng As
trung bình quan trắc dao động từ 0.0037 đến 0.029 mg/l với hệ số biến phân V=28,99%.
Mặc dù vậy hàm lượng As tại khu vực ven bờ cao hơn so với khu vực ngoài khơi, có thể
là do ảnh hưởng trực tiếp của dòng vật chất được chuyển tải từ bờ thông qua hệ thống
sông. Hàm lượng trung bình của As trong nước tầng mặt và tầng đáy thể hiện khá rõ sự
tập trung cao của nó trong các vùng biển nghiên cứu. Qua đó, có thể thấy điều kiện địa
hoá ảnh hưởng khá rõ nét đến sự tích luỹ của nguyên tố này và có nguy cơ ô nhiễm (Biểu
đồ 7).
- Hàm lượng thuỷ ngân (Hg). Thuỷ ngân tích luỹ yếu trong môi trường nước biển
với Ta = 1,26 - 1,60. Hàm lượng Hg trong nước biển Thái Bình dao động trong khoảng
0,01 - 0,07. 10-3mg/l với giá trị trung bình là 0,02.10-3mg/l.
Hàm lượng thuỷ ngân giảm từ 0,05.10-3mg/l xuống còn 0,04.10-3 mg/l giữa nước
vùng ven bờ cao hơn hàm lượng của nó trong nước biển vùng ngoài khơi.
Xu hướng này được biểu hiện khá rõ trên toàn vùng ven bờ của khu vực với
gradient hàm lượng khoảng 0,008 - 0,013.10-3mg/l/km. Tuy nhiên, nhìn chung sự phân
bố hàm lượng của nguyên tố này trong nước biển ven bờ không biến động mạnh giữa các
khu vực có địa hình, thuỷ văn và tác động nhân sinh khác nhau. Trong khu vực, hàm
lượng Hg tầng giữa (0,052.10-3mg/l và 0,06.10-3mg/l) có cao hơn chút ít so với các khu
vực khác 0,046 - 0,049. 10-3mg/l, có thể do các khu vực này có đặc tính như là bẫy thuỷ
văn, nơi lưỡi nước ngọt và các nguyên tố mang theo bị dồn vào bởi thuỷ triều và dòng
biển, không lan truyền được ra khơi xa. Các đợt quan trắc và phân tích mẫu năm 2012 đều


cho kết quả, hàm lượng Hg trung bình thấp hơn nhiều Quy chuẩn Việt Nam (QCVN
10:2008/BTNMT) (Biểu đồ 7)

Biều đồ 7: Sơ đồ biến thiên Zn, Mn, Cd, Hg, As (mg/l) trung bình theo thời gian
(Nguồn: Báo cáo chuyên đề đánh giá chất lượng nước vùng biển tỉnh Thái Bình của Sở Tài

nguyên và Môi trường)

Tóm lại, hiện trạng môi trường nước biển ven bờ Thái Bình có đặc trưng chủ yếu
bởi môi trường kiềm yếu và oxy hoá yếu. Các nguyên tố Cu, Pb tập trung chủ yếu ở khu
vực Cửa Thái Bình và khu vực Cồn Vành, đối với As, Cd và Zn phân bố chủ yếu Cửa
Thái Bình, Trà Lý, cửa Diêm Điền.
4.Hiện trạng môi trường không khí
a.Chất lượng không khí gần khu vực sản xuất
Hàng năm Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện quan trắc môi trường không khí
xung quanh gần khu vực sản xuất tại một số khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Trong quá trình hoạt động sản xuất, các KCN, CCN thường xuyên phát sinh khí thải, mỗi
ngành sản xuất phát sinh khí thải gây ô nhiễm không khí đặc trưng theo từng loại hình
công nghệ, khó xác định hết tất cả các loại khí thải gây ô nhiễm nhưng có thể phân loại
theo từng nhóm ngành sản xuất chính tại các KCN, CCN và ô nhiễm không khí hiện nay
chủ yếu vẫn là ô nhiễm bởi bụi và các loại khí thải SO2, CO, NOx. Trong phạm vi báo
cáo này ta tập trung đánh giá chỉ tiêu đặc trưng là bụi tổng và lựa chọn Khu, Cụm công
nghiệp có ngành nghề sản xuất gây ô nhiễm môi trường không khí như KCN Tiền Hải,
CCN Phong Phú.
+ Hàm lượng bụi TSP quan trắc tại các KCN Tiền Hải, CCN Phong Phú năm
2013:
Bảng 5: Hàm lượng bụi TSP tại KCN Tiền Hải, CCN Phong Phú năm 2013


Tại 3 vị trí được quan trắc thì chỉ có KCN Tiền Hải có hàm lượng bụi TSP vượt
QCVN 05:2009/BTNMT 1,52 lần (vào đợt 1) và 1,26 lần (vào đợt 2).
+ Hàm lượng bụi TSP quan trắc tại các KCN Tiền Hải, CCN Phong Phú năm
2014. Bảng 20: Hàm lượng bụi TSP quan trắc tại các KCN Tiền Hải, CCN Phong Phú,
CCN Vũ Thư năm 2014

Biểu đồ 8: Hàm lượng bụi TSP quan trắc tại các KCN Tiền Hải, CCN Phong Phú, CCN

Vũ Thư năm 2014

Tại 3 vị trí được quan trắc thì chỉ có KCN Tiền Hải có hàm lượng bụi TSP vượt
nhẹ so với QCVN 05:2013/BTNMT 1,07 lần (vào đợt 1) và 1,1 lần (vào đợt 2), còn lại 02
Cụm công nghiệp Vũ Thư và Cụm công nghiệp Phong Phú, hàm lượng bụi đều nằm trong
giới hạn cho phép.
Từ kết quả phân tích chỉ tiêu bụi các năm 2013, 2014 cho thấy chỉ tiêu bụi trong
môi trường không khí xung quanh tại Khu công nghiệp Tiền Hải vẫn vượt quá giới hạn
quy chuẩn cho phép. Nguyên nhân do KCN Tiền Hải là khu công nghiệp chuyên sản xuất


vật liệu xây dựng, sành sứ, thuỷ tinh, pha lê, xi măng… đa số các doanh nghiệp đều sử
dụng lò nung, sấy, lò than hóa khí…nên lượng khí thải phát sinh kèm theo bụi đưa vào
không khí lớn mặt khác một số doanh nghiệp lại đổ chất thải bừa bãi ven hai bên lề đường
gây ảnh hưởng đến quá trình chuyên chở nguyên vật liệu do tuyến đường 465 nối quốc lộ
39B vào KCN đã xuống cấp nghiêm trọng, đang trong quá trình sửa chữa, tu bổ. Cụm
Công nghiệp Phong Phú được quy hoạch là cụm công nghiệp sạch ít độc hại nên các
ngành nghề đầu tư vào Cụm công nghiệp ít gây ô nhiễm môi trường, song hiện nay hoạt
động của một số cơ sở như Nhà máy xi măng, Nhà máy gạch Tiền Phong, Nhà máy xử lý
rác thuộc Công ty TNHH MTV Môi trường và Công trình đô thị…hiện tại đang là nguồn
gây ô nhiễm môi trường không khí tại Cụm công nghiệp Phong Phú.
+ Hàm lượng các chỉ tiêu khác như khí SO2, CO, NOx tại các KCN, CCN hầu như
đều nằm trong giới hạn cho phép của quy chuẩn hiện hành, theo kết quả phân tích chất
lượng môi trường không khí xung quanh năm 2012 thể hiện trên biểu đồ:
Biểu đồ 9: Chất lượng môi trường không khí xung quanh năm 2012

Biểu đồ 10: Chất lượng môi trường không khí xung quanh năm 2012

b.Chất lương không khí ven các đường giao thông lớn
Lượng xe tham gia giao thông càng ngày càng gia tăng đáng kể, lưu lượng xe trên

các trục đường chính trên địa bàn tỉnh lớn. Các phương tiện tham gia giao thông không
chỉ gây ra tiếng ồn mà còn phát sinh một lượng lớn khí thải như bụi, SO2, CO, NO2…
Theo kết quả quan trắc môi trường không khí xung quanh năm 2014 tại một số trục
đường chính trên địa bàn tỉnh:


+ Hàm lượng bụi TSP quan trắc:
Bảng 6: Hàm lượng bụi tại một số trục đường chính
(Đơn vị tính: mg/l)
Thời gian

Đợt I

Đợt II

(tháng 6)

(tháng 11)

Thị trấn An Bài trên đường QL10 – KCN Cầu Nghìn

501

510

Ngã ba Đợi trên đường 10 (giao huyện Đông Hưng –
huyện Quỳnh Phụ)

231


250

CCN Đông La, huyện Đông Hưng trên đường QL 10
(chân cầu Nguyễn về phía Hải Phòng)

253

280

Ngã tư Gia Lễ (xã Đông Quang và xã Đông Dương) trên
đường QL10.

309

318

KCN Sông Trà tại chân cầu Hòa Bình (về phía đi Vũ Thư)

224

230

Cụm công nghiệp Đồng Tu, huyện Hưng Hà (trên đường
39)

316

340

Ngã tư An Tập, thành phố Thái Bình


229

260

Ngã tư Lý Bôn - Trần Thái Tông, thành phố Thái Bình

278

285

Ngã tư Thanh Nê, thị trấn Kiến Xương

246

260

Xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy (trên đường gần nhà máy
nhiệt điện)

215

230

Chân cầu Trà Lý tại Thái Thọ, huyện Thái Thụy

408

390


CCN và cảng cá Tân Sơn xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy

209

200

QCVN 05:2013/BTNMT

300

300

Vị trí

Biểu đồ 11: Hàm lượng bụi tại một số trục đường chính


đều thấp hơn hoặc nằm trong giới hạn cho phép của QCVN 05:2013/BTNMT. Có 4 vị trí
vượt, trong đó có 2 vị trí tại ngã tư Gia Lễ và Cụm công nghiệp Đồng Tu, huyện Hưng Hà
là vượt nhẹ so với quy chuẩn; 2 vị trí quan trắc tại thị trấn An Bài trên đường 10 và cầu
Trà Lý tại Thái Thọ là vượt quy chuẩn cho phép từ lần (vào đợt 1) và 1,26 – 1,33 lần
(vào đợt 2), tuy nhiên số lần vượt là không đáng kể.
+ Hàm lượng các khí thải SO2, CO, NOx:
Biểu đồ 12: Hàm lượng các khí thải tại một số trục đường chín

Từ biểu đồ nhận thấy, tại tất cả các vị trí trong cả 2 đợt quan trắc, hàm lượng các
khí thải SO2, NOx, CO đều thấp hơn QCVN 05: 2009/BTNMT, cụ thể : SO2 thấp hơn
quy chuẩn cho phép từ 4,6 - 9,2 lần (vào đợt 1) và 5 - 10,3 lần (vào đợt 2); NOx thấp hơn
quy chuẩn cho phép từ 3,4 - 7,7 lần (vào đợt 1) , và 3,4 - 8 lần (vào đợt 2); CO thấp hơn
quy chuẩn cho phép từ 6,67 - 12,38 lần (vào đợt 1) và 6,63 – 12,3 lần (vào đợt 2). Chứng

tỏ, chất lượng môi trường không khí xung quanh khu vực đường giao thông và đường
giao thông giao với KCN, CCN vẫn còn khá tốt, môi trường chưa bị ô nhiễm bởi các khí
thải do các phương tiện giao thông vận tải gây ra.
5.Hiện trạng môi trường đất
a.Mức độ ô nhiễm đất trong sản xuất nông nghiệp
- Đất canh tác nông nghiệp:


+ Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhiều nguồn có thể gây ô nhiễm đất, như
sử dụng phân hóa học: sử dụng phân bón không đúng kỹ thuật trong canh tác nông nghiệp
nên hiệu lực phân bón thấp, có trên 50% lượng đạm, 50% lượng kali và xấp xỉ 80% lượng
lân dư thừa trực tiếp hay gián tiếp gây ô nhiễm môi trường đất. Các loại phân vô cơ thuộc
nhóm chua sinh lý như K2SO4, KCl, hay phân super photphat còn tồn dư axit, đã làm
chua đất, nghèo kiệt các cation kiềm và xuất hiện nhiều độc tố trong môi trường đất như
ion Al3+, Fe3+, Mn2+ giảm hoạt tính sinh học của đất và năng suất cây trồng.
+ Ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật: Thuốc bảo vệ thực vật có đặc điểm rất độc đối
với mọi sinh vật; tồn dư lâu dài trong môi trường đất - nước; tác dụng gây độc không
phân biệt, nghĩa là gây chết tất cả những sinh vật có hại và có lợi trong môi trường đất.
Theo các kết quả nghiên cứu, hiện nay, mặc dù khối lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử
dụng ở Việt Nam còn ít, trung bình từ 0,5-1,0 kg /ha/năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã phát
hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất.
Khảo sát các mẫu đất tại nhiều địa điểm trong tỉnh cho thấy, đất đai các khu vực
canh tác nông nghiệp của Thái Bình hiện chưa ô nhiễm các yếu tố asen, chì và thuốc bảo
vệ thực vật nhóm cơ - phốtsphat. Tuy nhiên, đã xuất hiện những vấn đề sau đây:
+ Hàm lượng cadimi:

Biểu đồ 13: Hàm lượng trung bình của cadimi (Cd) trong đất tại các khu vực lấy
mẫu
Qua số liệu phân tích và biểu đồ trên ta thấy hàm lượng Cd trong đất tại nhiều khu
vực đã vượt ngưỡng cho phép. Tính trên hàm lượng trung bình, trong tổng số 13 xã lấy

mẫu đánh giá mức ô nhiễm thì có 6 xã có hàm lượng Cd trung bình vượt ngưỡng cho
phép (chiếm 46,15%), 01 xã có hàm lượng Cd xấp xỉ ngưỡng. Các xã còn lại tuy chưa
vượt ngưỡng nhưng cũng có hàm lượng khá cao (từ >1 mg/kg đất khô đến >1,5 mg/kg đất


×