Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

“Đánh giá được thực trạng và các yếu tố liên quan đến loãng xương ở người 40 tuổi trở lên tại Thành phố Vinh và đề xuất được giải pháp can thiệp hiệu quả”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.49 MB, 63 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, loãng xương (LX) và hậu quả của loãng xương
đã trở thành vấn đề sức khỏe cộng đồng ngày càng được nhiều tác giả trong
nước và ngoài nước quan tâm [3]. Loãng xương được đặc trưng bởi sự giảm
khối lượng xương và tổn thương vi cấu trúc của tổ chức xương, gây hậu quả
làm xương giảm độ chắc và dễ gãy. Trên thế giới, có khoảng 200 triệu người bị
loãng xương, tại Châu Âu cứ 30 giây lại có một người bị gẫy xương do loãng
xương và tại Hoa Kỳ có khoảng 1,3 triệu người gẫy cổ xương đùi do loãng
xương. Tại Việt Nam, ước tính số người gẫy cổ xương đùi do LX đến năm
2010 là 26.000 và đến năm 2030 sẽ là 41.000 người [18],[51],[43].
Loãng xương làm giảm năng suất lao động, do đó gây ảnh hưởng gián
tiếp tới nền kinh tế. Ngày nay nhờ một số phương pháp đo mật độ xương,
người ta có thể đánh giá chính xác khối lượng xương, chỉ ra mức độ loãng
xương, theo dõi tiến triển của bệnh và phát hiện sớm các đối tượng có nguy cơ
nhằm phòng ngừa, điều trị sớm tránh được các biến chứng của loãng xương
(như gãy xương, biến dạng cột sống…), giảm được tỉ lệ tử vong do loãng
xương.
Loãng xương chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: tuổi, giới, hormon,
chế độ sinh hoạt, luyện tập, chiều cao, cân nặng của mỗi cá thể, một số thuốc,
đặc biệt phụ nữ tuổi mạn kinh. Loãng xương sau mãn kinh là mất xương ở
xương xốp, gãy lún các đốt sống, đầu dưới xương quay, xuất hiện trong vòng
15- 20 năm sau mãn kinh. Hiện nay trên thế giới, có khoảng 50% phụ nữ trên
50 tuổi bị loãng xuơng, 40% phụ trên 70 tuổi bị gãy xương do loãng xương.
Trong những năm gần đây, loãng xương (LX) và hậu quả của loãng xương
đã trở thành vấn đề sức khỏe cộng đồng ngày càng được nhiều tác giả trong
nước và ngoài nước quan tâm. Ở Nghệ An chưa có công trình nghiên cứu nào
đề cập đến vấn đề loãng xương ở phụ nữ sau tuổi mãn kinh.

1



Phòng khám bệnh Đa khoa Trường Đại học Y khoa Vinh được thành lập
năm 2008 với chức năng: nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, rèn luyện kỹ
năng thực hành và giao tiếp cho cán bộ giáo viên - học sinh - sinh viên, nghiên
cứu khoa học, ứng dụng triển khai kỹ thuật y học mới, khám chữa bệnh cho
nhân dân. Với mong muốn góp phần vào công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng
cao sức khoẻ nhân dân tỉnh nhà, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu chỉ số T-score mật độ xương gót và một số yếu tố liên quan
ở phụ nữ trên 50 tuổi tại Phòng khám bệnh Đa khoa Trường Đại học Y khoa
Vinh
Nhằm 2 mục tiêu:
1. Đánh giá chỉ số T- score mật độ xương gót qua máy đo loãng xương siêu âm
Sonos 3000 ở phụ nữ trên 50 tuổi tại Phòng khám bệnh Đa khoa Trường Đại
học Y khoa Vinh.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến mật độ xương ở phụ nữ trên 50 tuổi tại
Phòng khám bệnh Đa khoa Trường Đại học Y khoa Vinh.

2


Chương 1
TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
1.1. Bệnh loãng xương.
1.1.1. Định nghĩa loãng xương
Khái niệm về loãng xương (LX) đã được nhắc đến từ nửa đầu thế kỷ 18
bởi một nhà giải phẫu học J. Martin Lostein người Pháp. Năm 1930-1940,
Albright và cộng sự tổng kết các kết quả của nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng:
Loãng xương là sự calci hóa không đầy đủ ở khung xương. Sau đó nhờ sự tiến
bộ trong kỹ thuật thăm dò hình thái và tổ chức học của xương, các công trình
nghiên cứu của Bordier và Meunier đưa ra định nghĩa: LX là sự giảm toàn bộ
khối lượng xương [47],[27].

Năm 2001 tổ chức y tế thế giới (WHO) đã thống nhất đưa ra định nghĩa
LX như sau: LX được đặc trưng bởi sự thay đổi sức mạnh của xương. Sức
mạnh này được đặc trưng bởi mật độ xương và chất lượng của xương. Chất
lượng xương được đánh giá bởi các thông số: cấu trúc của xương, chu chuyển
xương, độ khoáng hóa, tổn thương tích lũy, tính chất của các chất cơ bản của
xương [16].
Theo WHO 1994, LX được xác định dựa trên mật độ chất khoáng của
xương (BMD - Bone Mineral Density) theo chỉ số T- score như sau: T- score
của một cá thể là chỉ số mật độ xương (BMD) của các cá thể đó so với BMD
của nhóm người trẻ tuổi làm chứng. Trên cơ sở đó, có các giá trị của BMD như
sau:
- BMD bình thường: T- score ≥ -1: tức là BMD của đối tượng bằng và trên
-1 độ lệch chuẩn (ecart-type) so với giá trị trung bình của người trưởng thành
trẻ tuổi.

3


- Giảm mật độ xương: -1> T- score> -2,5: khi BMD từ -1 đến -2,5 độ lệch
chuẩn so với giá trị trung bình của người trưởng thành trẻ tuổi.
- LX: T- score ≤ -2,5: khi BMD bằng và dưới ngưỡng cố định là -2,5 độ
lệch chuẩn so với giá trị trung bình của người trưởng thành trẻ tuổi, tại bất cứ vị
trí nào của xương.
- LX nặng: T- score ≤ -2,5 và có một hoặc nhiều gẫy xương.
1.1.2. Phân loại loãng xương
Theo nguyên nhân, LX được chia làm hai loại là: LX nguyên phát và LX thứ
phát.
* LX nguyên phát
- LX nguyên phát là loại LX không tìm thấy căn nguyên nào khác ngoài
tuổi tác và / hoặc tình trạng mãn kinh ở phụ nữ. Nguyên nhân do quá trình lão

hóa của tạo cốt bào, làm xuất hiện tình trạng mất cân bằng giữa hủy xương và
tạo xương, gây nên thiểu sản xương.
- LX nguyên phát được chia làm hai loại:
+ LX type I (hoặc sau mãn kinh): nguyên nhân là do sự giảm estrogen.
Loại này thường gặp ở phụ nữ khoảng từ 50 đến 60 tuổi, đã mãn kinh. Tổn
thương chủ yếu là mất chất khoáng ở xương xốp (xương bè), biểu hiện bằng sự
lún các đốt sống hoặc gãy xương Pouteau-Colles. LX nhóm này thường xuất
hiện sau mãn kinh từ 5 đến 15 năm. Nguyên nhân của LX type I, ngoài sự thiếu
estrogen ra, còn có sự giảm tiết hormon cận giáp trạng, tăng thải calci qua nước
tiểu, suy giảm hoạt động enzym 25-OH-Vitamin D1α hydroxylase.
+ LX type II (hoặc LX tuổi già): liên quan tuổi và sự mất cân bằng tạo
xương. Loại này cả ở nam và nữ trên 70 tuổi. Mất chất khoáng toàn thể cả
xương xốp (xương bè) và xương đặc (xương vỏ). Biểu hiện chủ yếu là gãy cổ
xương đùi, xuất hiện muộn thường sau 75 tuổi. Loại LX này liên quan tới hai

4


yếu tố quan trọng là: giảm hấp thu calci, giảm chức năng tạo cốt bào dẫn tới
cường cận giáp thứ phát.
- LX thứ phát.
+ LX thứ phát là loại LX tìm thấy nguyên nhân do một số bệnh hoặc một
số thuốc gây nên như: suy sinh dục, cường vỏ thượng thận, dùng nội tiết tố vỏ
thượng thận kéo dài, cường cận giáp, cường giáp, rối loạn hấp thu, thiếu calci,
bất động dài ngày, điều trị bằng Heparin kéo dài.
1.1.3. Cấu trúc xương và cơ chế bệnh sinh loãng xương.
* Cấu trúc xương.
- Xương là một mô liên kết đặc biệt bao gồm các tế bào xương và chất căn
bản (bone matrix).
- Chất căn bản của mô xương bao gồm các sợi collagen và các mô liên kết

khác giàu chất glucoaminoglycin, chất căn bản có thể trở thành calci hóa. Mô
xương có xương đặc và xương xốp. Xương đặc được calci hóa 80-90% khối
lượng xương, xương xốp được calci hóa 15-25% khối lượng xương. Xương đặc
có chức năng bảo vệ còn xương xốp có chức năng chuyển hoá.
- Các tế bào xương bao gồm:
+ Hủy cốt bào: là tế bào khổng lồ đa nhân, có nhiệm vụ tiêu xương.
+ Tạo cốt bào: là tế bào có nhân hình thoi, có nhiệm vụ sản sinh ra các
thành phần của nền xương(các sợi collagen và các chất nền), có vai trò quan
trọng trong quá trình calci hóa.
+ Quá trình tạo xương (bone formation) và hủy xương (bone resorption)
diễn ra theo cơ chế thay xương cũ bằng xương mới. Bình thường hai quá trình
này được duy trì một cách cân bằng cho đến khoảng 40 tuổi, từ tuổi này trở lên
hủy cốt bào hoạt động quá mức, hủy xương cao hơn tạo xương dẫn đến giảm

5


khối lượng xương theo thời gian, đặc biệt ở giai đoạn mạn kinh gây nên tình
trạng LX.

* Sinh bệnh học của loãng xương.
Mất chất khoáng tăng dần theo tuổi là một hiện tượng sinh lý bình thường,
khi bị tăng quá mức sẽ trở thành LX, Các nghiên cứu tế bào học cho phép chỉ
ra mức độ thưa xương sinh lý có khác nhau giữa hai giới nam và nữ. Ở nam
giới, khối lượng xương bè giảm dần một cách đều đặn, gần 27% trong khoảng
thời gian từ 20-80 tuổi. Nữ giới mất xương nhiều hơn (gần 40% trong khoảng
thời gian đó) với một sự gia tăng nhanh trong vòng 20 năm sau mạn kinh. Tuy
nhiên, đó là một hiện tượng bình thường, việc một người có khối lượng xương
ở tuổi 60 thấp hơn ở tuổi 20 không có nghĩa là người đó bị LX. LX xuất hiện
khi thưa xương trở nên quá mức, khiến bộ xương không chịu nổi sức ép cơ học,

khi đó có thể xuất hiện gãy xương.
LX theo tuổi tác là do sự giảm hoạt động của tạo cốt bào dẫn đến giảm sự
tạo xương. Ngoài ra, ở người có tuổi còn có sự giảm hấp thu calci ở cả hai giới,
thường do thiếu calci trong chế độ ăn, giảm tổng hợp vitamin D tại da và sự sai
lạc tổng hợp 1-25 dihydroxy cholecalciferon (do giảm hoạt động của 1αhydroxylase tại thận). Các yếu tố này dẫn đến sự tăng tiết hormon cận giáp
trạng (cường cận giáp trạng thứ phát), gây thiểu năng xương.
* Một số yếu tố có thể tham gia vào cơ chế gây LX.
- Yếu tố cơ học: bất động kéo dài trên 6 tháng, hoặc các nhà du hành vũ
trụ khi ở trạng thái không trọng lượng.
- Yếu tố di truyền: người da đen ít bị LX hơn người da trắng; người gầy và
cao hay bị LX hơn; một số LX có tính chất gia đình. Gần đây một số nghiên
cứu dù chưa thống nhất, đã phân lập được gen cấu tạo cơ quan cảm thụ của 16


25 dihydrovitamin D3 (VDR). Các phân tích trên các cặp sinh đôi cũng cho
thấy các phụ nữ mang đồng hợp tử trội BB có mật độ xương thấp hơn loại đồng
hợp tử lặn bb; còn loại dị hợp tử có mật độ xương trung gian giữa hai loại trên.
- Yếu tố chuyển hóa: thiếu calci hoặc vitamin D và khả năng giảm tạo
1-25 dihydrovitamin D ở người lớn tuổi là vấn đề đang được tranh cãi.
- Yếu tố hormon: tăng tiết hormon cận giáp trạng hoặc corticoid vỏ
thượng thận có thể dẫn đến LX thứ phát, giảm tiết estrogen đóng vai trò quan
trọng trong LX: sau mãn kinh, các trường hợp cắt buồng trứng trước 45 tuổi,
mãn kinh sớm (thời gian có kinh dưới 35 năm). LX nam giới do giảm
testosterol máu ngoại vi, giảm prolactin máu.
- Do thuốc: sử dụng glucocorticoid, heparin kéo dài.
- Các yếu tố khác: hút thuốc lá, uống nhiều rượu ít hoạt động thể lực, chế
độ ăn ít calci (dưới 800mg/ngày) trước 20 tuổi, thiếu vitaminD…
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới mật độ xương.
- Tuổi: tuổi càng cao mật độ xương càng giảm. Ở người già có sự mất cân
bằng giữa tạo xương và hủy xương. Chức năng của tạo cốt bào bị suy giảm là

một nguyên nhân dẫn tới tình trạng mất xương ở tuổi già. Một nguyên nhân thứ
hai dẫn tới sự mất xương ở người già là sự suy giảm hấp thu Calci ở ruột và sự
giảm tái hấp thu calci ở ống thận. Tham gia vào quá trình hấp thu calci ở ruột
có vai trò của 1-25 dihydroxy cholecalciferon (tiền chất của 1-25 hydroxy
cholecalciferon) trong máu cũng giảm do chế độ dinh dưỡng, do giảm tiếp xúc
với ánh sáng mặt trời [47].
- Estrogen: năm 1940 Albright là người đầu tiên đã tìm thấy được mối liên
hệ giữa LX và giảm chức năng của buồng trứng ở phụ nữ. Sau đó nhiều kết quả
nghiên cứu đã khẳng định kết luận của Albright. Mặc dù mất xương là hiện
tượng sinh lý xuất hiện sau tuổi 40 ở cả hai giới, song rõ ràng tốc độ mất xương
ở cả nam và nữ là hoàn toàn khác nhau. Ở tuổi 70 có tới 50% phụ nữ sau mãn
7


kinh có biểu hiện mất xương trong khi ở nam giới chỉ có 25% có biểu hiện mất
xương ở độ tuổi 80 [47]. Sự mất xương ở nữ xuất hiện sớm hơn từ 15-20 năm
so với nam giới là hậu quả của sự suy giảm chức năng buồng trứng một cách
nhanh chóng [42]. Như vậy, mãn kinh chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự
khác biệt giữa nguy cơ LX ở nam và nữ. Có thể nói estrogen có vai trò quan
trọng trong việc duy trì khối lượng xương.
- Yếu tố dinh dưỡng: dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng của bộ
xương. Chế độ ăn không đầy đủ calci sẽ ảnh hưởng đến sự đạt được đỉnh cao
của khối xương và sự mất xương sau này. Một nghiên cứu được tiến hành trên
200 phụ nữ Trung Quốc 57 tuổi và được bổ sung 2 ly sữa giàu calci mỗi ngày,
kết quả cho thấy ở nhóm nghiên cứu uống sữa có tốc độ mất xương chậm hơn
rõ rệt so với nhóm không uống sữa [39].
- Yếu tố cân nặng: ở những phụ nữ nhẹ cân sự mất xương xảy ra nhanh
hơn và tần suất gãy cổ xương đùi và xẹp đốt sống do LX cao hơn [28]. Ngược
lại cân nặng cao là một yếu tố bảo vệ cơ thể khỏi tình trạng mất xương thông
qua việc tăng tạo xương và tăng chuyển hóa androgen của tuyến thượng thận

thành estron ở mô mỡ.
- Yếu tố chiều cao: những người có tầm vóc nhỏ có khối lượng xương
thấp hơn nên dễ có nguy cơ LX.
- Yếu tố vận động: Sự giảm vận động ở những người lớn tuổi cũng là yếu tố
nguy cơ dẫn đến sự mất xương. Sự vận động của các cơ kích thích sự tạo xương
và tăng khối lượng xương. Ngược lại, sự giảm vận động dẫn tới mất xương
nhanh [29].
- Các yếu tố khác: sử dụng một số thuốc: glucocorticoid, heparin…, di
truyền, uống rượu, hút thuốc lá, tình trạng sinh đẻ đều có ảnh hưởng tới LX.

8


- Các bệnh lý ảnh hưởng tới LX: cường giáp, cường cận giáp, cushing, đái
tháo đường, sau cắt dạ dày, ruột, rối loạn tiêu hóa kéo dài, suy thận, xơ gan, suy
giáp, viêm khớp mạn tính.
1.1.5. Triệu chứng học của LX.
Hầu hết các tác giả khẳng định rằng tình trạng LX thường tiến triển thầm
lặng trong một thời gian dài mà không gây một triệu chứng nào. Trong nhiều
trường hợp biểu hiện đầu tiên của LX lại là gãy xương [27],[26].
Trên thực tế, triệu chứng cơ năng đầu tiên của LX có thể liên quan đến
quá trình xẹp đốt sống hoặc gãy xương ngoại vi. Với những biểu hiện: đau
lưng, giảm chiều cao, biến dạng cột sống, đau chói do gãy xương cột sống và
một số vị trí khác. Theo Riggs, triệu chứng thường gặp nhất trong LX là đau
cột sống gây nên do tình trạng lún, xẹp các đốt sống .
- Trường hợp đau cột sống do xẹp các đốt sống cấp tính: thường xuất hiện
tự nhiên hoặc liên quan đến gắng sức hoặc chấn thương nhỏ. Biểu hiện bằng
đau cột sống cấp tính, khởi phát đột ngột không lan, không có triệu chứng chèn
ép thần kinh kèm theo. Đau giảm rõ rệt khi nằm và giảm dần rồi biến mất trong
vài tuần. Đau xuất hiện khi có một đốt sống mới bị xẹp, hoặc đốt sống ban đầu

bị xẹp nặng thêm.
- Trường hợp đã có biến dạng cột sống: biểu hiện thông thường hơn của
LX là đau lưng mạn tính, âm ỉ, kéo dài, với kiểu đau cơ học, rất khó xác định
thời điểm đầu tiên xuất hiện triệu chứng. Đau lưng mạn tính là hậu quả của rối
loạn tư thế cột sống. Dần dần bệnh nhân gặp nhiều đợt đau mới trên nền đau
cột sống mạn tính. Và theo thời gian, bệnh nhân sẽ xuất hiện sự giảm chiều cao,
gù đoạn lưng, có thể tới mức các xương sườn cuối cùng cọ sát vào xương chậu.
- Gãy xương: nhiều trường hợp phát hiện LX khi bệnh nhân đã có biến
chứng gãy xương, thường xuất hiện khi có chấn thương rất nhẹ. Các vị trí gãy

9


xương thường gặp là: đầu trên xương đùi, xương cánh tay, đầu dưới xương
cẳng tay, xương sườn, xương chậu và xương cùng.

1.1.6. Các phương pháp chẩn đoán LX.
1.1.6.1. Phương pháp sinh hóa.
1.1.6.2. Phương pháp chụp x quang quy ước [27,[5],[1],[22],[45]
1.1.6.3. Đo hấp thụ photon đơn (Single Photon Absorptionmetry - SPA) [22],
[34],[33],[30].
- Ưu điểm: liều tia xạ thấp, thể tích máy gọn nhẹ, cho phép sử dụng thuận
lợi trong các nghiên cứu ở cộng đồng.
- Nhược điểm: kỹ thuật này chỉ cho phép đo được mật độ xương ở ngoại
vi, không đo được vị trí xương đùi và xương cột sống..

10


1.1.6.4. Đo hấp thụ photon kép (Dual Photon Absorptionmetry – DPA) [30],

[35],[40],[50].
- Ưu điểm: Cho phép đo mật độ xương ở những vị trí trung tâm như cột
sống, đầu trên xương đùi và toàn bộ cơ thể. Sai số giữa các lần đo thấp và liều
tia xạ thấp.
- Nhược điểm: thời gian thăm dò kéo dài và không đánh giá được một
cách biệt lập giữa xương đặc và xương xốp.
1.1.6.5. Đo khối lượng xương bằng chụp cắt lớp vi tính (Quantitative
Computed Tomogaphy - QCT) [30],[35].
- Ưu điểm: Phương pháp này cho biết tỷ trọng khoáng thực theo ba chiều
của xương. Thành phần xương đặc và xương xốp được đánh giá một cách biệt
lập. Phương pháp này có thể đo được mật độ xương tại xương cẳng tay, cột
sống và toàn bộ cơ thể. Tuy nhiên thường dùng đánh giá mật độ xương ở cột
sống.
- Nhược điểm: Giá thành cao, nguồn tia xạ cao (200-1500mrem) tùy từng
vị trí. Tổ chức tủy xương và mô dạng xương có thể tạo ra sai số.
1.1.6.6. Sóng quang phổ cộng hưởng từ với P31 (Spectroscosipie de
Resonance Magnetique- PRM) [22],[35].
Là phương pháp xác định độ muối khoáng xương bằng quang phổ cộng
hưởng từ hạt nhân với P31, phương pháp khá chính xác giúp phân biệt mô
xương và phần mềm bao quanh khá rõ ràng.
2.1.6.7. Đo hấp thụ tia X năng lượng đơn (Single - Energy X - ray Absorptionmetry SXA) [22],[33],[36][38].
Kỹ thuật này được Kelly và cộng sự sử dụng từ những năm 1994, dùng để
đo mật độ xương ở những vị trí xương ngoại vi, kỹ thuật này cho phép đo ở
những vị trí tránh dùng chất phóng xạ. Người ta thường áp dụng phương pháp

11


này để thay thế phương pháp đo hấp thụ photon đơn, tuy nhiên kỹ thuật này
khó thực hiện ở phần xương đùi và cột sống.

1.1.6.8. Đo hấp thụ tia X năng lượng kép (Dual - Energy X – ray Absorptiometry DEXA) [22],[36],[38],[31],[35],[41].
Trong những năm gần đây Mazess và Wahner (1988), Stein và cộng sự
(1988) đã công bố phương pháp đánh giá mật độ xương bằng đo hấp thụ tia X
năng lượng kép. Đây là kỹ thuật tiên tiến, giá trị chẩn đoán cao đã được nhiều
nước trên thế giới sử dụng.
- Nguyên lý: Tương tự như DPA, nhưng nguồn tia gama phát ra từ
Gadonilium 153 trong DPA được thay thế bởi nguồn phát ra tia X. Nguồn tia X
có thể tạo ra luồng phóng xạ cao hơn nhiều so với nguồn chất đồng vị phóng xạ
dùng trong DPA (gấp 500-1000 lần). Vì vậy độ chính xác cao so với DPA.
Thời gian tiến hành đo khoảng dưới 5 phút.
- Ưu điểm: Độ chính xác cao, thời gian thăm dò ngắn, liều tia xạ thấp
(2-4 mrem), khả năng tái lập kỹ thuật tốt. Phương pháp này cho phép đo mật độ
xương ở nhiều vị trí như: xương cột sống, xương đùi, các xương ngoại vi và
toàn cơ thể. Đây là phương pháp dùng trong chẩn đoán LX và được sử dụng
rộng rãi trong các thử nghiệm lâm sàng và trong các nghiên cứu dịch tễ học.
- Các thiết bị DEXA ngày càng được phát triển hoàn thiện hơn, phần mềm
của máy có thể tự động xác định khu vực cần đo một cách riêng rẽ. Nó còn có
thể đo mật độ xương cột sống ở mặt chiếu phía sau, do đó đánh giá chính xác
được phần bè của xương đốt sống mà kết quả không bị sai lệch bởi các yếu tố
như gai xương, calci hóa của động mạch chủ…
1.1.6.9. Đo bằng siêu âm định lượng [35],[49].
Đây là phương pháp mới được áp dụng để đánh giá chất lượng xương.
- Nguyên lý: theo nguyên tắc phát chùm tia sóng siêu âm có tần số từ 2001000 kHz qua vị trí xương gót, xương chày, xương cẳng tay hoặc xương ngón
12


tay để đánh giá chất lượng xương. Khi xương bị xốp do LX, khả năng dẫn
truyền tia siêu âm qua xương sẽ kém đi và khả năng hấp thụ tia siêu âm của
xương cũng giảm đi.
- Ưu điểm: không liên quan đến tia xạ, chi phí thấp, thể tích máy gọn, dễ

sử dụng, dễ áp dụng trong nghiên cứu dịch tễ học.
- Nhược điểm: độ chính xác bị hạn chế bởi phần mô mềm xung quanh.
Tính ổn định của kết quả còn đang được tiếp tục nghiên cứu.
Lựa chọn phương pháp thăm dò mật độ xương.
Có nhiều phương pháp đánh giá mật độ xương, tuy nhiên để lựa chọn một
phương pháp có nhiều ưu điểm phải dựa trên một số tiêu chí như: độ chính xác
cao, tiện lợi, chi phí thấp, ít ảnh hưởng đến sức khỏe đối tượng nghiên cứu.
1.1.7. Các thuốc điều trị loãng xương
1.1.7.1. Các thuốc chống huỷ xương:
Là nhóm thuốc quan trọng nhất trong điều trị LX vì làm giảm hoạt tính
của tế bào huỷ xương (Osteoclast) và làm giảm chu chuyển xương.
− Nhóm hormon và các thuốc giống hormon: là nhóm thuốc có tác dụng ức
chế hoạt động của các tế bào hủy xương
+ Nhóm hormon sinh dục nữ (Oestrogen và các giống hormon) dùng để phòng
ngừa và điều trị LX cho phụ nữ sau mãn kinh (menopause)
+ Nhóm hormon sinh dục nam (Androgen) dùng để phòng ngừa và điều trị LX
cho nam giới sau tắt dục (andropause) : Testosrerone (Biệt dược Andriol)
− Nhóm Bisphosphonates: Bisphosphonates là nhóm thuốc mới được sử dụng
từ đầu thập niên 90, có tác dụng làm tăng khối lượng và độ cứng của xương,
đặc biệt ở cột sống, giảm đáng kể được nguy cơ gãy xương do LX. Thuốc còn
có thể sử dụng để phòng ngườa cho những đối tượng có nguy cơ cao bị LX

13


(phụ nữ sau mãn kinh, bệnh nhân phải sử dụng thuốc kháng viêm corticosteroid
kéo dài…)
− Calcitonin: Calcitonin là một chuỗi các acid amin từ cá hồi, có tác dụng
chống huỷ xương, giảm đau do hủy xương và làm giảm chu chuyển xương.
+ Cơ chế tác dụng: Gắn kết với các thụ thể đặc hiệu trên hủy cốt bào. Làm

giảm số lượng và hoạt động của hủy cốt bào.
+ Hiệu quả của thuốc: giảm tỷ lệ gãy xương và giảm đau do hủy xương.
1.1.7.2. Các thuốc tăng tạo xương
- Parathyroid Hormon: rPTH 2 ug TDD/ ngày là thuốc duy nhất được công
nhận là tăng tạo xương thực sự (11/2002)
- Calcium và vitamin D: để cung cấp “nguyên liệu “ cho việc tạo xương mới,
kích thích hoạt động của tế bào sinh xương (Osteoblast)
- Thuốc tăng đồng hoá (Durabolin, Deca-durabolin) có tác dụng tăng cường
hoạt tính của tế bào sinh xương, tăng cường chuyển hoá protein.
- Trên thực tế các thuốc chống huỷ xương cũng có tác dụng tăng tạo xương và
các thuốc tăng tạo xương cũng có tác dụng chống huỷ xương
1.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề loãng xương
1.2.1. Ngoài nước:
Để khẳng định mối liên quan giữa loãng xương và thiếu hụt estrogen đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu đánh giá vai trò của estrogen trong dự phòng và
điều trị loãng xương. Năm 1976 Lindsay R., Hart D. M. Và Aitken J.M. đã tiến
hành một nghiên cứu mù kép để đánh giá tác dụng của Estrogen 23mg/ngày
trên khối lượng xương của 114 phụ nữ mạn kinh do cắt bỏ buồng trứng. Họ đã
nghiên cứu mật độ xương và sự thay đổi khối lượng chất khoáng ở xương bàn
tay hàng năm bằng phương pháp đo hấp thụ photon. Kết quả cho thấy khối
lương chất khoáng của xương được duy trì hoặc tăng lên ở những phụ nữ điều
14


trị trong vòng 3 năm tính từ lúc cắt bỏ buồng trứng trong khi ở nhóm chứng
mật độ khoáng của xương thấp hơn đáng kể.
Gần đây, với sự xuất hiện của các phương pháp đo mật độ xương hiện đại, vấn
đề loãng xương ở phụ nữ sau mạn kinh càng được nghiên cứu đầy đủ hơn.
Phương pháp đo mật độ xương bằng siêu âm có một vai trò rất lớn trong điều
tra cộng đồng.

- Nghiên cứu của Nordin.BEC và cs, phụ nữ 55 tuổi có thời gian mãn kinh là
10 năm sẽ có mật độ xương thấp hơn phụ nữ cùng độ tuổi có thời gian mãn
kinh là 5 năm. Tác giả nhấn mạnh sự khác biệt này chỉ được coi là rõ ràng khi
mật độ xương của những bệnh nhân này tương đương nhau ở người trưởng
thành [44].
- Nghiên cứu của Risgg.BL chỉ ra rằng chỉ số T-score mật độ xương gót giảm
theo lứa tuổi, tuổi càng cao T-score mật độ xương gót càng giảm [47]
- Nghiên cứu của Rodrigeuz G.A và cs (1999), mật độ xương của 14 phụ nữ 73
tuổi có thời gian mãn kinh hơn 20 năm tương đương với mật độ xương của 14
phụ nữ 54 tuổi có cùng thời gian mãn kinh [46].
- Nghiên cứu của F.seeman và cs tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh > 10
năm cao hơn tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh < 5 năm.
- Nghiên cứu của Wardlau.GM cho rằng người có BMI > 26 dường như là yếu
tố bảo vệ với mật độ xương, trong khi người có BMI < 22 thì tăng nguy cơ
loãng xương.
1.2.2. Trong nước:
Ở Việt Nam, loãng xương của phụ nữ sau tuổi mãn kinh cũng được quan
tâm khá nhiều. Các tác giả như Phạm Khuê, Trần Đức Thọ đã quan tâm đến sự
mất xương ở người cao tuổi và cho rằng biểu hiện LX là một trong những rối
loạn xuất hiện ở phụ nữ thời điểm mãn kinh và sau mãn kinh [22].

15


Năm 1994 Vũ Đình Chính đã tiến hành điều tra tình trạng loãng xương ở
phụ nữ sau tuổi mạn kinh ở một số vùng nông thôn Hải Dương. Nghiên cứu
được tiến hành trên 200 phụ nữ sau mãn kinh làm nông nghiệp thuần tuý. Tác
giả đã tiến hành thăm khám lâm sàng, phát hiện các triệu chứng về xương khớp
và chụp X-quang xương bàn tay cho 30 phụ nữ sau mãn kinh. Kết quả cho thấy
những biểu hiện bệnh lý ở cơ quan vận động, trong đó bao gồm cả triệu chứng

lâm sàng gợi ý bệnh loãng xương là rất thường gặp ở tuổi mãn kinh, kết quả
cũng cho thấy tỷ lệ gãy xương do loãng xương ở người già và phụ nữ tuổi mãn
kinh là khá cao [5].
Vũ Thị Thanh Thủy và cộng sự đã nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ xẹp
đốt sống do LX ở phụ nữ sau mãn kinh, đã khuyến cáo cần có một chế độ theo
dõi và dự phòng lún đốt sống do LX ở những phụ nữ đã mãn kinh, đặc biệt là
những đối tượng có các yếu tố sau: chiều cao ≤ 145cm, cân nặng < 40kg, mãn
kinh >20 năm, có tiền sử gẫy xương sau 45 tuổi [23].
Nghiên cứu của Phạm Hồng Huệ năm 2004, cho rằng tuổi càng cao thì Tscore mật độ xương càng giảm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tác giả còn
nhấn mạnh vai trò của bài thuốc ‘’Dưỡng cốt hoàn” trong điều trị loãng xương
[10].
Nguyễn Thị Thanh Phượng đã bước đầu nghiên cứu mật độ xương ở phụ
nữ bình thương trẻ từ 20-39 tuổi, khi mật độ xương đạt đỉnh cao nhất bằng
phương pháp đo hấp thụ tia X năng lượng kép, từ đó rút ra được giá trị trung
bình của mật độ xương gót và xương cẳng tay ở phụ nữ bình thường 20-39 tuổi.
Đánh giá sự ảnh hưởng của một số yếu tố thể chất và hoạt động sinh lý đến mật
độ xương [21].
Nghiên cứu của Phạm Văn Tú cũng như nghiên cứu của Nguyễn Hiếu Nhân
khẳng định sự khác biệt về giá trị T-score giữa hai nhóm làm việc tĩnh tại và làm
việc vận động, sự khác biệt đó có ý nghĩa thống kê.

16


Nghiên cứu của Đoàn Thị Tuyết, thời gian sau mãn kinh càng dài tỷ lệ loãng
xương càng cao, mãn kinh sau 1 năm chỉ có 5,9% người có biểu hiện loãng
xương, mãn kinh sau 30 năm có tới 37,1% người có biểu hiện loãng xương.
Mãn kinh > 10 năm, tỷ lệ loãng xương là 22,2%, mãn kinh < 10 năm tỷ lệ
loãng xương là 13,5%.
Năm 2003, Nguyễn Thị Hoài Châu đã tiến hành khảo sát mật độ xương và

tìm hiểu những yếu tố liên quan đến bệnh loãng xương của phụ nữ ở thành phố
Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền Tây Nam Bộ. Nghiên cứu được tiến hành
trên 305 phụ nữ gồm 161 người đã mãn kinh và 144 người chưa mãn kinh,
được đo mật độ xương gót và khảo sát các yếu tố liên quan đến bệnh loãng
xương. Kết quả cho thấy tỷ lệ loãng xương và giảm mật độ xương ở nhóm phụ
nữ mãn kinh cao hơn rõ rệt so với nhóm chưa mãn kinh, tuổi, BMI, mức độ lao
động thể chất, tình trạng dinh dưỡng có liên quan đến bệnh loãng xương [3].
Nghiên cứu của Nguyễn Vân Hồng 2005, tỷ lệ loãng xương và giảm mật độ
xương là 80,8%, trong đó tỷ lệ loãng xương chiếm 45,9%. Tuổi càng cao mật
độ xương càng giảm, tỷ lệ loãng xương cũng tăng dần theo tuổi (nhóm 60-79
tuổi chiếm 66,7%, nhóm 50- 59 tuổi: 26,3%). Trong cùng một nhóm tuổi tỷ lệ
loãng xương ở nữ có xu hướng cao hơn nam [13]
Năm 2007, Mai Đức Hùng và Vũ Đình Hùng nghiên cứu trên 2668 đối tượng,
gồm 570 nam (21,4%) và 2098 nữ (78,6%) được chia làm hai nhóm nghiên cứu,
tác giả rút ra kết luận như sau: Tỷ lệ loãng xương 34,5%, thiếu xương 34,4%. Tỷ
lệ loãng xương tăng theo tuổi (p<0,001), nhóm tuổi có tỷ lệ loãng xương cao
nhất từ 65 tuổi trở lên (71,3%). Loãng xương liên quan với giới: nữ giới có tỷ lệ
loãng xương cao hơn nam giới (36,2% so với 28,2%), có ý nghĩa thống kê (p <
0,001). Trong nữ giới, thời kỳ mãn kinh có tỷ lệ loãng xương tăng so với khi
chưa mãn kinh (25,7% so với 1,0%), có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Như vậy ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về loãng xương, đặc
biệt là loãng xương ở phụ nữ sau tuổi mãn kinh, nhưng ở Nghệ An chưa có
17


nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề loãng xương ở phụ nữ tuổi mãn kinh. Nghiên
cứu này chúng tôi muốn đề cập đến tỷ lệ loãng xương và một số yếu tố ảnh
hưởng đến bệnh loãng xương ở phụ nữ Nghệ An sau tuổi mãn kinh, chúng tôi
lựa chọn phương pháp siêu âm xương gót bằng máy đo Loãng xương siêu âm
Sonos 3000. Đây là một phương pháp được áp dụng để nghiên cứu nhiều trên

thế giới và Việt Nam. Máy đo loãng xương bằng siêu âm xương gót có cấu tạo
gọn nhẹ dễ sử dụng có thể mang đi xa, người được đo không chịu ảnh hưởng
của tia xạ, kinh phí thấp vì vậy rất thích hợp cho chẩn đoán sàng lọc tại cộng
đồng.

18


Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.2. Đối tượng nghiên cứu
222 bệnh nhân nữ trên 50 tuổi. Khám tại Phòng khám bệnh Đa khoa –
Trường Đại học Y khoa Vinh, từ 1/1/2012 đến 1/11/2012.
* Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân nghiên cứu
- Bệnh nhân là nữ giới trên 50 tuổi, đã mãn kinh, được đo tỷ trọng xương bằng
phương pháp siêu âm định lượng tại Phòng khám Nội- Phòng khám bệnh Đa
khoa Trường Đại học Y khoa Vinh.
- Bệnh nhân đồng ý nghiên cứu.
- Chọn nhóm chứng: 54 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản từ 25-39 tuổi, hoàn toàn
khoẻ mạnh, hiện tại không mang thai, không cho con bú.
* Tiêu chuẩn loại trừ
Chúng tôi loại ra khỏi nghiên cứu những đối tượng sau:
- Một số bệnh lý liên có quan đến chuyển hóa xương
+ Cường giáp trạng
+ Đái tháo đường
19



+ Cường cận giáp tiên phát
+ Bệnh Cushing
+ Bệnh gan thận mạn tính.
+ Bệnh viêm đa khớp dạng thấp.
- Những người đang sử dụng các thuốc ảnh hưởng đến chuyển hóa của xương
(các steroid, heparin, warfarin, thyroxin, hydrocortison, phenytoin sodium, các
liệu pháp hormon thay thế…)
- Bệnh nhân hút thuốc lá nhiều hoặc uống rượu nặng.
- Những bệnh nhân nằm bất động lâu ngày, những phụ nữ đã cắt bỏ buồng trứng
- Bệnh nhân không hợp tác nghiên cứu
2.3. Phương pháp chọn mẫu
Áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện không xác suất, lấy tất cả bệnh
nhân đủ tiêu chuẩn trên.
2.4. Phương pháp thu thập số liệu
2.4.1. Các chỉ số nghiên cứu
2.4.1.1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
- Tuổi
- Nghề nghiệp
- Nơi ở
- Số lần sinh con
2.4.1.2. Đặc điểm hình thái
- Chiều cao
- Cân nặng
- Chỉ số khối cơ thể: BMI
20


- Tuổi mãn kinh

2.4.1.3. Các triệu chứng lâm sàng, chỉ số T- Score
- Đau mỏi khớp, đau mỏi cột sống, đau mỏi dọc xương dài, biến dạng cột sống,
gẫy xương, giảm chiều cao.
- T- Score mật độ xương gót.
2.4.1.4. Một số yếu tố liên quan đến T- Score mật độ xương gót
- Tuổi
- Chỉ số khối cơ thể
- Tổng số năm mãn kinh
- Số con
- Nghề nghiệp
- Nơi ở
- Tập thể dục
- Biểu hiện lâm sàng gợi ý bệnh loãng xương
2.4.2. Thu thập số liệu và đánh giá
Các đối tượng chọn vào nghiên cứu, mỗi đối tượng có một hồ sơ nghiên cứu
theo mẫu chung, các thông tin được thu thập qua hỏi bệnh, thăm khám lâm
sàng, đo chỉ số T- Score mật độ xương gót.
2.4.2.1. Phục vụ mục tiêu 1
- Hỏi bệnh nhân những thông tin cá nhân theo phiếu điều tra để thu thập các
đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
- Tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nghiên cứu đều được đo mật độ xương gót
bằng máy đo Loãng xương Sonost 3000, do bác sỹ chuyên khoa đảm nhiệm.

21


Kết quả tình trạng mật độ xương được đánh giá theo chỉ số T- score
T- score

Tình trạng mật độ xương


T- score ≥-1

Mật độ xương bình thường

-1 > T- score > -2,5

Giảm mật độ xương

T- score ≤ - 2,5

Loãng xương

2.4.2.2. Phục vụ mục tiêu 2
* Chiều cao
Dùng thước đo nhân trắc Martin, có chia vạch tới milimet. Bệnh nhân được
đo đứng ở tư thế thẳng, hai gót chân chạm vào nhau, hai tay buông thẳng, bàn
tay úp vào mặt ngoài đùi, đầu ở tư thế sao cho đường nối lỗ tai ngoài với đuôi
mắt tạo thành một đường thẳng song song với mặt đất. Khi đo gót, mông, lưng,
chẩm của bệnh nhân chạm vào thước.
* Cân nặng

22


Cân nặng được đo bằng cân Trung Quốc, thời đo gian xa bữa ăn. Bệnh nhân
chỉ mặc một bộ quần áo mỏng, bỏ giày dép.
* Tính và đánh giá chỉ số khối cơ thể BMI
Bệnh nhân được đo chiều cao, cân nặng tính chỉ số khối cơ thể BMI (Body
Mass Index) theo công thức của Kaup:

Cân nặng (kg)
BMI

=

Chiều cao2 (m2 )

Phân loại BMI theo tiêu chuẩn của người châu Á
BMI < 18,7

: gầy

18,7 ≤ BMI < 23,7

: trung bình

BMI ≥ 23,7

: béo

* Tổng số năm mãn kinh được chia 3 nhóm:
Số năm mãn kinh ≤ 5 năm
Số năm mãn kinh lớn hớn 5 năm và dưới 10 năm
Số năm mãn kinh > 10 năm
* Số lần sinh con và nuôi con bằng sữa mẹ chia thành 2 nhóm:
Nhóm có số con ≤ 2 con
Nhóm có số con ≥ 3 con
* Nghề nghiệp được chia thành 2 nhóm: nhóm nghề thường xuyên ngồi và
nhóm nghề thường xuyên hoạt động: nhóm nghề nghiệp thường xuyên hoạt
động (bao gồm các đối tượng lao động như: công nhân, nông dân…), nhóm

nghề nghiệp thường xuyên ngồi (bao gồm các cán bộ hành chính như: kế toán,
giáo viên, kỹ sư, cán bộ hành chính…)
* Nơi ở được chia thành 2 nhóm: nhóm thành thị và nhóm nông thôn.

23


* Tập thể dục được chia thành 2 nhóm: nhóm ít tập hoặc không tập thể dục và
nhóm thường xuyên tập thể dục: nhóm có tập thể dục (là những bệnh nhân
luyện tập thường xuyên 2lần/ ngày, mỗi lần 30 phút, thời gian tập ≥ 5 năm và
hiện nay vẫn còn luyện tập), nhóm không tập thể dục (là nhóm không tập thể
dục hoặc thỉnh thoảng mới tập thể dục).
* Khám phát hiện các triệu chứng của LX: đau lưng, đau khớp, mỏi cổ, đau
dọc các xương dài, giảm chiều cao, gù, vẹo cột sống, gãy xương kèm theo.
2.5. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được xử lý trên máy vi tính bằng phần mềm SPSS
16.0 với các thuật toán thống kê y học như: so sánh trung bình và chỉ ra sự khác
biệt bằng Test T Student, Test Anova một chiều, so sánh hai tỷ lệ và kiểm định
tính độc lập bằng Test χ 2.
2.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu.
- Nghiên cứu này được thông qua hội đồng Nghiên cứu Khoa học Trường
Đại học Y khoa Vinh và được sự cho phép của Phòng khám bệnh Đa khoa
Trường Đại học Y khoa Vinh.
- Tất cả các bệnh nhân đều được tư vấn và tự nguyện tham gia nghiên cứu.
- Các thông tin cá nhân của bệnh nhân được giữ bí mật.
- Đề tài chỉ nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu, không phục vụ cho
bất kì lợi ích nào của người nghiên cứu.

24



Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
- Tuổi trung bình: 61.08±9.38
- Số lần sinh con: 2.92 ±1.32
- Tuổi bắt đầu mãn kinh: 48.99 ±3.78

Biểu đồ 3.1: Tuổi mãn kinh

Nhận xét: Tuổi mãn kinh chủ yếu tập trung ở tuổi 50
25


×