Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do giun tròn trichocephalus spp gây ra ở lợn tại huyện yên thế, tỉnh bắc giang và biện pháp phòng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.37 KB, 63 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN THỊ TỚI

TÊN ĐỀ TÀI:

“NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH DO GIUN TRÒN
TRICHOCEPHALUS SPP GÂY RA Ở LỢN TẠI HUYỆN YÊN
THẾ, TỈNH BẮC GIANG VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Thú y

Khoa

: Chăn nuôi thú y

Khóa học

: 2009 - 2014

Giảng viên hướng dẫn : TS. Lê Minh
TS. Hồ Thị Bích Ngọc




LỜI CẢM ƠN
Được sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Chăn
Nuôi Thú Y, Cô giáo hướng dẫn và sự nhất trí của trạm thú y huyện Yên Thế Bắc Giang, em thực hiện nghiên cứu đề tài : “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh
do giun tròn Trichocephalus spp. gây ra ở lợn tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang
và biện pháp phòng trị.”.
Trong quá trình thực hiện đề tài em đã nhận được sự quan tâm của nhà
trường, Khoa Chăn Nuôi Thú Y, cán bộ Trạm thú y huyện Yên Thế, các hộ chăn
nuôi lợn tại các xã, bạn bè và gia đình.
Nhân dịp này em xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu Nhà trường, khoa
Chăn Nuôi Thú Y trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Trạm thú y huyện Yên
Thế đã tạo điều kiện thuận lợi giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Đặc
biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Lê Minh, TS. Hồ Thị Bích
Ngọc và NCS. Nguyễn Thị Bích Ngà đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo giúp đỡ em
trong quá trình thực hiện đề tài.
Em xin gửi lời cảm ơn tới tập thể lớp 41- Thú Y đã quan tâm, giúp đỡ, động
viên em trong suốt quá trình học tập, rèn luyện tại trường Đại học Nông lâm Thái
Nguyên.
Một lần nữa, em xin kính chúc toàn thể thầy, cô giáo trong khoa Chăn nuôi
Thú y sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc cán bộ, nhân viên Trạm thú y
huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang công tác tốt, chúc các bạn sinh viên mạnh khỏe,
học tập tốt và thành công trong cuộc sống.
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 11 năm 2013
Sinh viên
Nguyễn Thị Tới


LỜI MỞ ĐẦU
Thực tập tốt nghiệp là một phần quan trọng trong chương trình đào tạo của

nhà trường, là thời gian giúp sinh viên tiếp cận trực tiếp với thực tiễn sản xuất,
củng cố tay nghề, học hỏi kinh nghiệm, nắm vững phương pháp nghiên cứu khoa
học, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất. Đồng thời tạo cho sinh viên sự tự
lập, tự tin vào bản thân, lòng yêu nghề, có phong cách làm việc đúng đắn, có lối
sống lành mạnh để trở thành người cán bộ chuyên môn có năng lực làm việc đáp
ứng nhu cầu của thực tiễn sản xuất.
Được sự đồng ý của trạm thú y huyện Yên thế, tỉnh Bắc Giang và cô giáo
hướng dẫn, em được về thực tập tại trạm thú y từ ngày 03/06/2013 đến ngày
18/11/2013 thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do giun tròn
Trichocephalus spp. gây ra ở lợn tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang và biện pháp
phòng trị.”.
Trong thời gian thực tập, được sự giúp đỡ nhiệt tình của ban lãnh đạo Trạm
thú y huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang cùng toàn thể cán bộ công nhân viên, sự
hướng dẫn tận tình của thầy, cô giáo cùng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, em
đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Mặc dù đã cố gắng nhưng do thời gian có hạn, kinh nghiệm còn thiếu trong
thực tiễn sản xuất, kiến thức còn hạn hẹp nên khóa luận của em không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý báu của thầy
cô và ác bạn để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Nguyễn Thị Tới


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
%

:


Tỷ lệ phần trăm



:

Nhỏ hơn hoặc bằng

<

:

Nhỏ hơn

>

:

Lớn hơn

mm

:

Milimét

µm

:


Micrômét

mg

:

Miligam

TT

:

Thể trọng

CS

:

Cộng sự

NXB :

Nhà xuất bản


PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một nước đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp, có hơn 80% dân
số sống bằng nghề nông, vì vậy phát triển kinh tế không thể không nói đến ngành

chăn nuôi và trồng trọt.
Trong ngành chăn nuôi thì ngành chăn nuôi lợn chiếm một vị trí hết sức
quan trọng, cung cấp phần lớn số lượng thịt trên thị trường, bên cạnh đó còn cung
cấp một lượng lớn phân bón cho ngành trồng trọt.
Sở dĩ ngành chăn nuôi lợn chiếm vị trí quan trọng trong ngành chăn nuôi là
nhờ các đặc điểm sinh vật học ưu việt của lợn như: khả năng sinh sản cao, ăn tạp,
chi phí thức ăn/1kg thức ăn tăng trọng thấp, thịt lợn có giá trị dinh dưỡng cao đáp
ứng được nhu cầu xã hội.
Để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, ngoài việc chú ý tới các
yếu tố như giống, khí hậu, điều kiện chăn nuôi... thì công tác thú y cũng là một
công việc rất quan trọng, quyết định đến năng suất chăn nuôi và sự phát triển của
đàn lợn. Công tác thú y còn góp phần nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm
của ngành chăn nuôi.
Đặc biệt nước ta nằm trong vùng Đông Nam Á, khí hậu nhiệt đới nóng ẩm
nên thuận lợi cho nhiều loài ký sinh trùng phát triển, ký sinh và gây bệnh cho vật
nuôi. Bệnh ký sinh trùng ở gia súc, gia cầm nói chung và bệnh ký sinh trùng
đường tiêu hoá lợn nói riêng không gây ra các ổ dịch lớn như những bệnh truyền
nhiễm do virus, vi khuẩn. Song, bệnh ký sinh trùng thường diễn ra ở thể mạn tính,
làm lợn sinh trưởng, phát triển chậm, tăng tiêu tốn thức ăn và các chi phí như
thuốc điều trị, công chăm sóc nuôi dưỡng. Nguy hiểm hơn, ký sinh trùng ký sinh
còn làm giảm sức đề kháng của lợn và là yếu tố mở đường cho nhiều loại vi
khuẩn, vi rút xâm nhập gây bệnh. Trong bệnh ký sinh trùng thì bệnh do giun tròn
Trichocephalus spp. ký sinh ở đường tiêu hóa được coi là loại bệnh phổ biến trên
đàn lợn ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng sản phẩm.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của việc khống chế dịch bệnh, nâng cao năng
suất chăn nuôi lợn ở huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang chúng tôi đã tiến hành nghiên


cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do giun tròn Trichocephalus spp.
gây ra ở lợn tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang và biện pháp phòng trị.”

1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu tình hình nhiễm và sự phát triển của trứng giun Trichocephalus
spp. ở lợn tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
- Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do giun tròn Trichocephalus spp. gây
ra ở lợn.
- Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh Trichocephalus spp. cho lợn.
- Đề xuất quy trình phòng trị bệnh giun Trichocephalus spp. cho lợn.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin bổ sung về khoa học về đặc điểm
dịch tễ và quy trình phòng chống bệnh giun tròn Trichocephalus spp. cho lợn.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để giúp người chăn nuôi xác định
được bệnh và áp dụng quy trình phòng, trị bệnh giun Trichocephalus spp. cho lợn,
nhằm hạn chế tỷ lệ và cường độ nhiễm giun ở lợn, hạn chế tác hại đối với lợn, góp
phần nâng cao năng suất chăn nuôi, thúc đẩy ngành chăn nuôi lợn phát triển.


PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Đặc điểm sinh học của giun T. suis lợn
2.1.1.1. Vị trí của giun T. suis trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [33], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [20] vị
trí của giun Trichocephalus suis (T. suis) trong hệ thống phân loại động vật như
sau:
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Enoplia Chitwood, 1933
Bộ Trichocephalida Skrjabin et Schulz, 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz, 1928

Họ Trichocephalidae Baird, 1953
Phân họ Trichocephalinae Ransom, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài Trichocephalus suis Schrank, 1788
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của giun T. suis lợn
Theo Đỗ Dương Thái và cs (1975) [24], màu sắc trứng giun T. suis là một
màu ổn định, thay đổi ít từ màu vàng nhạt đến màu vàng sẫm. Hình dạng trứng
giun tóc không có hình dạng bất thường đáng kể nhưng chiều ngang của trứng có
thể thay đổi chút ít, có những chiều ngang rộng hẹp khác nhau. Trứng giun T. suis
có chu kỳ phát triển chậm, vì vậy hình dạng nhân bên trong ít có những thay đổi.
Nhân bên trong thường thành một khối chưa phân chia.
Theo Skrjabin K. I (1979) [35] giun tròn T. suis có hình thái cấu tạo như sau:
Con đực có chiều dài thân trung bình là 40,35 mm; tối thiểu 33,0 mm; tối
đa là 48,0 mm. Chiều dài của phần trước trung bình là 25,3 mm (20 - 30mm);
phần sau 15,1mm (12 - 19 mm). Tỷ lệ chiều dài của phần trước với phần sau là
1,68 : 1. Thân con đực phủ lớp cutin được vạch bởi nhiều rãnh ngang, làm cho lớp
cutin có nhiều mấp mô, hình răng nhỏ. Thực quản kéo dài dọc theo phần mỏng
trước thân và chuyển vào ruột ở chỗ ranh giới giữ phần mỏng và dày của thân.


Chiều rộng của phần trước thực quản 0,035 - 0,44 mm; của chỗ chuyển vào ruột
0,074 - 0,092 mm. Thực quản được bao quanh bởi một hàng tế bào đơn nhân dạng
móc xích. Ruột kết thúc bởi huyệt trên phần đuôi. Hệ thống sinh dục của con đực
gồm những ống dẫn tinh uốn khúc chiếm hầu hết phần sau thân. Đuôi con đực vòng
xoắn ốc. Gai giao hợp kết thúc bằng một đỉnh nhọn. Chiều dài gai xê dịch từ 1,74 2,48 mm. Chỗ rộng nhất của gai là gốc gai dài 0,084 - 0,110 mm. Có bao gai bọc
chung quanh và cùng với gai lồi ra khỏi lỗ huyệt. Bao gai được phủ bởi rất nhiều
gai nhỏ, những gai này xếp theo thứ tự quân cờ. Số lượng hàng gai nhỏ gần nơi
chuyển của bao vào thân là 24 - 42; ở đầu đối diện với nó số lượng hàng tăng tới 44
- 56. Hình dạng bao gai tròn, căng, dài 0,044mm. Chiều rộng chỗ gần huyệt là
0,057 - 0,092 mm; trong khi đó ở chỗ cuối gai là 0,079 - 0,159 mm. Tất cả con

đực có một đầu bao gai gập hình cổ tay áo hay là hình bao tay, bao này một phần
hay toàn bộ bao phủ phần bao gai lồi ra khỏi thân. Chiều dài của chỗ gập là 0,242
- 0,330 mm; chiều rộng là 0,290 - 0,352 mm.
Con cái: Chiều dài thân trung bình 45,55 mm; tối thiểu 38 mm và tối đa
53 mm. Chiều dài phần trước mỏng của thân trung bình là 30,55 mm (25 - 35
mm); chiều dài phần sau dày là 15 mm (13 - 18 mm). Như vậy tỷ lệ giữa phần
trước và phần sau là 2,04 : 1. Trên ranh giới chỗ chuyển tiếp của phần thân trước
và phần thân sau, hơi dịch về phía sau cách đầu cuối của thực quản có âm hộ. Âm
hộ này nhô ra ngoài, dạng hình trụ hơi cong về phía sau (0,037 - 0,61 mm) và hơi
rộng ở chỗ cạnh tự do (0,050 - 0,075 mm). Chỗ này được phủ rất nhiều gai nhỏ
hình lưới (3 - 4 µ m). Ngay trước âm hộ, tử cung có hình ống thẳng hay hơi cong,
dài 0,92 - 1,28 mm; trong tử cung có trứng xếp thành một hàng. Đuôi con cái tù.
Trứng dài 0,056 - 0,066 mm và rộng 0,025 - 0,030 mm.
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [20], con đực dài 37,52 - 40,63 mm;
rộng nhất 0,634 - 0,713 mm. Phần trước cơ thể dài 23,48 - 25,75 mm; phần sau dài
14,00 - 15,00 mm; có dạng xoắn lò xo. Gai sinh dục dài 1,70 - 2,55 mm; rộng 0,07 0,10 mm; mút cuối gai nhọn. Bao gai phủ đầy gai nhỏ. Lỗ huyệt nằm ở mút cuối
đuôi. Con cái dài 37,89 - 50,60 mm; rộng 0,734 - 1,012 mm; phần trước cơ thể dài
23 - 33 mm. Ống sinh dục đơn. Âm đạo có thành cơ dày, chứa đầy trứng. Kích
thước trứng 0,024 - 0,027 x 0,056 - 0,061 mm.


Phan Địch Lân và cs (2005) [19] cho biết: Hình thể giun T. suis giống roi ngựa
hoặc sợi tóc màu trắng, cơ thể chia thành hai phần rõ rệt, thực quản có các tế bào xếp
thành chuỗi hạt dài 2/3 cơ thể. Phần sau ngắn và to, bên trong là ruột và cơ quan sinh
sản. Giun đực dài 20 - 52 mm, đuôi hơi tù, phần đuôi cuộn tròn lại, chỉ có một gai giao
hợp dài 5 - 7 mm, được bọc trong một cái màng có nhiều gai nhỏ bao phủ. Lỗ sinh tiết
thông với ngoài ở phần cuối của giun. Giun cái dài 39 - 53 mm, đuôi thẳng. Hậu môn ở
đoạn cuối cùng, âm hộ ở đoạn cuối thực quản.
Trứng của giun của hình hạt chanh, màu vàng nhạt, kích thước
0,052 - 0,061 x 0,027 - 0,03 mm. Hai cực có hai nút trong, vỏ dày gồm 2 lớp.


Hình 2.1. Giun Trichocephalus suis
a: Trứng giun; b: Giun cái; c: Giun đực
(Nguồn: Phan Địch Lân và cs, 2005) [19]
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [34]: Giun T. suis có màu trắng đục; Thân
chia ra làm hai phần rõ rệt: phần đầu nhỏ, trông giống như sợi tóc; phần sau ngắn
và to, bên trong là ruột và cơ quan sinh sản. Giun đực đuôi hơi tù, cuộn tròn lại, có
một gai giao hợp dài 1,70 -2 mm, lỗ huyệt thông ra ngoài phần cuối của giun.
Giun cái đuôi thẳng, hậu môn ở đoạn cuối của thân.
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [16] cho biết: Hình thể của giun giống như
một sợi tóc màu trắng. Cơ thể chia thành hai phần rõ rệt. Phần trước nhỏ như sợi
tóc, dưới lớp biểu bì là thực quản, thực quản do các tế bào xếp nối tiếp như chuỗi
hạt, phần này chiếm 2/3 chiều dài cơ thể. Phần sau ngắn và to, bên trong là ruột và
cơ quan sinh sản. Giun đực dài 20 - 52 mm đuôi hơi tù, phần đuôi cuộn tròn lại


chỉ có một gai giao hợp rất dài 5 - 7mm, gai giao hợp được bọc trong một cái
màng có nhiều gai nhỏ bao phủ. Giun cái dài 39 - 53 mm, đuôi thẳng, âm hộ ở
đoạn cuối cùng của thực quản.
2.1.1.3. Vòng đời của giun T. suis
Vòng đời phát triển của giun T. suis diễn ra theo sơ đồ sau:
Trứng có sức
gây bệnh

Lợn
nuốt

Hình 2.2. Sơ đồ vòng đời của giun T. suis
Thời gian hoàn thành vòng đời của giun T. suis là 30 - 52 ngày.
Skrjabin K. I. (1979) [35] cho biết: Vòng đời của giun T. suis không cần vật

chủ trung gian. Trứng được bài tiết cùng với phân lợn ra môi trường ngoại cảnh.
Ở môi trường thuận lợi, thời gian để trứng phát triển thành dạng cảm nhiễm từ 3
đến 4 tuần. Trong thời gian này, có thể thấy ấu trùng đã hình thành hoàn toàn và
chuyển động bên trong trứng.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1985) [29], Đào Trọng Đạt và cs (1996) [5], cho
rằng: Tuổi thọ của giun T. suis ở lợn từ 4 - 5 tháng. Chu kỳ sinh học của giun T.
suis gồm hai giai đoạn: Một giai đoạn ở ngoài ngoại cảnh, phát triển từ trứng đến
ấu trùng cảm nhiễm; giai đoạn thứ hai ở ký chủ, trứng cảm nhiễm phát triển thành
giun trưởng thành. Không có thời kỳ di hành trong cơ thể ký chủ.


Theo Lương Văn Huấn và cs (1990) [7], giun T. suis sống được trong cơ thể
lợn 114 ngày.
Bonner Stewart T. và cs (2000) [34] cho biết: Những ấu trùng này nằm sâu
trong niêm mạc 2 tuần, nhô ra khỏi niêm mạc ở tuần thứ 3 và phát triển thành giun
trưởng thành trong khi bám vào niêm mạc ruột già.
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [19], giun cái đẻ trứng trong ruột già
ký chủ, trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi qua 15 - 28 ngày trứng
phát triển thành trứng cảm nhiễm.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [17] cho biết: Điều kiện thuận lợi nhất cho
sự phát triển của trứng giun T. suis thành trứng cảm nhiễm ở ngoài môi trường là
nhiệt đột từ 18 - 30 0 C, ẩm độ 80 - 85% sẽ phát triển thành trứng cảm nhiễm sau
15 - 28 ngày.
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [16] cho biết: Sau khi thụ tinh, giun cái đẻ
trứng trong ruột già ký chủ. Trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi qua
15 - 28 ngày trứng phát triển thành trứng cảm nhiễm. Trứng này theo thức ăn,
nước uống vào đường tiêu hóa của ký chủ, ấu trùng được nở ra, chui sâu vào niêm
mạc ruột già, tiếp tục phát triển thành giun trưởng thành. Thời gian hoàn thành
vòng đời trong cơ thể tùy loài, nhưng đối với T. suis cần 30 ngày.
2.1.1.4. Sự phát triển, sức đề kháng của trứng giun T. suis lợn ở ngoại cảnh

Sức đề kháng là khả năng chống lại những tác nhân ngoại cảnh tác động
đến sự sinh trưởng và phát triển bình thường của trứng giun T. suis. Việc nghiên
cứu về sức đề kháng của trứng T. suis ở môi trường ngoại cảnh có ý nghĩa quan
trọng trong dịch tễ học bệnh giun T. suis, đồng thời là cơ sở khoa học để đề ra
những biện pháp phòng trị bệnh giun T. suis có hiệu quả.
Ở môi trường ngoại cảnh, trứng giun T. suis phát triển thuận lợi nhất ở nhiệt
độ từ 18 - 30 0 C, ẩm độ 80 – 85 %. Theo Đặng Văn Ngữ và cs (1965) [23], ở ẩm độ
tối đa (gần 100 %) nếu ở nhiệt độ 22 0 C thì trứng phát triển được đến giai đoạn ấu
trùng. Nhưng cũng có điều kiện ẩm độ như trên mà ở 30 0 C thì trứng sẽ chết sau 1
tháng.


Đỗ Dương Thái và cs (1975) [24] cho biết, trứng giun T. suis bị hủy hoại nếu
ẩm độ dưới 30 % kéo dài. Mặt khác, trứng giun tóc có thể bị diệt bởi những tia tử
ngoại của ánh sáng mặt trời. Trong cùng một thời gian dưới tác dụng của tia tử ngoại
thì trứng đã phát triển đến giai đoạn ấu trùng bị diệt nhanh hơn trứng non.
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [20], trứng giun giun T. suis bị diệt dưới
tác dụng của ủ phân nhiệt sinh học. Sau 3 - 4 tuần, nhiệt độ hố ủ tăng lên tới 45oC
sẽ làm hủy trứng giun giun T. suis. Tuy nhiên, trứng non có khả năng chịu đựng
các điều kiện nhiệt độ cao hơn trứng ở giai đoạn ấu trùng.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [17] cho biết : Các chất sát trùng như dung
dịch NaOH 2 %, Cresyl 3 %, nước vôi 10 % diệt được trứng giun T. suis.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [36], ở môi trường ngoại cảnh, trứng
giun T. suis phát triển rất thuận lợi nhất là nhiệt độ từ 18 - 30 0 C, ẩm độ 80 - 85
%.
2.1.2. Bệnh giun T. suis ở lợn
2.1.2.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun T. suis
* Động vật mắc bệnh
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [32], lợn nhà và lợn rừng đều có khả năng
nhiễm giun T. suis.

Theo Nguyễn Phước Tương (2002) [32], người nhiễm bệnh khi nuốt phải
trứng giun T. suis lẫn trong nước hay trong thức ăn thực vật chưa được nấu chín.
Sau khi vào ruột người, ấu trùng phát triển thành giun T. suis trưởng thành, khu
trú ở ruột thừa và gây bệnh cho người. Giun đẻ trứng, trứng này được bài xuất ra
ngoài qua phân người, sau khi phát triển và chứa ấu trùng thì có khả năng gây
nhiễm cho lợn (tuy nhiên tỷ lệ trứng phát triển chỉ có 11%, trong khi giun T. suis
ở lợn có tỷ lệ phát triển là 86 %).
Phan Địch Lân và cs (2005) [19] đã điều tra trên các giống lợn Yorkshire,
Landrace nhập nội, lợn lai F 1 (ngoại x nội) và giống lợn nội ở vùng đồng bằng
(Hà Nội, Hà Tây) cho biết: thành phần các loại giun sán chính ở lợn ngoại, lợn lai
và lợn nội khác nhau không nhiều; các loài giun sán phổ biến ở lợn ngoại và lợn
lai cũng là: T. suis, A. suum, O. ransomi…


Bùi Qúy Huy (2006) [8] cho biết, giun T. suis ở lợn và giun Trichuris
trichiura ở người có nhiều điểm giống nhau về hình thái, hóa học và kháng
nguyên, do đó bệnh giun T. suis dễ lây sang người.
* Đường lây nhiễm
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [18], bệnh lây nhiễm qua đường tiêu hóa
do lợn nuốt phải trứng cảm nhiễm lẫn trong thức ăn, nước uống.
Lây nhiễm trực tiếp: lợn bệnh bài xuất trứng giun T. suis qua phân, những
trứng này phát tán trên nền chuồng, máng ăn, máng uống. Vì vậy, lợn khỏe dễ
dàng bị nhiễm trứng giun tóc. Lây nhiễm trực tiếp chủ yếu giữa lợn bệnh và lợn
khỏe trong cùng một ô chuồng. Lợn con nhiễm bệnh chủ yếu khi bú sữa mẹ, nuốt
phải trứng bám ở đầu vú lợn mẹ.
Lây nhiễm gián tiếp: dụng cụ chăn nuôi, người chăm sóc… cũng là tác nhân
mang mầm bệnh. Đây là những yếu tố trung gian góp phần lây nhiễm giun T. suis
từ lợn bệnh sang lợn khỏe, từ ô chuồng này sang ô chuồng khác.
Ngoài ra, ruồi, chuột cũng có thể phân tán trứng giun, gió cuốn trứng giun
theo bụi, mang trứng giun T. suis từ chuồng này sang chuồng khác gây phát tán

mầm bệnh.
* Tuổi mắc bệnh
Lương Văn Huấn và cs (1990) [7] đã cho biết tỷ lệ nhiễm giun T. suis theo
tuổi lợn như sau:
Dưới 3 tháng tuổi nhiễm 20,4 %
Từ 3 - 4 tháng tuổi nhiễm 21,2 %
Từ 5 - 6 tháng tuổi nhiễm 8,5 %
Trên 6 tháng tuổi nhiễm 6,4 %
Trịnh Văn Thịnh (1977) [26] cho biết, kết quả điều tra ở 37 nông trường
quốc doanh (1965 - 1968) trên 372 lợn mổ khám thấy tỷ lệ nhiễm một số loài giun
sán là: Ascais suis 55 – 100 % (22 - 88 giun / lợn); T. suis cao nhất 100% (từ 155
đến vô số giun / lợn).
Theo Phạm Văn Khuê (1982) [29] đã nghiên cứu tình hình nhiễm giun sán
theo tuổi lợn tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Qua kiểm tra 289 con lợn ở 4


lứa tuổi (dưới 2 tháng, 3-4 tháng, 5-7 tháng và trên 8 tháng), kết quả cho thấy:
Lợn con dưới 2 tháng tuổi đã nhiễm 12 loài trong số 13 loài giun sán, trong đó tỷ
lệ nhiễm giun tóc là 30,7% và tỷ lệ cao ở lứa tuổi từ 2 -5 tháng tuổi sau đó giảm
dần.
Theo Nguyễn Đăng Khải (1996) [9] cho biết : Tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn
cao nhất ở giai đoạn 2 - 6 tháng tuổi, sau đó giảm dần, ít gây hại đối với lợn theo
lứa tuổi.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [17], bệnh giun T. suis ở lợn phân bố trên
toàn thế giới. Tại Việt Nam, bệnh đã được phát hiện ở tất cả các tỉnh miền Bắc,
miền Trung và miền Nam. Ở Hà Nội, lợn bị nhiễm giun T. suis từ 4,3 - 30 % (ở
lợn từ 2 - 6 tháng tuổi) và 0,56 - 7,8 % (ở lợn trên 6 tháng tuổi).
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [18] cho biết : Bệnh thường xảy ra đối vói
lợn dưới 6 tháng tuổi. Lợn nái và lợn trưởng thành nhiễm giun nhẹ hơn, ít thể hiện
các triệu chứng lâm sàng.

* Vùng mắc bệnh
Theo Nguyễn Đăng Khải (1996) [9] tỷ lệ nhiễm T. suis ở 7 vùng kinh tế như
sau:
1.

2.
3.
4.

5.
6.

Trung du và miền núi Bắc Bộ
+ Trung du
: 29,8 %
+ Miền núi
:27,8 %
Đồng Bằng sông Hồng
: 24,8 %
Bắc Trung Bộ
: 13,9 %
Nam Trung Bộ
+ Đồng bằng
: 17,5 %
+ Miền núi
: 34,7%
Tây Nguyên
: 20,8 %
Đông Nam Bộ
: 13,1 %



* Mùa vụ
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [18], bệnh giun T. suis lây nhiễm quanh
năm, nhưng tập trung từ mùa xuân tới mùa thu. Mùa đông, thời tiết lạnh, ẩm độ
thấp, không thích hợp cho trứng phát triển thành dạng trứng cảm nhiễm nên tỷ lệ
nhiễm giun T. suis trong đàn lợn giảm đi.
Nguyễn Đăng Khải, Nguyễn Đăng Nhượng (1975) đã mổ khám 89 con lợn ở
vùng đồng bằng và miền núi thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Bình Định
kết quả cho thấy: Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun T. suis có sự khác nhau giữa các
vùng, trong đó sự khác nhau này có liên quan đến khí hậu giữa các vùng. Vùng
đồng bằng, do mùa khô hạn kéo dài, nhiều ánh sáng (tổng số giờ chiếu nắng 2000 2300 giờ / năm) nhiệt độ những tháng nóng có thể lên tới 38 - 40 0 C nên tỷ lệ nhiễm
các loài giun sán nói chung đều thấp, đặc biệt là các loài giun sán nhiễm trực tiếp
như T. suis (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [28].
* Phương thức chăn nuôi
Phương thức chăn nuôi là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng
tới khả năng nhiễm giun T. suis của lợn.
Phạm Văn Lan (1970) mổ khám 57 lợn và xét nghiệm 1000 mẫu phân tại xã
Yên Nguyên (Tuyên Quang) cho thấy tỷ lệ nhiễm các loài giun tròn ở lợn nuôi thả
rông là 96,5 %. Trong đó, tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn nuôi nhốt là 30%; lợn
nuôi thả rông là 47 % (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs,1978) [28].
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [18] cho biết: Các cơ sở chăn nuôi có điều
kiện vệ sinh kém, lợn bị nhiễm giun T. suis với tỷ lệ cao, gây thiệt hại đáng kể
cho đàn lợn.
Nguyễn Thị Kim Lan (2011) [15] đã nghiên cứu ảnh hưởng của phương thức
chăn nuôi đến tỷ lệ nhiễm T. suis tại Thái Nguyên năm từ 2009 – 2010.Tác giả cho
biết: Lợn nuôi theo phương thức công nghiệp nhiễm T. suis 16,06 % (hầu hết


nhiễm cường độ nhẹ và trung bình), lợn nuôi theo phương thức truyền thống

nhiễm T. suis tới 47,4 % (cường độ nhiễm nặng chiếm 15 % số lợn nhiễm).
* Yếu tố streess
Các yếu tố stress (chuồng trại chật chội, thức ăn kém dinh dưỡng, nhiệt độ
ẩm độ môi trường thay đổi…) đóng vai trò thúc đẩy mức độ và tốc độ lây lan
bệnh giun T. suis ở lợn.
2.1.2.2. Cơ chế sinh bệnh
* Vị trí gây bệnh
Giun T. suis ký sinh và gây bệnh ở ruột già lợn, đặc biệt là manh tràng và kết
tràng (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999) [12].
* Đường xâm nhập vào cơ thể
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [12] cho biết: Bệnh giun T. suis lây
nhiễm trực tiếp không qua vật chủ trung gian. Trứng cảm nhiễm xâm nhập vào
cơ thể vật chủ qua đường tiêu hóa do lợn ăn phải thức ăn, nước uống có lẫn
trứng giun. Giun T. suis ký sinh và gây bệnh ở ruột già lợn, đặc biệt ở manh tràng
và kết tràng.

* Đường bài xuất mầm bệnh
Lợn mắc bệnh sau một thời gian thì bài xuất trứng theo phân ra ngoại cảnh. Vì
vậy, trứng được phát tán rộng rãi ở ngoài tự nhiên và quá trình phát triển bắt đầu để tạo
thành trứng cảm nhiễm (trứng có chứa ấu trùng bên trong).
* Cơ chế sinh bệnh
Giun T. suis có phần đầu nhỏ, dài, phần này cắm sâu vào niêm mạc ruột gây
tổn thương, mở đường cho vi khuẩn gây bệnh vào cơ thể ký chủ. Trong quá trình
sống, giun T. suis tiết độc tố và thải cặn bã làm con vật trúng độc.
Giun tóc lấy dịch tổ chức niêm mạc ruột để sống gây nên hiện tượng xuất
huyết, viêm ruột và dẫn đến ỉa chảy (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999) [12].


Ngoài tác động chiếm đoạt chất dinh dưỡng của lợn, giun T. suis còn gây tác
hại nặng nề cho lợn.

- Tác động cơ giới: Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [12], Phạm Sỹ
Lăng và cs (2006) [17], phần đầu của giun cắm sâu vào thành ruột gây tổn thương,
làm niêm mạc ruột già bị viêm và xuất huyết, gây rối loạn tiêu hóa, làm cho lợn có
hội chứng hồng lỵ.
- Tác động mang trùng: Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [5], giun T. suis ký
sinh gây tổn thương, tạo điều kiện cho các nhân tố khác xâm nhập. Nhân tố gây
bệnh kế phát là xoắn khuẩn và phẩy khuẩn.
- Tác động do độc tố: Độc tố là những sản phẩm mà giun T. suis bài tiết ra
làm cho ký chủ trúng độc, gầy còm, thiếu máu, gây rối loạn tiêu hóa.
2.1.2.3. Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích
* Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của bệnh thay đổi tùy thuộc vào tuổi con vật và số
lượng giun T. suis ký sinh trong cơ thể lợn. Ở những lợn trưởng thành không thấy
biểu hiện triệu chứng lâm sàng nhưng khi kiểm tra phân lợn mới thấy lợn nhiễm
giun T. suis.
Theo Skrjabin K. I. (1979) [35], triệu chứng bệnh giun T. suis phụ thuộc vào
cường độ cảm nhiễm. Khi nhiễm nặng, lợn có biểu hiện da khô, xù lông, ỉa chảy
rồi bị táo bón… Độc tố do T. suis tiết ra có tác động gây bệnh mạnh, làm cho vi
nhung mao và các tế bào biểu mô mất đi tính chất cấu tạo và bị phân hủy.
Lợn bị bệnh giun T. suis có những biểu hiện lâm sàng giống hội chứng hồng
lỵ. Vì vậy, nhiều trường hợp nghi bệnh lỵ điều trị bằng kháng sinh không khỏi.
Khi xét nghiệm phân mới phát hiện giun T. suis ký sinh (Đào Trọng Đạt và cs,
1996) [5].
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [19], Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [12],
khi lợn nhiễm giun T. suis ở cường độ nhẹ thì triệu chứng lâm sàng khôngrõ ràng.
Khi nặng con vật gầy yếu, thiếu máu, trong phân lẫn máu và niêm mạc ruột, có
khi con vật bị kiết lỵ. Nếu gây nhiễm cho lợn với lượng trứng T. suis lớn (20.000 -


200.000 trứng), thì triệu chứng biểu hiện rất nặng: Ỉa chảy, hô hấp khó, lợn có thể

chết. Lợn bị nhiễm mãn tính còi cọc, thiếu máu, tăng trọng giảm.
Lợn trưởng thành nhiễm giun T. suis thường không thể hiện rõ các triệu chứng
lâm sàng. Lợn con ở 2 - 4 tháng tuổi bị nhiễm giun T. suis xuất hiện các triệu chứng
như: Ỉa chảy, lúc đầu phân lỏng sau phân sệt có nhiều dịch nhầy như dịch mũi, lẫn
máu, mỗi lần thải phân, lợn bệnh phải cong lưng lên để rặn nhưng phân ra rất ít. Các
triệu chứng trên giống như lợn bị bệnh lỵ. Nếu lợn bị bệnh mãn tính thì còi cọc, thiếu
máu, tăng trọng giảm (Phạm Sỹ Lăng và cs, 2006) [17].
Theo Trần Thị Dân (2008) [3], ruột già khác ruột non ở chỗ: Không có
nhung mao nhưng có vi nhung mao. Về tổng quát, ruột non là nơi tiết nước còn
ruột già là nơi hấp thu nước. Ruột già nguyên vẹn có thể hấp thu bù trừ nước khi
ruột non tiết nhiều. Tuy nhiên, những tổn thương ở ruột già do tác động của giun
T. suis ký sinh sẽ làm giảm khả năng tái hấp thu nước, dẫn đến tiêu chảy.
* Bệnh tích
Theo Rutter J. M và cs (1974) [38], khi mổ khám những lợn con bị bệnh T.
suis thấy: Viêm ruột tăng lên trong hầu hết các trường hợp, thành ruột già dày lên
và phù thũng, trong ruột chứa chất nhày, máu và các tế bào hoại tử bong ra từ lớp
niêm mạc.
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [28], xác lợn chết gầy, có nhiều giun ở
ruột già (nhất là manh tràng). Một số giun vẫn cắm sâu đầu vào niêm mạc ruột.
Trên niêm mạc ruột có nốt loét to bằng hạt đậu xanh. Khi bị nhiễm nặng, toàn bộ
manh tràng xuất huyết màu hồng sẫm. Niêm mạc ruột bị bong ra.
Đào Trọng Đạt và cs (1996) [5] cho biết: Giun T. suis ký sinh gây viêm niêm
mạc, thâm nhiễm tế bào, hình thành nhiều vết loét và tạo ra nhiều niêm dịch.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [19], xác lợn chết gầy, có nhiều giun ở ruột
già (nhất là ở manh tràng). Một số giun vẫn cắm sâu vào niêm mạc ruột, phải kéo
mạnh mới lấy ra được. trên niêm mạc ruột có vết loét to bằng hạt đậu xanh. Khi bị
nhiễm nặng toàn bộ ruột già có giun T. suis ký sinh dày đặc, niêm mạc ruột sần
sùi có thể bị bong tróc từng mảng.



2.1.2.4. Chẩn đoán bệnh giun T. suis ở lợn
* Với lợn còn sống
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [12], để chẩn đoán bệnh có thể áp
dụng hai phương pháp là chẩn đoán lâm sàng kết hợp với đặc điểm dịch tễ và
chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.
Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm gồm: Nghiên cứu định tính và nghiên cứu
định lượng. Nghiên cứu định tính nhằm xác định có hoặc không có giun T. suis ký
sinh. Đây là phương pháp thông dụng để nghiên cứu tình hình nhiễm giun T. suis ở
lợn. Nghiên cứu định lượng nhằm xác định lượng trứng trong phân để đánh giá mức
độ nhiễm và hiệu quả của một số thuốc tẩy giun.
Phương pháp chẩn đoán lâm sàng kết hợp với đặc điểm dịch tễ: Những biểu
hiện lâm sàng cần chú ý là lợn ăn kém, gầy yếu, da khô, lông xù, ỉa chảy, tình
trạng vệ sinh thú y… Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các đặc điểm nói trên để chẩn
đoán thì sẽ không chính xác. Bởi vì các bệnh ký sinh trùng thường có những triệu
chứng lâm sàng tương tự nhau (rối loạn tiêu hóa, thể trạng gầy, da khô, lông
xù…). Vì vậy, để chẩn đoán chính xác bệnh phải tiến hành xét nghiệm phân tìm
trứng giun T. suis.
Theo Phan Lục và cs (2006) [22], có 4 phương pháp xét nghiệm phân:
- Phương pháp Fullerborn
Nguyên lý của phương pháp này là dựa trên sự chênh lệch về tỷ trọng của
dung dịch muối NaCl bão hòa (D = 1,18 - 1,2) lớn hơn tỷ trọng của trứng giun T.
suis, do đó trứng sẽ nổi lên trên, ta có thể tìm thấy trứng giun T. suis dưới kính
hiển vi (độ phóng đại x 100 hoặc x 400).
- Phương pháp Darling
Nguyên lý chung của phương pháp này là dựa trên sự chênh lệch về tỷ trọng
giữa dung dịch NaCl bão hòa và trứng giun T. suis nhẹ hơn ra khỏi phân. Khi đó
dùng vòng sắt vớt lớp váng phía trên, ta tìm được trứng giun T. suis.
Cách xét nghiệm mẫu: lấy khoảng 5 – 10 gam mẫu phân của con vật cần chẩn
đoán, cho vào cốc thủy tinh. Cho vào cốc đó lượng nước sạch bằng 10 lần thể tích
khối lượng phân, dùng đũa thủy tinh khuấy tan phân và lọc qua lưới lọc. Phần cặn bã

bỏ đi, dung dịch lọc được cho vào các ống ly tâm và ly tâm với tốc độ 3000 vòng/
phút trong thời gian 3-5 phút. Sau đó, đỏ bỏ lớp nước phía trên và giữ lại cặn trong


các ống ly tâm. Tiếp theo cho nước muối bão hòa vào các ống ly tâm, đậy nắp miệng
ống và lắc đều cho cặn hòa đều trong dung dịch, tiến hành ly tâm lần 2 với tốc độ và
thời gian như trên. Dùng lồng vòng sắt vớt lớp váng nổi trên bề mặt, đặt lên phiến
kính sạch và soi dưới kính hiển vi tìm trứng giun tóc.
- Phương pháp Cherbovich
Phương pháp này hoàn toàn giống phương pháp Darling, chỉ khác dung dịch
bão hòa sử dụng ở đây là MgSO 4 .
- Phương pháp trực tiếp
Dùng đũa thủy tinh lấy 1 mẫu phân của con vật định xét nghiệm, để mẫu
phân lên phiến kính sạch: Nhỏ 1 - 2 giọt glycerin, gạt cặn bã ra 2 đầu phiến kính.
Dung dịch phân được giàn mỏng trên phiến kính và kiểm tra dưới kính hiển vi tìm
trứng giun T. suis.
- Để xác định cường độ nhiễm, có thể dùng phương pháp đếm số trứng giun
T. suis trong buồng đếm Mc. Master nhằm xác định số trứng giun T. suis /gam
phân.
* Với lợn chết: Chu Thị Thơm và cs (2006) [31] cho biết: Đối với nhiều bệnh
giun sán, phương pháp chẩn đoán khi con vật chết là chính xác nhất. Việc chẩn đoán
bệnh giun T. suis được tiến hành qua phương pháp mổ khám, kiểm tra bệnh tích ở
ruột già và tìm giun T. suis. Khi phát hiện nhẹ nhàng lấy giun ra và để chết tự nhiên
trong nước sạch, sau đó bảo quản trong dung dịch Barbagallo (dung dịch Barbagallo
gồm 30 ml Formol; 7,5 g NaCl; nước cất 1000 ml) và ghi nhãn đầy đủ.
2.1.2.5. Biện pháp phòng và trị bệnh giun Trichocephalus suis cho lợn
* Biện pháp phòng bệnh
Việc phòng bệnh giun T. suis nói riêng và các bệnh ký sinh trùng đường tiêu hóa
ở lợn nói chung có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả trong việc phòng
bệnh giun T. suis cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

- Vệ sinh chuồng trại, thiết bị sạch sẽ. Không sử dụng các dụng cụ chăn nuôi
khi chưa qua khử trùng. Cơ sở chăn nuôi phải được xây dựng ở nơi cao ráo, có
nhiều ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp. Chuồng trại khi xây dựng phải dảm bảo
đông ấm hè mát.


- Không nuôi chung lợn ở nhiều lứa tuổi khác nhau trong cùng một khu vực.
- Thức ăn phải đảm bảo, nước uống sạch sẽ.
- Có kế hoạch tẩy giun T. suis cho lợn theo định kỳ.
- Chất thải từ đàn gia súc phải được thu gom hàng ngày và ủ kỹ đúng nơi quy
định. Thường xuyên có biện pháp tiêu diệt côn trùng, chuột và động vật hoang dã
vì chúng là những động vật môi giới mang mầm bệnh phát tán trong tự nhiên.
Phạm Hữu Doanh và cs (1995) [2] cho biết: lợn rất mẫn cảm với bệnh ký
sinh trùng, vì vậy chỉ cho lợn ăn rau bèo khi đã rửa sạch sẽ và định kỳ tẩy giun
sán bằng các thuốc đặc hiệu. Thức ăn, nước uống phải luôn luôn sạch.
Biện pháp hữu hiệu để phòng chống bệnh giun sán ở gia súc là biện pháp
phòng trừ bệnh tổng hợp, nghĩa là ở những vùng sinh thái nhất định, đồng thời
sử dụng nhiều biện pháp có hiệu quả đối với tất cả các giai đoạn phát triển của
giun sán, ở môi trường cũng như trong cơ thể vật chủ (Nguyễn Thị Lê và cs,
1996) [20].
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996) [11], biện pháp phòng bệnh tổng hợp đối
với các bệnh giun tròn nói chung ở lợn gồm:
- Diệt căn bệnh trong cơ thể lợn: định kỳ tẩy giun cho lợn. Mỗi năm tẩy mấy
lần là tuỳ điều kiện của từng vùng và từng loại lợn.
- Diệt căn bệnh bên ngoài: trứng giun khuếch tán ra bên ngoài là nguyên
nhân chủ yếu làm căn bệnh lan tràn. Có thể diệt trứng giun bằng cách ủ phân hoặc
các biện pháp lý hoá. Các loại thuốc hoá học diệt trứng giun có hiệu quả như:
Creolin, axit cacbonic kiềm tính ...
Đào Trọng Đạt và Phan Thanh Phượng (1986) [4] cho biết: ủ phân theo
phương pháp nhiệt sinh học là cách tốt nhất để tiêu diệt trứng giun T. suis. Nhiệt

độ môi trường xung quanh có ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệt độ trong hố ủ. Trong
cùng một hố ủ, về mùa hè có thể duy trì ở nhiệt độ 50 0 C. Nhưng vào mùa đông,
nhiệt độ chỉ là 37 0 C. Tuy nhiên, nếu ủ phân kín với lá xanh, rắc vôi, lân thì nhiệt
độ trong hố ủ có thể lên tới 50 0 C, khi đó trứng giun T. suis sẽ bị diệt bởi nhiệt độ
cao.


Phan Lục và cs (2006) [22], Chu Thị Thơm và cs (2006) [31] cho biết: Để
phòng bệnh giun tóc phải thường xuyên vệ sinh chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi.
Phân, rác ủ đúng kỹ thuật để diệt trứng giun, định kỳ tẩy giun. Tăng cường chăm
sóc, nuôi dưỡng để gia súc có sức đề kháng cao với bệnh tật.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [17], để phòng bệnh Trichocephalus suis
cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
- Thực hiện vệ sinh chuồng trại và khu vực xung quanh chuồng nuôi để hạn
chế sự phát tán trứng giun; đồng thời sử dụng hóa chất phun vào chuồng trại theo
định kỳ như: Dung dịch NaOH 2 %, Cresyl 3 %, nước vôi 10 % để diệt trứng
giun.
- Ở các cơ sở bị ô nhiễm, có thể sử dụng một trong những hóa dược đặc hiệu tẩy
dự phòng cho lợn nái trước khi sinh và cho lợn lứa tuổi 2 - 4 tháng tuổi.
- Ủ phân cũng là biện pháp diệt trứng giun có hiệu quả.
* Điều trị bệnh giun T. suis
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [12], việc dùng thuốc tẩy giun phải
đạt được những yêu cầu sau:
Trước hết phải tiêu diệt được ký sinh trùng, dùng thuốc tẩy trùng cho vật
nuôi. Chữa cho con vật ốm khỏi bệnh và đảm bảo cho ngoại cảnh không bị nhiễm
bệnh giun sán. Tránh mầm bệnh nhiễm vào những con vật khác. Phải dùng thuốc
tẩy giun sán từ lúc nó chưa trưởng thành, chưa đẻ trứng và phải tiêu độc thật tốt
phân có trứng giun.
Dùng thuốc tẩy giun sán thì phải dùng thuốc hướng ký sinh trùng, tức là độc
với giun sán mà không độc với ký chủ, nên chọn thuốc có hiệu lực nhất đối với ký

sinh trùng, đồng thời ít nguy hiểm nhất đối với ký chủ, rẻ tiền và dễ dùng nhất.
Ngăn chặn không cho con vật ốm tái nhiễm, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, bổ
sung đầy đủ dinh dưỡng, đưa con vật ra khỏi nơi có bệnh, tiêu độc chỗ đó trước
khi đưa vật nuôi vào lại.
Hướng mới trong việc chữa ký sinh trùng là tìm những thuốc có hiệu lực
chống được nhiều loài ký sinh trùng như: Mebendazole có tác dụng tẩy nhiều loài
giun tròn.


Theo Phạm Khắc Hiếu (2009) [10], hiện nay trên thị trường có nhiều thuốc
điều trị bệnh giun T. suis và được chia thành các nhóm:
• Các Benzimidazol
Đây là nhóm thuốc quan trọng vì phổ chống ký sinh trùng rộng, không chỉ
tác dụng lên giun trưởng thành mà cả lên trứng và ấu trùng. Các Benzimidazol ức
chế quá trình trao đổi chất sản sinh năng lượng của giun thông qua cơ chế: Ức chế
enzyme Fumaratreductase, nhằm cản sự hấp thu glucose, đồng thời ức chế sự
trùng hợp (polymerization) tại các vi mao quản trong hệ thống trao đổi chất của
giun. Quá trình tác động của thuốc xảy ra chậm, do đó điều kiện cơ bản để đạt
hiệu lực cao là thuốc phải duy trì sự gắn kết trong thời gian dài với giun T. suis.
• Các Macrolid
Là những thuốc có vòng Lacton lớn. Đáng chú ý là các Ivermectin và các
Milbemycin. Thuốc có tác dụng tẩy giun T. suis và các giun tròn đường tiêu hóa
khác ở lợn.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [18], có thể dùng một trong các hóa dược
sau để tẩy giun T. suis cho lợn.
Mebenvet: Dùng liều 50 mg /kg TT, trộn thức ăn cho lợn ăn một lần.
Fenbendazol: Liều 30 mg /kg TT, trộn thức ăn cho lợn ăn từ 6 - 15 ngày.
Levamisol: Liều 7,5 mg /kg TT, trộn thức ăn hoặc tiêm cho lợn.
Febentel: Liều 20 mg /kg TT, thuốc dùng dạng uống.
Ivermectin: Liều 0,2 - 0,3 mg /kg TT, thuốc dùng tiêm cho lợn 2 lần, cách

nhau 1- 2 ngày.
Phan Lục và Nguyễn Đức Tâm (2000) [21], cho biết: Levamisol tên thương
phẩm là Tramisol hay Ripercol, thuốc có thể trộn vào thức ăn hay pha nước uống
có phổ tác dụng rộng với giun T. suis. Ngoài ra, Fenbendazol tên thương phẩm là
Safe Guard, thuốc có thể trộn vào thức ăn dùng liên tục trong 3 ngày, không tồn
dư trong cơ thể, có hiệu quỉa mạnh đối với giun T. suis.


Theo Nguyễn Xuân Bình và cs (1996) [1] cho biết: hiện này trên thị trường
có nhiều thuốc điều trị bệnh giun T. suis. Tuy nhiên, tác giả khuyên nên dùng một
trong các hóa dược sau đây để tẩy giun T. suis cho lợn:
- Levamisol: Liều 7,5 mg /kg TT
- Mebendazol: Liều 0,5 mg /kg TT
- Ivermectin: Liều 0,3 mg /kg TT
Trong thời gian điều trị cần chăm sóc, nuôi dưỡng tốt.
Nguyễn Văn Thanh và cs (2004) [25] cho biết: Có thể dùng Tayzu để tẩy
giun T. suis cho lợn với liều 4g /30 - 40 kg TT, trộn vào thức ăn hoặc dùng
Levasol 7,5 % tiêm dưới da với liều 1ml/10 kg TT.
Để tẩy giun T. suis có hiệu quả cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
+ Trước tiên phải chẩn đoán bệnh chính xác. Sau đó tẩy cho những lợn bị
nhiễm nặng và có biểu hiện lâm sàng. Với mục đích phòng bệnh thì nên tẩy ho cả
đàn vì có những con đang mang mầm bệnh nhưng chưa phát hiện được.
+ Xác định thời điểm tẩy thích hợp. Tốt nhất là tẩy vào mùa xuân (tháng 3 4) và mùa thu (tháng 8 - 9). Lượng phân thải ra phải đem ủ nhiệt sinh học để diệt
mầm bệnh, sau 15 - 20 ngày kiểm tra để đánh giá hiệu quả của thuốc (Nguyễn Thị
Lê và cs, 1996) [26].
• Các Imidazothiazol
Các thuốc nhóm này tan trong nước, phổ chống giun tròn rộng. Tác dụng
chống ký sinh trùng nhanh hơn so với các benzymidazol.
Thuốc có tác dụng kích thích hạch, gây co cơ nhanh và kéo dài. Ở liều cao
gây ức chế hệ enzym Fumaratreductase của giun T. suis. Trong ruột, Levamisol

tác dụng với cả giun trưởng thành và dạng ấu trùng của giun. Ngoài ra, thuốc còn
kích thích hệ thống miễn dịch của lợn.
Liều lượng: Tetramisol 12 mg /kg TT
Levamisol 5 mg /kg TT.


• Các Piperazin
Piperazin base tan tốt trong nước nhưng tác dụng chống giun T. suis kém
ổn định.
Thuốc gây cực hóa (Hyperpolarisation), xóa điện thế tự động của thần kinh
- cơ, nên làm mềm toàn bộ cơ thể giun T. suis. Những giun T. suis bị liệt sẽ bị nhu
động ruột đẩy ra ngoài theo phân. Do tác dụng của piperazin, sự thấm ion qua
màng tế bào bị giảm, đáp ứng với Acetylcholin của hệ thần kinh giun T. suis cũng
giảm, cơ giun giảm tạo Succinat (do cơ giun liệt, không cần nhiều năng lượng nên
cũng không cần nhiều Succinat).
Bản thân sự thiếu năng lượng này làm cho giun tê liệt nặng hơn. Tuy nhiên,
quá trình liệt này có hồi phục.
Liều lượng Piperazin Adipat: 200 - 400 mg /kg TT.
Các muối của Piperazin ổn định hơn. Do đó sử dụng các muối Citrat,
Phosphat và Adipat. Trong 3 muối này, muối Citrat tan tốt trong nước nhưng vị
đắng. Muối Phosphat và Adipat tan ít hơn và ít vị đắng hơn (Phạm Khắc Hiếu,
2009) [7]).
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Theo Trịnh Văn Thịnh (1963) [26], tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn từ 2 - 6
tháng tuổi là 4,3 – 30 %; lợn trên 6 tháng tuổi nhiễm 0,56 - 7,8 %. Tỷ lệ nhiễm
thấp nhất trong những điều kiện chăn nuôi tốt, vệ sinh và ăn đủ (2,5 %), điều kiện
chăn nuôi kém thì tỷ lệ tăng cao (23 %).
Phạm Văn Khuê (1982) [10] cho biết, tỷ lệ nhiễm T. suis ở lợn của một số tỉnh
phía Bắc: Nghĩa Lộ nhiễm 40,3 %; Quảng Ninh 33,7 %; Bắc Giang, Bắc Ninh 27,3

%; Thanh Hoá 12,5 %; Hưng Yên 15,1 %; Nam Định, Hà Nam 33,3 %; Hà Tĩnh
19,4 %; cường độ nhiễm cao, có trường hợp thấy 1219 giun T. suis ở ruột già của
một lợn.
Ở một số tỉnh phía Nam, Lương Văn Huấn và cs (1990) [5] cho biết: Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế lợn nhiễm T. suis với tỷ lệ 14 %; Quảng Nam - Đà
Nẵng 8,75 %; Quảng Ngãi, Bình Định 27,5%; Phú Yên, Khánh Hoà 8,3 %; Lâm


×