Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.32 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐÀO THỊ NGỌC ÁNH

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐÀO THỊ NGỌC ÁNH

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. TRẦN PHÚC THĂNG

Hà Nội - 2013


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của GS. TS. Trần Phúc Thăng.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2013.
Tác giả luận văn

Đào Thị Ngọc Ánh


BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT

BGH

:

Ban giám hiệu

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GD&ĐT

:

Giáo dục và đào tạo


NXB

:

Nhà xuất bản

THPT

:

Trung học phổ thông

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

XH

:

Xã hội

THCS

:

Trung học cơ sở


HS

:

Học sinh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài. ...................................................................................... 4
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ............................................................. 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài....................................... 11
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 11
6. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 12
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 12
Chương 1 GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ĐẶC THÙ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HÀ NỘI HIỆN NAY . 13
1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức ............................................................. 13
1.1.1. Khái niệm đạo đức và giáo dục đạo đức. ..................................... 13
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức. .................................................................. 13
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức .................................................... 15
1.1.2. Biểu hiện đặc thù của giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông ......................................................................................................... 22
1.1.2.1. Cơ sở tạo nên tính đặc thù của giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông .............................................................................. 22
1.1.2.2. Một số đặc điểm của giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông. ..................................................................................................... 25
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh

THPT ở Hà Nội hiện nay........................................................................... 29
1.2.1. Tình hình kinh tế- chính trị quốc tế và trong nước..................... 29
1.2.1.1. Tác động của kinh tế thị trường............................................... 29
1.2.1.2. Tác động của điều kiện quốc tế ............................................... 31

1


1.2.2. Đặc điểm tình hình của địa phương. ........................................... 31
1.2.3. Đặc điểm của học sinh trung học phổ thông ở Hà Nội. .............. 35
Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HÀ NỘI HIỆN
NAY VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ............................. 39
2.1. Thực trạng về vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh ở một số
trường THPT tại Hà Nội hiện nay. .......................................................... 39
2.1.1. Thực trạng về đạo đức học sinh THPT ở Hà Nội hiện nay. ....... 39
2.1.2. Thực trạng về nhận thức vai trò của giáo dục đạo đức đối với học
sinh. .......................................................................................................... 42
2.1.3. Thực trạng về nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh ở các
trường THPT ở Hà Nội hiện nay ........................................................... 44
2.1.4. Thực trạng về phương pháp giáo dục đạo đức học sinh ở các
trường THPT tại Hà Nội hiện nay ......................................................... 48
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế. ..................................................... 50
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG Ở HÀ NỘI HIỆN NAY ............................................. 54
3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của giáo dục đạo đức trong nhà
trường trung học phổ thông hiện nay. ..................................................... 54
3.2. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức ......................... 57
3.2.1. Đổi mới nội dung giáo dục phải lấy giáo dục định hướng làm trung

tâm. ........................................................................................................... 57
3.2.2. Phải đổi mới nội dung giáo dục.................................................... 59
3.2.3. Đổi mới phương pháp giáo dục. ................................................... 61
3.3. Tăng cường xây dựng kỷ cương, nề nếp trường học và xây dựng
môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh. ............................................... 63

2


3.4. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường.......................................................................................................... 68
3.4.1. Vai trò của sự phối hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội trong
quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh. ................................................. 68
3.4.2. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường .......................... 72
3.4.3. Kết hợp giữa nhà trường và các tổ chức xã hội khác ................. 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78
Phụ Lục .......................................................................................................... 82

3


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Giáo dục và đào tạo là một hoạt động có tổ chức của xã hội nhằm bồi
dưỡng và phát triển các phẩm chất và năng lực con người cho mỗi công dân
cả về tư tưởng, đạo đức, khoa học, sức khỏe và nghề nghiệp.
Mục đích cơ bản của giáo dục ở mọi thời đại là hình thành và phát triển
nhân cách con người. Trong đó, vấn đề giáo dục đạo đức là vấn đề hết sức
quan trọng. Đạo đức là tổng hợp các quy tắc, tiêu chuẩn chỉ đạo mối quan hệ

giữa con người với nhau trong một cộng đồng, một xã hội nói chung. Cho dù
ở giai đoạn nào của lịch sử thì nét chung của đạo đức vẫn là hướng thiện,
chống lại cái ác, hướng tới quan hệ đẹp đẽ giữa con người với con người, với
tự nhiên và với xã hội. Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành TW Đảng khóa
VIII chỉ rõ: “ Thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí tuệ, thể dục, mỹ dục ở
tất cả các bậc học, hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách,
khả năng tư duy sáng tạo, năng lực thực hành” [11, tr .33]. Điều 2, Luật giáo
dục nước CHXHCN Việt Nam năm 2005 cũng quy định “ Mục tiêu giáo dục
là đào tạo người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khỏe
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công
dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc” [28, tr.3].
Điều lệ trường trung học ban hành theo quyết định số 07/2007/QĐ - Bộ GD
&ĐT ngày 2/4/2007 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cũng ghi rõ “ Học sinh được
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo Quy chế đánh giá và xếp
loại học sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo” [5, tr.7]. Trong Chương V Điều 38
của điều lệ quy định “ Nhiệm vụ của học sinh phải rèn luyện về đạo đức nhằm
cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng ” [5, tr.14].

4


Do vậy, quá trình giáo dục trong nhà trường thì nhiệm vụ giáo dục tri
thức luôn luôn phải gắn liền với nhiệm vụ giáo dục đạo đức, thông qua “dạy
chữ” để “dạy người”, giáo dục đạo đức là một khâu then chốt để giáo dục
nhân cách con người.
Một con người có nhân cách là con người vừa có “ tài ” lại vừa có “
đức ”, đức là nền tảng, là gốc của mọi việc. Đúng như Bác Hồ đã từng nói: “
Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm
việc gì cũng khó”. Bởi vậy, từ xưa đến nay, ông cha ta đã khẳng định mục

đích của việc học là“ có dăm ba chữ để làm người ”. Làm người với ý nghĩa
đầy đủ của nó là những con người có đạo đức trong sáng, có nhân cách và
phẩm chất tốt đẹp, phù hợp với đạo lí, truyền thống dân tộc. Cũng do đó,
phương châm giáo dục của ông cha ta là “ Tiên học lễ, hậu học văn”. Trước
khi học chữ, học kiến thức con người phải học phép tắc, lễ nghĩa, học cách
làm người.
Trải qua nhiều thế kỷ, qua nhiều thời đại khác nhau, mục đích ấy vẫn
không thay đổi và ngày càng được khẳng định vững chắc trong các văn bản,
Nghị quyết của Đảng, nhà nước về giáo dục, Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã chỉ rõ “Muốn tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa thắng lợi
phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu
tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững, để thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Phát triển nguồn nhân
lực con người là phát triển đức và tài” [14,tr 19].
Hiện nay, đạo đức của học sinh bậc THPT đang là vấn đề nóng bỏng, là
mối quan tâm lo lắng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia trên thế
giới. Các phương tiện thông tin đại chúng đang nói nhiều đến sự gia tăng tội
phạm, việc mang thai ở tuổi vị thành niên và các vấn đề khác ở thế hệ trẻ như:
tự tử, ma túy, bạo lực học đường… Sự giao lưu về văn hóa thời mở cửa giữa

5


các quốc gia, bên cạnh cái tốt, còn làm tăng thêm sự xuống cấp về đạo đức ở
lứa tuổi học trò. Việc sử dụng internet, kết nối thông tin để phục vụ việc học
tập chưa thấy kết quả là bao đã thấy rõ tác động tiêu cực của nó đối với bộ
phận lớn học sinh. Các em sử dụng máy tính chủ yếu là để chát với nhau, truy
cập vào các trang Website có nội dung không lành mạnh từ đó bê trễ việc học
hành, dẫn đến các thói hư, tật xấu và nhiều tệ nạn xã hội khác. Đó là chưa kể
đến lối sống tự do phóng túng, buông thả, thích ăn diện đua đòi, sống không

lý tưởng, không mục đích, không niềm tin, ngại khó khăn, ngại cống hiến...
Cũng chưa bao giờ truyền thống “ tôn sư trọng đạo ” lại bị xúc phạm và xoi
mói đến thế. Nhiều thầy cô giáo không chịu nổi trước những hành vi bất kính,
thô tục, vô lễ của học sinh. Xưa hiếm có chuyện trò đánh chửi lại thầy nhưng
nay cũng chưa thể thống kê được số vụ học trò hành hung đánh chửi, gây
thương tích cho thầy cô giáo của mình, lại càng không thể thống kê được số
vụ học trò vô lễ, bất kính với thầy là bao nhiêu.
Nhận định về tình hình trên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương VII,
khóa 10 (năm 2008) chỉ rõ “ Một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng,
giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành
pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyến thống văn hóa dân tộc ” [13,tr 27].
Cũng nói về thực trạng này, báo cáo của Bộ Giáo dục trình Chính phủ
tháng 10/2004 nêu rõ: “ Điều đáng lo ngại nhất ở một bộ phận học sinh, đặc
biệt bậc trung học là những biểu hiện của lối sống thực dụng, từ đó dẫn đến
tình trạng đối phó, gian lận, thiếu trung thực, trước hết là trong học tập, mức
độ phổ biến của hiện tượng này cao hơn nhiều so với những năm trước đây.
Một tỉ lệ nhỏ học sinh bậc trung học có những thiếu hụt khá rõ rệt về nhận
thức, thái độ và hành vi về đạo đức, trong đó có một số rơi vào tệ nạn xã hội,
vi phạm pháp luật như nghiện ma túy, gây rối trật tự công cộng, đặc biệt

6


nghiêm trọng và đáng báo động là những trường hợp cá biệt trở thành tội
phạm hình sự với các tội danh hiếp dâm, giết người, cướp của, hành hung
thầy cô giáo” [4].
Như vậy, có thể nói tình trạng đạo đức của học sinh đang ở trong tình
trạng đáng báo động. Những hiện tượng tiêu cực trên cho thấy công tác giáo
dục đạo đức, lối sống cho học sinh, đặc biệt là học sinh bậc trung học chưa
thực sự được coi trọng và cần có sự đổi mới cho phù hợp với tình hình xã hội

mỗi ngày một biến động.
Hà Nội là Thủ đô của cả nước, là nơi tập trung dân cư đông đúc, là một
địa bàn phức tạp. Các trường THPT, ngoài một số trường điểm, thì hầu hết
các trường điểm chuẩn tuyển sinh đầu vào đều thấp, có trường học mà hàng
nước hai bên dẫn vào cổng trường lại là nơi tập trung của tụ điểm buôn bán
hêroin, quán karaoke, quán internet…. Đa phần những học sinh học yếu, bản
lĩnh không cao, tiếp thu cái mới không có chọn lọc và dễ bị cái xấu lôi kéo,
nói dối bố mẹ là đi học thêm, học nhóm nhưng thực chất là ra quán nét, kết
bạn trên internet, bê trễ việc học hành, gây gổ, xích mích dẫn đến đánh nhau,
vô lễ với giáo viên là một thực tế, thậm chí có những trường hợp học sinh lớp
12 không kịp thi tốt nghiệp vì phải đi lấy chồng sớm. Uy tín của nhà trường
giảm sút. Trước tình trạng trên, các trường THPT trên địa bàn Hà Nội đã rất
quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Tuy vậy, trước những thách
thức của thời mở cửa, hội nhập, việc giáo dục đạo đức cho học sinh đứng
trước nhiều khó khăn hơn, đòi hỏi sự nỗ lực cao của mọi thành viên trong hội
đồng giáo dục, gia đình và xã hội.
Xuất phát từ những lí do trên, học viên chọn đề tài “ Vấn đề giáo dục
đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông ở Hà Nội hiện
nay” làm đề tài luận văn của mình.

7


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở nước ta, trong suốt quá trình đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ
nước, các chuẩn mực, giá trị đạo đức tốt đẹp trong quan hệ gia đình, cộng
đồng đã hình thành và truyền lại cho thế hệ sau bằng nhiều con đường. Cho
đến nay, là người Việt Nam, không ai không biết đến lời nhắc nhở: “ Tiên học
lễ, hậu học văn ” hay “ Tôn sư trọng đạo ”… Lại càng không thể không biết
đến tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

cách mạng. Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và
phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người
viết: “ Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng thì
phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân” [40,tr5]. Theo Người, đạo đức cách mạng giúp con người
vững vàng trong mọi thử thách, không lùi bước khi gặp khó khăn gian khổ,
thất bại, mới giữ vững tinh thần để lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ…
Người còn dạy: “ Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong ” và
trên tất cả là cuộc đời vì nước, vì dân của Người, đó là tấm gương đạo đức
cao cả nhất, sáng nhất để mọi thế hệ sau noi theo.
Đảng và Nhà nước ta cũng đã nhận thức sâu sắc về vai trò, động lực to
lớn của đạo đức cách mạng đối với sự tiến bộ xã hội. Chính vì vậy, năm 1979,
khi Bộ Chính trị ra nghị quyết về đổi mới cải cách giáo dục, Ủy ban cải cách
giáo dục đã có quyết định số 01 mở cuộc vận động “ Tăng cường giáo dục
đạo đức cách mạng trong các trường học ”. Trong lời khai mạc Hội nghi khoa
học về giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học (Tổ chức tại Nha Trang
từ 17/4 đến 18/4/1980) cho các tỉnh phía Nam và từ (28/4 đến 5/5/1980 ) cho
các tỉnh phía Bắc tại Hà Nội, Thứ trưởng Võ Thuần Nho đã cung cấp một số
lý luận và tư tưởng về giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học, kinh
nghiệm giáo dục đạo đức của những trường làm tốt.

8


Trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế mở đầy năng động hiện nay
đã tạo ra những định hướng xã hội mới, bên cạnh những giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp, những giá trị của con người mới cũng hình thành. Tuy vậy, bên
cạnh những mặt tích cực cũng xuất hiện một số nét tiêu cực có ảnh hưởng đến
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu

về vấn đề này.
Tác giả Nguyễn Khắc Minh nghiên cứu về “ Biện pháp tăng cường
công tác chủ nhiệm lớp trong các trường THPT tỉnh Hưng Yên ” (Luận văn
thạc sỹ Triết học - Năm 2007 - Học viện báo chí và tuyên truyền), khẳng định
tầm quan trọng và tác động của giáo viên chủ nhiệm đến quá trình hình thành
và phát triển đạo đức của các em học sinh.
Có những đề tài đi sâu nghiên cứu các nội dung giáo dục đạo đức cho
học sinh như: “ Biện pháp nhằm tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục thanh niên…” của Đỗ Thị Châm; “ Một số biện pháp quản lý hoạt động
giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên”… của Nghiêm Thị Nguyệt Anh; “
Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh… của Nguyễn
Văn Tâm; “ Một số biện pháp nhằm ngăn chặn các tệ nạn xã hội cho học sinh
ở các trường THPT… của Đàm Văn Long.
Có một số đề tài đi vào nghiên cứu về việc phối hợp các lực lượng
tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh, tiêu biểu như đề tài: “ Một số biện
pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trong công tác giáo dục đạo đức
cho học sinh trường THPT Tây Hồ” của Phạm Thị Minh Tâm đã đưa ra được
hai nhóm biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trong công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT. Đề tài này góp phần tạo nên sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội cùng chăm lo giáo dục học sinh, tạo đà cho sự
phát triển nhà trường trong giai đoạn đầu hình thành uy tín, thương hiệu cho
nhà trường.

9


Đáng chú ý là có những đề tài nghiên cứu một cách khái quát về hoạt
động giáo dục đạo đức cho học sinh như: “Các biện pháp giáo dục đạo đức
truyền thống cho học sinh trung học phổ thông ” do Hà Hữu Vinh viết. Tác
giả đã đề xuất bảy biện pháp nhằm giáo dục đạo đức truyền thống cho học

sinh, trong đó đề xuất biện pháp là nhằm nâng cao vị trí, cải tiến phương pháp
giảng dạy môn giáo dục công dân, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội
ngũ giáo viên chủ nhiệm; hoặc như đề tài: “ Một số biện pháp tăng cường
giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ thông ngoài công lập
của tỉnh Hải Dương” của tác giả Đỗ Văn Thược, trên cơ sở nghiên cứu lý
luận, xuất phát từ thực trạng tỉnh Hải Dương, tác giả đã đề xuất những biện
pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh như: Kế
hoạch hóa công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, làm tốt công tác thi đua,
khen thưởng kịp thời…
Ngoài các đề tài nghiên cứu về các biện pháp giáo dục đạo đức học
sinh các trường từ bậc tiểu học đến THPT, một số đề tài còn nghiên cứu biện
pháp giáo dục đạo đức học sinh các trung tâm giáo dục thường xuyên, sinh
viên các trường cao đẳng, đại học.
Đặc biệt gần đây nhất, trước tình trạng báo động về sự suy thoái đạo
đức của học sinh, sinh viên, hội khoa học Tâm lý - Giáo dục đã tổ chức một
hội thảo về khoa học về “ Giáo dục đạo đức học sinh - sinh viên ở nước ta Thực trạng và giải pháp ”. Hội thảo đã thu hút nhiều nhà khoa học, nhà giáo
dục tham gia với hàng trăm báo cáo. Tất cả đều xoay quanh vấn đề làm thế
nào để giáo dục đạo đức cho học sinh - sinh viên có hiệu quả.
Có thể nói, giáo dục đạo đức cho học sinh trong các trường THPT đang
là vấn đề hết sức gian nan, là mối quan tâm hàng đầu của những người làm
công tác giáo dục hiện nay. Việc đi tìm những biện pháp hữu hiệu mang tính
khả thi đang là những bước thử nghiệm, vừa làm vừa đúc rút kinh nghiệm.

10


Những đề tài nghiên cứu trên tuy giải quyết các khía cạnh khác nhau về giáo
dục đạo đức cho học sinh, song đã đặt nền tảng, tạo điều kiện cho chúng tôi
tiếp tục đi sâu nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu:
Từ đặc điểm và thực trạng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường THPT trên địa bàn Hà Nội trong thời kì đổi mới, luận văn đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh các trường THPT ở Hà Nội hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Khái quát một số đặc điểm cơ bản của việc giáo dục đạo đức cho học
sinh các trường THPT ở Hà Nội hiện nay.
+ Khảo sát, đánh giá thực trạng việc giáo dục đạo đức học sinh THPT
trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
trong các nhà trường THPT ở Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh ở các
trường THPT Hầ nội hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng vấn đề giáo dục đạo đức cho học
sinh các trường THPT ở Hà Nội từ khi đổi mới đến nay ( Trong phạm vi 6
trường THPT ở Hà Nội).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chung nhất của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời còn sử dụng các phương
pháp điều tra xã hội học (điều tra bằng phiếu hỏi, phỏng vấn sâu, phương

11


pháp toán thống kê, phương pháp chuyên gia, trưng cầu ý kiến về các giải
pháp giáo dục đạo đức học sinh THPT ở Hà Nội hiện nay.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng đạo đức học sinh THPT ở Hà Nội hiện

nay, luận văn đề xuất một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
mang tính đồng bộ và khả thi nhằm khắc phục tình trạng suy thoái đạo đức
của học sinh THPT ở Hà Nội hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Giáo dục đạo đức và những nhân tố đặc thù ảnh hưởng đến việc
giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ thông ở Hà Nội hiện
nay.
Chương 2: Thực trạng việc giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung
học phổ thông ở Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của những hạn chế.
Chương 3: Một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường
THPT ở Hà Nội hiện nay.

12


Chương 1
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ĐẶC THÙ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức
1.1.1. Khái niệm đạo đức và giáo dục đạo đức.
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “ Đạo đức là những nguyên tắc được dư luận
xã hội thừa nhận, quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối
với xã hội”, “ Là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những
chuẩn mực đạo đức mà có”.
Đạo đức là một lĩnh vực của ý thức xã hội, là một mặt của hoạt động xã

hội của con người và là một hình thái chuyên biệt của quan hệ xã hội, thực
hiện chức năng hết sức quan trọng là điều chỉnh hành vi con người trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo giáo sư Phạm Khắc Chương - Hà Nhật Thăng: “ Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã
hội, nhờ đó mà con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù
hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và với tiến bộ xã hội trong quan hệ
giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội” ( 10, tr 25)
Dưới góc độ triết học: “ Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất
của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực điều tiết
hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Căn
cứ vào những quy tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của mỗi người
bằng các quan niệm về thiện - ác, chính nghĩa - phi nghĩa, danh dự [32, tr.45].
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng có thể hiểu một cách
khái quát: Đạo đức là hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội,

13


nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì lợi ích chung của
cộng đồng trong mối quan hệ giữa con người và con người, giữa cá nhân và
tập thể hay toàn xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội nảy sinh từ nhu cầu duy trì trật tự, kỷ
cương của xã hội vì lợi ích chung của những cộng đồng người từ một gia
đình, một tập thể đến toàn thể xã hội. Những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức là những chuẩn mực giá trị, được mọi người công nhận và được củng
cố bằng sức mạnh của phong tục, tập quán, dư luận xã hội. Đạo đức không chỉ
tồn tại dưới hình thái ý thức mà còn được thể hiện trong quan hệ giao tiếp,
quan hệ ứng xử giữa con người với con người trong cộng đồng.
Đạo đức không tồn tại một cách biệt lập mà tồn tại xen kẽ và đan kết trong

mọi lĩnh vực ý thức xã hội, trong mọi hoạt động xã hội và mọi quan hệ xã
hội. Lao động, đấu tranh, học tập, rèn luyện đều là những hoạt động mang ý
nghĩa đạo đức . Các quan hệ kinh tế, chính trị, tinh thần, gia đình và những
quan hệ xã hội nói chung đều bao hàm quan hệ đạo đức nảy sinh trên cơ sở
của tồn tại xã hội và từ đời sống xã hội. Khoa học, nghệ thuật, tôn giáo đều
chứa đựng những yếu tố đạo đức nhất định.
Như vậy, đạo đức tồn tại trong mọi dạng ý thức, hoạt động và giao lưu,
trong toàn bộ hoạt động đời sống của con người, trong suốt thời gian tồn tại
và phát triển của họ, dù diễn ra trong điều kiện và hoàn cảnh nào. Mọi hình
thái ý thức, hoạt động và giao lưu, nếu được ý thức đầy đủ và định hướng rõ
rệt về tính chất và nội dung của quan hệ đạo đức, đều có khả năng ảnh hưởng
đến sự hình thành mặt đạo đức của nhân cách.
Với tư cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phụ thuộc vào tồn
tại xã hội. Vì vậy, ở những thời đại khác nhau, quan niệm về đạo đức cũng có
những điểm khác nhau. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội hay mỗi giai đoạn lịch
sử đều định hình những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức tương ứng. Mặt khác,

14


đạo đức còn gắn liền với hành vi, thói quen, tập quán sống của mỗi dân tộc và
thường xuyên biến đổi theo tiến trình phát triển của nhân loại. Do đó, những
giai cấp, những thời đại có những quan niệm đạo đức khác nhau.
Trong xã hội phong kiến, chuẩn mực đạo đức chính là: “ Nhân - Lễ Nghĩa - Trí – Tín ”, riêng người phụ nữ còn có: “ Tam tòng, tứ đức ”. Đến
thời đại Hồ Chí Minh, Người quan niệm đạo đức là “ Nhân - Nghĩa - Trí Dũng – Liêm ”. Đó là đạo đức cách mạng, đạo đức mới, đạo đức vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người.
Tuy vậy, ngoài những tính riêng biệt, đạo đức của mọi thời đại cũng đều
có những nét chung là hướng vào việc xây dựng nề nếp, kỷ cương trong một
xã hội cụ thể. Chính vì thế, đạo đức đã phát triển cùng với sự phát triển của
các điều kiện kinh tế - xã hội, cùng với sự phát triển của xã hội nói chung. Xã

hội càng phát triển thì các quan niệm về đạo đức càng được hoàn thiện hơn,
đầy đủ hơn.
Đạo đức có vai trò rất lớn trong mọi xã hội, nhất là trong việc hình thành,
phát triển nhân cách con người. Vai trò ấy thể hiện trong các chức năng của
đạo đức là : giáo dục, chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người và toàn xã
hội. Thông qua việc thực hiện các chức năng ấy, đạo đức tác động đến mọi
mặt của đời sống xã hội và từ đó cũng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển
của xã hội.
Chức năng quan trọng nhất của đạo đức chính là chức năng giáo dục. Những
chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng đồng chấp nhận tác động vào ý thức và
hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, để mỗi cá nhân tự giác giáo dục, rèn luyện, hoàn
thiện nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của toàn xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt chỉ có trong xã hội loài
người, là nhu cầu không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội .

15


Giáo dục nảy sinh, biến đổi và phát triển cùng với sự nảy sinh, biến đổi và
phát triển của xã hội. Bản chất giáo dục là sự truyền thụ và lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người. Chức năng trọng yếu của
giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách con người.
Ngày nay, khái niệm giáo dục được sử dụng trong khoa học sư phạm
là quá trình tác động có định hướng của chủ thể ( nhà trường, gia đình, xã hội)
lên khách thể giáo dục nhằm đạt được các mục đích nhất định. Theo từ điển
Tiếng Việt: “ Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến
sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng
ấy dần dần có những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”
Trong nội dung giáo dục, giáo dục đạo đức có vị trí quan trọng hàng

đầu. Thậm chí giáo dục “ theo nghĩa hẹp” ( quá trình bộ phận của giáo dục
theo nghĩa rộng) là công tác giáo dục chuyên biệt do nhà giáo dục tiến hành
nhằm hình thành một cách có hệ thống các phẩm chất nhất định như đạo đức,
phẩm chất, thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, quan điểm, thẩm mỹ, động cơ,
thái độ và những nét tính cách của nhân cách” ( xem Giáo trình giáo dục đại
cương Đại học Tổng hợp, Hà nội, 1995). Như vậy, giáo dục đạo đức là cốt
lõi, là hạt nhân của giáo dục. Trong đời sống hàng ngày, một người có đạo
đức kém thường bị xem là người “ thiếu giáo dục”. Vậy giáo dục đạo đức là
gì?
Trong nền giáo dục Xô viết trước đây, MaKarenko định nghĩa: “ Giáo
dục đạo đức có nghĩa là rèn luyện những phẩm chất tốt cho học sinh ( tính
trung thực, thật thà, thái độ tận tâm , tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật,
lòng yêu thích học tập, thái độ XHCN đối với người lao động, chủ nghĩa yêu
nước ) và trên cơ sở đó uốn nắn những sai sót của chúng” [30, tr.18].
Dưới góc độ của giáo dục học, chúng ta có thể hiểu giáo dục đạo đức là
hoạt động của chủ thể giáo dục tác động có hệ thống, có kế hoạch lên người

16


được giáo dục nhằm mục đích hình thành, bồi dưỡng những phẩm chất đạo
đức và mà chủ thể giáo dục đặt ra.
Giáo dục đạo đức có thể do các chủ thể khác nhau thực hiện. Chủ thể
giáo dục có thể là gia đình, nhà trường hoặc xã hội. Tuy nhiên, trong các chủ
thể nói trên, nhà trường giữ vai trò quan trọng hơn cả vì giáo dục nhà trường
có vai trò hình thành những phẩm chất đạo đức cơ bản cho con người từ tuổi
thiếu niên đến tuổi trưởng thành. Việc giáo dục đạo đức của nhà trường dựa
trên những chuẩn mực đạo đức đã được xã hội quy định hoặc thừa nhận. Giáo
dục đạo đức chính là làm cho những nhu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức của
xã hội thành những nhu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức của cá nhân, thành

những đòi hỏi bên trong của cá nhân, thành niềm tin, thói quen của người
được giáo dục, góp phần hình thành nhân cách của mỗi cá nhân.
Nhiệm vụ của giáo dục đạo đức các nhà trường được thể hiện trước hết
ở việc thực hiện mục tiêu giáo dục đạo đức thông qua việc thực hiện chương
trình, nội dung giáo dục đạo đức. Mục tiêu cũng như nội dung giáo dục đạo
đức của nhà trường xuất phát từ hình mẫu con người mà xã hội đòi hỏi và
được nhà nước quy định. Tất nhiên , điều đó làm cho cả mục tiêu và nội dung
giáo dục đạo đức không tách rời lợi ích của giai cấp thống trị. Vì vậy, ở các
giai đoạn lịch sử khác nhau, đều có một nội dung giáo dục đạo đức khác nhau.
Chẳng hạn, mục tiêu giáo dục đạo đức ở nước ta hiện nay như Đại hội Đảng
lần thứ IX đã chỉ rõ: “ Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
chính trị tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng tình nghĩa, lối sống có văn hóa,
quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội”
Những tiêu chuẩn của con người Việt Nam trong giai đoạn mới cũng
được Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khóa VIII
chỉ rõ với những tiêu chí cụ thể:

17


+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và CNXH, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn
kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
+ Có lối sống lành mạnh, nề nếp, văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước với cộng đồng, có ý thức bảo
vệ môi trường sinh thái.
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỷ luật, sáng tạo,

năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Như vậy, hình mẫu con người mới trong tương lai mà nhà trường phải
hướng tới chính là con người phát triển toàn diện, hài hòa về nhân cách, giỏi
về trí tuệ, khỏe về thể chất, phong phú về tâm hồn và trong sáng về đạo đức…
Đây chính là mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà nước ta.
Riêng đối với giáo dục đạo đức, các nhà trường ở Việt Nam có nhiệm
vụ là cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản về các phẩm chất đạo đức
và các chuẩn mực đạo đức, những vấn đề cơ bản trong đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật. Trên cơ sở đó hình thành thế giới quan khoa học, ý thức
thực hiện nghĩa vụ của người công dân trong xã hội.
Không những thế còn phải khơi dậy ở học sinh những rung động,
những xúc cảm đối với hiện thực xung quanh, biết yêu ghét rõ ràng và có thái
độ đúng đắn đối với các hiện tượng phi đạo đức trong đời sống xã hội. Và dẫn
dắt học sinh, giúp học sinh biết rèn luyện thông qua các hoạt động giáo dục
lặp đi lặp lại để hình thành hành vi, thói quen đạo đức đúng đắn.

18


Từ mục tiêu đó, nội dung giáo dục đạo đức trong giai đoạn hiện nay
bao gồm những vấn đề cơ bản như: giáo dục thế giới quan khoa học, nhân
sinh quan cách mạng, giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam, tư cách đạo đức, lối sống lành mạnh, giáo dục ý thức lao
động và giáo dục pháp luật, ý thức công dân nói chung, giáo dục ý thức tiết
kiệm và bảo vệ của công nhằm hình thành ở người học lý tưởng sống cao đẹp,
chống lại chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, hưởng thụ, chạy theo lợi ích
vật chất thuần túy… Đồng thời, giúp người học biết tự hào, tin tưởng vào
tương lai tươi sáng của dân tộc, ngăn ngừa và chống lại các biểu hiện của tâm

lý tự ti dân tộc, hoặc chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, thờ ơ với đất nước, buông trôi
cuộc sống, sẵn sàng tham gia xây dựng trường, địa phương, ngăn ngừa và
khắc phục những biểu hiện sai trái như chây lười, ỷ lại, làm ăn bất chính, chạy
theo nghề để “kiếm chác”.
Nội dung chủ yếu của giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn
hiện nay bao gồm những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất là giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức:
Nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức trước hết tập trung vào
việc tăng cường thế giới quan khoa học. Thế giới quan quyết định xu hướng,
lý tưởng đạo đức và các phẩm chất tư tưởng của con người, giúp các em có
hiểu biết đúng đắn về thế giới hiện thực và có những suy nghĩ đúng đắn với
niềm tin khoa học.
Trên cơ sở tăng cường thế giới quan khoa học, cần tăng cường giáo dục
tư tưởng cách mạng, nâng cao lòng yêu nước XHCN cho học sinh để họ có lý
tưởng sống đúng đắn .
Trong điều kiện hiện nay, cần đặc biệt quan tâm giúp đỡ các em ý thức
và khả năng chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đời sống vật chất, hưởng
thụ. Đồng thời, giúp các em biết tự hào, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của

19


dân tộc, ngăn ngừa và chống lại các biểu hiện của tâm lý tự ti dân tộc, hoặc
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, thờ ơ với đất nước, buông trôi cuộc sống…
Thứ hai là giáo dục ý thức lao động và giáo dục pháp luật:
Giúp các em có ý thức tiết kiệm và bảo vệ của công, sẵn sàng tham gia
xây dựng trường, địa phương, ngăn ngừa và khắc phục những biểu hiện sai
trái như chây lười, ỷ lại, làm ăn bất chính…
Tăng cường giáo dục pháp luật sẽ giúp các em phải biết về nghĩa vụ,
quyền lợi người công dân cũng như nghĩa vụ, quyền lợi của học sinh, có thói

quen sống và làm việc theo pháp luật, ngăn ngừa và khắc phục tình trạng tự
do vô kỷ luật, phạm pháp dưới những hình thức khác nhau, thờ ơ hoặc không
dám đấu tranh với những hành vi phạm pháp, hoặc a dua làm theo kẻ xấu.
Thứ ba là giáo dục lòng yêu thương con người và cách ứng xử có văn hóa:
Biết yêu quý và kính trọng ông bà, cha mẹ, những người thân trong gia
đình và những người xung quanh. Biết thông cảm và quan tâm giúp đỡ người
khác, biết hy sinh quyền lợi cá nhân. Mặt khác, các em cũng biết ngăn ngừa
và khắc phục những biểu hiện sai lầm như ích kỷ, thờ ơ, lạnh lùng với xung
quanh, bắt nạt bạn bè, em nhỏ, thiếu lễ độ, thiếu tôn trọng người khác.
Thứ tư là giáo dục đạo đức gia đình với những nguyên tắc trong ứng xử:
Với người trên phải tôn kính, lễ độ, khiêm tốn, quan tâm chăm sóc; với
người dưới phải thông cảm, nhường nhịn, giúp đỡ, vị tha, với người cùng thế
hệ phải tôn trọng, khiêm nhường, chân thành giúp đỡ học tập lẫn nhau. Trong
hôn nhân là tự nguyện, tự giác, thủy chung.
Thứ năm là giáo dục tình bạn:
Tình bạn là nhu cầu của con người trong giao tiếp, chính trong nhóm
bạn mà mỗi người có thể bộc lộ những phẩm chất, tính cách của mình, giúp
họ hình thành, củng cố thuộc tính tâm lý bền vững của mỗi cá nhân. Mỗi cá

20


nhân chịu ảnh hưởng của nhóm bạn bè một cách chủ động hoặc bị động một
cách khác nhau. Trong cuộc sống xã hội, không chỉ có toàn người tốt, không
có người xấu trong nhóm bạn bè. Vấn đề là tiếp thu cái tốt của bạn, cải tạo cái
xấu ở bản thân, ở bạn làm cho mỗi người ngày càng đẹp hơn. Tình bạn chân
chính phải được xây dựng trên nền đạo đức chân chính. Đặc biệt nhà trường
phải giúp các em tránh ngộ nhận tình bạn, biến thành bè phái, nhóm bạn xấu
bao che khuyết điểm cho nhau.
So với quá trình dạy học thì quá trình giáo dục đạo đức có những đặc

điểm sau:
Giáo dục đạo đức không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ khái niệm, tri
thức đạo đức, mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể hiện thành
tình cảm, niềm tin, hành động thực tế của học sinh.
Quá trình dạy học chủ yếu được tiến hành bằng các giờ học trên lớp, còn
quá trình giáo dục đạo đức không chỉ bó hẹp trong giờ lên lớp mà còn được thể
hiện thông qua tất cả các hoạt động có thể có trong và ngoài nhà trường.
Kết quả của hoạt động giáo dục đạo đức còn phụ thuộc rất lớn vào nhân
cách của người thầy, gương đạo đức của người thầy sẽ có những tác động
quan trọng vào việc học tập và rèn luyện đạo đức của học sinh.
Để giáo dục đạo đức cho học sinh có hiệu quả, yếu tố tập thể giữ vai trò
hết sức quan trọng. Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh chỉ đạt kết quả tốt
khi nó có sự tác động đồng thời của các lực lượng giáo dục như nhà trường,
gia đình và xã hội.
Hơn bất cứ một công việc nào, công tác giáo dục đạo đức phải được
tiến hành từ trong nôi và đòi hỏi nhà giáo dục phải nắm vững cá tính, hoàn
cảnh sống cụ thể của từng em để định ra sự tác động tích hợp. Giáo dục đạo
đức là một quá trình lâu dài và phức tạp đòi hỏi sự công phu, kiên trì, liên tục
và lặp đi lặp lại nhiều lần.

21


×