PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀOTẠO BIÊNHÒA
TRƯỜNG TIỂU HỌC AN BÌNH
BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2014 – 2015
Họ và tên:
Ngày tháng năm sinh
Tổ chuyên môn:
Năm vào ngành giáo dục:
Nhiệm vụ được giao trong năm học: .
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học An Bình.
Kết quả thực hiện kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên của cá nhân tôi và vận
dụng những kiến thức, kĩ năng đã học tập bồi dưỡng thường xuyên vào quá trình
thực hiện năm học của tôi như sau:
I. Đối với Module TH 7: Xây dựng môi trường học tập thân thiện.
1. Xây dựng môi trường thân thiện trong nhà trường về vật chất (phòng học, cảnh
quan trường lớp, tạo khu vui chơi…)
1.1. Mục tiêu:
- Hiểu được xây dựng môi trường trường học thân thiện về mặt vật chất; hiểu được
ý nghĩa và biết cách tạo môi trường trường học thân thiện về mặt vật chất.
- Hiểu được thế nào là xây dựng môi trường trường học thân thiện về mặt tinh thần;
hiểu được ý nghĩa và biết cách xây dựng môi trường trường học thân thiện về mặt tinh
thần.
1.2. Xây dựng môi trường thân thiện trong nhà trường về vật chất:
a. Thế nào là xây dựng môi trường trường học thân thiện về mặt vật chất ?
Môi trường trường học thân thiện về mặt vật chất là môi trường phải đảm bảo cơ sở
vật chất đáp ứng không chỉ yêu cầu của sự nghiệp giáo dục mà còn cho cuộc sống an
toàn, văn minh, phù hợp với tâm lí của HS : trường lớp sạch sẽ, có cây xanh, thoáng mát;
lớp học đủ ánh sáng, bàn ghế hợp lứa tuổi HS ; có sân chơi, bãi tập, …
b. Ý nghĩa của việc xây dựng môi trường trường học thân thiện về mặt vật chất
- Tạo nên một môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn, tránh được những bất trắc,
nguy hiểm đe doạ HS, tạo hứng thú học tập cho HS.
- Tạo sân chơi bổ ích cho các em, tạo điều kiện cho các em “Mỗi ngày đến trường là
một ngày vui”.
- HS có ý thức xây dựng môi trường xanh - sạch - đẹp, có ý thức giữ vệ sinh nơi
công cộng, tích cực tham gia bảo vệ cảnh quan trường học.
- Phát huy được tính tự giác của HS trong việc xây dựng môi trường sạch đẹp của
nhà trường.
c. Một số biện pháp xây dựng môi trường trường học thân thiện về mặt vật chất
- Tổ chức tốt công tác tuyên truyền tới GV, HS, phụ huynh và các tổ chức xã hội.
- Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp là một trong những tiêu chí cần xây dựng,
trước hết phải xác định mục tiêu rõ ràng để giáo viên và học sinh thực hiện:
+ Giữ vệ sinh khuôn viên trường;
+ Vệ sinh nguồn nước, hệ thống thoát nước; có đủ nhà vệ sinh và giữ gìn vệ sinh
sạch sẽ, không ảnh hưởng xấu đến lớp học và cảnh quan môi trường;
+ Có nhiều cây xanh bóng mát trong sân trường. Tổ chức học sinh trồng cây dịp đầu
xuân và chăm sóc cây thường xuyên;
+ Vệ sinh phòng học: đủ ánh sáng, thoáng mát, bàn ghế đúng quy cách, đủ chỗ ngồi.
- Tổ chức cho học sinh giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, tích cực tham gia bảo vệ cảnh
quan ngôi trường.
- Tổ chức cho HS tham gia trang trí lớp học thân thiện, tạo cảnh quan lớp học sạch,
đẹp, gây hứng thú học tập cho HS.
- Cần phát huy tính tự quản tự giác của học sinh trong việc xây dựng môi trường
sạch đẹp của nhà trường, kết hợp với các lực lượng giáo dục trong nhà trường: đoàn thể,
Liên đội….
- Khai thác và sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị, đồ dùng dạy học ở từng khối
lớp. Phát động Hội thi tự làm ĐDDH. Thường xuyên dự giờ rút kinh nghiệm về việc sử
dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, nhất là những giờ dạy có ứng dụng công nghệ thông tin.
- Tạo sân chơi lành mạnh cho các em: tổ chức các hội thi, các phong trào thi đua,
các hoạt động ngoại khoá,...
2. Xây dựng môi trường thân thiện trong nhà trường về tinh thần (quan hệ giáo
viên-giáo viên, giáo viên-học sinh, học sinh-học sinh, nhà trường- phụ huynh…)
“Thân thiện” là có tình cảm tốt, đối xử tử tế và thân thiết với nhau. Bản thân khái
niệm “thân thiện” đã hàm chứa sự bình đẳng, dân chủ về pháp lý và sự đùm bọc, cưu
mang đầy tình người về đạo lý. “Trường học thân thiện” đương nhiên phải “thân thiện”
giữa tập thể sư phạm với học sinh, thân thiện với địa phương (địa bàn hoạt động của nhà
trường); phải “thân thiện” trong tập thể sư phạm với nhau;
2.1. Trước hết, trường học phải thân thiện với địa bàn hoạt động, mà nội dung chủ
yếu của sự thân thiện là:
- Nhà trường phải phấn đấu trở thành trung tâm văn hóa, giáo dục ở địa phương.
Phải gương mẫu trong việc gìn giữ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ở địa
phương. Từ đó, địa phương sẽ đồng thuận, đồng lòng, đồng sức tham gia xây dựng nhà
trường, xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa đôi bên.
- Một nội dung trọng tâm về trường học thân thiện với địa phương: mỗi trường học
nhận chăm sóc công trình văn hóa, lịch sử ở địa phương, và tích cực chăm lo xây dựng
các công trình công cộng, trồng cây, chăm sóc cho đường phố, ngõ xóm sạch sẽ.
2.2. Thân thiện trong tập thể sư phạm với nhau. Điều này rất quan trọng, vì nó là
“cái lõi” để thân thiện với mọi đối tượng khác. Ở đây, vai trò của hiệu trưởng, của lãnh
đạo tổ chức Đảng và các đoàn thể là cực kỳ quan trọng. Muốn vậy, trong quan hệ quản
lý, phải thực thi dân chủ, phải thực hiện bằng được quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong quan
hệ tài chính, phải trong sáng, công khai, minh bạch đối với mọi thành viên trong nhà
trường. Về mặt tâm lý, phải thực sự tôn trọng lẫn nhau. Không thể có thân thiện, nếu
trong trường mất dân chủ, bất bình đẳng, nếu thiếu tôn trọng lẫn nhau, hiệu trưởng hống
hách, quát nạt nhân viên dưới quyền. Cũng không thể có thân thiện, nếu mọi khoản thu
chi trong nhà trường cứ “mờ mờ ảo ảo”.
2.3. Thân thiện giữa tập thể sư phạm, nhất là các thầy, cô với các em học sinh. Thầy
cô cùng các bộ phận khác trong nhà trường đều hoạt động theo phương châm: “Tất cả vì
học sinh thân yêu”. Từ đó, trò sẽ quý mến, kính trọng thầy cô giáo. Sự thân thiện của các
thầy, cô với các em là “khâu then chốt”, và được thể hiện ở các mặt sau:
- Tận tâm trong giảng dạy và giáo dục các em. Muốn vậy, hãy mạnh dạn chuyển
lối dạy cũ thụ động “thầy đọc, trò chép”, “thầy giảng, trò nghe” sang lối dạy “thầy tổ
chức, trò hoạt động”, “dạy học lấy học sinh làm trung tâm”. Có vậy mới phát huy được
tính tự giác, tích cực học tập của các em, mới thực hiện được việc quan tâm đến từng em
học sinh, nhất là đối với các em có hoàn cảnh khó khăn, các em học sinh “cá biệt”.
- Công tâm trong quan hệ ứng xử. Thầy, cô giáo phải công tâm trong quan hệ ứng
xử, công tâm trong việc đánh giá, cho điểm (nghĩa là phải công bằng, khách quan với
lương tâm và thiên chức nhà giáo).
- Phải coi trọng việc giáo dục bình đẳng giới để các học sinh nam, nữ biết quý trọng
nhau, sống hòa đồng với nhau. Phải rèn kỹ năng sống cho học sinh thích ứng với xã hội,
bởi cuộc sống nhà trường là cuộc sống thực, ngay ngày hôm nay, bây giờ, chứ không chỉ
chuẩn bị cho tương lai. Đừng để trò phải “ngơ ngác” trước cuộc sống xã hội đang từng
ngày thay đổi.
2.4. Nhà trường thân thiện phải đảm bảo cơ sở vật chất đáp ứng không chỉ yêu cầu
của sự nghiệp giáo dục, mà còn cho cuộc sống an toàn, văn minh, phù hợp với tâm lý của
đối tượng thụ hưởng. Trường học thân thiện thì không thể thiếu sân chơi, bãi tập đối với
lứa tuổi “học mà chơi, chơi mà học”; ánh sáng như đom đóm, bàn ghế không đúng quy
cách, nhà vệ sinh buộc trẻ phải bịt mũi, bặm môi mà vào... Ngược lại, trường học phải
được xây dựng khang trang, xanh, sạch, đẹp, đúng yêu cầu sư phạm.
*Tất cả những nội dung trên, trước mắt được gói gọn vào 3 điểm trọng tâm :
a. Học tốt.
b. Đẩy mạnh việc “chơi mà học”.
c. Mỗi trường học là một địa chỉ nhận chăm sóc công trình văn hóa, lịch sử.
* Tóm lại, trường học thân thiện phải là nơi mà mọi thành viên đều là bạn, là đồng
chí, là anh em; giáo viên nêu cao tinh thần “càng yêu người bao nhiêu, càng yêu nghề bấy
nhiêu”; mọi hoạt động giáo dục trở nên nhẹ nhàng, vui tươi, hấp dẫn mọi người, nhất
là người học; trường học gắn bó mật thiết với địa phương, và có chất lượng giáo dục toàn
diện với hiệu quả giáo dục không ngừng được nâng cao.
*Cụ thể: Xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” không phải là điều
quá mới mẻ. Nói như vậy là bởi vì, khoảng vài năm trở lại đây, cùng với việc đẩy mạnh
đổi mới phương pháp dạy học, Bộ GD-ĐT đã nhấn mạnh đến việc yêu cầu học sinh phát
huy tính chủ động, tham gia trong các hoạt động giảng dạy của giáo viên. Vì thế, phong
trào “trường học thân thiện, học sinh tích cực” thực ra là sự phát triển một hoạt động
đã triển khai từ trước đó ở mỗi trường học.
Trên quan điểm như vậy:
- Phải tăng cường kiểm tra, phát vấn, giao việc cho các em, qua đó góp phần giúp
các em có khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ nói một cách có hệ thống, tự tin khi trình bày
trước tập thể.
- Phát động trong học sinh tham gia dự thi làm ĐDDH sau các tiết học. Đây là cách
để kiểm tra mức độ vận dụng của học sinh đồng thời cũng là cơ hội để các em tham gia
cải tiến giờ dạy có chất lượng cao hơn.
- Thầy, cô giáo phải có phương pháp giảng dạy tích cực để cho HS tích cực. Bởi vì
trong một lớp học, số “HS tích cực” rất là ít, thường là những em có học lực và hạnh kiểm
khá - giỏi, còn đa số là thụ động.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy sao cho có thể lôi cuốn tất cả học sinh tham gia.
- Tổ chức một số hoạt động sáng tạo, phát huy trí tuệ và năng lực hoạt động của học
sinh như thuyết trình, lập báo cáo, làm mô hình kỹ thuật, viết phần mềm tin học, sáng tác
thơ văn…
- Các tổ bộ môn cũng sẽ giao một số đề tài nghiên cứu nhỏ cho học sinh thực hiện
như: sưu tầm tranh ảnh, tài liệu theo chủ đề…
- Để tạo thêm sân chơi cho học sinh, tuỳ vào sở trường của mình, các em có thể
tham gia các CLB như CLB Tin học, CLB Thơ văn,...
- Trong những buổi ngoại khoá, chào cờ đầu tuần… nhà trường tổ chức lồng ghép
kể chuyện về tấm gương các danh nhân, anh hùng liệt sĩ tiêu biểu của quê hương; giới
thiệu các hình thức diễn xướng đặc trưng của quê hương…
- Hoàn thiện nhân cách cho học sinh bằng cách phát động các phong trào “Không
nói tục chửi thề”, “Gọi bạn xưng tên”, “Kính trên nhường dưới, lễ phép với thầy cô giáo,
người lớn tuổi”…
- Tạo điều kiện học sinh được tham gia các hoạt động trong nhà trường một cách
chủ động, được bộc lộ quan điểm, rèn luyện các kỹ năng và hình thành quan hệ tốt trong
giao tiếp với thầy cô và bạn bè. Tổ chức những hoạt động như hội chợ (vào dịp lễ, tết),
hội thảo về phương pháp học tập, các buổi văn nghệ, trò chơi… để học sinh tự tham gia
nhằm rèn luyện kỹ năng mềm để ứng dụng vào cuộc sống như thuyết trình, xây dựng hình
ảnh bản thân, phương pháp làm việc nhóm…
Từ phong trào xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”, xây dựng một
môi trường sư phạm thực sự lành mạnh, trong đó, học sinh biết bảo vệ danh dự của nhà
trường, của tập thể lớp và của chính bản thân mình; biết bảo vệ cái đúng, phê phán cái
sai… Và để làm được điều này, cần phải có sự chung tay của cả gia đình và cộng đồng.
II. Đối với Module TH 15: Một số phương pháp dạy học tích cực ở Tiểu học.
1. Mục tiêu:
- Hiểu được bản chất của phương pháp dạy học tích cực.
- Nắm được vai trò và nội dung cơ bản của một số phương pháp dạy học tích cực.
- Thực hiện được phương pháp dạy học tích cực trong một số bài giảng.
- Khẳng định sự cần thiết và có ý thức tự giác, sáng tạo áp dụng phương pháp tích
cực.
2. Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường Tiểu học.
a. Phương pháp vấn đáp
* Vấn đáp: Là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời,
hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội
được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các
loại phương pháp vấn đáp:
* Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã
biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được xem là
phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa
các kiến thức vừa mới học.
* Vấn đáp giải thích - minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó,
giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ
hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện
nghe - nhìn.
* Vấn đáp tìm tòi: Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để
hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng
đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể
cả tranh luận – giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề
xác định.
b. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì
phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực
đảm bảo sự thành công trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt
ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương
pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo. Cấu trúc một bài
học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề thường như sau:
* Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức - Tạo tình huống có vấn đề;
- Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;
- Phát hiện vấn đề cần giải quyết
* Giải quyết vấn đề đặt ra
- Đề xuất cách giải quyết;
- Lập kế hoạch giải quyết;
- Thực hiện kế hoạch giải quyết.
* Kết luận: - Thảo luận kết quả và đánh giá;
- Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra;
- Phát biểu kết luận;
- Đề xuất vấn đề mới.
* Có thể phân biệt bốn mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề:
Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách
giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của
học sinh.
Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. .
Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện
và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học sinh
thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 4 : Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc
cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất
lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
c. Phương pháp hoạt động nhóm: Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến
6 người. Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên
hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được
giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người
một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ
lại vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ
nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc
của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả
làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi
thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
* Phương pháp hoạt động nhóm có thể tiến hành:
• Làm việc chung cả lớp: - Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức
- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ
- Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm.
• Làm việc theo nhóm: - Phân công trong nhóm.
- Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm
- Cử đại diện hoặc phân công trình bày kết quả làm việc theo nhóm
• Tổng kết trước lớp: - Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.
- Thảo luận chung.
- Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài.
Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn
khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra
những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu
ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ
không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên. Thành công của bài học phụ thuộc vào
sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên, vì vậy phương pháp này còn gọi là phương
pháp cùng tham gia.
d. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào
đó trong một tình huống giả định.
Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau:
- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi
trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.
- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh.
- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực.
- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
Cách tiến hành có thể như sau:
- Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ
thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai.
- Vì sao em lại ứng xử như vậy?
- Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử?
- Lớp thảo luận, nhận xét : Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù
hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?
- Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.
Những điều cần lưu ý khi sử dụng:
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai
- Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia.
e. Phương pháp động não
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được
nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề
cho buổi thảo luận.
Cách tiến hành:
- Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to.
- Phân loại ý kiến.
- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.
III. Đối với Module TH35: GV nhiệm trong các hoạt động ở trường tiểu học.
1. Giáo viên chủ nhiệm với công tác quản lý và giáo dục học sinh trong các giờ học
chính khóa:
Như chúng ta đã biết, bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc
sống, hoạt động và giao lưu cho học sinh. Như vậy, để giáo dục học sinh, giáo viên chủ
nhiệm lớp cần tổ chức tốt các hoạt động và thu hút các em tham gia một cách tích cực
nhất. Trong trường tiểu học cần tổ chức tốt các hoạt động sau đây:
Học tập là hoạt động quan trọng nhất của học sinh, để giúp cho lớp học tập tốt, giáo
viên chủ nhiệm lớp phải chú ý:
Rèn cho học sinh thói quen đi học đầy đủ, đùng giờ, bằng các biện pháp cụ thể sau:
- Giáo viên chủ nhiệm có mặt thường xuyên tại lớp 10 phút trước giờ học mỗi ngày,
đặc biệt là những ngày đầu tuần.
- Tổ chức 10 phút “ Ôn bài” đầu giờ học mỗi ngày. Ôn bài là biện pháp giúp nhau
ôn tập nhanh, chuẩn bị sẵn sàng cho ngày học mới. Truy bài đầu giờ còn là biện pháp
khắc phục tình trạng đi học muộn, cho nên cần được tổ chức tốt và duy trì lâu dài.
- Thành lập đội “Sao đỏ” của lớp để theo dõi thi đua giữa các tổ và tham gia trực
tuần với các lớp trong trường.
Rèn cho học sinh thói quen tích cực tham gia học tập bằng các biện pháp sau:
- Tổ chức thi đua giữa các tổ trong lớp, ghi lại số lần tham gia phát biểu ý kiến trong
các giờ học.
- Tổ chức cho học sinh chuẩn bị trước các bài học trong ngày.
- Tổ chức cho học sinh trao đổi về phương pháp đọc sách, ghi chép và sử dụng tài
liệu và thảo luận trên lớp.
- Nêu gương những học sinh có phương pháp học tập tốt, đặc biệt những học sinh
nghèo học giỏi.
- Tổ chức cho học sinh học nhóm, đôi bạn cùng học để hỗ trợ nhau học tập.
2. Giáo viên chủ nhiệm với các hoạt động ngoài giờ lên lớp: Tiết cháo cờ, hoạt động
của sao nhi đồng và Đội TNTPHCM
2.1. Với Tiết chào cờ đầu tuần:
Sau tiết sinh hoạt dưới cờ (tiết đầu tuần), các giáo viên chủ nhiệm (GVCN) nắm
danh sách các học sinh (HS) vắng có phép, không phép, đi trễ, hoặc vi phạm nội quy như
mang dép lê, áo không có phù hiệu, tóc tai xịt keo hay nhuộm màu… để GVCN làm việc
với các em, quán triệt nội quy hoath động của lớp…. Bởi vì trong giờ này, ngoài những
vấn đề “thời sự” liên quan đến nhà trường và học sinh, thầy cô còn cung cấp cho học sinh
những bài học đạo đức . Khi trong lớp có học sinh nào gặp hoàn cảnh khó khăn là thầy cô
gợi ý cho lớp thể hiện tinh thần tương thân tương ái, giúp một bạn vượt khó, với tinh thần
“lá lành đùm lá rách”, chuyện kỷ luật trong lớp, việc thi đua nội bộ lớp, việc đánh giá học
sinh cũng được giáo viên hướng dẫn thực hiện một cách nhẹ nhàng và chân tình.
2.2. Với hoạt động của sao nhi đồng và Đội TNTPHCM:
Phối hợp với Tổng phụ trách trong hoạt động Đội – Sao: - Mỗi tiết học hiệu quả hơn
nếu nề nếp lớp học tốt. Bởi vậy, cần phối hợp với ban thi đua yêu cầu chấm điểm về nề
nếp lớp học và trao đổi các hoạt động ngoài giờ lên lớp phù hợp.
- Trong sinh hoạt 10 phút, GVCN định hướng cho các em phụ trách sao đến giao
lưu chi đội các lớp bằng một số hoạt động giao tiếp hàng ngày đơn giản; hay kiểm tra
bảng cửu chương, kỹ năng tính toán, thi vẽ tranh. Vậy là chỉ 10 phút sinh hoạt Sao đầu
buổi học các em được rèn rất nhiều kỹ năng nhờ vào anh chị phụ trách Sao.
3. Giáo viên chủ nhiệm với công tác quản lý và giáo dục học sinh 2 buổi/ ngày
Dạy học cả ngày, giáo viên chủ nhiệm (GVCN) có cơ hội tốt nhất để thực hiện việc
dạy phân hoá HS, có thời gian bù đắp lỗ hổng kiến thức cho HS yếu, có điều kiện tốt nhất
để phát triển năng lực tư duy cho HS khá giỏi. Ngoài ra, dạy học cả ngày, GV có thể tạo
những sân chơi thật bổ ích cho việc phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Lâu nay,
trong dạy học GV đã thực sự đổi mới từ việc chọn nội dung, hình thức, thời lượng, đồ
dùng dạy học, cách đánh giá,… cho phù hợp với đối tượng nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục (GD).
Trong giai đoạn hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ngày càng đòi hỏi sự dày công của
người giáo viên hơn nữa; bởi trong một xã hội đang phát triển, mặt trái của kinh tế thị
trường có tác động đến việc hình thành nhân cách của học sinh, bên cạnh đó để mưu sinh
nên không ít phụ huynh đã giao phó việc giáo dục con cái cho nhà trường. Vì vậy, thầy cô
giáo chủ nhiệm giống như người cha, người mẹ thứ hai của các em. Chính vì thế mà công
tác chủ nhiệm đòi hỏi ở các thầy, cô phải có nhiều kinh nghiệm và sự hy sinh cao cả.
* Công tác chủ nhiệm lớp là hệ thống những kế hoạch, những biện pháp mà người
giáo viên đã đưa ra nhằm tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện tốt những nhiệm vụ của
mình do nhà trường, Đoàn, Đội đưa ra. Bao gồm:
- Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương pháp giáo dục phù hợp.
+ Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn.
+ Học sinh khuyết tật.
+ Học sinh cá biệt về đạo đức.
+ Học sinh yếu.
+ Học sinh có những năng lực đặc biệt.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra.
- Phối kết hợp thường xuyên với phụ huynh.
- Đầu tư, tổ chức các phong trào trong nhà trường.
- Nêu gương và khen thưởng.
4. Vấn đề phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với Ban đại diện cha mẹ học sinh
- Giáo viên chủ nhiệm là người nắm rõ mọi chủ trương, nhiệm vụ giáo dục của nhà
trường, do đó trở thành “nhịp cầu” trung gian trao đổi thông tin giữa nhà trường với Ban
đại diện cha mẹ học sinh. Mặt khác, thu nhận thông tin, ý kiến, nguyện vọng của cha mẹ
học sinh để báo lại với lãnh đạo nhà trường. Từ đó gắn kết được trách nhiệm giữa nhà
trường và gia đình trong việc giáo dục học sinh. Sự phối hợp giữa Ban đại diện cha mẹ
học sinh với giáo viên chủ nhiệm được thực hiện có tổ chức theo kế hoạch chung của nhà
trường bằng những cuộc họp định kỳ. Thông qua những cuộc họp này, giáo viên chủ
nhiệm ngoài việc truyền đạt chủ trương, thông báo của nhà trường, còn trực tiếp báo cáo
với cha mẹ học sinh về thực trạng của lớp, tình hình học tập, tư cách đạo đức của từng
học sinh. Muốn vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phải bám sát, gần gũi, có trách nhiệm và
tình thương để có những nhận xét, đánh giá phân minh nhất đối với từng đối tượng - điều
này sẽ giúp phụ huynh học sinh tin tưởng đối với việc giáo dục của nhà trường và kịp thời
chấn chỉnh việc học và tác phong đạo đức học sinh.
- Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm còn chủ động liên hệ mời phụ huynh đến trường
hoặc giáo viên chủ nhiệm đến nhà trao đổi riêng, bàn bạc giải pháp giáo dục và khắc phục
những sai phạm của học sinh.
- Mỗi lớp đều có ban chấp hành chi hội, giáo viên chủ nhiệm tham vấn với ban chấp
hành chi hội nhằm có những hành động thiết thực để động viên, quan tâm đúng mức với
mọi hoạt động của lớp, của trường. Mặt khác, để nắm bắt những hành động sát thực của
học sinh ở trường, lớp, giáo viên chủ nhiệm mời đại diện chi hội cùng tham gia sinh hoạt
lớp, tiếng nói động viên, căn dặn của phụ huynh học sinh cũng có tác dụng tích cực trong
việc giáo dục đạo đức học sinh, đây cũng là cơ hội gặp gỡ để phụ huynh học sinh trao đổi
những suy nghĩ, mong muốn của gia đình trong việc giáo dục. Sự phối hợp chặt chẽ đó sẽ
giúp giáo viên chủ nhiệm hiểu cặn kẽ hơn từng đối tượng học sinh và có phương pháp
phù hợp cho từng đối tượng (đặc biệt là những học sinh cá biệt, có hành vi, lối sống lệch
chuẩn).
- Gia đình là nơi đầu tiên và có trách nhiệm cao hơn cả trong việc hình thành nhân
cách học sinh. Song có những gia đình thiếu kiến thức sư phạm nên đi ngược lại với mục
tiêu giáo dục của nhà trường. Do đó, giáo viên chủ nhiệm có liên hệ, trao đổi với phụ
huynh học sinh thì mới thống nhất được phương pháp giáo dục hiệu quả.
5. Giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục học sinh cá biệt:
* Thưc trạng vấn đề: Từ thực tiễn của nhà trường, hiện nay học sinh cá biệt, chưa ngoan
không phải là phổ biến nhưng ở trường nào cũng chịu ảnh hưởng bởi đối tượng học sinh này đối
với phong trào chung của lớp, chúng gây ảnh hưởng thường xuyên đến kết quả thi đua của bạn bè
toàn lớp. Nhìn chung những biểu hiện của các em là chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình –
nhà trường – xã hội. Bên cạnh còn có nhiều nguyên nhân khác gây ra:
*Nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt:
- Các em đi học do gia đình ép buộc.
- Do tác động của xã hội, bị bè bạn không tốt lôi kéo.
- Sự kích động của phim ảnh, các trò trơi bạo lực từ game.
- Chưa có sự quan tâm của cha mẹ đến việc học của con cái.
- Do gia đình khá giả, chỉ biết cung cấp tiền cho con mà không quan tâm đến kết quả
học tập của con mình, dẫn đến tính ỷ lại.
- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải làm thêm giúp gia đình nên thường xuyên bỏ
học, học lực sa sút.
- Do cho mẹ ly hôn, dẫn đến buồn chán.
- Do lớp học có quá nhiều học sinh yếu, kém…
Bên cạnh cũng có thể một số nguyên nhân xuất phát từ giáo viên như:
* Đối với giáo viên bộ môn:
- Do học yếu kém nên giáo viên bộ môn phân biệt trong cư xử.
- Thường xuyên gọi trả bài.
- Cho nhiều điểm kém.
- So sánh giữa học sinh này với học sinh khác.
- Hâm dọa sẽ ở lại lớp… làm cho HS mất đi niềm tin dẫn đến bi oan, chán chường,
không muốn học những môn đó…
* Đối với giáo viên chủ nhiệm:
-Trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt còn sử dụng tùy tiện các phương pháp
không phù hợp và chưa khoa học.
- Xử lý học sinh trong lớp không công bằng
- Không xây dựng được quy định riêng cho lớp.
- Xử lý không đến nơi, đến chốn.
- Chỉ nhắc nhỡ mà không có biện pháp cưỡng chế.
- Học sinh vi phạm lỗi nhẹ cũng mời phụ huynh.
- Chưa kết hợp với phụ huynh, chưa thông báo kịp thời với phụ huynh.
- Có thái độ kỳ thị đối với học sinh yếu, kém (cá biệt).
- Không thường xuyên theo dõi lớp mà chỉ giao cho lớp trưởng quản lý.
- Bầu Ban cán sự lớp không đủ năng lực.
- Phạt học sinh vi phạm quá nặng.
- Chỉ nói mà không thực hiện…
* Đối với học sinh cá biệt thường có các biểu hiện sau:
- Bỏ học, cúp tiết, thường đi học trễ.
- Không đồng phục, phù hiệu.
- Đầu tóc, tác phong.
- Mất trật tự trong giờ học.
- Không chú ý nghe thầy cô giảng dạy.
- Thiếu văn hóa (nói tục, chửi thề).
- Đùa giỡn, chọc gẹo người khác quá mức.
- Sách vỡ không đầy đủ, thường xuyên không chép bài.
- Mê chơi game, lôi kéo, rủ rê bè bạn.
- Đia học về nhà không đúng giờ.
- Thường nói dối.
- Không giữ vệ sinh trường lớp …
IV. Đối với Module TH 13: Kĩ năng lập KH bài học theo hướng dạy học tích cực:
1. Phân loại bài học ở Tiểu học; yêu cầu chung của mỗi loại bài học (bài hình thành
kiến thức mới, bài thực hành, bài ôn tập, kiểm tra)
1.1. Phân loại bài học ở tiểu học
Ở tiểu học có các loại bài học sau:
- Loại bài hình thành kiến thức mới
- Loại bài thực hành
- Loại bài ôn tập, kiểm tra
1.2. Yêu cầu chung của mỗi loại bài học
a. Loại bài hình thành kiến thức mới:
Các bài tập hình thành kiến thức mới cần ngắn gọn, tường minh, dễ hiểu, thu hút
được trí tò mò, khám phá của HS.
b. Loại bài thực hành:
- Bài tập thực hành cần bám sát phần lí thuyết, đi từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu
tượng.
c. Loại bài ôn tập, kiểm tra:
- Nội dung bài ôn tập cần hệ thống được toàn bộ các kiến thức đã học.
- Nội dung bài kiểm tra cần bám sát mục tiêu giáo dục, phù hợp với nội dung dạy
học cụ thể, với đặc điểm lứa tuổi HS và với cơ sở vật chất của nhà trường.
2. Cách triển khai mỗi loại bài học theo hướng dạy học phát huy tính tích cực
của người học:
2.1. Loại bài hình thành kiến thức mới:
- GV thiết kế, tổ chức, hướng dẫn HS thực hiện các hoạt động học tập với các hình
thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài học, với đặc điểm và
trình độ HS, với điều kiện cụ thể của lớp, trường và địa phương.
- Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội cho HS được tham gia một cách tích cực, chủ
động, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh hội kiến thức; chú ý khai thác vốn kiến
thức, kinh nghiệm, kĩ năng đã có của HS; bồi dưỡng hứng thú, nhu cầu hành động và thái
độ tự tin trong học tập cho HS; giúp các em phát triển tối đa tiềm năng của bản thân.
- Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lý, hiệu quả,
linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của cấp học, môn học; nội dung, tính chất của bài học,
đặc điểm và trình độ HS; thời lượng dạy học và các điều kiện dạy học cụ thể của trường,
địa phương.
2.2. Loại bài thực hành:
- GV nghiên cứu để nắm được mục tiêu, ý đồ của từng bài thực hành, từ đó có kế
hoạch tổ chức, hướng dẫn HS thực hiện bài thực hành có hiệu quả, giáo dục, rèn kĩ
năng phù hợp cho HS.
- Có biện pháp để HS tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập
nhằm rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn; cho HS sử dụng thiết bị,
đồ dùng học tập; thực hành thí nghiệm; thực hành vận dụng kiến thức đã học để phân tích,
đánh giá, giải quyết các tình huống và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Khuyến khích HS
xây dựng và thực hiện các kế hoạch học tập phù hợp với khả năng và điều kiện của bản
thân.
2.3. Loại bài ôn tập, kiểm tra:
- Thiết kế, tổ chức bài ôn tập, kiểm tra với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp
dẫn với HS, với điều kiện cụ thể của lớp, trường và địa phương.
- Nội dung bài kiểm tra phù hợp với đặc điểm, trình độ HS; thời gian, thời lượng kiểm tra
cần bám sát với nội dung, chương trình, quy định của Bộ GD & ĐT.
3. Các bước, yêu cầu thiết kế kế hoạch bài học theo hướng dạy học phát huy
tính tích cực của người học:
3.1. Tìm hiểu tiêu chí của một “giờ dạy tích cực”
“Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH)”, “tích cực hóa” hoạt động của học sinh,
“dạy học tích cực”… là những cụm từ đã quá quen thuộc với tất cả các giáo viên. Ở nhà
trường tiểu học, việc đổi mới PPDH đã được triển khai thực hiện từ khá lâu và hầu hết
giáo viên tiểu học đều có ý thức phải đổi mới PPDH, nhưng trong quá trình thực hiện, do
thiếu thông tin, thiếu những tư liệu hướng dẫn, nhiều GV hiện còn ngộ nhận về tính tích
cực của một tiết dạy và vẫn dạy học theo lối truyền thụ thụ động, chưa thật sự tiến hành
đổi mới phương pháp giảng dạy của mình. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu, bởi nhận
thức được vấn đề là một chuyện song thực hiện nó một cách hiệu quả lại là chuyện khác,
khó khăn hơn nhiều.
Thực tế cho thấy, nhiều GV khi được yêu cầu tự nhận xét về sự thành công, tính tích
cực của tiết dạy mà mình vừa thực hiện đã không tránh khỏi sự lúng túng và đa số là nhận
xét chung chung, không có nhiều nhận xét. Điều đó cho thấy họ chưa thật sự thấu hiểu về
tính tích cực của một tiết dạy.
Hệ quả của việc không hiểu rõ các tiêu chí để đánh giá một tiết dạy tích cực chính là
những giáo án không chứa đựng yếu tố “tích cực” đúng nghĩa. Bởi nếu không biết và hiểu
rõ thế nào là một “giờ dạy tích cực”, GV khó có thể thiết kế được các hoạt động phù hợp
nhằm tích cực hóa hoạt động của HS, mà cụ thể là khó khăn trong việc lựa chọn PPDH,
phương tiện dạy học tối ưu.
Theo tôi, một giờ dạy được gọi là “tích cực” khi mà các tiêu chí sau được thỏa mãn:
* Tiêu chí 1: Mọi HS đều được hoạt động
Dạy học sao cho tất cả HS đều được hoạt động, đều được làm việc (hay dạy học
bằng cách tổ chức làm việc) là một trong những định hướng quan trọng của việc đổi mới
PPDH ở Tiểu học. Đây là một cách dạy học tiên tiến, nó bám sát nguyên tắc: “Dạy học
thông qua các hoạt động bằng tay của bản thân từng trẻ em” (Phạm Đình Thực, 2008).
Dưới đây là một ví dụ: Giả sử GV muốn yêu cầu HS xác định yêu cầu của một bài
toán nào đó. Ta so sánh hai cách dạy:
Cách 1: Đàm thoại:
GV hỏi cả lớp: “Em hãy cho thầy (cô) biết bài toán này hỏi gì? Ai biết giơ tay?” Thế
thì không có gì bảo đảm là cả lớp đều suy nghĩ để xác định câu hỏi của bài toán. Bởi vì
thường thường chỉ có bốn, năm em; thậm chí một, hai em giơ tay xin trả lời. Do đó, ta chỉ
có thể khẳng định chắc chắn là trong lớp chỉ có bốn, năm em (hoặc một, hai em) có suy
nghĩ. Nhưng trên thực tế chỉ có một em được GV chỉ định trả lời, do đó chỉ có một em
được thực sự làm việc.
Cách 2: Tổ chức làm việc:
GV ra lệnh: Giơ bút chì! (Cả lớp giơ bút chì). Gạch dưới câu hỏi của bài toán! (Cả
lớp, nghĩa là mỗi HS, đều phải chú ý đọc đề toán trong SGK để xác định câu hỏi rồi gạch
dưới). Trong lúc này, GV đi xuống cạnh các HS để đôn đốc các em làm việc, giúp đỡ các
em kém. GV có thể đưa mắt nhìn bao quát cả lớp, hễ thấy HS nào không cầm bút chì gạch
một cái gì đó thì nhắc nhở em ấy làm việc. Nhờ có những lệnh làm việc bằng tay này mà
những HS không chịu làm việc sẽ bị lộ ra do đó GV có thể kiểm soát được hoạt động của
cả lớp.
Sau khi quan sát thấy đa số HS đã gạch xong thì GV có thể cho một em đọc xem
mình đã gạch dưới câu nào để cả lớp nhận xét. Như vậy, trong dạy học tích cực, việc tổ
chức các hoạt động dạy học phù hợp sao cho từng cá nhân trong lớp học đều được tham
gia là hết sức quan trọng. Công việc này đòi hỏi người GV phải có sự đầu tư đúng mức
trong quá trình soạn giáo án lên lớp.
* Tiêu chí 2: Tự học sinh sản sinh ra tri thức
Trước đây, trong quá trình dạy học nói chung, dạy học tiểu học nói riêng có sự mất
cân đối rõ rệt giữa hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. GV thường chỉ
truyền đạt, giảng giải các tri thức có sẵn cho HS, còn HS học tập một cách thụ động: nghe
giảng, ghi nhớ và làm theo mẫu.
Song trong xu hướng đổi mới hiện nay, GV không còn đóng vai trò truyền thụ như
trước đây nữa, mà trở thành người tổ chức, điều khiển quá trình dạy học để HS tích cực,
chủ động, sáng tạo và tự chiếm lĩnh tri thức. Chính vì vậy, một trong những tiêu chí quan
trọng để đánh giá sự thành công của một giờ dạy, một tiết dạy chính là khả năng tự sản
sinh ra tri thức mới của HS.
Do vậy, các hoạt động dạy học trong một tiết dạy học ở Tiểu học phải được thiết kế
sao cho phải khơi gợi được nơi HS sự tìm tòi khám phá nhằm dẫn dắt các em tiến dần đến
tri thức cần chiếm lĩnh.
* Tiêu chí 3: Tạo bầu không khí lớp học vui vẻ, thoải mái
Một trong ba tiêu chí quan trọng của một giờ dạy tích cực chính là bầu không khí
lớp học. Để có thể tự do hoạt động, khám phá tri thức, HS tiểu học cần một môi trường
dạy học đầy sự vui vẻ và thoải mái. Bởi lẽ, với một bầu không khí căng thẳng, ngột ngạt
thì khó có thể đạt được 2 tiêu chí đã nêu ở trên.
Trong dạy học cho HS tiểu học, GV cần thật sự chú ý đến việc tạo không khí học
tập sôi nổi, vui vẻ, làm sao để các em cảm thấy thoải mái nhất khi tham gia các hoạt động.
Vì vậy việc làm thế nào để lôi cuốn sự chú ý của HS, khiến các HS hào hứng, thoải mái là
một trong những việc cần được GV dành nhiều quan tâm trong quá trình chuẩn bị cho tiết
dạy.
3.2. Các bước thiết kế kế hoạch bài học theo hướng dạy học phát huy tính tích
cực của người học:
Xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể thể hiện mối quan hệ tương tác
giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh nhằm giúp học sinh đạt được
những mục tiêu của bài học.
Để xây dựng được kế hoạch bài học theo hướng dạy học phát huy tính tích cực của
người học, GV cần thực hiện qua 5 bước sau:
- Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu
cầu về thái độ trong chương trình.
- Bước 2: Nghiên cứu SGK và các tài liệu liên quan để:
+ Hiểu chính xác, đầy đủ những nội dung của bài học.
+ Xác định những kiến thức, kĩ năng, thái độ cơ bản cần hình thành và phát triển ở HS.
+ Xác định trình tự, lôgic của bài học.
- Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức của học sinh:
+ Xác định những kiến thức, kĩ năng mà HS đã có và cần có.
+ Dự kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải
quyết.
- Bước 4: Lựa chọn PPDH; phương tiện, TBDH; hình thức tổ chức dạy học và cách
thức đánh giá thích hợp nhằm giúp học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, phát
triển năng lực tự học.
- Bước 5: Xây dựng kế hoạch bài học: Xác định mục tiêu, thiết kế nội dung, nhiệm
vụ, cách thức hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt cho từng hoạt động dạy học của GV
và hoạt động học tập của HS
Trên đây là những vấn đề cơ bản mà tôi đã tìm hiểu về các “Module”. Rất mong được
sự góp ý, xây dựng của các đồng nghiệp và đặc biệt hơn là những góp ý chân thành của
Ban giám hiệu nhà trường để bản báo cáo của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
, ngày 22 tháng 3 năm 2015
Người báo cáo