Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn lớp 9 ở trường PTDT nội trú eakar

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.29 KB, 40 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐẮK LẮK
Trường PTDT Nội Trú Eakar
=======  =======

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG HỌC
SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN LỚP 9 Ở
TRƯỜNG PTDT NỘI TRÚ EAKAR

Người thực hiện: Trần Thị Hiên
Môn:Ngữ văn
Năm học:2014 – 2015

Eakar, tháng 2 năm 2015


PHẦN PHỤ LỤC
STT
1
2
3

ĐỀ MỤC
A
I
II

NỘI DUNG
Phần mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài



TRANG
3
3
3

4

III

Đối tượng nghiên cứu

4

5

IV

Giới hạn phạm vi nghiên cứu

4

6

V

Phương pháp nghiên cứu

4


7

B

Phần nội dung

4

8

I

Cơ sở lí luận

4

9

II

Thực trạng vấn đề

5

10

III

Giải pháp, biện pháp


5

11

1

Mục tiêu của giải pháp, biện pháp

5

12

2

Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

6

13

a

Định hướng đối tượng bồi dưỡng

6

14

b


Tài liệu bồi dưỡng

7

15

c

Nội dung, phương pháp bồi dưỡng

8

16

d

Tham khảo đề thi

25

17

e

Ấn định thời gian làm bài

26

18


3

Khả năng ứng dụng

26

19

IV

Kết quả

26

20

C

Kết luận, kiến nghị

27

21

I

Kết luận

27


22

II

Kiến nghị

27

2


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như chúng ta đã biết, Văn học là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, có vai trò
khá quan trọng trong việc dạy và học trong nhà trường. Sách có câu “ Văn học là nhân học”.
Học văn không chỉ đơn thuần là học để biết chữ mà học văn còn là học cách làm người, nó góp
phần quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Từ đó các em
có niềm tin vào cuộc sống, trang bị cho các em vốn sống để biết phản ánh cuộc sống, hướng các
em tới đỉnh cao của cái đẹp.
Nhiệm vụ của người giáo viên dạy Văn nói chung là phải làm cho học sinh hiểu được cái
hay cái đẹp cuả văn học, tạo ra được những rung động thẩm mỹ, biết liên hệ với thực tế cuộc
sống, biết đặt vấn đề trong thực tế của cuộc sống chung và riêng.... Đặc biệt là một giáo viên dạy
Văn ở trường PTDT Nội trú, ngoài việc dạy chữ, người giáo viên cần kết hợp để giúp các em
hòa nhập vào cuộc sống chung . Từ đó, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, biết gắn kết nội
dung bài học với thực tiễn cuộc sống nhằm cung cấp và mở rộng những hiểu biết cho học sinh
về những vấn đề gần gũi, bức thiết đang diễn ra trong cuộc sống xã hội hiện tại, tăng cường ý
thức của học sinh với cộng đồng xã hội.
Việc dạy học Văn thông thường đã quan trọng như vậy rồi thì việc bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Văn lại càng quan trọng gấp bội. Bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG) là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của ngành giáo dục đào tạo. Việc bồi dưỡng HSG, góp phần vào việc đào tạo nhân

lực, bồi dưỡng nhân tài cho huyện nhà, cho tỉnh.
Bồi dưỡng HSG là một hoạt động dạy học mang tính đặc thù cao: Người học là học sinh
giỏi, có năng khiếu theo môn học; người dạy là những giáo viên có trình độ chuyên môn cao,
giàu kinh nghiệm dạy học, tâm huyết với nghề và có lòng quyết tâm cao.
Chương trình bồi dưỡng phải được nâng cao so với chương trình giáo dục chính khóa
của Bộ GDĐT; Thời gian và phương pháp bồi dưỡng được các trường vận dụng vào hoàn cảnh
cụ thể. Có thể nói đây là hoạt động dạy học ở trình độ cao, đòi hỏi người dạy và người học phải
có năng lực và tố chất cần thiết; đòi hỏi các cấp quản lí giáo dục phải có kế hoạch chỉ đạo và xây
dựng giải pháp phù hợp với đặc thù của công tác bồi dưỡng HSG của trường mình.
Đào tạo và bồi dưỡng nhân tài lại là một việc làm thường xuyên. Để có học sinh giỏi Văn
thì cần thành lập đội tuyển và ôn luyện. Nhưng với đặc trưng trường PTDT Nội trú có số lượng
3


học sinh ít hơn nhiều so với các trường THCS khác nên việc để thành lập được một đội tuyển có
chất lượng quả là một việc hết sức khó khăn, nan giải. Trong khi thực tế, chất lượng học sinh
giỏi Văn của các trường Dân tộc Nội trú trong tỉnh chưa cao. Học sinh chưa thật sự yêu thích
môn văn, ngại học văn, nếu được chọn vào môn văn thì các em miễn cưỡng đi học...Vì vậy, các
giáo viên của trường không có niềm tin để ôn luyện các em. Nhưng mấy năm gần đây, như
chúng ta đã biết, đã có học sinh giỏi môn Văn của những trường Dân tộc Nội trú trong tỉnh. Vậy
để duy trì và phát huy thành tích này, chúng ta cần có sự đầu tư chu đáo hơn cho việc ôn luyện
HSG và việc thành lập đội tuyển là hết sức cần thiết. Mà muốn có được đội tuyển chất lượng để
đạt hiệu quả thì việc ôn luyện, bồi dưỡng đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Chính vì lí do trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 ở trường PTDT Nội trú Eakar để cùng hội đồng tham khảo, xây
dựng và áp dụng nhằm nâng cao chất lượng mũi nhọn môn Văn.

II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài đưa ra Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 ở trường
PTDT Nội trú Eakar. Qua đó nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn

lớp 9 ở trường PTDT Nội trú , hy vọng sẽ giúp các đồng nghiệp có thêm kỹ năng tổ chức các
phương pháp bồi dưỡng cho từng bộ môn của mình.

III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 ở trường PTDT Nội trú
Eakar.

IV. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Qua các năm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 tại trường PTDT Nội trú Eakar
( từ năm 2011 -2015).

V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Trong quá trình viết sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã vận dụng rất nhiều phương pháp, tiêu
biểu là các phương pháp sau:
1/ Phương pháp điều tra.
Tôi đã điều tra , tìm hiểu niềm yêu thích môn Văn cũng như năng khiếu viết Văn của các em
học sinh trong từng khối lớp.
2/ Phương pháp đối chứng.

4


So sánh, đối chiếu kết quả trước khi vận dụng biện pháp theo kinh nghiệm của tôi với sau khi
vận dụng kinh nghiệm này.
3/ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Sưu tầm và nghiên cứu các tài liệu có liên quan: Sách giáo khoa, Sách giáo viên, Sách tham
khảo, văn bản và tài liệu có liên quan. Đặc biệt là các văn bản, tài liệu về đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích cực và tài liệu chuẩn kiến thức - kĩ năng, sách nâng cao môn Ngữ văn
các khối lớp.
Học hỏi, trao đổi cùng đồng nghiệp thông qua dự giờ dạy, tiết dạy tốt.

4/ Phương pháp kiểm tra.
Đưa một số bài tập, đề văn năng cao, yêu cầu học sinh trả lời để lấy kết quả.
5/ Phương pháp vận dụng:
Quan sát, ứng dụng trong thực tế giảng dạy.

B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Công tác đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi, đội ngũ công dân tương lai của đất nước ,
đồng hành với sự phát triển trí tuệ vượt bậc, toàn diện là mục tiêu quan trọng của Ngành giáo
dục và đào tạo, đã được Đảng và Nhà nước ta coi là một trong ba mục tiêu chiến lược của nền
giáo dục nước nhà. Bồi dưỡng học sinh giỏi giúp học sinh hoàn thiện tri thức, phát huy hơn nữa
những năng lực, năng khiếu của mình.
Người xưa đã từng nói: Hiền tài là nguyên khí quốc gia.Vì vậy, bồi dưỡng học sinh giỏi
là bước đi đầu tiên để tạo nên nhân tài cho đất nước và là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của Ngành giáo dục nói chung và của mỗi trường học nói riêng.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, lớn lao, khó khăn, nặng
nề nhưng rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là học sinh có tố chất đặc biệt - khác các học
sinh khác về kiến thức, khả năng cảm thụ văn chương, khả năng tư duy và nhất là khả năng viết
bài ( nhiều em có thể viết bài gửi các báo, có những đề tài nghiên cứu phù hợp với lứa tuổi) tốt.
Như vậy, tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị và đầu tư nhiều
hơn là tiết dạy bình thường trên lớp, thậm chí phải có quá trình tích lũy kinh nghiệm qua thời
gian mới có thể đạt hiệu quả và thuyết phục học sinh, làm cho các em thực sự hứng thú và tin
tưởng. Đó là yêu cầu của ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường và cũng là mục tiêu của người bồi
dưỡng. Giáo viên tham gia bồi dưỡng phải có sự học tập và trau dồi không ngừng nghỉ, cùng với
5


lòng nhiệt huyết, quyết tâm cao mới có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc. Qua một số
năm bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn 9, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm,
dù chỉ thực hiện tập trung trong mấy tháng ít ỏi mà có thể có được những thành công nhất định.

Vậy nên, với đề tài này, tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình với mong muốn thiết tha
là được trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp, chia sẻ, học tập lẫn nhau để cùng tiến bộ; góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và hiệu quả học tập của học sinh nói chung và
việc nâng cao chất lượng mũi nhọn môn Ngữ văn nói riêng. Đó cũng là nội dung, mục đích
hướng tới của sáng kiến kinh nghiệm này.

II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ.
1. Thuận lợi:
- Đối với nhà trường: Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan là Ban giám
hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên đúng mức, có kế hoạch kịp thời, phù hợp
và chi tiết đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi; đồng nghiệp nhiệt tình, hỗ trợ đắc lực trong
giảng dạy. Thư viện đáp ứng đầy đủ tài liệu tham khảo, thiết bị dạy học và giáo cụ trực quan cho
việc giảng dạy
- Đối với giáo viên: Là một giáo viên nhiệt tình và tâm huyết, tôi thường xuyên nghiên cứu
giảng dạy, dành nhiều thời gian để suy ngẫm về chuyên môn, về tính hiệu quả của giờ lên lớp,
đặc biệt là giờ dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. Bản thân tích cực chịu khó trao đổi với đồng nghiệp
trong và ngoài trường để học hỏi và rút ra được những kinh nghiệm cần thiết áp dụng vào quá
trình bồi dưỡng. Vì thế qua từng năm công tác, kinh nghiệm giảng dạy cũng được tích luỹ phong
phú hơn.
- Đối với học sinh: Với đặc thù là trường Nội trú, đầu vào phải được tuyển chọn nên phần lớn
học lực của các em cũng ở mức độ trung bình khá, cũng có những em có chất lượng học tập rất
khá. Đặc biệt, môn Văn là môn học lợi thế của một số em học sinh dân tộc phía Bắc. Vả lại, các
em được ăn ở tại trường nên có nhiều thời gian để các em học tập và trao đổi với bạn bè, thầy
cô.
2. Khó khăn:
Đặc thù của trường PTDT Nội trú là trường chuyên biệt. Sỉ số học sinh quá ít, cả trường chỉ
có 4 lớp với sỉ số chỉ hơn 150 học sinh ( 1 lớp 9 chỉ có 35- 38 em), trong đó 100% là học sinh
dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa, khả năng nhận thức, tiếp thu của phần lớn học sinh còn rất
nhiều hạn chế, các em còn ảnh hưởng nặng tập quán của địa phương nên sống khép mình, ngại
6



tiếp xúc, ngại suy nghĩ, tìm tòi. Hơn nữa nhận thức vươn lên của một số em cũng chưa tốt, hứng
thú với môn Văn chưa cao. Học sinh tình nguyện tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi Văn ít so
với các đội tuyển môn tự nhiên, nhiều em học được Văn nhưng lại gặp sự phản đối từ gia đình...
Vì các em xa gia đình, ăn ở tại trường nên việc học tập của các em hầu như chỉ phó thác
cho giáo viên và nhà trường, thiếu vắng sự quan tâm của phụ huynh. Nên khi các em được vào
đội tuyển ôn luyện, phụ huynh rất hờ hững, không mấy mặn mà với việc con em mình được thi
học sinh giỏi, họ đón nhận thành quả của con em mình cũng thật dững dưng...
3. Nguyên nhân của thực trạng trên:
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi quả là một công việc hết sức quan trọng nhưng thật khó
khăn và nặng nề. Và đối với trường chuyên biệt là trường Dân tộc Nội trú thì đó quả thật lại
càng khó khăn gấp bội. Sĩ số học sinh ít (35- 38 học sinh lớp 9), 100% là học sinh dân tộc thiểu
số, thiếu sự quan tâm sát sao của gia đình, hứng thú học tập của cá em chưa cao, năng khiếu văn
học nhiều hạn chế…sẽ là những yếu tố tác động không nhỏ đến chất lượng ôn luyện. Dù vậy,
nhưng mấy năm gần đây,đội ngũ giáo viên trường PTDT Nội trú đã nỗ lực khắc phục những khó
khăn, trở ngại để nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn ở một số môn như: Sinh, Văn và đạt
được một số thành tích nhất định.
Từ thực trạng trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng
giờ dạy ôn luyện học sinh giỏi môn Ngữ văn 9.

III. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP:
1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Như đã nói ở trên, trước khi đến trường, các em được tiếp xúc với văn chương qua lời ru
của mẹ, của bà, qua đài, qua truyện tranh,... Tới trường các em được tiếp xúc với tác phẩm văn
chương, đối diện với nhà văn qua hình tượng nghệ thuật một cách bài bản, có sự hướng dẫn của
thầy cô giáo. Học sinh PTDT Nội trú lại ở độ tuổi giàu cảm xúc và trí tưởng tượng, sự cảm thụ
tiếp nhận nghệ thuật đang chuyển từ cảm tính đến lý tính. Đây là giai đoạn năng khiếu nghệ
thuật nói chung, năng khiếu văn chương nói riêng có cơ hội bộc lộ, phát triển đầy đủ và rõ rệt
hơn. Tiếp xúc với tác phẩm văn chương các em tự đặt mình trong cảnh ngộ, tâm trạng của nhân

vật, cùng vui buồn, sướng khổ với các nhân vật ...Thế giới hình tượng, tiếng lòng của nghệ sĩ
qua đó như khơi dậy, khích lệ các em từ năng khiếu văn chương đến năng khiếu sáng tạo. Từ đó
các em biết liên hệ với cuộc sống để hiểu thế giới thực tại xung quanh và biết cách sống tốt đẹp
hơn.
7


Để làm được việc đó thì việc vận dụng những phương pháp dạy học phù hợp trong giảng
dạy môn Ngữ văn nói chung và việc bồi dưỡng học sinh giỏi để phát huy năng khiếu cảm thụ
văn chương nói riêng ở trường PTDT Nội trú Eakar có ý nghĩa to lớn. Nó góp phần nâng cao
chất lượng bộ môn và năng lực giảng dạy của người giáo viên, cũng như nhằm nâng cao chất
lượng mũi nhọn môn Văn. Nhưng muốn bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi đạt kết quả cao, theo
tôi cần phải chú ý đến rất nhiều yếu tố: đó là sự chỉ đạo kịp thời, sát sao, sự quan tâm sâu sắc từ
phía Ban giám hiệu và các tổ chức trong nhà trường ; là sự ủng hộ, tạo điều kiện của gia đình
học sinh, của giáo viên chủ nhiệm... và quan trọng nhất vẫn là hai yếu tố giáo viên đứng lớp và
học sinh. Biết rằng phương pháp để tiếp nhận và tìm hiểu văn học vô cùng phong phú, khó có
thể nói hết được. Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu văn học đều có góc nhìn và cảm
nhận riêng. Song trong khuôn khổ đề tài này, tôi chỉ xin tập trung vào những việc mà bản thân
tôi đã và đang làm cũng như những điều tôi chiêm nghiệm được qua thực tiễn đào tạo, bồi
dưỡng học sinh giỏi.
2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
a. Giáo viên quan sát và định hướng đối tượng cần bồi dưỡng:
Làm bất cứ công việc gì cũng đều gặp phải những khó khăn, trở ngại nhất định. Để công
sức bồi dưỡng bỏ ra không bị uổng phí và có được “sản phẩm” chất lượng cao thì nhất thiết giáo
viên cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, cần phát huy cao độ ý thức, tinh thần trách nhiệm với công
việc! Như đã nói ở trên, những giáo viên tham gia bồi dưỡng thường chỉ dạy các em trong một
hoặc hai năm học, hơn nữa thời gian bồi dưỡng vốn không nhiều lại bị hạn chế bởi thời gian dạy
và học chính khóa trên lớp và các hoạt động phong trào chung của trường lớp. Đó là những khó
khăn lớn nhất thường gặp phải khi tiến hành bồi dưỡng.
Nhằm khắc phục khó khăn đó, trong nhiều năm tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi, bản

thân tôi luôn chủ động theo dõi, tìm hiểu trước một cách kĩ lưỡng tình hình học tập của các em
học sinh từ lớp 6 đến lớp 8 thông qua nhiều kênh thông tin: giáo viên bộ môn, giáo viên chủ
nhiệm lớp, và chính các em học sinh để phát hiện một cách chính xác mà không bỏ sót bất kì
một học sinh nào có tố chất văn. Sau khi phát hiện, tôi tiếp tục phối hợp với giáo viên bộ môn
văn từ lớp 6 đến lớp 8 để cùng bồi dưỡng; liên hệ với phụ huynh học sinh để đôn đốc, động viên
các em phát huy năng khiếu trong quá trình học tập. Trong quá trình theo dõi, tôi thường tổ chức
cho học sinh làm bài kiểm tra thử theo định kì (hai lần/ học kì) với nội dung kiến thức phù hợp
để rèn luyện một số kĩ năng cơ bản cho học và viết văn làm cơ sở thuận lợi sau này khi các em
8


lên học lớp 9 giáo viên tuyển chọn và bồi dưỡng được thuận lợi hơn (vì huyện và tỉnh chỉ tổ
chức thi học sinh giỏi ở lớp 9).
b. Giáo viên cung cấp tài liệu cần thiết và hướng dẫn học sinh sử dụng:
Chu Quang Tiềm nói:“Đọc sách là một trong những con đường quan trọng của học
vấn.” Thật vậy, học tập và tìm hiểu bất kì lĩnh vực nào cũng cần có tài liệu tham khảo. Trong
học văn và viết văn, nếu người học không tham khảo tài liệu, không đọc những bài văn hay thì
chắc chắn rằng sẽ không có cách cảm thụ tốt, cách viết hay. Bởi đọc, nghiên cứu tài liệu được
coi là cách tối ưu .
Chính vì thế, trước và ngay sau khi lựa chọn được đối tượng và thành lập đội tuyển, giáo
viên cần cung cấp thêm và hướng dẫn học sinh tìm đọc thêm một số tài liệu cần thiết cho quá
trình bồi dưỡng học sinh giỏi. Đối với một học sinh giỏi thì yêu cầu kiến thức phải thực sự
phong phú, sâu rộng thì các em mới chủ động, mạnh dạn và làm cho cảm xúc theo lời văn theo
nét bút trải dài trên trang giấy trong quá trình làm bài. Nếu kiến thức mỏng và nghèo nàn thì các
em không thể tránh khỏi những lúng túng, những câu văn què cụt, tối nghĩa trong bài viết.
Trong chương trình Tập làm văn lớp 9, học sinh học và thực hành tạo lập ba kiểu bài văn:
văn tự sự, văn thuyết minh, văn nghị luận. Cấu trúc của phân môn Tiếng Việt và Văn của bộ
môn Ngữ văn lớp 9 cũng không nằm ngoài trục đồng quy đó. Để tránh lạc hướng trong khi đọc,
tôi cung cấp và hướng dẫn các em tìm đọc thêm tập trung vào hai loại sách nhằm mở rộng và
nâng cao kiến thức.

Khi dạy học sinh thực hành tạo lập bài văn “Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý”,
tôi thấy kiểu bài văn này liên quan đến rất nhiều câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao. Bởi thế, nếu
học sinh không nắm vững, hiểu sâu về chúng thì khó có thể viết được bài văn. Căn cứ vào điều
này, tôi cho học sinh đọc cuốn “Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam”.
Ngoài việc nắm và cảm thụ tác phẩm văn học, học sinh còn cần phải đọc các cuốn sách
bài văn hay, sách bình giảng văn học, sách nghiên cứu lý luận phê bình về văn học mới thực sự
có điều kiện thâm nhập một cách đầy đủ về tác phẩm đó. Chẳng hạn khi cần nghị luận về bài thơ
“Viếng lăng Bác” (Viễn Phương), giáo viên không thể không hướng dẫn học sinh đọc thêm tập
thơ “Như mây mùa xuân”(Thanh Hải), “Theo chân Bác” (Tố Hữu) và một số tài liệu khác có
liên quan.
9


Thực tế cho thấy rằng nếu không đọc hoặc đọc ít là một hạn chế rất lớn không tránh khỏi
đối với một học sinh giỏi. Đọc nhiều, đọc rộng sẽ phát huy được nhiều mặt tích cực, nhất là ở
những học sinh có ít nhiều năng khiếu văn chương . Việc đọc tác phẩm văn học và các tài liệu
nghiên cứu phê bình văn học là một họat động cực kỳ quan trọng trong yêu cầu của công tác bồi
dưỡng. Giáo viên đặc biệt phải hết sức quan tâm đối với học sinh và phải có cách đôn đốc nhắc
nhở, kiểm tra học sinh để các em có được những kiến thức cần thiết trong quá trình làm bài. Nếu
học sinh chưa có ý thức đọc theo hướng dẫn thì giáo viên bồi dưỡng phải kiên quyết yêu cầu học
sinh đọc. Có kiến thức văn học phong phú, vững vàng là cơ sở và nền tảng đầu tiên để học sinh
viết một bài văn tốt.
c. Giáo viên phải tự lập kế hoạch, tự tìm tòi nội dung và phương pháp bồi dưỡng làm sao
cho có hiệu quả.
Quỹ thời gian bồi dưỡng chính thức vốn không nhiều, điều trước tiên khi bắt tay vào việc
bồi dưỡng chính thức, giáo viên cần tham mưu với chuyên môn nhà trường để sắp xếp thời gian,
lên thời khóa biểu bồi dưỡng một cách khoa học nhất, hiệu quả nhất. Trong các năm qua, ngoài
thời gian quan sát lựa chọn đội tuyển học sinh giỏi, quỹ thời gian (hơn 4 tháng) ngoài các buổi
bồi dưỡng trên lớp, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tài liệu tham khảo, làm các bài tập mà
giáo viên yêu cầu.

Ngay sau khi lên được thời khóa biểu, giáo viên thiết kế nội dung và phương pháp bồi
dưỡng. Có thể nói đây là công đoạn khó nhất, đòi hỏi giáo viên phải có năng lực, kinh nghiệm
và ý thức trách nhiệm cao với công việc thì mới có thể làm được. Bởi nội dung bồi dưỡng không
chỉ là sự khái quát hóa, hệ thống hóa những kiến thức căn bản trong chương trình Ngữ Văn
THCS mà còn có sự mở rộng, nâng cao kiến thức. Kiến thức căn bản là cơ sở cần thiết cho học
sinh giỏi trước khi muốn học và tìm hiểu những kiến thức sâu và rộng hơn. Nhưng vì thời lượng
bồi dưỡng rất hạn chế, giáo viên bồi dưỡng không thể làm việc được tất cả, nên phần ôn tập lại
những kiến thức căn bản đã học ở các lớp dưới thì yêu cầu học sinh phải tự thực hiện. Điều này
không khó đối với một học sinh giỏi. Tuy nhiên, khi giáo viên yêu cầu học sinh tự ôn tập, làm
việc ở nhà thì giáo viên phải có sự kiểm tra một cách chặt chẽ, thường xuyên xem học sinh đã có
ý thức học tập tốt chưa, đã thực hiện và nắm các yêu cầu về kiến thức mà mình dặn dò chưa?
nếu có học sinh chưa thực hiện đầy đủ, còn có những lỗ hổng kiến thức thì giáo viên phải đôn
đốc, nhắc nhở và có biện pháp cần thiết để học sinh làm việc.
10


Mở rộng, nâng cao kiến thức là yêu cầu tối quan trọng của quá trình bồi dưỡng. Khi tiến
hành bồi dưỡng, giáo viên phải hết sức chú ý hướng dẫn học sinh tìm hiểu và thực hành thông
qua một số chuyên đề cụ thể thì mới có hiệu quả. Muốn làm tốt nội dung này, giáo viên phải sưu
tầm được một ngân hàng đề thi học sinh giỏi phong phú, đa dạng: phân tích phép tu từ, cảm thụ
văn học và viết bài văn nghị luận .
Căn cứ vào đó và nội dung chương trình Ngữ văn THCS, tôi chia nội dung bồi dưỡng
làm ba chuyên đề lớn: chuyên đề phân tích phép tu từ, chuyên đề cảm thụ văn học, chuyên đề
tập làm văn. Cụ thể như sau:

Chuyên đề 1: Phân tích phép tu từ:
* Giáo viên kiểm tra và hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức phép tu từ.
Để thực hiện tốt khâu này, giáo viên cần thông báo cho học sinh ôn tập, làm bảng thống kê
các biện pháp tu từ đã được tìm hiểu trong chương trình Ngữ văn THCS, theo mẫu sau
( Phần này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tự ôn tập ở nhà dựa vào kiến thức đã học ở lớp

6,7):
TT Phép tu từ

Đặc điểm

1

đối chiếu sự vật, sự làm tăng sức gợi - So sánh ngang bằng
việc này với sự vật, sự hình, gợi cảm cho - So sánh không ngang

So sánh

Công dụng

việc khác có nét tương sự diễn đạt.

Các kiểu

bằng.

đồng.

2

Nhân hóa

Gọi hoặc tả con vật,
cây cối, đồ vật,…bằng
những từ ngữ vốn được
dùng để gọi hoặc tả con

người.

Làm cho thế giới - Dùng những từ vốn gọi
loài vật, cây cối, đồ người để gọi vật.
vật trở nên gần gũi - Dùng những từ vốn chỉ
với con người, biểu hoạt động, tính chất của
thị được những suy người để chỉ hoạt động,
nghĩ, tình cảm của tính chất của vật
con người.

-Trò chuyện, xưng hô với
vật như đối với người

Gọi tên sự vật, hiện Tăng sức gợi hình, - Ân dụ hình thức
3

Ẩn dụ

tượng này bằng tên sự gợi cảm cho sự diễn - Ân dụ cách thức
11


vật, hiện tượng khác có đạt.

- Ẩn dụ phẩm chất

nét tương đồng với nó.

- Ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác


Gọi tên sự vật, hiện Tăng sức gợi hình, - Lấy bộ phận để gọi cho
tượng này bằng tên sự gợi cảm cho sự diễn toàn bộ
4

Hoán dụ

vật, hiện tượng khác có đạt.

- Lấy vật chứa đựng để

quan hệ gần gũi với nó.

nói vật bị chứa đựng
- Lấy dấu hiệu để gọi vật
có dấu hiệu
- Lấy cái cụ thể để gọi cái

trừu tượng
Cách lặp đi lặp lại một Làm nổi bật ý, gây - Điệp ngữ cách quãng
5

Điệp ngữ

từ, một ngữ hay cả một cảm xúc mạnh

- Điệp ngữ nối tiếp

câu.


- Điệp ngữ chuyển tiếp

(vòng)
Lợi dụng đặc sắc về Tạo sắc thái dí dỏm, - Dùng từ ngữ đồng âm
6

Chơi chữ

âm, về nghĩa của từ hài hước…làm câu - Dùng lối nói trại âm
ngữ.

văn hấp dẫn và thú - Dùng cách điệp âm
vị

- Dùng lối nói lái
- Dùng từ trái nghĩa, đồng
nghĩa, gần nghĩa.

* Giáo viên ra bài tập và hướng dẫn học sinh tìm và phân tích cái hay cái đẹp của các
phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt ( dựa vào kiến thức các em tự ôn tập ở nhà, giáo
viên dành nhiều thời gian ôn tập nội dung kiến thức sau).
Đây là trọng tâm chính của chuyên đề. Đặc trưng của văn chương là nghệ thuật dùng
phương tiện ngôn từ làm phương tiện biểu đạt tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ về
cuộc sống. Chỉ có thể hiểu được một cách đầy đủ và sâu sắc về ý nghĩa của tác phẩm văn học
khi người đọc phát hiện và phân tích được các phương tiện và biện pháp tu từ được người nghệ
sĩ sử dụng trong tác phẩm cụ thể. Sau đây tôi xin trích dẫn một số ví dụ của chuyên đề:
- Phương tiện tu từ từ vựng:
+ Loại từ thi ca (được dùng trong thơ ca Trung đại):
12



Thâm niên kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm đứt đường chim xanh.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
=> Điển tích, điển cố: “lá thắm” biểu thị duyên vợ chồng không hẹn mà nên. “Chim xanh” biểu
thị người đưa tin.
+ Từ Hán Việt:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương ...
( Thăng Long thành hoài cổ - Bà Huyện Thanh Quan)
=> Từ Hán Việt: tạo hóa, hí trường, tinh sương, xe, thu thảo, lâu đài, tịch dương làm cho đoạn
thơ trang trọng, thanh nhã về màu sắc biểu cảm; trang nghiêm, cổ kính về về màu sắc phong
cách.
+ Thành ngữ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non ...
( Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)
=> Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” làm cho câu thơ ngắn gọn, súc tích và có tính hình tượng, tính
biểu cảm cao về cuộc đời và thân phận khổ đau của người phụ nữ xưa.
- Biện pháp tu từ ngữ nghĩa:
+ Ẩn dụ:
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngắt
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh.
( Màu thời gian – Đoàn Phú Tứ)
13



=> Đoạn thơ có sự kết hợp giữa một khái niệm thuộc cảm giác: màu, hương với một khái niệm
trừu tượng: thời gian tạo nên một ẩn dụ tượng trưng về cuộc sống.
+ Nhân hóa và vật hóa kết hợp điệp ngữ:
Khăn nhớ thương ai
Khăn rơi xuống đất?
Khăn nhớ thương ai
Khăn vắt lên vai?
Khăn nhớ thương ai
Khăn chùi nước mắt?
( Cao dao)
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
( Truyện Kiều – Nguyễn Du)
=> “Sầu” là khái niệm chỉ tình cảm con người; “đong” như đong đồ vật nào đó (đong gạo, ...)
cho nên gọi là vật hóa, “khăn” được lặp lại gọi là điệp ngữ, “khăn” biết thương nhớ là nhân hóa.
+ Hoán dụ:

Một bên đèn sách văn chương
Một bên chèo đẩy em thương bên nào
Chữ nghĩa còn đợi giá cao
Quần nâu áo vải chân sào em thương.
(Ca dao)

=> “Đèn sách văn chương” chỉ người thư sinh, “chèo đẩy” chỉ người lái đò, “chữ nghĩa” chỉ
người đi học, “quần nâu áo vải chân sào” chỉ người lái đò. Loại hoán dụ lấy dấu hiệu của sự vật
để gọi tên sự vật.
+ Điệp ngữ:

Áo em thoang thoảng hương cau

Áo em say đắm một màu nhớ thương
Áo em ngày nhớ đêm thương
Áo em chín nhớ mười thương anh chờ.
(Cao dao)
14


=> Sự lặp đi lặp lại hình ảnh “áo em” nhấn mạnh tình cảm đắm say của nhân vật trữ tình “anh”
(điệp ngữ cách quãng).
+ Tăng cấp, liệt kê:
Chao ôi, dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên, khóc như người ta thổ, dì thổ ra
nước mắt.
(Nam Cao)
=> Tiếng khóc của dì Hảo được Nam Cao miêu tả thật ấn tượng qua biện pháp liệt kê, tăng cấp.
+ Chơi chữ:
Chồng chổng chồng chông
Chồng bát chồng đĩa nuôi hông cũng chồng.
(Ca dao)
=> Lời than thở của người phụ nữ về đức ông chồng vô tích sự (điệp âm “ch”)
+ Đảo ngữ:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú.
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.
(Bà huyện Thanh Quan)
=> Đưa vị ngữ lên đầu câu đã miêu tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ vắng vẻ hết sức ấn
tượng.
...vv
Ngay sau khi hướng dẫn học sinh nhận diện phép tu từ, tiếp tục hướng dẫn học sinh thực
hiện viết bài. Trước khi viết bài, giáo viên định hướng yêu cầu của bài viết phân tích phép tu từ
với mô hình TỔNG – PHÂN – HỢP. Để tránh mất thời gian, giáo viên nên ra đề cho học sinh
viết ở nhà. Trong mỗi lần ra đề, giáo viên cần phải giao thời gian cụ thể và kiểm tra, sửa chữa cụ

thể những lỗi chính tả, lỗi dùng từ đặt câu, ... mà học sinh mắc phải.
VÍ DỤ: Phân tích hiệu quả thẩm mỹ của các biện pháp nghệ thuật trong khổ thơ sau:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
15


Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm,
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
(Quê hương-Tế Hanh)
TRẢ LỜI: -Học sinh làm nổi bật được hiệu quả thẩm mỹ của các biện pháp nghệ thuật sau:
- Nghệ thuật ẩn dụ ,nhân hoá.
- Hình ảnh người dân chài được miêu tả vừa chân thực ,vừa lãng mạn và trở nên có tầm vóc phi
thường qua câu: “Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.”
Người lao động làng chài những đứa con của biển khơi:từng trải nước da ngăm nhuộm nắng,
nhuộm gió,thân hình vạm vỡ săn chắc khoẻ mạnh.Những người dân chài họ như những đứa con
của biển cả,thân hình họ như thấm đậm vị mặn mòi của biển cả,họ đem theo hơi thở “xa xăm”
của biển cả trở về.
-Nghệ thuật nhân hoá: hình ảnh chiếc thuyền nằm im trên bến sau khi vật lộn với sóng gió trở
về.Con thuyền cũng giống như người dân chài sau một chuyến ra khơi vật lộn với sóng gió bây
giờ trở về nằm nghỉ ngơi trên bến và nó đang lắng nghe “chất muối” vị mặn mòicủa biển cả
đang lan tỏa trong cơ thể. “Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
- Nghệ thuật ẩn dụ: Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”. (chuyển đổi cảm giác từ cảm nhận
bằng xúc giác sang bằng thính giác)

Chuyên đề 2: Cảm thụ văn học:
* Giáo viên sơ lược về lịch sử văn học Việt Nam.
Bất kì một tác phẩm văn học nào cũng lấy chất liệu từ thực tại cuộc sống thông qua lăng
kính chủ quan của người sáng tạo. Để cảm thụ một cách sâu sắc về văn học, thì nhất thiết phải

hiểu đúng, hiểu rõ về văn học. Nói như vậy có nghĩa là người cảm thụ phải đặt tác phẩm trong
hoàn cảnh phát sinh và môi trường tiếp nhận. Nền văn học Việt Nam được tạo nên bởi hai bộ
phận.
- Văn học dân gian. Dòng văn học này là kết quả của sự đồng sáng tạo của người bình
dân nhằm thể hiện tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, con người, ... (ca dao, dân
ca); đúc rút kinh nghiệm về thiên nhiên, lao động sản xuất cùng cong người và xã hội, ...vv
- Văn học viết. Dòng văn học này có:
16


+ Văn học phong kiến ra đời và phát triển từ thế kỉ X đến hết thể kỉ XIX , được viết bằng
chữ Hán và chữ Nôm. Văn học viết từ thế kỉ X đến hết thể kỉ XIX có bốn giai đoạn, mỗi giai
đọn có một âm hưởng chủ đạo.
. Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV có nội dung chính là khẳng định dân tộc. Ví dụ:
“Tụng giá hoàng kinh sư” (Trần Quang Khải), ... .
. Giai đoạn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XVIII có nội dung chính là ca ngợi cuộc
sống ẩn dật, đề cao thuyết giáo. Ví dụ: “Truyền kì mạn lục” (Nguyễn Dữ), “Côn Sơn ca”
(Nguyễn Trãi), ... .
. Giai đoạn từ nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX có nội dung chính là phê
phán thế lực phong kiến và khẳng định quyền sống của con người. Ví dụ: “Sau phút chia ly”
(Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn), “Bánh trôi nước “ (Hồ Xuân Hương), “Truyện Kiều”
(Nguyễn Du), ...
. Giai đoạn từ nửa cuối thế kỉ XIX có nội dung chính là đã kích cái lố lăng hủ bại đương
thời và cổ vũ tinh thần yêu nước chống ngoại xâm. Ví dụ: các sáng tác của Nguyễn Khuyến và
Nguyễn Đình Chiểu, ...
+ Văn học Việt Nam hiện đại, gồm có:
. Thơ văn hai mươi năm đầu của thế kỉ XX là những sáng tác thể hiện tinh thần bất khuất,
ý chí chiến đấu son sắt của những nhà Nho, sĩ phu yêu nước bị bắt giam trong nhà tù thực dân
Pháp: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, ...
. Văn học giai đoạn từ 1932 đến 1945 gồm có nhiều khuynh hướng trào lưu: văn học hiện

thực phê phán có “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn, “Đồng hào có ma” của Nguyễn
Công Hoan, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Lão Hạc” của Nam Cao,... Phong trào thơ Mới có
“Nhớ rừng” của Thế Lữ, “Ông đồ” của Vũ đình Liên, ...thơ văn của những chiến sĩ cách mạng ở
trong tù có “Khi con tu hú” của Tố Hữu, “Lấy củi” của Sóng Hồng, “Nhật kí trong tù” của Hồ
Chí Minh, ...
. Văn học từ sau cách mạng tháng Tám đến năm 1975. Thời kì này lại được chia ra nhiều
giai đoạn. Văn học chống Pháp (1946 – 1954) có “Đồng chí” của Chính Hữu”, “Làng” của Kim
Lân, ...; văn học xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc ( 1955 – 1964) có “Đoàn thuyền đánh
cá” của Huy Cận, ...; văn học chống Mĩ (1965 – 1975) có “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
17


của Phạm Tiến Duật, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm,
“Bếp lửa” của Bằng Việt, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, “Lặng lẽ SaPa” của
Nguyễn Thành Long, “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê,...
. Văn học sau năm 1975 phát triển trong một hoàn cảnh mới nên cũng có sự thay đổi về
đề tài, chủ đề, hình thức thể hiện. Văn học sau năm 1975 tập trung thể hiện con người trong đời
sống hằng ngày, trong lao động và sinh hoạt, trong đời sống riêng chung... nên có thêm chiều
sâu về tư tưởng như: “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải,
“Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, “Sang thu” của Hữu Thỉnh, ...
* Ngoài những tác phẩm trong chương trình, giáo viên nên chủ động cung cấp và
hướng dẫn học sinh tìm hiểu thêm một số câu, đoạn, bài thơ – văn hay giúp học sinh vừa
có thêm tư liệu văn học và hiểu được cái hay của văn chương, vừa tạo chất văn cho bài
viết.
Đặc trưng của văn chương là nhận thức và tái hiện cuộc sống bằng hình tượng. Để hiểu
được ý nghĩa của văn chương, ngoài trí tuệ thì người đọc cần phải phát huy cao độ trí
tưởng tượng sáng tạo, suy nghĩ, cảm xúc bằng hình tượng.
Ví dụ:
1) Cối xay tre, nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc.
(Cây tre Việt Nam – Thép Mới)

=> Bằng việc dùng dấu phẩy tác giả không chỉ tạo cho câu văn có nhạc điệu mà còn thể hiện
được cái nhọc nhằn cơ cực trong vòng quay đều đặn, nhẫn nại của cối xay, của chính nhịp lao
động nặng nhọc, nhẫn nại của người nông dân.
2) “...Ông Giáo nói phải! Kiếp chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó làm kiếp người, may
ra nó sung sướng hơn một chút ... Kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!...”
(Lão Hạc – Nam Cao)
=> Với việc dùng dấu cảm thán và đặc biệt là dùng dấu chấm lửng trong câu văn có tác dụng
như một phép lặng tu từ. Dấu chấm lửng diễn tả được tâm trạng ngập ngừng, nghẹn ngào đau
xót khi lão Hạc nói về cuộc sống của lão.
3)

Đến nay tháng sáu
18


Chợt nghe tin nhà
Ra thế
Lượm ơi!

(Lượm – Tố Hữu)

=> Câu thơ thứ ba được ngắt làm đôi làm hai dòng đã thể hiện được sự bàng hoàng, nghẹn ngào,
đau đớn tột cùng của nhà thơ khi hay tin Lượm hi sinh.
4)

Ngày em mở cửa ra
Một trời xanh vẫy đợi
Cánh buồm là tiếng gọi
Mặt biển và dòng sông
Nắng vườn trưa mênh mông

Bướm bay như lời hát
Con tàu là đất nước
Đưa ta đến bến xa.
(Ngày em vào đội - Xuân Quỳnh)

=> Cái thành công của bài thơ là sử dụng một hệ thống hình ảnh có tính biểu tượng.
+ Các hình ảnh: trời xanh, mặt biển, dòng sông không chỉ gợi tả khung cảnh thiên nhiên khoáng
đạt, tươi đẹp mà còn thể hiện được một tương lai tươi đẹp đang vẫy gọi đang chờ đợi nhân vật
trữ tình “em”
+ Các hình ảnh động và đẹp: cánh buồm, bướm bay, con tàu cùng với các hình ảnh kêu gọi: vẫy
đợi, tiếng gọi, đất nước bến xa có ý nghĩa như một lời vẫy gọi, khích lệ “em” đến với chân trời
tươi đẹp, đầy mơ ước
...vv
* Bên cạnh đó, giáo viên cung cấp cho học sinh và yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép
những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu
lý luận phê bình văn học nhằm hỗ trợ cho việc cảm nhận văn học được dễ dàng hơn.
Ví dụ:
- Đọc là để cho tâm hồn viễn du qua các tuyệt phẩm.
( A. France)
19


- Cảm hứng là sức mạnh của tâm hồn tự thể hiện trong chính nó, là nội dung chủ yếu của lý tính
và ý chí tự do.
( Hegel)
- Nghệ thuật không chỉ nhận thức cuộc sống, mà nó còn là câu hỏi và câu trả lời về cuộc sống.
(Belinxki)
- Câu tuy ngắn nhưng ý thì dài, lời tuy gần nhưng nghĩa lại xa.
(Nguyễn Dữ)
- Trong tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng và hình thức phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như

là tâm hồn và thể xác, nếu hủy diệt hình thức thì cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và ngược lại
cũng vậy. (Belinxki)
- Nhân vật sẽ là có tính cách, nếu trong lời nói và hành động bộc lộ một khuynh hướng ý chí nào
đó, bất kể nó tốt xấu thế nào.
(Arittốt)
- Nhà văn là người cho máu. Nhà văn là thư kí trung thành của thời đại.
(Elsa Troilet)
- Văn chương chẳng là gì nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là điểm xuất phát và cũng là
đích đến của văn học.
(Tố Hữu)
- Cuộc sống là mảnh đất màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi”
( PusKin)
- Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm.
(L. Tônxtôi)
- Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật
( Biêlinxki)
- Văn chương không dung nạp những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đem cho,
mà chỉ dung nạp những người biết khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa
có.
(Nam Cao)
- Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn
học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của chặng đời sống con người ta trên con đường dài dằng
dặc đi tìm cõi hòan thiện.
20


(Nguyễn Minh Châu)
- Nghệ sĩ là con người biết khai thác ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy trong những ấn
tượng đó cái giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có được hình thức riêng”
( M. Gorki)


Chuyên đề 3: Tập làm văn:
Căn cứ vào nội dung, tính chất đề thi học sinh giỏi các năm, phần tập làm văn chiếm tỉ lệ
điểm cao nhất trong thang điểm của đáp án chấm thi học sinh giỏi (khoảng 50 -60%). Điều đó
cho thấy rằng phần tập làm văn là phần quan trọng nhất, là thước đo chuẩn mực, là tiêu chí tin
cậy để đánh giá một cách khách quan nhất, chính xác và thuyết phục nhất về năng lực cảm thụ,
sự tích luỹ kiến thức văn học, về trình độ nhận thức và khả năng trình bày một vấn đề của học
sinh giỏi. Vì thế trong quá trình bồi dưỡng giáo viên phải chú ý thỏa đáng phần này. Trong
chuyên đề này, tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu các nội dung như sau:
* Giáo viên cung cấp cho học sinh các dạng đề văn thường gặp nhằm giúp học sinh viết
đúng yêu cầu về phạm vi nội dung và yêu cầu về hình thức thể hiện của một bài văn cụ thể.
Loại đề
Tự sự

Phạm vi và nội dung cần làm rõ
- Kể chuyện đời thường

Hình thức thao tác, thể hiện
- Hư cấu, liên tưởng, tưởng

- Kể chuyện tưởng tượng
- Thuyết minh về cây cối

tượng và đóng vai

- Thuyết minh về đồ vật
- Thuyết minh về một loài vật
Thuyết minh

- Giải thích


- Thuyết minh về một danh lam thắng - Trình bày
cảnh

- Giới thiệu

- Thuyết minh về một phương pháp (cách
làm)
- Một vấn đề đạo đức nhân sinh
- Một vấn đề chính trị

- Chứng minh

Nghị luận

- Một vấn đề văn hóa tư tưởng

- Giải thích

Xã hội

- Một vấn đề kinh tế

- Bình luận

- Một vấn đề lịch sử

- So sánh, đối chiếu

Nghị luận


- Một vấn đề địa lý, môi trường
- Phân tích một bài thơ

- Phân tích

Văn học

- Phân tích một đoạn thơ

- Giải thích
21


- Phân tích một hình ảnh hay một hình
tượng
- Phân tích nhân vật
- Phân tích một tác phẩm truyện hoặc một
đoạn trích

- Chứng minh
- Bình luận
- So sánh, đối chiếu

- Phân tích tổng hợp
* Giáo viên cụ thể hóa khung đề cương cho bài văn nhằm giúp học sinh trình bày bài
văn có bố cục cân đối, mạch lạc, chặt chẽ.
Có thể nói một bài văn hay, có chất lượng thì không thể không có một đề cương, một dàn
ý. Ngay cả những nhà văn tài năng luôn phải có đề cương trước khi viết. Có đề cương giúp các
em viết bài được thoải mái, dễ dàng, linh hoạt và phát huy tốt yếu tố cảm xúc cũng như mạch

văn theo đúng yêu cầu của đề. Vì vậy, dù là dạng văn nào thì các em cũng phải nắm chắc dàn ý
cơ bản sau:
Mở bài: Nêu khái quát vấn đề của bài viết. Vấn đề đó sẽ được lý giải cụ thể trong phần
thân bài.
Thân bài: Nêu các nội dung lớn để triển khai làm rõ vấn đề đã nêu khái quát ở mở bài.
Kết bài: Nêu ý khái quát từ các ý đã trình bày trong bài.
Từ đó, giáo viện hướng dẫn học sinh làm lập dàn ý qua một số đề bài cụ thể.
* Giáo viên cung cấp cho học sinh một số quy tắc tìm luận cứ.
- Quy tắc tìm dẫn chứng:
Ai, cái gì ? + Mặt nào? + Lúc nào? + Ở đâu?
Ví dụ:
Nhân vật chị Dậu trong hai đoạn trích “Con có thương thầy thương u”, “Tức nước vỡ
bờ” (Trích tiểu thuyết “Tắt đèn” - Ngô Tất Tố) là tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn truyền thống
của người phụ nữ Việt Nam. Em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Áp dụng quy tắc trên, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm dẫn chứng cho đề bài trên:
Vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật chị Dậu được thể hiện ở những mặt nào? (đảm đang, tháo vát;
thương yêu chồng con; sức sống mạnh mẽ tiềm tàng…)
22


Mỗi vẻ đẹp tâm hồn trên của nhân vật thể hiện lúc nào, ở đâu? ( khi chạy vạy ngược xuôi kiếm
tiền cứu anh Dậu: dẫn chứng…; khi phải bán cái Tí: dẫn chứng… ; Khi đối phó với tên cai lệ và
người nhà lí trưởng: dẫn chứng …)
- Quy tắc tìm lí lẽ:
Thế nào? + Tại sao? + Cảm xúc suy nghĩ?
Ví dụ:
Em hiểu như thế nào về câu tục ngữ: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Áp dụng quy tắc trên, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm tìm lí lẽ:
“Ăn quả và kẻ trồng cây” có nghĩa đen và nghĩa bóng như thế nào? (nghĩa đen: Ăn quả: ăn
những trái cây chín, thơm, ngọt, bùi; kẻ trồng cây: người trồng, vun xới, chăm bón cây, trái.

Nghĩa bóng: hưởng thụ thành quả của những người đi trước đã tạo ra)
Tại sao ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây? ( thể hiện được truyền thống đạo lí tốt đẹp của cha ông
ta và là nền tảng để hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người; mọi thành quả
không tự nhiên mà có…)
Nhớ kẻ trồng cây, ta phải làm như thế nào? (có những hành động và việc làm đúng đắn với
những người đã tạo ra thành quả: ông bà, tổ tiên, cha mẹ, người nông dân, người công nhân,
thầy cô, các anh hùng liệt sĩ…)
Em có cảm xúc, suy nghĩ gì về lời dạy của câu tục ngữ trên? …
* Giáo viên tập trung phần lớn thời gian cho dạng văn nghị luận
Kiểu bài văn nghị luận là đơn vị kiến thức khá trọng tâm trong chương trình tập làm
văn lớp 9. Nghị luận trong chương trình ngữ văn 9 có hai loại :
- Nghị luận xã hội.
- Nghị luận văn học.
+ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI:

- Nghị luận về tư tưởng đạo lí
Đề tài:
- Về nhận thức (lí tưởng, mục đích sống, mục đích học tập...).

23


- Về tâm hồn, tính cách (lòng yêu nước, lòng nhân ái, lòng vị tha, thái độ vô cảm, lòng
bao dung, lòng độ lượng; tính trung thực, tính cương quyết, tính hoà nhã, tính khiêm tốn, tính
ích kỉ, tình thương và hạnh phúc...).
- Về quan hệ gia đình (tình mẫu tử, tình anh em...).
- Về quan hệ xã hội (tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn, tình yêu quê hương đất
nước...).
Dàn ý lí thuyết nghị luận tư tưởng đạo lí:
a. Mở bài : Gợi – Đưa- Báo

Gợi : Là gợi ý ra vấn đề cần nghị luận.
Đưa : Sau khi gợi là đưa vấn đề nghị luận ra.
Báo : Báo là phải làm gì về vấn đề đưa ra nghị luận (Có tính chuyển ý )
b. Thân bài : Giải – Phân – Bác – Đánh.
Giải: Giải thích các tư tưởng đạo lí tác động đến hoàn cảnh xung quanh, giải
thích từ , giải thích khái niệm.
Phân : Phân tích các mặt đúng của nội dung tư tưởng đạo lí (Dùng luận cứ
từ cuộc sống và xã hội để chứng minh).
Bác : Bác bỏ những biểu hiện sai lệch liên quan đến tư tưởng đạo lí ( dùng
dẫn chứng từ trong cuộc sống và văn học để chứng minh)
Đánh : Đánh giá ý ngĩa tư tưởng, đạo lí đã nghị luận.
c. Kết bài : Tóm – Rút – Phấn
Tóm: Tóm tắt, khái quát vấn đề nghị luận.
Rút : Rút ra ý nghĩa , từ bài học hiện tượng đời sống.
Phấn : Phấn đấu, bày tỏ thái độ của bản thân về hiện tượng đời sống đã nghị
luận.
Một số đề tham khảo .
- Đề 1:Suy nghĩ về thái độ vô cảm của giới trẻ hiện nay.
- Đề 2: Em có cảm nhận gì về lòng nhân ái.
- Đề 3 : Suy nghĩ của em về câu thơ “ Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn” ( Một khúc
ca – Tố Hữu)
- Đề 4 : Tình thương là hạnh phúc của con người.
- Đề 5 : Em có suy nghĩ về lòng trung thực.
24


- Đề 6 : “Nơi lạnh nhất không phải là bắc cực mà là nơi không có tình yêu
thương”, em cảm nhận câu này như thế nào ?
- Đề 7 : Thất bại là mẹ thành công.
Ví dụ:

Đề 1: Trong buổi giao lưu, trò chuyện với các thủ khoa tốt nghiệp xuất sắc của các trường
đại học, học viện tại Hà Nội, Giáo sư Ngô Bảo Châu đã chia sẻ:
“Tôi luôn tin rằng, trong mỗi thất bại luôn có mầm mống của sự thành công”.
Trình bày suy nghĩ của em về quan niệm trên.
Gợi ý: 1. Giải thích
+ Thất bại nghĩa là không đạt được kết quả, mục đích như dự định.
+ Thành công là đạt được kết quả, mục đích như dự định.
+ Mầm mống được hiểu là những dấu hiệu, là bài học kinh nghiệm bổ ích mà ta nhận ra được từ
sự thất bại đó, làm cơ sở giúp ta giành được thành công.
Đây là quan niệm sống tích cực, thể hiện niềm lạc quan, sự dũng cảm đối mặt với khó khăn
thách thức cửa cuộc sống.
2. Bàn luận
- Chứng minh tính đúng đắn: Trong cuộc sống, mỗi người đều có những thành công nhưng cũng
có khi thất bại. Sự thất bại do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhiều mức độ khác nhau song đều
làm cho chúng ta không đạt được kết quả tốt đẹp (học sinh lấy dẫn chứng trong các lĩnh vực của
cuộc sống để chứng minh, bình luận)
- Nếu gục ngã, buông xuôi trước một thất bại thì con người sẽ trở thành hèn yếu, thiếu ý chí,
thiếu nghị lực và khó có thể đi tới thành công.
- Nhưng nếu thất bại mà không tìm hiểu rõ nguyên nhân, không đúc rút được kinh nghiệm và
không có giải pháp khắc phục thì ta lại tiếp tục gặp phải những thất bại nặng nề khác.(dẫn chứng)
3. Giải pháp
- Con người cần cố gắng rèn luyện, sáng tạo, chuẩn bị chu đáo trước khi thực hiện bất cứ một
công việc nào để có được những thành công cho mình và cho xã hội.
- Biết chấp nhận thất bại và đúc rút kinh nghiệm
- Phê phán những người thiếu niềm tin, thiếu động lực vươn lên sau mỗi lần thất bại.

25



×