Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận những vấn đề đặt ra đối với quản lý nhà nước đảm bảo yêu cầu phát triển thương mại bền vững ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.92 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Quản lý Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đối với mọi Nhà nước
bất kể Nhà nước đó thuộc chế độ chính trị nào cũng đều rất cần thiết. Nhà
nước ta quản lý tất cả các hoạt động thương mại bằng pháp luật. Do
đó quản lý Nhà nước về thương mại trong nền kinh tế thị trường có vai trò r
ấ quan trọng. Nước ta đang thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường và mở cửa giao lưu, hợp tác với
các nướic bên ngoài. Để thực hiện được điều này thì quản lý của Nhà nước
góp phần đảm bảo thắng lợi của định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực
kinh tế, giữu vững độc lập chủ quyền quốc gia. Nhà nước dùng sức mạnh
của mình để phát triển nền kinh tế và phát triển thị trường theo
chương trình mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội thông qua các biệ
n pháp kinh tế và công cụ điều tiết giá, các chính sách tài chính, tín dụng
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường vừa tuân thủ những quy luật
chung của nền kinh tế thị trường, vừa tuân thủ các quy luật của chủ nghĩa
xã hội trong thời kỳ quá độ. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo
định hướng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế bằng pháp luật, tạo ra
các công cụ để đều tiết thị trường ở tầm vĩ mô, băng cơ chế chinh sách và
sức mạnh của kinh tế nhà nước

1


CHƯƠNG 1: NỘI DUNG CỦA QLNN ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm và sự cần thiết khách quan về QLNN đối với lĩnh vực
thương mại.
1.1.1 Khái niệm
- Quản lý nhà nước về thương mại: là một bộ phận hợp thành của
quản lý nhà nước về kinh tế, đó là sự tác động có hướng đích, có hệ thống
của cơ quản lý trên tầm vĩ mô về thương mại các cấp đến hệ thống bị quản


lý thông qua việc sử dụng các công cụ và chính sách quản lý nhằm đạt mục
tiêu đã đặt ra trong điều kiện môi trường xác định.
1.1.2 Sự cần thiết khách quan
- Nhằm khắc phục những hạn chế vốn có của nền kinh tế thị trường đảm
bảo mục tiêu phát triển xã hội và phát triển thương mại
- Do tính chất và phức tạp của việc tham gia vào hoạt động của nền kinh
tế thương mại, nên các doanh nghiệp và doanh nhân rất cần có sự hỗ trợ của
nhà nước(hỗ trợ về ý chí, về tri thức, về phương tiện, về môi trường kinh
doanh...)
- Do tính giai cấp trong nền kinh tế và bản chất giai cấp của nhà nước
nên NN phải tham gia vào việc quản lý nền kinh tế thương mại để bảo vệ
lợi ích của dân tộc, của nhân dân.
1.2. Nội dung QLNN về lĩnh vực thương mại
1.2.1 Nội dung QLNN về thương mại
- Quản lý, kiểm soát hàng hóa lưu thông và hoạt động cung cấp dịch vụ trên
thị trường:
+ Khuyến khích lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ, tạo điều kiện
thuận lợi để đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, dịch vụ cung ứng trên thị
trường.
+ Khuyến khích hàng hóa sản xuất trong nước, thay thế hàng hóa nhập khẩu
+ Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để hình thành những mặt hàng
chủ lực, mũi nhọn có lợi thế cạnh tranh.
+ Cấm lưu thông hàng hóa, cung ứng dịch vụ gây phương hại đến quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức,
thuần phong mỹ tục Việt Nam
2


+ Quản lý chặt lượng hàng hóa lưu thông và dịch vụ cung ứng trên thị
trường trong nước và xuất nhập khẩu.

- Quản lý hệ thống thương nhân và các giao dịch thương mại
+ Quy định các thủ tục đăng ký, điều kiện kinh doanh và phạm vi hoạt động
của thương nhân
+ Đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của các thương nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế trong hoạt động thương mại
+ Nhà nước đầu tư về tài chính, cơ sở vật chất-kỹ thuật, nhân lực để phát
triển các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh những mặt hàng và dịch vụ thiết
yếu nhằm đảm bảo giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động thương mại.
+ Định hướng, tạo khuôn khổ và hành lang cho các hoạt động thương mại
của các thương nhân.
- Quản lý cơ sở hạ tầng và mạng lưới thương mại:
+ Nhà nước phải trực tiếp lập quy hoạch và kế hoạch, đầu tư và khuyến
khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ
cho phát triển thương mại.
- Quản lý chấp hành chế độ quy hoạch và pháp luật trong thương mại:
+ Kiểm tra đăng ký kinh doanh
+ Kiểm tra việc chấp hành các chế độ quy định và pháp luật về thương
mại trong các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, thương mại
quyền sở hữu trí tuệ.
+ Phát hiện và ngăn chặn, xử lý theo thẩm quyền, kiến nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xử lý vi phạm chế độ quy địn và pháp luật về thương mại.
- Các nội dung quản lý khác:
+ Hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm
+ Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học thương mại
+ Đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ hoạt động thương mại
+ Ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về thương mại
1.2.2 Cơ quan QLNN về thương mại
- Chính phủ thống nhất QLNN về TM.
3



- Bộ Công thương là cơ quan của Chính phủ thực hiện
việc thống nhất QLNN về TM.
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ
phối hợp với Bộ Công thương QLNN về TM.
- UBND các cấp thực hiện việc QLNN về TM trên địa
bàn lãnh thổ theo phân cấp của Chính phủ
1.3 Phát triển bền vững và yêu cầu phát triển bền vững
1.3.1 Khái niệm và nội dung phát triển bền vững
1.3.1.1 Khái niệm
Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện
tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ
tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo
đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường
1.3.1.2 Yêu cầu
Từ nội hàm khái niệm phát triển bền vững, rõ ràng là, để đạt được mục
tiêu phát triển bền vững cần giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc ba lĩnh vực
là kinh tế, xã hội và môi trường.
Thứ nhất, bền vững kinh tế. Mỗi nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt
được những yêu cầu sau:
- Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có
thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập
thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều
kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có
biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế.
- Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP bình quân đầu
người thấp thì vẫn coi là chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững.
- Cơ cấu GDP cũng là vấn đề cần xem xét. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt
được bền vững.

- Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp
nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, bền vững về xã hội. Tính bền vững về phát triển xã hội ở mỗi
quốc gia được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập,
các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền
vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa
các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo
không cao quá và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng
miền không lớn.
4


Thứ ba, bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn
mới,... đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố
tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó
là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh
quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường xuyên
được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.
1.3.1.3 Vai trò của phát triển bền vững
Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát triển bền vững
nhằm đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, xây
dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Phát triển kinh tế song hành với bảo đảm an ninh lương thực, năng
lượng để phát triển bền vững. Khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và môi trường
lâu bền.
Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố
không thể tách rời của quá trình phát triển. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng

bộ và có hiệu lực về công tác bảo vệ môi trường. Yêu cầu bảo vệ môi trường
luôn được coi là một tiêu chí quan trọng trong việc lập quy hoạch, kế hoạch,
chương trình phát triển kinh tế - xã hội và trong phát triển bền vững.
Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được
ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất.
1.4 Nội dung của QLNN về phát triển thương mại bền vững
1.4.1 Tổ chức bộ máy
1.4.1.1. Các cơ quan quản lý về thương mại theo cấp.
* Ở Trung ương
Chính phủ
Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng, các Phó thủ tướng theo sự ủy quyền,
Các bộ ngành quan trọng bao gồm Công thương, Kế hoạch và Đầu tư, Tài
chính, Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bưu chính và viễn
thông….

5


Theo sự phân công phụ trách của Chính phủ, các Bộ và cơ quan này phải cùng
phối hợp với Bộ Công thương trong quản lý nhà nước đối với từng lĩnh vực cụ
thể về thương mại.
Ở Địa phương
Cấp địa phương bao gồm tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương và
các huyện, quận, thị xã hoặc thành phố trực thuộc tỉnh.
Theo sự phân công quản lý của Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp
trên chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về thương mại trên lãnh thổ của địa
phương.
Do đặc điểm hoạt động thương mại diễn ra xuyên biên giới hành chính
lãnh thổ của từng địa phương. Hơn nữa có những khu vực thị trường mang tính

riêng biệt, đặc thù như thị trường niềm Bắc, miền Trung và niểm Nam, các tỉnh
biên giới phía Bắc…. Về nguyên tắc cần phải quản lý nhà nước về thương mại
theo vùng, kết hợp với quản lý theo ngành. Tuy nhiên, không hình thành các
cấp quản lý mà cần có sự phân công và phối hợp quản lý giữa trung ương và
địa phương đối với vùng hay khu vực thị trường đó.
1.4.1.2. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về thương mại theo ngành
Bộ Công Thương
Bộ Công Thương là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về công nghiệp và thương mại, bao gồm các ngành và lĩnh vực: cơ
khí, luyện kim, điện, năng lượng mới, năng lượng tái tạo, dầu khí, hóa chất, vật
liệu nổ công nghiệp,thương mại điện tử, dịch vụ thương mại, hội nhập kinh tế
quốc tế, quản lý cạnh tranh, áp dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá,
chống trợ cấp, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; quản lý nhà nước các dịch vụ
công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Đứng đầu Bộ trưởng, các Thứ trưởng theo sự ủy quyền, phân công thực
hiện những trách nhiệm cụ thể về các mặt công tác được giao như thương mại
và thị trường nội địa, xuất nhập khẩu và thị trường nước ngoài, hội nhập
thương mại khu vực và quốc tế, khoa học công nghệ và phát triển các nguồn
lực, thương mại điện tử, dịch vụ xúc tiến thương mại…..
Công Thương có 35 đơn vị, trong đó có 30 đơn vị là các tổ chức giúp
Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Ngoài ra, Bộ có 5 đơn vị sự
nghiệp gồm
Sở Công Thương

6


Sở Công Thương là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh,
có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về công thương

Sở Công Thương có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng;
chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của UBND tỉnh;
đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của
Bộ Công Thương
Đứng đầu là Giám đốc sở, các Phó giám đốc theo sự ủy quyền, phân
công thực hiện những trách nhiệm quản lý nhà nước về thương mại ở phạm vi
tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương.
Cấp Huyện (Quận, Thị xã, Thành phố trực thuộc Tỉnh)
Quản lý nhà nước về thương mại của huyện do 1 Phó Chủ tịch UBND
huyện phụ trách. Trưởng phòng, phó phòng là người được ủy quyền và phân
công thực hiện trách nhiệm giải quyết những vấn đề cụ thể về quản lý kinh tế
và thương mại trong phạm vi địa phương.
1.4.2. Công cụ quản lý nhà nước về thương mại
Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý
sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đề
ra. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản
lý của Nhà nước mà Nhà nước truyền tải được ý định và ý chí của mình đến
các chủ thể, các thành viên tham gia hoạt động trong nền kinh tế.
Các công cụ chủ yếu trong quản lý nhà nước về thương mại bao gồm:
Kế hoạch hóa, các chính sách, luật pháp trong lĩnh vực thương mại.
1.4.2.1. Kế hoạch hóa: Đây là Nhóm công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu
quản lý của Nhà nước.
Xác định mục tiêu quản lý: là việc khởi đầu quan trọng trong hoạt động
quản lý Nhà nước về thương mại. Các mục tiêu chỉ ra phương hướng và các
yêu cầu về số lượng, chất lượng cho các hoạt động quản lý của Nhà nước nhằm
giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Các công cụ thể hiện ý đồ, mục
tiêu của quản lý có thể bao gồm:
- Chiến lược phát triển thương mại: Nhằm đảm bảo cho hoạt động lưu
thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất
trên cơ sở khai thác tối ưu các nguồn lực và phát triển theo đúng định hướng

của Đảng và nhà nước
- Quy hoạch phát triển thương mại: Là sự cụ thể hóa chiến lược với những
7


dự tính cần thiết cho sự phát triển của lãnh thổ vùng hoặc địa phương. Mục
đích của quy hoạch là tìm ra phương án, giải pháp khai thác các lợi thế so sánh,
các nguồn lực và sử dụng chúng theo lãnh thổ hướng tới sự phát triển có hiệu
quả và bền vững trong một chỉnh thể kinh tế thống nhất.
1.4.2.2 Công cụ pháp luật: Công cụ pháp luật là công cụ thể hiện chuẩn
mực xử sự hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý của mình đối
với xã hội nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng chủ yếu bằng pháp luật
và theo pháp luật. Xác lập khuôn khổ pháp lý đúng đắn cho các hoạt động
thương mại trong nền kinh tế thị trường được xem là điều kiện tiên quyết đảm
bảo thị trường và thương mại hoạt động có hiệu quả. Môi trường pháp lý có
ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của các chủ thể thương mại trên thị trường.
Công cụ pháp luật trong thương mại là tổng hợp các quy phạm pháp luật
do nhà nước ban hành để điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm thực hiện
mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.
1.4.3 Các chính sách kinh tế và thương mại
Công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều
chỉnh các hoạt động của nền kinh tế được gọi là chính sách kinh tế. Đây là một
công cụ đắc lực trong quản lý nhà nước về thương mại. Nó có tác dụng to lớn
trong việc điều tiết các hoạt động thương mại đi theo phương hướng chung đã
đặt ra.
Chính sách tài khóa với các công cụ chủ yếu: chi tiêu của Chính phủ
(G) và thuế (T)
Thay đổi chi tiêu của chính phủ có tác động trực tiếp đến tổng cầu, qua

đó ảnh hưởng đến sản lượng và công ăn việc làm. Thuế làm thay đổi thu nhập
khả dụng và tiêu dùng. Chính sách này trước hết nhằm mục tiêu tăng trưởng
sau đó là các mục tiêu cán cân thanh toán, việc làm, lạm phát…
Nhà nước có thể sử dụng hai công cụ này để kiềm chế những biến động
kinh tế ngắn hạn. Khi nền kinh tế lâm vào suy thoái, có tăng trưởng thấp và
thất nghiệp cao, Chính phủ có thể tăng chi tiêu hoặc giảm thuế (chấp nhận
thâm hụt ngân sách) để “kích cầu”, nhằm sử dụng tốt hơn các nguồn lực hiện
có, cho phép giảm thất nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi
nền kinh tế phát triển quá “nóng” và lạm phát đang dâng cao gây mất ổn định
kinh tế vĩ mô, Chính phủ có thể chủ động kìm hãm tình trạng đó lại bằng cách
cắt giảm chi tiêu hoặc tăng thuế.
8


Chính sách tiền tệ với các công cụ chủ yếu: kiểm soát mức cung tiền và
lãi suất
Chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế thông qua việc thay đổi
lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, cung ứng tiền tệ chỉ điều tiết tổng cầu một
cách gián tiếp qua cơ chế lan truyền thông qua sự thay đổi của lãi suất và phản
ứng của khu vực tư nhân trong việc quyết định tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư.
Công cụ của chính sách tiền tệ là dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu (tái
chiết khấu), nghiệp vụ thị trường mở và một số công cụ khác như tỷ giá, lãi
suất quy định, hạn ngạch tín dụng
Chính sách tỷ giá hối đoái
Chính sách tỷ giá hối đoái bao gồm việc chọn một chế độ tỷ giá hối đoái
thích hợp, xác định mục tiêu về tỷ giá hối đoái cũng như phương thức can
thiệp vào thị trường ngoại hối khi cần thiết, phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của quốc gia trong mỗi thời kỳ
Chính sách giá cả: Chính sách giá cả thể hiện vai trò can thiệp của nhà
nước đối với thị trường và thương mại thông qua hai hình thức chủ yếu:

Can thiệp gián tiếp bằng các biện pháp quản lý vĩ mô ngoài công cụ giá
cả: Điều hòa cung cầu hàng hóa dịch vụ, tỷ giá hối đoái, chính sách thuế,
chính sách tiền tệ, chính sách bảo hộ sản xuất và tiêu dùng… để ổn định giá
cả thị trường, hướng sự vận động của giá cả thị trường theo định hướng
mục tiêu kinh tế - xã hội.
Can thiệp trực tiếp thông qua các hình thức sau: Định giá chuẩn hoặc
giá giới hạn đối với nhứng hàng hóa, dịch vụ quan trọng; đăng ký giá để hạn
chế lợi dụng độc quyền, đầu cơ gây rối loạn thị trường
Chính sách chống độc quyền và khuyến khích cạnh tranh
Mục đích để tạo ra môi trường cạnh tranh hơn trên thị trường. Nhà
nước có thể sử dụng các điều luật chống độc quyền nhằm ngăn cản sự sáp nhập
có nguy cơ làm giảm cạnh tranh, chia tách các công ty khổng lồ nhằm làm tăng
sự cạnh tranh, ngăn cấm các công ty thông đồng với nhau để khống chế thị
trường. Thứ hai, quy định hành vi của các tổ chức độc quyền, trong trường hợp
này, nhà nước phải quản lý giá cả của họ để bảo vệ lợi ích chính đáng của
người tiêu dùng, không để các công ty này bán với bất kỳ giá nào họ muốn.
Chính sách thương mại: Chính sách thương mại là một bộ phận của
chính sách kinh tế của nhà nước, nó có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
9


CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI QLNN
ĐẢM BẢO YÊU CẦU PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI BỀN
VỮNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Những vấn đề đặt ra đối với QLNN để đảm bảo yêu cầu phát
triển thương mại bền vững ở nước ta hiện nay.
2.1.1. Những vấn đề khách quan.
- Gia nhập các tổ chức thương mại trong khu vực và trên thế giới đem lại
những thuận lợi, nhưng cũng vô cùng nhiều thách thức

Các tổ chức thương mại lớn mà gần đây Việt Nam gia nhập có thể kể đến
là WTO – tổ chức thương mại thế giới, TPP – Hiệp định Hợp tác kinh tế chiến
lược xuyên Thái Bình Dương. Lợi ích mà 2 tổ chức này mang lại cho chúng ta
vô cùng nhiều, và thách thức cũng tỷ lệ thuận. Có thể kể ra đây một số thách
thức như sau:
Thứ nhất, cạnh tranh diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên
bình diện rộng hơn, sâu hơn. Với những ngành công nghiệp còn non trẻ như
công nghiệp sản xuất ô tô ở nước ta, nếu không có sự bảo hộ của Nhà nước,
làm sao có thể trụ vững trước hàng loạt các thương hiệu mạnh trên thế giới ồ ạt
tiến vào?
Bộ Tài chính vừa hoàn thiện biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi năm 2014
theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Một trong những
mặt hàng giảm thuế khá mạnh là ô tô.. Nhiều dòng thuế của nhóm hàng ô tô đã
và sẽ được cắt giảm theo lộ trình từ 7-12 năm. Cụ thể, các loại xe chở người có
dung tích xi-lanh từ 2.5 trở lên, thuế suất sẽ giảm từ 74% hiện nay xuống 70%
vào năm 2014
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách
và chiến lược quản lý đúng đắn và lâu dài, có năng lực dự báo và phân tích tình
hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích
cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường
thế giới.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế vừa mang lại những bước tiến tích cực
nhưng theo đó là không ít những tiêu cực làm méo mó đi mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng (nạn đầu cơ,
tích trữ...
- Khủng hoảng kinh tế thế giới:
10



Không một ai có thể phủ nhận ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến đời
sống nhân dân, cao hơn nữa là ảnh hưởng đến các quyết định đưa ra chính sách
tài khóa và tiền tệ của các Chính phủ. Việt Nam không nằm ngoài vòng xoáy
ấy. Chính sách thắt chặt tiền tệ, cộng với việc thúc dẩy phát triển các ngành sản
xuất, dịch vụ trong nước đã sinh ra chiến dịch khuyến khích Người Việt Nam
dùng hàng Việt Nam. Các chính sách quản lý nhà nước về thương mại tại thời
điểm cả thế giới vẫn chưa thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế đã thực sự hiệu
quả hay chưa? Hay vẫn chỉ là những chính sách “trên trời”, không có tính thực
tiễn. Điều này chúng ta còn phải bàn rất nhiều.
2.1.2. Những vấn đề chủ quan
- Bộ máy Nhà nước hoạt động có thực sự hiệu quả?
Năm 2014 - 2020, chính sách cắt giảm biên chế bộ máy Nhà nước được
triển khai quyết liệt với con số khoảng 100,000 biên chế sẽ bị cắt giảm, lý do là
bộ máy quá cồng kềnh và làm việc không hiệu quả. Tại sao lại không hiệu
quả? Là do nguồn lực yếu kém, nạn mua bằng cấp, chức danh còn rất nhiều. Là
do các nhà hoạch định không đi sâu đi sát vào thị trường để mà đưa ra chính
sách, chỉ ngồi một chỗ mà nhận số liệu báo cáo từ dưới đưa lên, không cần biết
đúng sai. Như vậy liệu chính sách có thể vận dụng vào thực tế lâu dài?
- Sự chậm trễ trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Mặc dù nước ta đã đề ra yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ Đại
Hội XI nhưng việc quá trình triển khai thực hiện quá trì trệ. Vì vậy, tăng
trưởng của Việt Nam vẫn dựa quá nhiều vào vốn, Chính phủ đầu tư kém hiệu
quả vào doanh nghiệp nhà nước (như Vinashin, Vinalines), đầu tư công lãng
phí và thất thoát lớn, vốn đầu tư bị hút vào bất động sản, không ít doanh
nghiệp đầu tư vào các mối quan hệ để kiếm lợi nhuận (đất, khai mỏ v.v.) mà
chậm nâng cao trình độ khoa học-công nghệ và năng lực cạnh tranh.
Trong khi đó, Nhà nước chậm cải cách thể chế, năng lực của bộ máy nhà
nước chậm được nâng cao, các rào cản kỹ thuật trong thương mại chậm được
áp dụng để tự bảo vệ.
2.2. Thực trạng QLNN về phát triển bền vững ở Việt Nam trong

những năm gần đây
2.2.1. Thành tựu
Trong những năm qua, nhất là sau khi ban hành Định hướng chiến lược
phát triển bền vững, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong cả ba
trụ cột về kinh tế, xã hội và môi trường của PTBV và đã được tổng kết trong
11


các Hội nghị Phát triển bền vững toàn quốc lần thứ nhất (12/2004), lần thứ hai
(5/2006) và lần thứ ba (1/2011).
Về kinh tế
Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong số các nước đang
phát triển đã đạt được những thành tựu nổi bật trong cải cách kinh tế hướng tới
tăng trưởng và giảm nghèo. Trong mười năm gần đây, kinh tế Việt Nam tăng
trưởng khá nhanh và tương đối ổn định. Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm
đạt 7,85% trong giai đoạn 2000 - 2008. GDP tính theo giá so sánh năm 2010
gấp hơn 2 lần so với năm 2000. GDP theo giá thực tế tính bằng đô la Mỹ ước
đạt 101,6 tỷ đô la Mỹ, gấp hơn 3,2 lần năm 2000. GDP bình quân đầu người
đạt trên 1200 đô la Mỹ trong năm 2011. Việt Nam đã từ vị trí nhóm nước
nghèo bước sang nhóm nước có mức thu nhập trung bình.
Về nông nghiệp, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nổi bật là
sản xuất lương thực, thủy sản, cây công nghiệp. Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự
thay đổi vượt trội, từ một nước có tỷ trọng nông nghiệp trên 40% GDP hai
mươi năm trước, nay tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ đã chiếm tới 80% GDP.
Các vùng kinh tế cũng được phát triển mạnh mẽ
Trong quá trình cải cách thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Việt
Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, khai thác các cơ hội thị trường quốc tế để thúc đẩy tăng trưởng
xuất khẩu. Sau hơn 20 năm Đổi mới, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với
gần 200 quốc gia, vùng lãnh thổ; đã ký hơn 90 hiệp định kinh tế về thương mại

song phương và trên 84 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam.
Gia nhập ASEAN vào năm 1995, trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) vào năm 2007 và tham gia tích cực vào Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Tự do hóa thương mại và đầu tư
đã đưa Việt Nam trở thành một nền kinh tế có độ mở khá lớn. Nếu năm 2007
kim ngạch xuất khẩu mới đạt hơn 48 tỷ đô la Mỹ thì năm 2011 con số này đã
tăng lên 96 tỷ đô la Mỹ, tăng gấp 2 lần. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt
những kỷ lục cam kết mới, với tổng vốn đã cam kết vượt hơn 200 tỷ đô la Mỹ
và con số vốn thực hiện ngày càng lớn, chiếm khoảng trên dưới 20% vốn đầu
tư chung của cả nước, một tỷ lệ cao so với nhiều nước, kể cả Trung Quốc.
Về xã hội
Công tác xoá đói giảm nghèo, dân số, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe người
dân, giáo dục - đào tạo và tạo việc làm cho người lao động đều đạt được những
thành tựu bước đầu đáng khích lệ. An sinh xã hội được chú trọng nhằm đảm
bảo ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, đặc biệt trong tình hình lạm
12


phát cao, nhiều thiên tai. Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục
tiểu học theo chuẩn phổ cập của quốc gia vào năm 2000, chất lượng giáo dục
dần được nâng cao, cơ sở vật chất trong hệ thống giáo dục được tăng cường.
Tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ 28,9% năm 2002 xuống còn 9,45% năm 2010, bình
quân cả nước mỗi năm giảm 2% số hộ nghèo. Thu nhập bình quân của hộ
nghèo tăng 2,0 lần trong cùng thời kỳ
Tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm giảm dần, giai đoạn 1999 - 2009
là 1,2% và giữ ở mức 1,14% năm 2010. Quy mô, mạng lưới khám chữa bệnh
được mở rộng trên khắp cả nước. Bên cạnh hệ thống y tế của nhà nước, y tế tư
nhân cũng ngày càng phát triển. Chất lượng khám, chữa bệnh tại cơ sở y tế và
công tác y tế dự phòng, kiểm soát dịch bệnh được nâng cao. Tỷ lệ chết trẻ em
dưới 1 tuổi giảm xuống còn 25 phần nghìn, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm

xuống còn 18% năm.
Trong 5 năm gần đây, ước tính có trên 8 triệu lao động đã được giải quyết
việc làm, số lao động qua đào tạo được nâng cao, tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố
giảm xuống còn 4,2%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong tổng lao động toàn xã
hội đạt 40%. Trong điều kiện phát triển kinh tế bình quân đạt 7%/năm liên tục
20 năm qua, các chỉ tiêu phát triển xã hội được cải thiện, tuổi thọ đạt hơn 75
tuổi.
Về môi trường
Nhận thức về BVMT và PTBV đã được nâng lên. Vấn đề BVMT đã được
lồng ghép vào các chủ trương, đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước.
Hệ thống chính sách, pháp luật về BVMT đã được xây dựng khá đầy đủ
và toàn diện với các văn bản khung là Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và
Luật Đa dạng sinh học năm 2008 được ban hành. Hệ thống các văn bản hướng
dẫn thi hành đang ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Pháp luật về đất đai, tài
nguyên nước, bảo vệ và phát triển rừng, thủy sản, hóa chất, khoáng sản... đang
dần được bổ sung, sửa đổi trong thời gian qua theo hướng quy định đầy đủ, cụ
thể hơn về BVMT
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương
đến địa phương đã từng bước được kiện toàn và đi vào hoạt động ổn định.
Kinh phí cho công tác BVMT đã được tăng cường. Chi ngân sách cho BVMT
đã tăng dần trong nhữngnăm qua, đạt 1% tổng chi ngân sách và đến năm 2010
đạt khoảng 6.000 tỷ đồng, gấp ba lần so với năm 2004. Trong giai đoạn 2000 2009 đã huy động được nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho
BVMT đạt khoảng 3,2 tỷ đô la Mỹ (bao gồm cả lâm nghiệp, cấp thoát nước, xử
13


lý nước thải và vệ sinh môi trường), trong đó vốn vay đạt khoảng 2,4 tỷ đô la
Mỹ, viện trợ không hoàn lại đạt khoảng 0,79 tỷ đô la Mỹ.
Nhiều nội dung về phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm và bảo tồn đa dạng
sinh học đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Việt Nam đã huy động

nhiều nguồn lực để đầu tư xây dựng hệ thống cung cấp nước sạch cho 76% dân
số đô thị. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị đã được tăng lên, ước đạt 80 - 82%
ở các vùng nội thị, 70 - 72 % tính chung cho các đô thị (năm 2003 là 60 70%), tỷ lệ chất thải rắn bệnh viện được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn môi
trường là 80%.
Về bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH, đã thiết lập được 164 khu vực bảo vệ
trên cạn, bao gồm 30 vườn quốc gia, 69 khu bảo tồn thiên nhiên, 45 khu bảo
tồn văn hóa và lịch sử và 20 khu rừng nghiên cứu thực nghiệm; Chính phủ
cũng đã phê duyệt 45 khu bảo tồn đất ngập nước nội địa (năm 2008) và hệ
thống 16 khu bảo tồn biển (2010).
2.2.2. Hạn chế
Về kinh tế
Chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế còn thấp.
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào tăng vốn
đầu tư trong và ngoài nước và khai thác các nguồn tài nguyên thô, tỷ lệ giá trị
gia tăng của sản phẩm xuất khẩu còn thấp, sức cạnh tranh chưa cao cả trên thị
trường trong và ngoài nước.
Năng suất lao động xã hội còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu
Tăng trưởng trong nhiều lĩnh vực kinh tế chủ yếu dựa vào xuất khẩu tài
nguyên thô, hoặc công nghiệp gia công với tỷ lệ giá trị gia tăng thấp.
Về xã hội
Tình trạng tái nghèo ở một số vùng như vùng núi cao, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, vùng bị thiên tai vẫn còn cao.
Giải quyết việc làm chưa tạo được sự bứt phá về năng suất lao động, chưa
tạo được nhiều việc làm bền vững, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên còn cao ở mức
7% năm.
Cơ cấu dân số biến động mạnh, mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng
nghiêm trọng. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn nhiều bất cập; sản
xuất, quản lý và sử dụng thuốc chữa bệnh còn nhiều yếu kém, thiếu sót. Tình
hình ô nhiễm thực phẩm, ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực
phẩm vẫn còn cao, chưa có khả năng kiểm soát.

14


Hệ thống an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội đang trong quá trình phát triển
nên chưa bao phủ rộng khắp, đặc biệt là khu vực nông thôn và khu vực phi kết
cấu. Hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, chất lượng giáo dục còn thấp
so với yêu cầu phát triển của đất nước trong điều kiện hội nhập.
Về môi trường
Công tác bảo vệ môi trường còn nhiều mặt yếu kém; tài nguyên thiên
nhiên vẫn đang bị khai thác lãng phí và sử dụng kém hiệu quả, các vấn đề môi
trường như ô nhiễm môi trường nước, không khí; suy giảm đa dạng sinh học;
tỷ lệ thu gom chất thải rắn chưa đạt yêu cầu, khai thác khoáng sản bừa bãi gây
bức xúc trong nhân dân.
Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường còn chưa đồng bộ và
chưa theo kịp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong tương lai, Việt
Nam là một trong những nước chịu tác động tiêu cực mạnh mẽ nhất của biến
đổi khí hậu toàn cầu, nước biển dâng và thường xuyên bị thiên tai, làm cho
việc đảm bảo môi trường bền vững đòi hỏi nỗ lực hơn nhiều trong thời gian
tới. Việc đảm bảo bền vững về môi trường là thách thức lớn đối với Việt Nam
ở tất cả các khía cạnh về môi trường. Nỗ lực của một quốc gia riêng lẻ là chưa
đủ, nhất là khi quá trình công nghiệp hóa đi sâu, thì chi phí để phòng chống
thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu và tình trạng nước biển dâng cần phải có sự
hợp tác chặt chẽ của nhiều nước.
2.3 Một số giải pháp và kiến nghị
Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, thương mại là lĩnh vực có mức
gia tăng nhanh chóng nhất. Bên cạnh những tác động tích cực về mặt kinh tế xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại, thương mại cũng gia
tăng nguy cơ phá vỡ tính bền vững của sự phát triển. Để phát triển thương mại
theo hướng bền vững, cần thực hiện một số hoạt động thiết thực sau đây:
2.3.1. Đổi mới công tác kế hoạch hóa thương mại, hoàn thiện hệ thống
chính sách và pháp luật về thương mại phù hợp với yêu cầu của tiến trình hội

nhập kinh tế quốc tế.
Kế hoạch hóa thương mại được đổi mới theo hướng phát huy tác động
gián tiếp, định hướng và hướng dẫn, ngày càng phân cấp nhiều hơn cho các địa
phương. Tránh mệnh lệnh hành chính, áp đặt theo ý muốn chủ quan của nhà
lãnh đạo. Tiếp tục hoàn thiện các loại luật và văn bản hướng dẫn thi hành luật
liên quan tới lĩnh vực thương mại dịch vụ, các khía cạnh thương mại của đầu
tư và quyền sở hữu trí tuệ. Sửa đổi các chính sách bảo vệ sản xuất trong nước
theo hướng xóa bỏ trợ cấp hoặc hỗ trợ trực tiếp về vật chất, tăng cường hỗ trợ
15


về kỹ thuật và năng lực quản lý, kinh doanh nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho
doanh nghiệp và hiệu quả ngành. Chính sách mở cửa thị trường và tự do hóa
thương mại phải có lộ trình phù hợp với cam kết gia nhập WTO. Xóa bỏ những
quy định chồng chéo, bất hợp lý trong hệ thống chính sách, pháp luật gây cản
trở thương mại. Hoàn thiện chính sách thương mại theo hướng minh bạch hóa,
rõ ràng, có thể dự đoán góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo mọi cơ
hội cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.
Việc mở rộng xuất khẩu một số sản phẩm đang có nguy cơ làm cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học và ô nhiễm môi trường, sử
dụng ngày càng nhiều các yếu tố đầu vào làm gia tăng áp lực gây ô nhiễm. Yêu
cầu phát triển xuất, nhập khẩu phục vụ phát triển bền vững đặt ra hết sức cấp
bách đối với nước ta trong giai đoạn 2011-2020. Chúng ta cần có những chính
sách đúng đắn và phù hợp, được xây dựng trên cơ sở khoa học, có tính đến một
cách hài hòa giữa mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường. Chính vì vậy, cần có
các tiêu chí khoa học để định hướng, xây dựng, kiểm định, làm căn cứ cho các
chính sách xuất, nhập khẩu theo hướng phục vụ mục tiêu phát triển bền vững
của đất nước.
2.3.2. Xây dựng và đồng bộ hóa thể chế kinh tế thị trường và vận hành
thông suốt các loại thị trường, nhất là các thị trường về dịch vụ. Đẩy mạnh

cuộc đấu tranh chống buôn lậu, hàng nhái, hàng giả, hàng cấm.
Thể chế kinh tế thị trường là một chỉnh thể gồm nhiều loại thị trường
vận động đồng bộ trong chỉnh thể đó. Một loại thị trường không phát triển đầy
đủ sẽ kìm giữ sự vận động của các thị trường khác và làm cản trở sự vận động
chung. . Trong điều kiện toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt, để đất nước có thể
tăng tốc phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, phải xây
dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại, tạo điều kiện cho các nguồn lực dịch
chuyển trong các ngành và đến các vùng của đất nước theo tín hiệu của thị
trường quanh trục lợi nhuận bình quân, bảo đảm sự phát triển hài hòa, cân đối
của nền kinh tế.
Hình thành đồng bộ và hợp lý các loại thị trường, nhất là thị trường dịch
vụ vốn, chứng khoán, lao động, khoa học công nghệ…Nhà nước đảm bảo về
mặt cơ chế quản lý để các thị trường đó vận hành thường xuyên, thông suốt và
ổn định, tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và
ngoài nước kinh doanh, đầu tư lâu dài tại Việt Nam.
Chú trọng khai thác tiềm năng và lợi thế của mọi thành phần kinh tế, các
hình thức thương mại nhà nước, hợp tác xã thương mại – dịch vụ, thương mại
tư nhân, thương mại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
16


Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống buôn lậu, kinh doanh hàng giả, hàng
cấm và buôn bán trái phép mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn, đảm bảo cạnh tranh
lành mạnh và bảo vệ lợi ích chính đáng của các nhà sản xuất, quyền lợi của
người tiêu dùng cũng như các cam kết trong hợp tác thương mại quốc tế.
2.3.3. Sắp xếp lại bộ máy, tăng cường sức mạnh của hệ thống tổ chức
quản lý Nhà nước về thương mại các cấp. Phối hợp về chính sách trong nước
và nước ngoài trong quản lý nhà nước về thương mại.
Đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà

nước, đồng thời, với việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, không ngừng
nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo với Đảng. Tăng cường hơn nữa phân cấp
quản lý Nhà nước về thương mại cho chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương nhằm giảm bớt sự điều hành trực tiếp và tập tập
trung thiếu hiệu quả của cấp trên, đồng thời tăng quyền chủ động, tích cực của
cấp dưới. Cho phép các địa phương được thiết lập các quan hệ hợp tác về kinh
tế, thương mại lâu dài với các địa phương của nước bạn.
Sắp xếp lại, bổ sung, bồi dưỡng và đào tạo kịp thời nhân sự bộ máy tổ
chức của các cơ quan quản lý nhà nước, các bộ ngành ở Trung ương và sở
ngành ở địa phương. Chú trọng hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực dịch vụ, trong đó có các loại dịch vụ nhạy cảm, dịch vụ chất lượng
cao.
2.3.4. Tăng tiềm lực và khả năng tài chính quốc gia.
Nghiên cứu bổ sung các cơ chế, chính sách nhằm tiếp tục đổi mới và
lành mạnh hóa hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia, thực hành triệt để tiết
kiệm, tăng tỷ lệ ngân sách giành cho đầu tư phát triển, khống chế mức bội chi
ngân sách, tiến tới cân bằng thu chi và tăng dự trữ.
Xây dựng và thực hiện đề án đổi mới hệ thống thuế và phí theo hướng
nuôi dưỡng nguồn thu, thực hiện công khai, minh bạch, giải quyết hài hòa mối
quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Xây dựng và triển khai
chương trình giảm thuế quan theo tiến trình cam kết AFTA và các cam kết
quốc tế khác. Xây dựng luật quản lý vốn và tài sản nhà nước, sửa đổi luật các
tổ chức tín dụng, xây dựng luật kế toán. Nghiên cứu xây dựng chỉ tiêu ngân
sách trung hạn nhằm chủ động trong chi ngân sác hướng đến các mục tiêu phát
triển bền vững. Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiềm chế, kiểm soát lạm phát, loại
trừ các nguy cơ tái lạm phát cao cũng như tình trạng giảm phát. Tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lý ngoại hối và thị trường ngoại tệ, từng bước tiến hành khả
năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam.

17



KẾT LUẬN
Nhà nước xuất hiện, tồn tại và phát triển trên cơ sở kinh tế của một
chế độ xã hội nhất định, mang bản chất giai cấp và phục vụ lợi Ých của giai
cấp thống trị. Nhà nước là công cụ chủ yếu của quyền lực chính trị trong xã
hội có giai cấp, bộ máy đặc biệt để cưỡng chế và thực hiện chức năng quản
lý xã hội. Vì vậy, Nhà nước có vai trò quan trọng đối với bất cớ cuộc cách
mạng nào trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhà nước của
dân, do dân và vì dân thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo quy chế thị trường, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vai trò của quản lý nhà nước lại càng quan trọng hơn.
Thông qua các doanh nghiệp Thương Mại Nhà nước, một mặt nhà
nước có thể hướng dẫn, chỉ đạo sự phát tiênr của các doanh nghiệp thuộc
các thành phần khác, tập trung mọi nguồn lực cho sự công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Mặt khác Nhà nước nẵm và điều tiết phần lớn các hàng hoá dịch
vụ chủ yếu, quan trọng và then chốt của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo nền
kinh tế phát triển nhịp - nhàng và cân đối với tốn độ cao.

18



×