Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tác động của bất bình đẳng giới tới phát triển ở Việt Nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.38 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG

LƯƠNG THỊ NGỌC OANH

TÁC ĐỘNG CỦA BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
TỚI PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 62 31 01 05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội- năm 2016


Công trình được hoàn thành tại: Viện Nghiên cứu quản lý kinh
tế Trung ương
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh
PGS.TS. Chu Tiến Quang

Phản biện 1: TS Đào Quang Vinh
Phản biện 2: PGS.TS Bùi Tất Thắng
Phản biện 3: PGS.TS Lê Xuân Bá

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện
họp tại Viện Nghiên cứu qsuản lý kinh tế Trung ương vào hồi …..giờ
… ngày … tháng… năm 2016.

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:


Thư viện Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Thư viện Quốc Gia, Hà Nội


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Bình đẳng giới đã là một trong 8 mục tiêu phát triển thiên niên
kỷ, là biểu hiện của tiến bộ xã hội của một quốc gia và thu hút sự quan
tâm của giới học thuật. Các nhóm tác giả Dollar và Gatti, (1999),
Klasen (2002), Klasen và Lamanna (2009), Abu-Ghaida và Klasen
(2004) đã chứng minh tác động tiêu cực của bất bình đẳng giới (BBĐG)
tới phát triển. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác về tác động của
BBĐG tới phát triển vẫn còn những tranh luận như hai nghiên cứu của
tác giả Seguino (2000) và Schober và Winer-Ebmer (2011). Ngoài ra,
các tác giả Bandiera và Natraj (2013) cho rằng những phát hiện trong
nghiên cứu vấn đề này từ một hoặc một số nước khó có thể suy rộng
nên cần nghiên cứu riêng cho mỗi quốc gia khi hoạch định chính sách
phát triển.
Ở Việt Nam, Đảng cộng sản, Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban
vì sự tiến bộ của phụ nữ đều nhấn mạnh mục tiêu bình đẳng giới và đã
ban hành những chính sách, chiến lược, quy định có liên quan. Tuy
nhiên, phụ nữ Việt Nam vẫn còn chịu bất lợi so với nam giới về việc
làm, giáo dục, sức khỏe, địa vị xã hội... Vì vậy, nghiên cứu nhằm đề
xuất các giải pháp liên quan đến BBĐG nhằm thúc đẩy phát triển ở Việt
Nam là rất có ý nghĩa.
2. Mục đích, ý nghĩa của luận án
2.1 Mục đích của luận án
Vì thành tựu hướng tới bình đẳng giới ở Việt Nam chưa đáng

kể, dù đã có một số can thiệp nhằm giảm BBĐG, luận án có mục đích
chính là đánh giá thực trạng, tác động của BBĐG để đề xuất các giải
pháp nhằm góp phần thúc đẩy phát triển ở Việt Nam. Đề tài “Tác động
của baats bình đẳng giới tới phát triển ở Việt Nam” được lựa chọn
cho luận án.


4

Do BBĐG được biểu hiện trên rất nhiều khía cạnh, và nội hàm
của phát triển tương đối rộng, luận án giới hạn nghiên cứu BBĐG trên
hai khía cạnh giáo dục và việc làm phát triển trên hai trụ cột: tăng
trưởng kinh tế (TTKT) và phát triển con người (PTCN). Luận án có thể
được để tham khảo cho hoạch định chính sách phát triển ở Việt Nam.
2.2 Ý nghĩa của luận án
Luận án sẽ đóng góp về phương pháp và minh chứng thực
nghiệm về tác động của BBĐG trong giáo dục và việc làm tới TTKT và
PTCN trong trường hợp cụ thể của Việt Nam.
2.2.1 Ý nghĩa lý luận
Luận án sẽ góp phần hoàn thiện phương pháp đánh giá thực
trạng và phân tích tác động, tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến BBĐG
và làm cơ sở tham khảo về lý luận cho các nghiên cứu trường hợp cụ
thể khác trong tương lai.
2.2.2 Ý nghĩa thực tiễn

Dựa trên những phân tích, đánh giá đối với Việt Nam,
luận án sẽ đưa ra những hàm ý chính sách liên quan tới BBĐG
nhằm thúc đẩy phát triển và làm cơ sở tham khảo hữu ích cho các
nhà hoạch định chính sách phát triển.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG

CỦA BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TỚI PHÁT TRIỂN VÀ
HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.1 Tổng quan những nghiên cứu về tác động của BBĐG tới phát
triển
1.1.1 Các nghiên cứu lý thuyết về tác động của BBĐG tới phát triển
1.1.1.1 Tác động của BBĐG tới TTKT
Các tác giả Barro và Lee, Dollar và Gatti, Klasen và Lamanna,
Braustein nghiên cứu tác động của bình đẳng giới tới TTKT đều dựa
vào mô hình TTKT Tân cổ điển - mô hình Solow - rồi xác định tác


5

động của BBĐG tới các yếu tố là nguồn lực của TTKT một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp.
(1) Tác động của BBĐ giới trong giáo dục tới TTKT
Các tác giả Klasen và Lamanna (2009), Ferrant (2011),
Seguino (2000) cho rằng BBĐG về giáo dục kìm hãm TTKT do giảm
vốn nhân lực, giảm lợi ích cận biên trung bình của giáo dục, hạn chế
đầu tư do đó hạn chế TTKT, hạn chế cơ hội tận dụng giai đoạn "dân số
vàng", một tác động ngoại ứng tích cực, hạn chế cơ hội sử dụng lao
động nữ để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.
(2) Tác động của BBĐG trong việc làm tới TTKT
Nhóm tác giả Klasen và Lamanna (2009), David và TeignierBaque (2012), Seguino (2000), WB (2001) đã kết luận rằng BBĐG về
việc làm là không hiệu quả do bóp méo nền kinh tế, hạn chế TTKT
tương tự như hậu quả của BBĐG về giáo dục do gây ra tỷ suất sinh cao
hơn, do các nước không thể thâm dụng LĐ nữ với mức lương rẻ như
một lợi thế cạnh tranh, do hạn chế đầu tư vốn và đầu tư cho nhân lực
trong dài hạn; do khả năng có tham nhũng và lạm quyền nhiều hơn làm
cho nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả.

1.1.1.2 Tác động của BBĐG tới PTCN
Các lý thuyết này thường được phát triển từ kinh tế học vi mô
về phân công lao động giữa vợ và chồng; về quyền phân bổ thu nhập và
khác biệt giới trong hành vi chi tiêu hoặc sản xuất.
(1) Tác động của BBĐG trong giáo dục tới PTCN
Tác giả Klasen (2002) đã cho thấy giáo dục dành cho người mẹ
có ảnh hưởng tích cực tới giáo dục của những đứa con thông qua hỗ trợ
trực tiếp hoặc tạo điều kiện và môi trường học tập thuận lợi; khi anh
chị em, hay vợ chồng trong cùng một gia đình có trình độ học vấn
tương đương thì có thể thúc đẩy thành tích học tập của nhau. Các tác
giả Hill và King (1995) cũng chỉ ra rằng tác động của trình độ học vấn


6

của những bà mẹ đến giáo dục của con cái lớn hơn so với những ông
bố; và có bốn kênh thông qua đó giáo dục dành cho phụ nữ có tác động
tích cực tới sức khỏe của gia đình. Kết luận này cũng có nghĩa là
BBĐG về giáo dục tác động tiêu cực tới chăm sóc sức khỏe gia đình.
Ngoài ra, tác giả Klasen (1999) và Mikkola (2005) đã khẳng định rằng
khi BBĐG trong giáo dục giảm đi, người phụ nữ có trình độ học vấn
cao hơn và có việc làm thì chi phí cơ hội của việc sinh con và quyền
thương thuyết của phụ nữ tăng lên, tỷ suất sinh sẽ giảm đi, nguồn lực
dành cho mỗi đứa con tăng, sức khỏe và điều kiện học tập dành cho con
được cải thiện hoặc tỷ lệ ngân sách gia đình cho giáo dục và y tế tăng
lên, tức là BBĐG về giáo dục gây ra tác động tiêu cực đến PTCN.
(2) Tác động của BBĐG trong việc làm tới PTCN
Các tác giả Lundberg và Pollak (1996) khẳng định rằng người
tạo thu nhập thường có quyền quyết định và vợ và chồng có cách phân
bổ ngân sách theo cơ cấu tiêu dùng khác nhau. Các tác giả Ferrant

(2011) và Thomas và Strauss (1997) cho rằng BBĐG về việc làm có
ảnh hưởng tiêu cực tới PTCN vì khi phụ nữ không có quyền quyết định
chi tiêu trong gia đình thì hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực gia đình
giảm đi do nam giới thường chi tiêu ít hơn cho chăm sóc sức khỏe và
giáo dục với con cái.
1.1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của bình đẳng giới tới
phát triển
1.1.2.1 Những nghiên cứu đối với các nước trên Thế giới
(1)Tác động của BBĐG tới TTKT
Do khó tách riêng tác động của BBĐG trên từng phương diện
giáo dục, việc làm và các nghiên cứu thực nghiệm thường đánh giá tác
động của BBĐG trên một số khía cạnh nên phần sau đây tổng những
nghiên cứu trên cả hai khía cạnh. Phương pháp phổ biến trong các
nghiên cứu về mối quan hệ nhân quả của BBĐG tới TTKT là phân tích


7

tương quan hoặc hồi quy số liệu chéo và hoặc số liệu mảng. Biến phụ
thuộc thường là GDP hoặc GNP, tốc độ TTKT, thu nhập bình quân đầu
người hoặc năng suất tổng hợp, biến giải thích bao gồm các biến truyền
thống dựa trên mô hình TTKT của trường phái Tân cổ điển như: vốn
hoặc mức đầu tư, lao động và/hoặc vốn nhân lực, mức độ mở cửa nền
kinh tế hoặc kim ngạch thương mại và các biến thể hiện mức độ
BBĐG.
Các tác giả Barro và Lee (1994), Dollar và Gatti (1999),
Klasen (2002), Klasen và Lamana (2009), Schober và Winter- Ebmer
(2011) nghiên cứu các nhóm nước và kết luận BBĐG về tình trạng việc
làm hoặc thu nhập có tác động tiêu cực tới TTKT. Tuy nhiên, tác giả
Seguino (2000) lại cho rằng BBĐG với mức lương của lao động nữ

thấp hơn tương đối so với lao động nam làm cho các ngành xuất khẩu
thâm dụng lao động nữ có thể tăng sức cạnh tranh thông qua chi phí
lương thấp hơn và thúc đẩy TTKT.
Nhóm tác giả Martin và Garvi (2009) nghiên cứu về Tây Ban
Nha và kết luận rằng TTKT và mức độ phát triển giới, mức độ PTCN
thể hiện mối tương quan dương rõ rệt đối với nhóm tỉnh có mức độ phát
triển giới ở rất cao hoặc rất thấp. Tác giả Pervaiz và cộng sự (2011)
phân tích TTKT của Pakistan và đi đến kết luận là BBĐG có tác động
tiêu cực tới TTKT trong dài hạn. Tác giả Tansel, A. và cộng sự (2012)
đã phân tích TTKT của Thổ Nhĩ Kỳ qua hàm sản xuất Cobb- Douglas
với biến giáo dục của nữ và nam được tách riêng và khẳng định là
BBĐG có tác động tiêu cực và có ý nghĩa tới năng suất lao động.
(2) Tác động của BBĐG tới PTCN
Về phương pháp, các nghiên cứu thực nghiệm vào hồi quy
hoặc phân tích tương quan dựa trên số liệu chéo hoặc số liệu mảng với
đơn vị quan sát là các quốc gia hoặc khu vực (tỉnh).


8

Các nghiên cứu của các tác giả Hill và King (1995) về một
nhóm quốc gia, phát hiện của tác giả Mikkola (2005) về Phần Lan, của
tác giả Maiga (2011) về Burkina Faso đều khẳng định tác động tiêu cực
của BBĐG trong giáo dục tới PTCN trong cả ngắn hạn và dài hạn.
Tác giả Mikkola (2005) đã chỉ ra rằng khi có sự chuyển dịch
quyền quyết định chi tiêu từ chồng sang vợ thì tỷ trọng ngân sách dành
cho trẻ em tăng lên. Tương tự, nghiên cứu của tác giả Morrison và cộng
sự (2007) cũng chia sẻ kết luận rằng các gia đình do nữ làm chủ hộ
dành nhiều nguồn lực hơn cho trẻ em. Điều đó có nghĩa là BBĐG có
tác động tiêu cực tới PTCN.

1.1.2.2 Những nghiên cứu đối với Việt Nam
Nghiên cứu của WB (2008) đã kết luận rằng việc ghi tên cả hai
vợ chồng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã tăng cơ hội đầu
tư của các hộ gia đình và cải thiện sinh kế và mức sống cho những phụ
nữ cao tuổi. Công trình nghiên cứu của các tác giả Duvvury, N.,
Carney, P. và TS Nguyễn Hữu Minh (2012) đã ước lượng tổng chi phí
cơ hội của bạo lực gia đình gần bằng 1,41% GDP của Việt Nam năm
2010, tương đương 2.536.000 tỷ đồng.
Ngoài ra, nghiên cứu do TS Nguyễn Thị Nguyệt (CIEM) làm
chủ nhiệm đã chỉ ra các yếu tố có ảnh hưởng tới BBĐG trong thu nhập
và đã đề xuất một số gợi ý giải pháp. Nghiên cứu của các tác giả Lee, S.
(2008); nhóm tác giả Rodger & Menon (2010); WB (2011), tác giả
Nguyễn Việt Cường (2012) đã tìm hiểu thực trạng BBĐG ở Việt Nam
nhưng chưa đánh giá tác động hoặc tìm hiểu nguyên nhân của BBĐG.
Liên quan đến khuôn mẫu giới và nguyên nhân của BBĐG có nghiên
cứu của tác giả Wendy N. Duong (2001), UNFPA (2013). Ngoài ra,
luận án tiến sĩ của tác giá Nguyễn Quỳnh Hoa (2015) đã phân tích vấn
đề bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam và các yếu tố
dẫn đế thực trạng này ở Việt Nam.


9

1.1.3 Những đóng góp và vấn đề còn bỏ ngỏ trong
các nghiên cứu trước
1.1.3.1 Đóng góp của các nghiên cứu đã tổng quan
Về lý thuyết, các nghiên cứu trước đã nêu ra những khía cạnh
có biểu hiện của BBĐG, thước đo mức độ BBĐG; gợi ý một số mô
hình liên quan đến tác động của BBĐG tới phát triển. Về thực nghiệm,
các nghiên cứu trước đã chỉ ra các khía cạnh có biểu hiện và nguyên

nhân của BBĐG, mô hình tăng trưởng và phát triển có tính đến tác
động giới; chỉ ra những lỗi kỹ thuật của phân tích định lượng.
1.1.3.2 Những vấn đề còn bỏ ngỏ trong các nghiên cứu đã tổng quan
Các nghiên cứu trước đây chủ yếu dựa trên số liệu về một số
quốc gia. Nghiên cứu định lượng tác động của BBĐG tới phát triển ở
Việt Nam còn bỏ ngỏ.
1.2 Hướng nghiên cứu của luận án
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát là đánh tác động của BBĐG trong giáo dục
và việc làm tới TTKT và PTCN nhằm đề xuất một số giải pháp liên
quan tới BBĐG góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của Việt Nam.
1.2.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.2.2.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tác động của BBĐG tới
phát triển ở Việt Nam.
1.2.2.2 Phạm vi nghiên cứu
(1) Phạm vi nội dung
Về BBĐG, luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu BBĐG trong
giáo dục và việc làm. Về phát triển, luận án giới hạn phạm vi nghiên
cứu trên hai khía cạnh/thước đo cốt lõi của của phát triển: TTKT và
PTCN.
(2) Phạm vi không gian


10

Phạm vi không gian của luận án là Việt Nam.
(3) Phạm vi thời gian
Dựa vào số liệu được công bố chính thức đến tháng 6/2015,
phạm vi nghiên cứu là giai đoạn 2000-2012.

1.2.3 Vấn đề mới của luận án: các câu hỏi và giả
thuyết nghiên cứu
1.2.1.1 Các câu hỏi nghiên cứu
Dựa trên những vấn đề còn bỏ ngỏ trong các nghiên cứu trước,
luận án lấy trọng tâm là phân tích tác động của BBĐG trong giáo dục
và việc làm tới hai khía cạnh của phát triển là TTKT và PTCN thông
qua việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu cụ thể sau đây:
(1) Thực trạng BBĐG trong giáo dục và việc làm ở Việt Nam
như thế nào?
(2) BBĐG trong giáo dục và việc làm có tác động như thế nào
tới TTKT và PTCN ở Việt Nam?
(3) Những yếu tố nào có ảnh hưởng tới BBĐG trong giáo dục
và việc làm? Cần có những chính sách nào liên quan đến BBĐG nhằm
thúc đẩy phát triển ở Việt Nam trong thời gian tới?
1.2.1.2 Các giả thuyết nghiên cứu
Dựa trên các nghiên cứu đã tổng quan và phạm vi nghiên cứu
(trong Mục 1.2.2- Chương 1), câu hỏi nghiên cứu thứ 2 liên quan đến
việc kiểm định 6 giả thuyết sau:
H1: BBĐG trong giáo dục tác động tiêu cực tới TTKT
H2: BBĐG trong việc làm tác động tiêu cực tới TTKT
H3: BBĐG trong giáo dục tác động tiêu cực tới giáo dục cho thế hệ sau
H4: BBĐG trong giáo dục tác động tiêu cực tới chăm sóc sức khỏe gia đình
H5: BBĐG trong việc làm tác động tiêu cực tới giáo dục cho thế hệ sau
H6: BBĐG trong việc làm tác động tiêu cực tới chăm sóc sức khỏe gia đình


11

1.2.4 Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
1.2.4.1 Cách tiếp cận đề tài luận án

Dựa trên tổng quan tài liệu (Chương 1), luận án làm rõ khung
lý thuyết và phương pháp đánh giá tác động của BBĐG (Chương 2).
Tiếp theo, luận án phân tích thực trạng, đánh giá tác động và các yếu tố
ảnh hưởng tới BBĐG trong giáo dục và việc làm bằng phương pháp hồi
quy, tính hệ số tương quan, phân rã Blinder -Oaxaca và phương pháp
định tính (Chương 3). Từ đó, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm
thúc đẩy phát triển ở Việt Nam trong tương lai (Chương 4).
(1) Tiếp cận vĩ mô
Cách tiếp cận vĩ mô được sử dụng để đánh giá tác động của
BBĐG tới TTKT và PTCN với đơn vị phân tích là cấp tỉnh.
(2) Tiếp cận vi mô
Cách tiếp cận vi mô với đơn vị phân tích là cá nhân hoặc hộ gia
đình cũng dùng để đánh giá tác động của BBĐG tới TTKT và PTCN
với dữ liệu VHLSS 2010-12.
1.2.4.2 Phương pháp luận nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp luận tư duy như: phương
pháp tư duy biện chứng, phương pháp phân tích và tổng hợp, khái quát
hóa, diễn giải và quy nạp để nghiên cứu đề tài luận án.
1.2.4.3 Phương pháp phân tích dữ liệu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích định lượng
như: thống kê mô tả, phân tích tương quan, hồi quy với số liệu chéo
hoặc số liệu mảng, phân rã Blinder-Oaxaca, phương pháp định tính.
1.2.4.4 Nguồn dữ liệu
Các số liệu được sử dụng chủ yếu là số liệu thứ cấp được trích
ra từ các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS- GSO, điều tra
lao động việc làm (LFS- Bộ LĐTBXH), số liệu kinh tế xã hội cấp tỉnh
(Cục thống kê), số liệu của WB, UNDP…


12


CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
TỚI PHÁT TRIỂN
2.1 Các khái niệm cơ bản
2.1.1 Giới và bất bình đẳng giới
2.1.1.1 Giới
Giới đề cập đến vai trò của nam, nữ được xã hội xác định và
những hành vi, kỳ vọng gắn liền với nam, nữ.
2.1.1.2 Bất bình đẳng giới
a. Khái niệm
BBĐG là bất kỳ sự khác biệt nào về quyền, cơ hội và lợi ích
và/hoặc bất kỳ sự phân biệt đối xử của nam và nữ.
b. Đo lường
Các thước đo tổng hợp được bao gồm GDI và GEM, có giá trị
trong khoảng 0-1, càng gần 1 thì mức độ BBĐG giới càng thấp.
2.1.2 Phát triển
Phát triển là một khái niệm có nội hàm rộng, trong đó các biểu
hiện cốt lõi là TTKT, chuyển dịch cơ cấu, PTCN.
2.1.2.1 Tăng trưởng kinh tế
Là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội, tổng sản phẩm quốc
dân hoặc thu nhập quốc dân bình quân đầu người. Thước đo TTKT: tốc
độ tăng GDP.
2.1.2.2 Phát triển con người
Theo UNDP, "phát triển con người là quá trình tăng cường
những lựa chọn của con người, trong đó những lựa chọn quan trọng
nhất là để đảm bảo sống một cuộc sống trường thọ và khỏe mạnh, được
học tập...". Chỉ số HDI được dùng để đo thành tích phát triển con
người.



13

2.2 Lý luận và phương pháp đánh giá tác động của BBĐG trong
giáo dục và việc làm tới TTKT
2.2.1 Lý luận về tác động của BBĐG trong giáo dục và việc làm tới
TTKT
2.2.1.1 Lý luận về tác động của BBĐG trong giáo dục tới TTKT
Luận án sử dụng cơ sở lý luận dựa trên khung phân tích đã
được các tác giả Klasen và Seguino đưa ra.
BBĐG về giáo dục hiện nay đều nghiêng về bất lợi cho nữ với
biểu hiện là tỷ lệ nữ được đi học ít hơn hoặc số năm đi học ít hơn so với
nam. Điều này kìm hãm TTKT thông qua bốn cơ chế sau. Thứ nhất,
hạn chế khả năng thiên bẩm trung bình của những đứa trẻ được cho đi
học (tính chung cho cả bé trai và bé gái) và do đó giảm mức vốn nhân
lực trung bình trong nền kinh tế. Thứ hai, giảm lợi ích kinh tế cận biên
của giáo dục (theo quy luật lợi ích cận biên) giảm dần. Thứ ba, hạn chế
khả năng thâm dụng lao động nữ, với mức lương tương đối thấp hơn so
với nam giới và giảm khả năng cạnh tranh trong các ngành hướng về
xuất khẩu và thâm dụng LĐ nữ. Thứ tư, hạn chế tác động ngoại ứng
tích cực của bình đẳng giới về giáo dục như giảm tỷ suất sinh, hạn chế
cơ hội hỗ trợ học tập giữa các thành viên trong gia đình, giảm số người
phụ thuộc, tăng tiết kiệm và đầu tư, tăng tỷ lệ vốn/lao động và tăng
nguồn vốn nhân lực.
2.2.1.2 Lý luận về tác động của BBĐG trong việc làm tới TTKT
Luận án dựa vào khung phân tích của các tác giả Seguino
(2000) và Klasen (2002, 2004) và Klasen và Lamanna (2009). BBĐG
về việc làm kìm hãm TTKT thông qua bốn kênh. Thứ nhất, giảm khả
năng trung bình của LLLĐ dẫn tới năng suất lao động thấp hơn, giảm
khả năng đổi mới và sáng tạo và quản lý hiệu quả. Thứ hai, tăng tỷ suất

sinh do chi phí cơ hội của việc sinh và nuôi con thấp, tăng gánh nặng
người phụ thuộc, giảm tiết kiệm và đầu tư, giảm tỷ lệ vốn/lao động.


14

Thứ ba, giảm khả năng thâm dụng lao động nữ với chi phí lương thấp
hơn, giảm khả năng cạnh tranh trong các ngành công nghiệp thâm dụng
lao động nữ hướng tới xuất khẩu. Thứ tư, giảm khả năng thương thuyết
và quyền ra quyết định trong gia đình của người phụ nữ, do đó chi phí
cho giáo dục và sức khoẻ giảm, dẫn tới hạn chế đầu tư cho vốn nhân
lực.
2.2.2 Phương pháp đánh giá tác động của BBĐG về giáo dục và việc
làm tới tăng trưởng kinh tế
2.2.2.1 Cách tiếp cận vĩ mô
(1) Mô hình áp dụng
Dựa trên mô hình TTKT Tân cổ điển và khung phân tích của
các tác giả Seguino (2000), Klasen và Lamanna (2009), Schober và
Winter-Webmer (2011), Pervaiz và cộng sự (2011):
GDP = f (K, L, H, Openness, GIi
Biến phụ thuộc: GDP; Biến giải thích: vốn đầu tư, lao động, độ mở cửa,
biến phản ánh BBĐG được bổ sung vào.
(2)Phương pháp ước lượng
Luận án sử dụng phương pháp OLS.
(3) Đơn vị phân tích
Đơn vị quan sát là cấp tỉnh và chỉ số GDI là thay thế gần đúng
cho BBĐG.
2.2.2.2 Cách tiếp cận vi mô
(1) Các giả định cơ bản
Khi so sánh khả năng tạo thu nhập của nam và nữ thông qua so

sánh thu nhập trung bình của các thành viên trong các gia đình do nữ
làm chủ hộ và các gia đình do nam làm chủ hộ, luận án giả định rằng
chủ hộ là người tạo thu nhập và có quyền quyết định nguồn lực của gia
đình.
(2) Nguồn số liệu và phương pháp tính toán


15

Thống kê và kiểm định khác biệt về thu nhập trung bình đầu
người của hai nhóm hộ gia đình được thực hiện dựa trên VHLSS 2010
và 2012.
2.3 Lý luận và phương pháp đánh giá tác động của
BBĐG trong giáo dục và việc làm tới PTCN
2.3.1 Lý luận về tác động của BBĐG trong giáo dục và việc làm tới
PTCN
Tổng quan các nghiên cứu đã cho thấy BBĐG về giáo dục và
việc làm có tác động tiêu cực tới tới các khía cạnh của PTCN thông qua
năm cơ chế. Thứ nhất, hạn chế cơ hội các thành viên trong gia đình hỗ
trợ nhau trong học tập. Thứ hai, hạn chế thành tích chăm sóc sức khoẻ
gia đình do người mẹ có trình độ học vấn thấp hơn so với các ông bố.
Thứ ba, hạn chế cơ hội người bố trực tiếp hỗ trợ con học tập do phân
công LĐ theo hướng phụ nữ chuyên chăm sóc gia đình. Thứ tư, hạn chế
thành tích chăm sóc sức khoẻ gia đình và thành tích giáo dục con cái do
hạn chế quyền thương thuyết và quyền ra quyết định chi tiêu trong gia
đình của người phụ nữ. Thứ năm, làm tăng tỷ lệ sinh do giảm chi phí cơ
hội của việc sinh con, tăng số người ăn theo, giảm đầu tư cho học tập
và chăm sóc sức khoẻ của mỗi thành viên.
2.3.2 Phương pháp đánh giá tác động của BBĐG trong giáo dục và
việc làm tới PTCN

2.3.2.1 Cách tiếp cận vĩ mô
Cách tiếp cận vĩ mô được thực hiện với đơn vị quan sát và cấp
tỉnh thông qua hệ số tương quan giữa chỉ số phát triển giới (GDI) và chỉ
số phát triển con người (HDI) với số liệu chéo năm 2012.
2.3.2.2 Cách tiếp cận vi mô
(1) Mô hình lý thuyết


16

Dựa vào mô hình đánh giá tác động dựa vào nghiên cứu của
các tác giả Hill và King (1995), Dollar và Gatti (1999), Klasen (1999,
2002), WB (2001), Klasen và Lamanna (2009) và Maiga (2011).
(2) Mô hình kinh tế lượng
Mô hình đánh giá tác động của BBĐG trong giáo dục:
Yi = α0 + λ1EDU_Fi +λ2EDU_Mi + αHHi + βCMi + ei

(1)

Mô hình đánh giá tác động của BBĐG trong việc làm:
Yi = α0 + + λ1Emp_Fi +λ2Emp_Mi + αHHi + βCMi ei

(2)

trong đó: Y là biến phụ thuộc phản ánh một khía cạnh của PTCN, e i là
phần dư, giả định có phân phối chuẩn; EDU_F, EDU_M, Emp_F và Emp_M
là các biến giải thích chính liên quan đến trình độ học vấn và tình trạng việc
làm của nam và nữ; Véc tơ HH là đặc điểm của hộ gia đình; Véc tơ CM là
thông tin chung trên địa bàn xã mà hộ sinh sống.


(3 )Các biến số
Các biến phụ thuộc phản ánh: giáo dục cho con cái, chăm sóc
sức khỏe gia đình. Biến thể hiện BBĐG được đưa vào mô hình gián
tiếp thông qua phân tách số liệu theo giới. Biến giả về giới tính chủ hộ
(Head_gender) và các biến kiểm soát cũng được đưa vào.
2.4 Các yếu tố ảnh hưởng tới BBĐG hoặc mức độ tác động của
BBĐG
2.4.1 Thông qua phân tích định tính
(1) Các yếu tố ảnh hưởng tới BBĐG chung: môi trường thể chế; tình
trạng phát triển, văn hóa và tôn giáo;
(2) Các yếu tố ảnh hưởng tới BBĐG trong giáo dục: trình độ học vấn
của cha mẹ, chi phí cơ hội của việc đi học đối với những trẻ em gái,
môi trường học tập;
(3) Các yếu tố ảnh hưởng tới BBĐG trong việc làm: phân công vai trò
trong gia đình, trình độ học vấn, phân biệt do lỗi thống kê.


17

2.4.2 Thông qua phân tích định lượng
Phương pháp phân rã Blinder - Oaxaca thường được sử dụng
để nghiên cứu thị trường lao động và được dùng để phân tích các yếu
tố ảnh hưởng tới BBĐG về giáo dục hoặc mức độ tác động của nó.
Nguyên tắc chung của phương pháp này gồm hai bước: bước 1 ước
lượng và kiểm định xem có chênh lệch về lương/thu nhập hoặc số năm
đi học theo theo giới không; bước 2 phân rã các yếu tố ảnh hưởng đến
chênh lệch của lương/thu nhập hoặc số năm đi học trung bình theo giới.
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG BẤT BÌNH
ĐẲNG GIỚI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA BẤT BÌNH ĐẲNG
GIỚI

TỚI PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM
3.1 Khái quát thực trạng BBĐG ở Việt Nam
3.1.1 Thực trạng BBĐG trong giáo dục
Trong giai đoạn 2004-2012, ở mọi vùng miền, tỷ lệ biết đọc
biết viết của nữ luôn thấp hơn so với nam giới và đặc biệt là nam giới
luôn có nhiều cơ hội nhiều hơn trong tiếp cận với đào tạo chuyên môn
kỹ thuật. Trong số LĐ đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật năm 2012,
ở loại hình "Dạy nghề" và đặc biệt là trình độ "Đại học và trên đại học",
số lượng sinh viên nam lại lấn át số lượng sinh viên nữ, chỉ trừ ở một số
trình độ, LĐ nữ nhiều hơn cả về số lượng và cơ cấu so với LĐ nam như
“Trung học chuyên nghiệp” và “Cao đẳng”. Tóm lại, xét thành tích của
giáo dục và đào tạo cơ bản ("biết đọc biết viết") và đào tạo với trình độ
cao ("đại học và trên đại học") thì nữ chịu những bất lợi và thiệt thòi
trong giáo dục so với nam. Tỷ lệ nam học viên cao ở loại hình "dạy
nghề" và tỷ lệ nữ học viên cao ở trình độ "cao đẳng" cho thấy sự phân
khúc ngành nghề theo giới.


18

3.1.2 Thực trạng BBĐG về việc làm
Tính chung trên toàn quốc, tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ không
có sự thay đổi nhiều và ở mức khoảng 48,5%. Nữ giới chủ yếu làm
trong những ngành lao động sử dụng ít kỹ năng, trình độ cao như nông
nghiệp, hoặc các công việc giản đơn như bán hàng giúp việc gia đình...
Ngược lại nam giới tham gia nhiều hơn vào những ngành có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao, và nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý nhà
nước. Tính trung bình, tiền lương tháng của lao động nữ bằng khoảng
75% (đối với nhóm làm công ăn lương) và khoảng 83% (tính chung cho
tất cả các nhóm) so với tiền lương bình quân của lao động nam. Ở

nhóm trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, biểu hiện chênh lệch lương
càng cao. Xét theo khu vực kinh tế, chênh lệch lương lớn nhất và đang
tăng dần ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế tư nhân
và kinh tế nhà nước có tiến bộ, khu vực kinh tế cá thể và tập thể vẫn ở
mức cần cải thiện.
3.2 Khái quát thực trạng phát triển ở Việt Nam
3.2.1 Tăng trưởng kinh tế
Chính phủ đã đưa ra một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu; mục tiêu ổn định vĩ
mô được ưu tiên hàng đầu cùng với quyết tâm tái cơ cấu nền kinh tế. Tuy
nhiên, kết quả đạt được chưa đáng kể nên mục tiêu tăng trưởng vấn là
một mục tiêu tối quan trọng.
3.2.2 Phát triển con người
Chỉ số HDI của Việt Nam đang giảm, tuy tốc độ giảm chậm lại.
Năm 2014, theo xếp hạng của UNDP Việt Nam đứng thứ 121/187 quốc
gia và vùng lãnh thổ và được đánh giá ở mức trung bình trên thế giới.
Hầu hết các quốc gia ở châu Á đều có thứ hạng cao hơn của Việt Nam.
Mặc dù đã đạt được thành tựu to lớn về TTKT nhưng mức thu nhập đầu
người của Việt Nam vẫn ở mức trung bình thấp làm cho thành tích HDI


19

của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với nhiều nước trên Thế giới. Có thể
nói thứ hạng HDI của Việt Nam không cao chủ yếu do yếu tố thu nhập.
3.3 Tác động của BBĐG trong giáo dục và việc làm tới tăng trưởng
ở Việt Nam
3.3.1 Phân tích vĩ mô
Kết quả ước lượng hồi quy như sau:
lnGDP = 1,58 + 0,299lnInv + 0,591lnEmp + 0,062lnTrd + 0,059 GDI


Các hệ số của các biến độc lập có ý nghĩa thống kê và khẳng
định phát triển giới (tức là BBĐG thấp hơn) có tác động dương tới
TTKT: khi GDI tăng 1 điểm phần trăm thì GDP tăng lên 0,059%, tức là
BBĐG kìm hãm TTKT.
3.3.2 Phân tích vi mô
Phân tích vi mô được thực hiện thông qua việc so sánh các gia
đình có chủ hộ là nam và chủ hộ là nữ về khả năng tạo thu nhập.
Bảng 3.15 Thu nhập bình quân đầu người theo giới
tính của chủ hộ
Đơn vị tính: nghìn đồng
Tình trạng
hôn nhân
Có vợ/chồng

2010

2012

Nữ

Nam

Chung

Nữ

Nam

Chung


2.414

1.571

1.684

2.889

2.134

2.229

Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên số liệu VHLSS 2010-2012

Trong điều kiện hôn nhân như nhau (có cả vợ và chồng), các
chủ hộ là nữ có khả năng tạo thu nhập cao hơn các chủ hộ là nam.
Vậy, giả thuyết H1 và H2 đưa ra ở Mục 1.2.3 được chấp nhận.
3.4 Tác động của BBĐG trong giáo dục và việc làm tới PTCN ở
Việt Nam
3.4.1 Phân tích vĩ mô
Phân tích vĩ mô của tác động của BBĐG tới PTCN được thực
hiện với đơn vị quan sát và phân tích là cấp tỉnh thông qua tính toán hệ


20

số tương quan giữa chỉ số phát triển giới (GDI) và chỉ số phát triển con
người (HDI) với số liệu chéo cấp tỉnh. Hệ số tương quan rất lớn (năm
2012 là 0,9993) dẫn đến kết luận rằng khi mức độ BBĐG càng thấp

(tức là khi GDI càng cao) thì thành quả PTCN càng cao.
3.4.2 Phân tích vi mô
a. Tác động của BBĐG trong giáo dục tới PTCN
Bảng 3.17 thể hiện kết quả hồi quy tác động riêng của trình độ
giáo dục của bố và mẹ tới giáo dục của con cái và chăm sóc sức khỏe
trong gia đình có cả vợ và chồng. Kết quả cho thấy BBĐG trong giáo
dục có tác động tiêu cực tới cả giáo dục cho con cái và chăm sóc sức
khỏe gia đình
Bảng 3.17 Kết quả hồi quy tác động của trình độ học vấn của bố và
mẹ tới giáo dục cho con cái và chăm sóc sức khỏe gia đình
Mô hình
Biến số

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

EDU_Proper

EDU_6_18

EDU_expend

NVacin


HEALTH_Treat

EDU_M

0,011***

0,005***

0,002***

-0,000***

0,011***

EDU_F

0,010***

0,025***

0,007***

0,003***

-0,018***

Constant

0,678***


0,591***

0,050***

0,156***

3,061***

*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên số liệu VHLSS 2010 -2012

b. Tác động của BBĐG trong việc làm tới PTCN
Tác động của BBĐG về việc làm tới PTCN được kiểm định
bằng hai cách: (i) định lượng tác động riêng của biến số phản ánh tình
trạng việc làm của nam và nữ (Bảng 3.18); (ii) phân tích gián tiếp thông
qua kênh tác động của BBĐG trong việc làm - kênh "quyền ra quyết
định trong gia đình của phụ nữ" (Bảng 3.19).
Bảng 3.18 Kết quả hồi quy tác động của tình trạng việc làm của bố
và mẹ tới giáo dục cho con cái và chăm sóc sức khỏe gia đình
Mô hình

(1)

(2)

(3)

(4)


(5)


21
Biến

EDU_Proper

EDU_6_18

EDU_expend

NVacin

HEALTH _Treat

Emp_M

-0,108***

-0,028***

0,063***

0,035***

0,179***

Emp_F


0,054***

0,093***

0,022***

-0,036***

0,062***

Constant

0,957***

0,758***

0,043***

0,183***

2,791***

Standard errors in parentheses, *** p<0,01; ** p<0,05; * p<0,1

Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên số liệu VHLSS 2010 -2012

Bảng 3.18 cho phép kết luận BBĐG về tình trạng việc làm có
tác động tiêu cực tới giáo dục cho con cái nhưng lại thể hiện tác động
tích cực tới chăm sóc sức khỏe gia đình do khi không đi làm phụ nữ có

nhiều thời gian chăm sóc gia đình hơn .
Bảng 3.19 Khác biệt trong đầu tư cho giáo dục cho con cái và chăm
sóc sức khỏe gia đình theo giới tính của chủ hộ
Mô hình

(3)

(4)

(5)

EDU_expend

NVacin

HEALTH_Treat

Head_gender

-0,035***

-0,004***

-0,071***

Constant

0,088***

0,159***


3,330***

Biến

Standard errors in parentheses, *** p<0,01; ** p<0,05; * p<0,1

Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên số liệu VHLSS 2010 -2012

Bảng 3.19 cho thấy tính trung bình các hộ gia đình có chủ hộ là
nữ đưa trẻ em đi tiêm chủng (hệ số của NVacin cao hơn) thường xuyên
hơn, tỷ trọng chi tiêu cho giáo dục nhiều hơn, nhưng thành tích chăm
sóc sức khỏe vẫn kém hơn (thể hiện qua số lần đi chữa bệnh nhiều
hơn). However, số liệu thống kê cho thấy các gia đình có nữ làm chủ hộ
chủ yếu là đơn thân và khi họ có việc làm thì thời gian chăm sóc gia
đình ít hơn.
Tóm lại, các giả thuyết H1, H2, H3 đưa ra ở Mục 1.2.3 được
chấp nhận, giả thuyết H4 bị bác bỏ.


22

3.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến BBĐG hoặc mức độ tác động của
BBĐG ở Việt Nam
3.5.1 Kết quả phân tích định tính
Thứ nhất, mục tiêu bình đẳng giới đã được đề cập tới trong
Hiến pháp và Luật bình đẳng giới đề cập đến việc lồng ghép các biện
pháp đảm bảo bình đẳng giới. Tuy nhiên, trong Luật giáo dục, các biện
pháp hạn chế BBĐG chưa được đề cập cụ thể. Trong Bộ luật Lao động,
các Điều khoản liên quan đến đảm bảo bình đẳng giới mới chỉ đảm bảo

hỗ trợ phụ nữ mà chưa nêu rõ biện pháp xử lý khi có những phân biệt
đối xử về phúc lợi. Các chương trình quốc gia quan trọng về giáo dục
và việc làm vẫn chưa lồng ghép các biện pháp đảm bảo bình đẳng giới
hoặc thậm chí còn không đề cập tới vấn đề giới.
Thứ hai, sự tồn tại của tư tưởng Phật giáo và Nho giáo ở Việt
Nam có xu hướng duy trì cố định kiến giới: gắn liền quyền lực nhiều
hơn, nhưng trách nhiệm, nghĩa vụ nhiều hơn đối với nam và vai trò nội
trợ cùng với quyền lực kém hơn đối với nữ.
Thứ ba, trình độ phát triển thấp làm cho những định kiến giới
có nguy cơ cao trong việc dẫn đến những phân biệt đối xử về đầu tư
cho giáo dục và phân khúc trong đào tạo và việc làm.
Thứ tư, BBĐG trong giáo dục còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu
tố khác như trình độ học vấn của các bậc làm cha mẹ còn thấp, chi phí
cơ hội của việc đến trường đối với trẻ em gái cao hơn, môi trường học
tập còn thể hiện định kiến và khuôn mẫu giới.
Thứ năm, BBĐG trong việc làm chịu ảnh hưởng của thiên lệch
về vai trò của nam và nữ trong gia đình, chênh lệch giới về trình độ học
vấn và ngành học, và quan điểm và thống kê của các nhà tuyển dụng về
khác biệt giới về năng lực, và đóng góp tiềm năng cho doanh nghiệp.


23

3.5.2 Kết quả phân tích định lượng
Kết quả phân rã Blinder-Oaxaca khẳng định lại là nữ giới chịu
thiệt thòi hơn nam giới về số năm đi học và mức lương nhận được với
chênh lệch khá lớn.
3.5.2.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến BBĐG trong giáo dục
Chênh lệch về số năm đi học chủ yếu là do phân biệt đối xử
chứ không phải do sự khác biệt về đặc điểm của các cá nhân. Các yếu

tố ảnh hưởng đến BBĐG trong giáo dục gồm: dân tộc, đặc điểm kinh tế
hộ gia đình (nguồn gốc thu nhập chính), vùng sinh sống, hỗ trợ phát
triển, đặc điểm cơ sở hạ tầng và sự tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ
bản (đường, điện, chợ), tỷ trọng nông nghiệp, số doanh nghiệp, sự tồn
tại của các làng nghề.
3.5.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng tới BBĐG trong việc làm
Phân rã Blinder-Oaxaca đã dùng tối đa các dữ liệu trong số liệu
điều tra VHLSS 2010 và 2012 để đưa các biến kiểm soát vào mô hình
ước lượng và đã chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng đến BBĐG về lương.
Các nhân tố hoặc nhóm nhân tố này bao gồm: dân tộc, ngành, nghề,
khu vực kinh tế (phân theo sở hữu), khu vực sinh sống.
CHƯƠNG 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT BẤT
BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA BẤT BÌNH
ĐẲNG GIỚI NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN Ở VIỆT
NAM
4.1 Bối cảnh liên quan đến mục tiêu bình đẳng giới và thúc đẩy
phát triển ở Việt Nam
Việc hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế Thế giới có ảnh hưởng
tới tiến trình phát triển và việc đạt được mục tiêu bình đẳng giới của
Việt Nam thông qua mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, cơ hội học


24

hỏi...đồng thời đặt ra những thách thức như: tư tưởng nữ quyền thái
quá, nguy cơ bất ổn trong hôn nhân, lạm dụng tình dục...
Phát triển bền vững, tăng trưởng xanh đã trở thành mục tiêu
hàng đầu của Việt Nam, mục tiêu TTKT và PTCN ở Việt Nam tiếp tục
xác định con người là trung tâm, do đó cả LĐ nam và LĐ nữ được tạo
điều kiện tối đa để có trí tuệ cao.

Mục tiêu và giải pháp cụ thể về bình đẳng giới ở Việt Nam cần
tôn trọng Tuyên bố nhân quyền của UN và Công ước về xoá bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới 2011-2020.
4.2 Quan điểm và mục tiêu giải quyết vấn đề BBĐG nhằm thúc đẩy
phát triển ở Việt Nam
Các giải pháp được đề xuất phải đảm bảo: trực tiếp can thiệp
nhằm giảm chênh lệch theo giới và/hoặc nhằm hạn chế tác động tiêu
cực của BBĐG trong giáo dục và việc làm tới TTKT và PTCN; dựa vào
định hướng, chiến lược và những ưu tiên trong phát triển và bình đẳng
giới quốc gia và các cam kết quốc tế; dựa bối cảnh trong nước và quốc
tế; dựa trên các phát hiện trong luận án; bổ sung cho nhau để tạo ra tác
động toàn diện.
4.3 Một số giải pháp giảm bất bình đẳng giới và tác động tiêu cực
của bất bình đẳng giới nhằm thúc đẩy phát triển ở Việt Nam
Các giải pháp giảm BBĐG chung gồm có: (1) Tăng cường các
chế tài xử lý vi phạm quy định bình đẳng giới trong các văn bản pháp
luật liên quan đến BBĐG; (2) Đảm bảo lồng ghép vấn đề bình đẳng
giới trong các chương trình, chiến lược phát triển và các văn bản pháp
luật; (3) Tiếp tục tăng cường tuyên truyền giảm định kiến giới về vai
trò của nam và nữ trong xã hội, xóa bỏ những tư tưởng lại hâu gây nên
định kiến giới. Các giải pháp giảm BBĐG trong giáo dục gồm có: (1)
Tăng cường giáo dục đào tạo nhằm hạn chế BBĐG cho thế hệ sau; (2)


25

Xóa bỏ các định kiến giới trong môi trường học; (3) Xác định các nhóm
đối tượng ưu tiên cho chương trình hoặc dự án hỗ trợ nhằm giảm
BBĐG trong giáo dục. Các giải pháp giảm BBĐG trong việc làm gồm

có: (1) Tăng cường đào tạo cho nữ giới; (2) Xác định các nhóm đối
tượng ưu tiên cho chương trình hoặc dự án hỗ trợ nhằm giảm BBĐG
trong việc làm.
Các giải pháp hạn chế tác động tiêu cực của BBĐG tới phát
triển liên quan đến BBĐG chung gồm có: (1) Thúc đẩy TTKT và thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng cường các hoạt
động sản xuất phi nông nghiệp để phụ nữ có thêm cơ hội việc làm; (2)
Tăng cường thu thập liệu có phân tách giới và nghiên cứu về giới. Các
giải pháp hạn chế tác động tiêu cực của BBĐG giới về giáo dục gồm
có: (1) Thúc đẩy kinh tế địa phương thông qua các dự án hỗ trợ về giao
thông liên lạc, cơ sở hạ tầng; (2) Tăng cường giám sát và thúc đẩy hiệu
quả và tác động trên phương diện giới của các dự án hỗ trợ phát triển.
Các giải pháp hạn chế tác động tiêu cực của BBĐG trong việc làm gồm
có: (1) Tăng cường những hỗ trợ về công việc gia đình cho lao động nữ
khi đi làm; (2) Tuyên truyền, khuyến khích và thể chế hóa việc làm bán
thời gian cho phụ nữ.
KẾT LUẬN
Những đóng góp mới của luận án
Thông qua việc đánh giá thực trạng, tác động và các yếu tố ảnh
hưởng tới BBĐG trong giáo dục và việc làm, luận án đã đạt được mục
tiêu nghiên cứu đặt ra đồng thời có những đóng góp về mặt lý luận và
thực tiễn.
Về mặt lý luận, luận án có ba đóng góp chính: (1) lựa chọn các
chỉ tiêu đánh giá và hoàn thiện phương pháp đánh giá thực trạng BBĐG
về giáo dục và việc làm; (2) hoàn thiện mô hình và phương pháp đánh
giá tác động của BBĐG trong giáo dục và việc làm tới phát triển; (3)


×