Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Liên hệ bản thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.18 KB, 14 trang )

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn đạt
được trong 20 năm đổi mới. Có được những kết qủa đó là do Đảng cộng sản Việt
Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Một trong những nguyên tắc lý
luận cơ bản mà Đảng ta đã vận dụng là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn của triết học Mác - Lênin.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản, là linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với
thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý
luận. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và cơ
sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động,
biến đổi, do đó lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất
biện chứng giữa chúng vì thế cũng có những nội dung cụ thể và những biểu
hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử.
Để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt
lý luận của vấn đề này, bằng những kiến thức được học từ môn Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, đặc biệt là nội dung về lý luận và thực
tiễn, em xin nghiên cứu đề tài: “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
và các căn bệnh do không quán triệt mỗi nguyên tắc này (bệnh giáo điều và
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa)”


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Thực tiễn


Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích,
mang tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng
những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng
theo mục đích của mình. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không
ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy mà thực
tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính lịch sử - xã hội.
Vì vậy thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ là
những hoạt động vật chất hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động cảm tính
của con người. Bằng hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi bản thân sự vật
trong hiện thực, từ đó làm cơ sở biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhận thức. Do
đó hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động, sáng tạo, là hoạt động đối
tượng hoá, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực
tiễn là quá trình tương tác giữa các chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể hướng
vào việc cải tạo khách thể, trên cơ sơ đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở
thành mắt khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động đặc
trưng cho con người. Con người nhờ vào thực tiễn, như là hoạt động có ý thức, có
mục đích của mình mà cải tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi
một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới. Con người không
thoả mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con
người phải tiến hành lao động sản xuất tạo ra của cải vât chất để nuôi sống mình.

3


Để lao động và lao động có hiệu quả, con người phải biết chế tạo ra công cụ lao
động và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động
sản xuất, con người tạo nên những vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên.
Không có hoạt động đó, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát

triển được. Vì vậy, có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con
người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con
người với thế giới.
Tuy thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn
luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Hoạt động
đó không thể được tiến hành chỉ bằng vài cá nhân riêng lẻ, mà phải bằng hoạt động
đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Do đó, về nội dung cũng như về
phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội.
1.2. Lý luận
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người phản
ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội.
Đó là quá trình đi từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu,
từ không đầy đủ chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn. Quá trình nhận
thức của con người và loài người nói chung trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm
tính và nhận thức lý tính ...
Sự phát triển của nhận thức loài người tất yếu dẫn tới sự xuất hiện của lý
luận. Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiện
như là trình độ cao của nhận thức.
Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích luỹ lại trong quá trình lịch sử (Hồ Chí
minh: Toàn tập).
Xét về bản chất, lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát hoá
từ thực tiễn, phản ánh mối liên hệ về bản chất, những tính quy luật của thế giới

4


khách quan. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong
mối liên hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với
nhau, tác động qua lại nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định, vì nó là cơ

sở, nền tảng của lý luận bởi vì chính thực tiễn là cơ sở xuất phát của nhận thức nói
chung trong đó có lý luận., nó đặt ra các vấn đề cho nhận thức, cho lý luận.
2. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
2.1. Thực tiễn là cơ sở, động lực, là mục đích của nhận thức, của lý luận.
Vì chính thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển
cho nhận thức. Nhận thức phát triển được hay không là nhờ vào sự thúc đẩy của
thực tiễn. Lý luận, khoa học không có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra đời
chính vì và chủ yếu vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.
Nhận thức, lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ
đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần chúng. Lý luận, khoa
học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn
phục vụ mục tiêu phát triển nói chung nhằm thỏa mãn những nhu cầu ngày càng
tăng của con người.
2.2. Thực tiễn còn là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng sai của chân lý
ơ

C.Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân
lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý…”. Chỉ có
lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là đúng hay sai, là
chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ sai lầm.
Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng, tiêu chuẩn này
vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Là tuyệt đối vì nó là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất của nhận thứ, là thước đo duy nhất khẳng định tính đúng sai của tri

5


thức. Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiẽn không đứng yên
một chỗ mà biến đổi và phát triển không ngừng, ở một phương diện thực tiễn nhất

định, nó chỉ kiểm tra được sự đúng đắn của một nhận thức nhất định chứ không
kiểm tra được toàn bộ nhận thức đã có, nên tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép
biễn những tri thức của con người thành những chân lý tuyệt đích cuối cùng, mà
những tri thức này vẫn phải thường xuyên được kiểm nghiệm để tránh những cực
đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, hay chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí,
chủ nghĩa tương đối.
Thông qua thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, thông qua thực tiễn thì
lý luận mới có giá trị tham gia vào biến đổi hiện thực, mới có sức mạnh cải tạo
hiện thực
2.3. Lý luận là kim chỉ nam cho thực tiễn, lý luận phải được chứng minh, bổ
sung và phát triển thông qua thực tiễn
Tuy nhiên, việc coi trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ lý luận, hạ thấp
vai trò của lý luận. Không nên đề cao cái này hạ thấp cái kia, và ngược lại. Không
thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận được trực tiếp từ thực tiễn mà phải
nâng lên thành lý luận.
Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức, đồng thời lại
thống nhất với nhau, chúng bổ sung cho nhau, giả định lẫn nhau, thâm nhập và
chuyển hoá lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận cũng không đồng
nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy chúng có quan hệ với nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính. Bởi vì trong nhận thức kinh nghiệm ngoài hoạt
động trực quan cảm tính, còn có sự tham gia của yếu tố lý tính. Do đó, có thể coi
kinh nghiệm và lý luận là những bậc thang của lý tính, nhưng khác nhau về đối
tượng, về trình độ, tính chất phán ánh hiện thực, về chức năng cũng như về trật tự
lịch sử. Vì vậy, không nên coi thường kinh nghiệm song cũng không nên cường điệu
kinh nghiệm, không nên dừng lại ở kinh nghiệm mà cần nâng lên trình độ lý luận.
6


Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm, “Lý luận là sự tổng
kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã

hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” (Hồ Chí minh: Toàn tập). Lý luận mang tính
trừu tượng và khái quát cao hơn kinh nghiệm, nó thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn,
chính xác hơn, hệ thống hơn, nên phạm vi ứng dụng của lý luận mang tính phổ
biến hơn, rộng hơn nhiều lần so với tri thức kinh nghiệm.
Lý luận là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn, nó soi đường dẫn dắt, chỉ
đạo thực tiễn. Lý luận vạch ra các quy luật khách quan của hiện thực, từ đó mới có
cơ sở để định ra mục tiêu, phương hướng, phương pháp đúng đắn cho hoạt động
thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mới làm cho hoạt động thực tiễn của con người
trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát.
Như vậy, chính lý luận thông qua hoạt động của con người để tác động trở
lại với thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn. “Không có lý luận thì lúng túng
như nhắm mắt mà đi” (Hồ Chí minh: Toàn tập), khi lý luận đã xâm nhập vào quần
chúng thì biến thành sức mạnh vật chất vì trong khi khát quát thực tiễn, lý luận đã
vạch ra được sự liên hệ lẫn nhau giữa các hiện tượng, các quy luật khách quan của
sự phát triển, đồng thời nó còn thể hiện dự báo, chỉ ra những phương hướng mới
cho sự phát triển của thực tiễn, làm cho hoạt động của thực tiễn có hiệu quả hơn.
“Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”
(Lênin: Toàn tập).
Thống nhất với thực tiễn và trên cơ sở đó sáng tạo và phát triển, đó là
nguyên tắc rất cơ bản, đảm bảo sức sống cho lý luận, đưa lại cho nó khả năng định
hướng đôí với những mâu thuẫn cốt lõi của đời sống sinh động. Nếu vi phạm
nguyên tắc này thì bản thân lý luận sẽ mất động lực phát triển, rơi vào chủ nghĩa
thực dụng, chủ quan duy ý chí. Điều đó cũng có nghĩa là phải luôn luôn quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt
động thực tiễn. Chúng ta luôn nhớ lời căn dặn của Bác Hồ: “Thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin. Thực tiễn không
7


có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không thực tiễn là

lý luận suông”.
Chúng ta coi trọng lý luận, nhưng không cường điệu vai trò lý luận, coi
thường thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa, phải quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và
hoạt động cách mạng.
Càng đi sâu vào các vấn đề thực tiễn của đất nước trong thời kỳ đổi mới
càng thấy lý luận lại gắn liền với chính sách, mô hình, mà chính sách, mô hình lại
không thể tách rời đường lối, thực chất là biểu hiện cụ thể của lý luận, đường lối.
Những vấn đề cụ thể đó lại đang là những đòi hỏi bức xúc của số đông cán bộ,
đảng viên, công chức đối với vấn đề lý luận. Không xông vào giải quyết những vấn
đề đó thì mãi mãi lý luận sẽ bị coi là lạc hậu, đi sau cuộc sống, không giải đáp
được những vấn đề mắc mứu mà xã hội trong thời kỳ đổi mới đặt ra, do đó không
thể có vai trò tích cực hướng dẫn hoạt động, không thể được đông đảo cán bộ,
đảng viên quan tâm. Không có lý luận đúng đắn, rõ ràng chỉ đường thì hành động
dễ chệch choạc hoặc không dám làm, sinh ra trì trệ, thậm chí có thể gây hiểu lầm,
mất đoàn kết nội bộ.
Lý luận luôn luôn gắn liền với thực tiễn và chỉ đường cho hoạt động thực
tiễn. Nhưng đổi mới là sự nghiệp rất mới mẻ. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta không giống như ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ, mà
có điều kiện, hoàn cảnh và đặc thù khác... Nên nghị quyết Đại hội VI đã chỉ rõ
rằng: sự nghiệp đổi mới của ta "không có tiền lệ", phải "vừa làm vừa rút kinh
nghiệm". Nói như thế không có nghĩa rằng sự nghiệp đổi mới của nước ta không
có lý luận soi đường. Nhưng chắc chắn sơ đồ, lộ trình vạch ra không thể một lúc đã
rõ ràng, đầy đủ được. Điều đó nói lên rằng, tổng kết thực tiễn nhất là thực tiễn thời
kỳ đổi mới càng có vị trí rất quan trọng đối với việc phát triển lý luận của chủ
nghĩa xã hội Việt Nam. Trong các văn kiện Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX
đều nhấn mạnh "tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận", và đều đặt tổng kết thực
8



tiễn lên trên, từ tổng kết thực tiễn đổi mới mà vận dụng sáng tạo, phát triển lý luận,
từng bước hoàn chỉnh lý luận về chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ
thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới sai
lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét lại.
3. Biểu hiện của việc vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Việc vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thường dẫn
đến hai sai lầm cực đoan là bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều chủ
nghĩa. Đây là hai “căn bệnh” mà cán bộ, đảng viên chúng ta ít nhiều đã mắc phải
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa qua và đã gây những tác hại nhất
định. Vì vậy, Đại hội VII của Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng phương
pháp tư duy khoa học, chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm.
3.1. Bệnh giáo điều
Trong triết học, khái niệm “giáo điều” chỉ một nguyên lý hay một luận điểm
được tiếp nhận như là một chân lý hiển nhiên không thể phê phán, không cần
chứng minh mà chỉ dựa vào lòng tin mù quáng.
Chủ nghĩa giáo điều là phương pháp tư duy vận dụng những khái niệm,
những công thức bất biến, không chú ý đến những tài liệu mới của thực tiễn và của
khoa học, những điều kiện cụ thể của địa điểm và thời gian, tức là coi thường
nguyên lý về tính cụ thể của chân lý. Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng
tuyệt đối hoá lý luận coi thường kinh nghiệm, khuyếch đại vai trò của lý luận để hạ
thấp vai trò của thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử cụ
thể, áp dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn máy móc.

9



Những biểu hiện chủ yếu của bệnh giáo điều:
Biểu hiện đầu tiên của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng
ở câu chữ, ở những nguyên lý chung chung, trừu tượng mà không thâu tóm được
thực chất cách mạng và khoa học của nó, nặng nề những gì đã có trong sách vở mà
không đối chiếu với cuộc sống, không xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
từ thực tiễn vận động để vận dụng lý luận. Tiếp thu những nguyên lý của chủ nghĩa
xã hội khoa học một cách đơn giản, phiến diện mang tính chất cảm tính, áp dụng
rập khuôn mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ngoài. Nhất là khi đề ra những chủ
trương chính sách, thường nặng về sách vở, mà không xuất phát từ điều kiện lịch
sử cụ thể của thực tiễn đất nước, xa rời thực tiễn sinh động.
Một biểu hiện khác của bệnh giáo điều là áp dụng một cách rập khuôn, máy
móc kinh nghiệm của nước này vào nước khác, địa phương này vào địa phương
khác, lĩnh vực này vào lĩnh vực khác… ở đây bệnh giáo điều thể hiện thành giáo
điều kinh nghiệm, đây là bệnh giáo điều chủ yếu ở nước ta, và là căn bệnh cũng do
trình độ lý luận, tư duy lý luận còn yếu kém, hiểu lý luận một cách chung chung,
tách rời lý luận với thực tiễn. Chính sự yếu kém về lý luận làm cho dễ tiếp thu lý
luận một cách đơn giản, phiến diện, cắt xén, sơ lược, không đến nơi đến chốn, và
chính sự tiếp thu lý luận từ trình độ tư duy kinh nghiệm dễ dẫn đến méo mó lý
luận, dẫn đến cán bộ ta thường phải dựa vào kinh nghiệm cũng như tư duy kinh
nghiệm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Bệnh giáo điều tồn tại đồng thời và đan kết với bệnh chủ quan duy ý chí,
bệnh kinh nghiệm. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta vừa qua,
cán bộ ta không những mắc bệnh giáo điều mà cả bệnh chủ quan duy ý chívà kinh
nghiệm chủ nghĩa, chúng đan kết quyện chặt thành một khối làm cho mõi mặt
thêm trầm trọng.
Những nguyên nhân cơ bản của bệnh giáo điều:
10


Nguyên nhân đầu tiên là do hiểu lý luận một cách trừu tượng, do tách rời lý

luận với thực tiễn.
Nguyên nhân thứ hai là sự xa rời thực tiễn đất nước và thời đại trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bệnh giáo
điều. Nguyên nhân tiếp theo là do sự tác động tiêu cực của cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp kéo dài cũng dẫn tới chủ nghĩa giáo điều.
3.2. Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi
thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận.
Người mắc bệnh kinh nghiệm thường thoả mãn với vốn kinh nghiệm bản thân,
ngại học lý luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ
thuật, coi thường giới trí thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ. Nước ta
vì điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ dân chí thấp, khoa học kỹ thuật chưa
phát triển, tư tưởng phong kiến còn ảnh hưởng nhiều trong nhân dân nên đó là
những mảnh đất thuận lợi cho bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nảy sinh.
Như vậy, sự yếu kém về lý luận là một nguyên nhân trực tiếp và rất quan
trọng của bệnh kinh nghiệm. Tuy nhiên, sự yếu kém về lý luận không chỉ dẫn đến
bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn đến bệnh giáo điều.
3.3. Phương hướng, biện pháp khắc phục và ngăn ngừa bệnh giáo điều, bệnh
kinh nghiệm
Phải nâng cao trình độ tư duy lý luận khoa học cho đội ngũ cán bộ.
Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Xây dựng từng bước nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

11


PHẦN KẾT LUẬN
Xuất phát từ quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực tiễn và quan điểm
phát triển. Đảng ta đã phân tích một cách khách quan, khoa học các sự kiện đã xảy
ra, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, thẳng thắn nhìn nhận những gì đã làm

được, cũng như những gì chưa làm được, tìm đúng nguyên nhân và hướng khắc
phục, nhằm kiên quyết tiến hành đổi mới đất nước, nhưng đổi mới có nguyên tắc
để vừa không xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa rút ra những kết luận mới
bổ sung cho lý luận về chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta, công cuộc đổi mới kinh tế-xã hội do Đảng ta khởi xướng đã thu
được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tuy nhiên, tính chất khó khăn và
phức tạp của sự nghiệp đổi mới cũng như chiều sâu và tầm cở của nó đang đặt ra
rất nhiều vấn đề lý luận lớn lao và gay cấn, đòi hỏi phải được giải quyết. Cho nên,
có thể nói rằng, chưa bao giờ lý luận lại cần thiết và có tầm quan trọng lớn như
hiện nay. Lý luận trở thành thiết thân đối với sự nghiệp đổi mới nói riêng, đối với
toàn bộ vận mệnh của chủ nghĩa xã hội nói chung.
Đổi mới ở nước ta là một mệnh lệnh của cuộc sống, mang tầm vóc của cuộc
cải biến cách mạng, cần được tiến hành toàn diện đồng bộ và triệt để về kinh tế chính
trị và tư tưởng, về tổ chức bộ máy nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng, về tư duy lý
luận. Muốn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đi đến thành công, Đảng ta cần phải tự đổi
mới và tự chỉnh đốn, trước hết phải nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận của
Đảng. Mọi đường lối, chính sách được đưa ra phải phản ánh được quy luật khách
quan và lợi ích của quần chúng, phải được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn và có khả
năng thực thi trong thực tiễn, đồng thời chúng ta cũng khẳng định rằng: Để công
cuộc đổi mới mà chúng ta đang tiến hành thành công, chúng ta cần kiên quyết khắc
phục bệnh quan liêu, giáo điều, làm cho nó không còn là một căn bệnh trầm kha.



×