Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

skkn một số GIẢI PHÁP cơ bản NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG đội NGŨ GIÁO VIÊN TRONG TRƯỜNG mầm NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.13 KB, 44 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG TRƯỜNG MẦM NON

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan
trọng thúc đầy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Trong đó,
nhà giáo và quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt giữ vai trò quan trọng.
Trong lịch sử nước ta, “Tôn sư trọng đạo” đó là truyền thống quý báu của
dân tộc, nhà giáo bao giờ cũng được nhân dân yêu mến và kính trọng. Những năm
qua, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý ngày càng
đông đảo, phần lớn có ý thức đạo đức và ý thức chính trị tốt, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ ngày càng nâng cao. Đội ngũ này đã đóng góp một phần quan trọng
trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài góp phần vào sự
nghiệp cách mạng của nước ta.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đội ngũ nhà giáo còn có những bất cập và hạn chế.
Đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số nói chung và trường Mầm non chúng tôi nói riêng. Chất lượng chuyên môn
nghiệp vụ của một số giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu, còn truyền đạt lý thuyết
nhiều, ít chú ý đến năng lực sáng tạo, kỷ năng thực hành, năng lực tự học của học
sinh. Một số bộ phận nhà giáo còn có những biểu hiện không toàn tâm toàn ý phục
vụ sự nghiệp giáo dục. Thiếu gương mẫu trong đạo đức lối sống, nhân cách đạo
đức nghề nghiệp, chưa làm gương sáng cho học sinh noi theo.

1


Trước tình hình trên, đòi hỏi người cán bộ quản lý phải có giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng nhu cầu trước mắt,


vừa mang tính chiến lược lâu dài, thực hiện thành công sự nghiệp giáo dục. Chính
vì vậy tôi chọn vấn đề : “Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên trong trường Mầm non” làm đề tài nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm
trong năm học 2013 – 2014.
2. Mục đích:
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về vị trí, vai trò của đội ngũ giáo
viên; đề tài đi sâu khảo sát, phân tích, thực trạng của đội ngũ giáo viên trường MÇm
non chúng tôi, từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên MÇm non nhằm góp phần giúp lãnh đạo nhà trường có được các biện pháp
trong công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non, giúp cho
các cấp quản lý biết được thực trạng để có các giải pháp thực hiện tốt hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Tập thể giáo viên trực tiếp giảng dạy các lớp tại trường Mầm non chúng tôi.
Chương trình giáo dục mầm non hiện hành.
Cơ sở vật chất; trang thiết bị dạy học; học sinh; phương pháp dạy học...
4. Giả thiết nghiên cứu:
Nếu đưa ra được các giải pháp có hiệu quả, phù hợp để nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên ở trường mầm non chúng tôi nhằm góp phần nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ. Thì không chỉ nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở
trường chúng tôi mà có thể áp dụng cho một số trường có điều kiện, hoàn cảnh và
cơ sở vật chất trang thiết bị cũng như yếu tố xã hội phù hợp với đề tài để giúp đội
ngũ giáo viên nâng cao trình độ chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên
môn và kỷ năng sư phạm.
5. Phương pháp nghiên cứu
2


- Phương pháp điều tra - khảo sát thực trạng;
- Phương pháp nắm dư luận xã hội;
- Phương pháp qui nạp;

- Phương pháp hội thảo;
- Phương pháp tham khảo ý kiến của chuyên gia.
6. Nhiệm vụ:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về công tác nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên mầm non.
Tìm hiểu, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng của đội ngũ giáo viên
trường mầm non chúng tôi trong thời gian qua.
Phân tích kết quả nghiên cứu và rút ra một số giải pháp cơ bản góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non ở trường chúng tôi.
7. Dự báo những đóng góp của đề tài:
Nếu nghiên cứu thực trạng về đội ngũ giáo viên mầm non một cách nghiêm
túc, đưa ra các biện pháp có tính khả thi sẽ góp phần:
- Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ quản lý, phụ huynh và toàn xã hội
biết được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
mầm non;
- Giúp giáo viên được bồi dưỡng một cách bài bản, phù hợp khả năng và
năng lực chuyên môn của bản thân, có trách nhiệm, có hứng thú, yêu nghề mến trẻ,
có sáng tạo trong đổi mới nội dung, phương pháp dạy học.
- Tránh được hiện tượng dạy thêm, học thêm và tránh được dư luận xã hội về
giáo viên mầm non như hiện nay;

3


- Tạo niềm tin cho phụ huynh có con nhỏ dưới 6 tuổi. Tạo sự tin tưởng của
xã hội về Ngành giáo dục nói chung và bậc học mầm non nói riêng;
- Giúp các nhà quản lý giáo dục biết được thực trạng của đội ngũ giáo viên
mầm non hiện nay để có những giải pháp khắc phục phù hợp, kịp thời.
8. Thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài:
Từ tháng 8 năm 2013 đến tháng 4 năm 2014.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở khoa học:
1.1. Cơ sở lý luận:
1.1.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về giáo dục Mầm non.
Đảng và nhà nước ta thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Từ đó đã
xác định mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục là: “Tiếp tục nâng cao chất lượng toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học… phát huy tinh thần độc lập tính
sáng tạo của học sinh… thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước thành một xã
hội học tập”.
Đối với giáo dục mầm non, Bộ Chính trị vừa ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW
ngày 05 tháng 12 năm 2011 về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố
kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học
sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn. Trong đó xác định rõ Mục
tiêu tổng quát là: "Nâng cao trình độ dân trí một cách toàn diện, mở rộng giáo dục
mầm non, hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Thực hiện
phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và trung học cơ sở với chất lượng và hiệu
quả ngày càng cao, tiến tới phổ cập giáo dục trung học ở những nơi có điều kiện;
cơ bản xóa mù chữ và ngăn chặn tái mù chữ ở người lớn; đẩy mạnh công tác phân
luồng học sinh sau trung học cơ sở đi đôi với phát triển mạnh và nâng cao chất
lượng giáo dục nghề nghiệp và giáo dục phổ thông gắn với dạy nghề nhằm đáp ứng
4


yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước". Và Mục
tiêu cụ thể cho phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi là: "Năm 2015, huy động
85% trẻ từ 3 đến 5 tuổi vào học mẫu giáo; phấn đấu cả nước hoàn thành mục tiêu
phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi". Nghị quyết cũng xác định rõ các giải
pháp cơ bản, trong đó giáo dục mầm non phải: "Bổ sung và hoàn thiện chính sách
và bảo đảm các điều kiện cần thiết hỗ trợ bậc mầm non phát triển bền vững; nâng
dần tỉ lệ huy động trẻ từ 3 đến 5 tuổi được học mẫu giáo, thực hiện chăm sóc, giáo

dục 2 buổi/ngày; hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi vào năm
2015". "Hoàn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với giáo viên nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục".
Tại Hướng dẫn Số: 5396/BGDĐT-GDMN ngày 20 tháng 8 năm 2012 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo về thực hiện nhiệm vụ giáo dục mầm non năm học 20122013 đã chỉ rõ phải tiếp tục "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo
viên với những nội dung:
Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên mầm non đủ về số lượng, đảm
bảo chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non và triển khai thực hiện
Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi.
Chú trọng bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý cơ sở giáo dục
mầm non về quản lý trường học, hiểu biết, nắm vững và triển khai có hiệu quả các
văn bản quy định hiện hành, đặc biệt là quản lí công tác phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ em năm tuổi, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non. Tăng cường vai
trò của cán bộ quản lí các cơ sở mầm non trong việc tổ chức thực hiện chương trình
giáo dục mầm non.
Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên về đổi mới phương pháp, kỹ năng nghề nghiệp;
đổi mới nội dung, hình thức bồi dưỡng, tăng cường bồi dưỡng theo cụm trường, tự
bồi dưỡng tại các trường nhằm đảm bảo giáo viên có đủ năng lực, chủ động lựa
chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp với
5


đối tượng trẻ theo chương trình giáo dục mầm non. Tạo điều kiện, khuyến khích
giáo viên tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức lối sống, không có giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo. Tăng cường
sự giúp đỡ, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm trong thực hiện công tác giáo dục mầm
non giữa các trường mầm non công lập và các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công
lập trên địa bàn.
Thực hiện quản lí, đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên theo Chuẩn nghề
nghiệp giáo viên mầm non (ban hành theo Quyết định số 02/2008/QĐ-BGDĐT

ngày 22 tháng 01 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) và đội ngũ
Hiệu trưởng, Hiệu phó trường mầm non theo Chuẩn hiệu trưởng trường mầm non
(ban hành theo Thông tư số 17/2011/TT-BGDĐT ngày 14 tháng 4 năm 2011 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đảm bảo chất lượng của đội ngũ tương xứng
với trình độ được đào tạo, bồi dưỡng.
Về chính sách đối với giáo viên, nhân viên: Các sở giáo dục và đào tạo tích
cực tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chế độ, chính sách về đào tạo, tuyển
dụng giáo viên, nhân viên (kế toán, văn phòng, y tế, nuôi dưỡng...) các trường mầm
non phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non. Nâng cao hiệu quả
hoạt động của các tổ chức chính trị, đoàn thể để cùng chăm lo bảo vệ lợi ích chính
đáng của giáo viên mầm non, đặc biệt là giáo viên mầm non ngoài biên chế trong
các trường công lập, dân lập, đảm bảo cho giáo viên mầm non được hưởng lương
theo ngạch bậc và nâng lương theo định kỳ.
Rà soát đội ngũ cán bộ quản lý, kịp thời bổ sung ở những nơi còn thiếu. Đảm
bảo cán bộ quản lý, chỉ đạo giáo dục mầm non các cấp có đủ năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, góp phần chỉ đạo triển khai có hiệu quả các nhiệm
vụ chính trị của ngành, thúc đẩy sự phát triển nhanh, mạnh và bền vững cấp học
giáo dục mầm non ở từng địa phương".
1.1.2. Quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về giáo dục trẻ em.
6


Quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí minh về giáo dục trẻ em được hình thành
trong suốt quá trình hoạt động cách mạng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam của
Người. Theo quan điểm của Người, trẻ em cũng như mọi tầng lớp nhân dân trong
xã hội phải có quyền được sống, quyền được tự do, học hành, quyền được hưởng
hạnh phúc, Quyền được hưởng thụ giáo dục là nhu cầu thiết yếu của mỗi con
người, như cơm ăn, áo mặc.
Trẻ em là một trong những đối tượng được Chủ Tịch Hồ Chí Minh quan tâm
và giáo dục nhiều nhất, liên tục nhất . Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân

ái của dân tộc, chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm, là tình thương và hạnh
phúc của mọi người . Mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, truyền thống ấy đã được thể
hiện trong văn hóa dân gian Việt Nam “ Dạy con từ thuở còn thơ” Hồ Chí Minh
đặc biệt coi trọng việc giáo dục trẻ em, vì trí tuệ, tính cách con người phụ thuộc rất
lớn vào nội dung phương pháp giáo dục. Đối với trẻ em chăm sóc và giáo dục
không chỉ mang lại cho các em một cuộc sống tự do, có cơm no, áo ấm, được học
hành mà phải giáo dục các em thành người .
Mục tiêu giáo dục trước hết đối với cá nhân là hoàn thiện nhân cách phát
triển toàn diện để tạo nên những em thiếu nhi vừa có sức khỏe, vừa có tri thức, có
tâm hồn, tình cảm trong sáng, có hành vi, lối sống lành mạnh vui tươi. Đối với xã
hội, với sự nghiệp cách mạng thì mục tiêu giáo dục trẻ em nhằm đào tạo những con
người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta.
Mục tiêu giáo dục trẻ em ấy trở thành một quan điểm lớn của Chủ Tịch Hồ
Chí Minh, được Người đề cập đến trong nhiều bài nói, bài viết, thư gửi cán bộ, thầy
cô giáo, và các cháu thiếu nhi. Người đã chỉ ra vai trò của thiếu nhi là người chủ
tương lai của nước nhà.
Mục tiêu kiên định trong công tác giáo dục trẻ em, Chủ Tịch Hồ Chí Minh
đã cho ta một bài học sâu sắc, Hồ Chí Minh đã luôn xác định vai trò của trẻ em.
Trong thư gửi cho học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân
7


Chủ Cộng Hòa Người viết “ Ngày nay các em được may mắn hơn cha và anh là
được hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập , một nền giáo dục nó sẽ đào
tạo cho các em”.
1.1.3. Vai trò của giáo dục Mầm non và giáo viên Mầm non.
1.1.3.1. Vai trò của giáo dục Mâm non
Giáo dục Mầm non là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục
Mầm non đóng vai trò quan trọng là nền móng cho giáo dục sau này giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản,

phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con
người. Vai trò và tác dụng của giáo dục Mầm non được thể hiện cụ thể ở những khía
cạnh sau đây:
- Trẻ em trong độ tuổi mầm non là thời kì phát triển đặc biệt của bộ não, nó
đặt nền móng cho việc học tập về sau cho mỗi con người (nghiên cứu mới đây của
một số nhà khoa học châu Mỹ-Latinh, công bố trong Hội thảo quốc tế về Giáo dục
mầm non tại Mê-hi-cô đã cho rằng thời kì mầm non bộ não của trẻ có thể phát triển
tới 80% sự hoàn thiện).
- Tuy không phải là trực tiếp, nhưng kết quả khả quan ở giáo dục mầm non
sẽ có ảnh hưởng tích cực, góp phần thực hiện một số mục tiêu có tính quốc gia và
tính toàn cầu về các lĩnh vực giáo dục - kinh tế - xã hội như: Nâng cao kết quả học
tập khi trẻ vào tiểu học, phát triển trí tuệ, thể chất, tình cảm, xóa đói giảm nghèo.
- Nếu ngay từ mầm non, trẻ được phòng ngừa, tăng cường khả năng đề
kháng đối với một số bệnh tật, khiếm khuyết thì sẽ giảm chi phí rất nhiều so với sau
này, nhất là có thể tránh cho trẻ phải chịu thiệt thòi suốt đời vì một di chứng nào đó
mà lẽ ra có thể can thiệp khi còn ấu thơ.

8


- Giúp cho trẻ em (nhất là tại các nước đang phát triển) có thể được hưởng
phúc lợi xã hội, giảm nguy cơ trẻ phải lâm vào hoàn cảnh sống cực kỳ nghèo khổ
hoặc bị tử vong với những căn bệnh có thể phòng ngừa được.
- Chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non là thực hiện cam kết quốc tế của hầu hết
các nước đối với Công ước về Quyền trẻ em (Việt Nam là một trong những nước
đầu tiên kí cam kết này).
1.1.3.2. Vai trò của giáo viên Mầm non
Nhà giáo là một chủ thể có vai trò quan trọng hàng đầu trong quan hệ giữa
người dạy và người học - mối quan hệ trọng tâm của giáo dục. Mục đích của nền
giáo dục nước ta là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện: Có đạo đức,

tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân
tộc, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân. Nhà giáo
là người trực tiếp tác động đến quá trình phát triển về đạo đức, tri thức và nhân
cách của người học.
Từ ngàn đời nay, nhà giáo luôn được coi trọng. “Tôn sư trọng đạo” là một
truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta và không ngừng được vun đắp, phát triển.
Xuất phát từ truyền thống của dân tộc, nhà giáo có một vị trí, vai trò vô cùng quan
trọng trong xã hội. Vì lẽ đó, nhà giáo có một trọng trách hết sức to lớn trong sự
nghiệp trồng người.
Giáo viên Mầm non có trách nhiệm vô cùng to lớn “Trách nhiệm trồng
người” của mình mà xà hội đã giao phó. Mỗi giáo viên phải thật sự tâm huyết với
nghề, cần đặt chữ “Tâm” lên hàng đầu, phải có trách nhiệm, nhiệt thành với công
việc, sống và làm việc nghiêm túc, phải thật sự là tấm gương sáng cho học sinh noi
theo, xem trường là nhà, không ngừng học tập để nâng cao trình độ. Giáo viên mầm
non góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.

9


Giáo viên Mầm non giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng
giáo dục của cấp học và chất lượng nguồn nhân lực sau này.
Giáo viên Mầm non là người ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển nhân cách
học sinh, là tấm gương để học sinh học tập, rèn luyện noi gương.
Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng, đãi
ngộ, bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện
vai trò và trách nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà
giáo, tôn vinh nghề dạy học.
1.1.3.3. Một số tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng đội ngũ của giáo
viên Mầm non
- Theo Quyết định số 02/2008/QĐ-BGD&ĐT ngày 22/01/2008 của Bộ

trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành Quy định về Chuẩn nghề nghiệp giáo
viên mầm non:
+ Tiêu chuẩn về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống: Nhận thức tư tưởng,
chính trị; chấp hành tốt chính sách, pháp luật của nhà nước; gương mẫu thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ của cán bộ công chức, quy chế về tổ chức hoạt động của nhà
trường.
+ Tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ: Mức độ thực hiện nhiệm vụ được
giao, khối lượng, chất lượng, hiệu quả giảng dạy và công tác. Tinh thần học tập
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; Tinh thần giảng dạy và trách nhiệm
trong công tác; Khả năng phát triển về chuyên môn nghiệp vụ và hoạt động xã
hội...v.v.
- Căn cứ Điều lệ trường Mầm non ngày 07/4/2008 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo về nhiệm vụ của giáo viên Mầm non, quy định trình độ chuẩn được đào tạo của
giáo viên Mầm non.

10


- Căn cứ Quyết định số 06/2006/QĐ-BNV ngày 21/3/2006 của Bộ trưởng Bộ
Nội vụ về Chức trách nhiệm vụ giáo viên mầm non.
- Căn cứ Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Xây dựng nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010”.
- Căn cứ Quyết định 239/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ ngày 9/2/2010
phê duyệt đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn 2010- 2015.
- Chỉ thị số 3398/CT-BGD ĐT “Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên các cơ sở giáo dục mầm
non... Đặc biệt chú trọng nội dung bồi dưỡng về đổi mới phương pháp dạy học và
kiểm tra tự đánh giá”
1.2. Cơ sở thực tiễn:
1.2.1. Đặc điểm tình hình của địa phương:

Xã tôi là một xã vùng nông thôn, có tổng diện tích đất tự nhiên là 843,59ha,
là 1 xã nằ m 2 bên tru ̣c đường tỉnh lô ̣ 7, cách trung tâm huyện Lộc Hà khoảng 8 km.
Phía Bắc giáp xã Bıǹ h Lô ̣c, xã Tân Lô ̣c, Phıá Đông Nam giáp xã Tha ̣ch Bằng, phı́a
Tây giáp xã Ích Hậu, phía Nam giáp xã Tha ̣ch My,̃ xã Tha ̣ch Sơn huyê ̣n Tha ̣ch Hà.
Xã chúng tôi có 6818 nhân khấu, với số hộ gia đình: 1570 hộ. Số dân cư được
phân chia thành 08 thôn xóm trên toàn xã. Số hộ nghèo có tới 228 hộ, chiếm tỷ lệ:
14,52%
- Về phát triển kinh tế:
Dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Đảng bộ xã và sự điều hành của chính
quyền, kinh tế xã nhà trong những năm qua liên tục tăng trưởng, phát triể n kinh tế
của xã phải tiế n hành theo đa ngành, đa nghề , song hoa ̣t đô ̣ng nông nghiệp vẫn là
nguồn kinh tế chủ đạo của địa phương. Khai thác thế mạnh về diện tích đất nông
nghiệp cùng với địa hình thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp và phát triển
trang trại, nuôi hải sản từng bước phát triển có chiều sâu.
11


Hiện nay trước tıǹ h hıǹ h hô ̣i nhâ ̣p và phát triể n, trình độ nhận thức của nhân
dân ngày càng được nâng lên, nhất là những Đảng viên nghĩ hưu, đảng viên công
nhân viên chức có nhiều kinh nghiệm trong công tác tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo.
Ngoài ra một số doanh nghiệp tư nhân đóng trên địa bàn, một số chủ thầu xây
dựng đã giải quyết việc làm cho nhiều lao động trong xã.
Thu nhập ngành thương mại, dịch vụ chiếm 20% tổng thu nhập, thu nhập từ
nông nghiê ̣p và các nguồn khác chiế m 80%. Tổng thu nhập năm 2013 so với cùng
kỳ năm 2012 tăng 2%, thu nhập bình quân đầu người 11 triệu đồng/người/năm.
- Về chính trị:
Về tình hình chính trị ổn định, xã tôi xác định công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm không
ngừng nâng cao bản lĩnh, giáo dục ý thức chính trị cho cán bộ, đảng viên, công
chức. Đảng bộ, cơ quan, đơn vị đã tổ chức quán triệt, học tập các chỉ thị, nghị quyết

của Đảng, thực hiện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên,
công chức; tuyên truyền các sự kiện chính trị lớn, các ngày lễ trọng đại của đất
nước, của địa phương; phổ biến tuyên truyền pháp luật, giáo dục định hướng chính
trị; lòng tự hào, tự tôn dân tộc và của đất nước; nâng cao nhận thức, ý thức chấp
hành pháp luật; tuyên truyền ý nghĩa của việc xây dựng nông thôn mới, giáo dục ý
thức tự giác chấp hành để thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn xã. Chi bộ mầm non xác định công tác giáo dục chính trị, tư tưởng không chỉ là
trách nhiệm của cấp ủy tổ chức cơ sở đảng, của cơ quan đơn vị mà còn phải đòi hỏi
ý thức tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, không ngừng tự học, rèn
luyện nâng cao nhận thức về chính trị, tư tưởng gắn với thực hiện chuyên môn,
nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Về văn hoá - giáo dục:

12


Các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục - thể thao luôn bám sát chủ trường,
chính sách của địa phương, ban văn hoá thông tin phối hợp với Đoàn Thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, hội phụ nữ tổ chức giao lưu văn hóa văn nghệ, thể dục thể
thao chào mừng các ngày lễ lớn trong năm, mừng Đảng mừng xuân, tham gia các
môn thể thao do cấp huyện tổ chức như: Kéo co, cầu lông, bóng đá, bóng chuyề n...
Tổ chức tốt cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá thôn
xóm, năm 2013 tổng số gia đình văn hoá đạt 75 %.
Sự nghiệp giáo dục đã được Đảng bộ và nhân dân quan tâm, phong trào dạy
tốt, học tốt ở các trường không ngừng được nâng lên, giữ vững phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ em năm tuổi (trường chúng tôi đã hoàn thành phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ em năm tuổi năm 2011, năm 2012, năm 2013 và năm 2014), giữ
vững đạt chuẩn phổ cập tiểu học và Trung học cơ sở. Hiêṇ nay ở xã có trường Tiểu
học và trường Mầm non đươ ̣c công nhâ ̣n đạt chuẩ n Quốc gia mức độ I. Trường
Mầ m non chúng tôi đươ ̣c đánh giá có chấ t lươ ̣ng dạy học tốt, là trường có cơ sở vâ ̣t

chấ t, khuôn viên, môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn và thân thiện phù hợp với
giáo dục mầm non.
Xã hội hóa giáo dục phát triển nhanh chóng, hiện nay có 8/8 thôn đã có chi
hội khuyến học. Công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ngày càng được nâng
lên, trạm y tế xã đa ̣t chuẩ n, tất cả các chương trình, mục tiêu y tế, vệ sinh phòng
bệnh, phòng dịch, tiêm chủng được mở rộng trong nhân dân qua các y tế viên (y tế
thôn) của từng thôn, qua các cuộc họp, các đợt tuyên truyề n và phát đô ̣ng của trung
tâm y tế nên trong thời gian qua vệ sinh môi trường xã nhà luôn sạch, đẹp, không
có tình trạng môi trường bị ô nhiễm gây hậu quả không tốt đối với con người.
Công tác xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, hằng năm đã tổ chức điều tra
chính xác hộ nghèo và nguyên nhân của đói nghèo. Qua đó, vừa động viên giúp đỡ
hướng dẫn hộ nghèo làm ăn kinh tế để họ vươn lên khá giả. Đồng thời, đã tạo ra
được phong trào cộng đồng giúp đỡ các hộ nghèo thường xuyên, có hiệu quả, viê ̣c
13


xóa nhà tranh tre cho các hô ̣ nghèo và gia đıǹ h có hoàn cảnh đă ̣c biêṭ khó khăn cơ
bản đảm bảo.
Việc thực hiện chính sách xã hội đối với gia đình liệt sỹ, thương bệnh binh và
người có công với nước, cán bộ tiền khởi nghĩa và các đối tượng xã hội khác luôn
được quan tâm, phong trào “đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn” gần gũi giúp
đỡ các gia đình chính sách luôn được nhân dân, các tổ chức ban ngành, đoàn thể
các cấp hưởng ứng đầ y trách nhiệm.
- Về Quốc phòng - An ninh:
Thường xuyên được sự quan tâm của Đảng bộ và chính quyền địa phương
nên an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững và ổn định, đặc biệt
chú trọng công tác phòng ngừa và xây dựng thế trận an ninh nhân dân, phát động
phong trào bảo vệ an ninh quốc gia, chỉ đạo xây dựng xóm an ninh tự quản, gia
đình an toàn làm chủ. Công tác quân sự địa phương có bước phát triển tốt, hằng
năm làm tốt công tác huấn luyện quân sự sẵn sàng chiến đấu, tuyển và giao quân

đạt chỉ tiêu cấp trên giao, không có quân nhân nào đào ngũ, bỏ ngũ, làm tốt công
tác chính sách hậu phương quân đội.
Nhìn chung những kết quả đạt được về phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, an ninh - quốc phòng của Đảng bộ và nhân dân đã chứng tỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng bộ xã đã không ngừng được nâng cao, đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân luôn đươ ̣c quan tâm. Sự phát triển đồng đều, toàn diện trên tất cả các mặt
đã khẳng định được sự hoạt động đồng bộ, sự đóng góp to lớn của các chi bộ cho
phong trào xây dựng nông thôn mói hiện nay.
1.2.2. Đặc điểm của trường Mầm non chúng tôi :
Trường Mầm non chúng tôi là một trường mầm non thuộc vùng nông thôn
được thành lập từ năm 1971. Qua 42 năm xây dựng và phát triển, với phương châm
nhà trường là nội lực cơ bản, Đảng bộ, nhân dân và chính quyền địa phương là
14


động lực tích cực để trường tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Trường được
xây trên diện tích 6393 m2, từ năm 2007 đến nay trường trở thành trường mầm non
có qui mô lớn tập trung tại một điểm. Có 10 lớp và số học sinh có tại thời điểm này
lên đến 341 học sinh. Đây là thời kì ổn định của nhà trường về qui mô và số lượng,
chất lượng giáo dục hằng năm được nâng lên, trường có 07 năm được công nhận
trường tiên tiến cấp cơ sở, được UBND huyện công nhận tập thể lao động tiên tiến.
Trường đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia và chuyển sang trường công lập vào
năm học 2010 – 2011.
Năm học 2013 - 2014, trường có 20 giáo viên trực tiếp giảng dạy, 100% giáo
viên có trình độ đạt chuẩn, trong đó có 19 đồng chí có trình độ trên chuẩn, chiếm tỉ
lệ 95%. Trường có tổ chức Chi bộ Đảng gồm 13 đảng viên, chi bộ liên tục đạt cơ
sở đảng trong sạch vững mạnh và giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo trong toàn bộ hoạt
động của nhà trường. Các tổ chức Công đoàn; Đoàn thanh niên; Hội cha mẹ học
sinh đều hoạt động tích cực, góp phần cùng nhà trường hoàn thành nhiệm vụ.
Nhà trường tiếp tục đẩy mạnh và phát huy có hiệu quả cuộc vận động “Hai
không” với bốn nội dung, các cuộc vận động lớn của Ngành, tích cực “Học tập và

làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thực hiện tốt phong trào “xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”, cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là tấm
gương về đạo đức, tự học và sáng tạo”. Đặc biệt thực hiện chủ đề năm học “Tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin và đổi mới quản lý giáo dục nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện”, trường chúng tôi đã quan tâm đến công tác nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, tích cực tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin nhằm đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá đối
với giáo viên và học sinh. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng
dạy học nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy. Thực hiện nghiêm túc chương trình, kế
hoạch giảng dạy, các phong trào văn nghệ, thể dục thể thao nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện.
15


Trường tuy đã đạt chuẩn và chuyển sang trường công lập năm học 2010 2011, nhưng là đơn vị đóng trên địa bàn thuần nông, tỷ lệ con hộ nghèo khá cao
(chiếm 30% tổng số trẻ ), kinh tế của địa phương hạn hẹp nên các cơ sở vật chất
chưa được đầu tư bổ sung hàng năm kịp thời theo yêu cầu đòi hỏi xã hội.
1.2.3. Thực trạng của Trường mầm non chúng tôi:
Trường chúng tôi thuộc trường nằm trong vùng nông thôn nghèo, kinh phí đầu
tư của địa phương hạn chế. Phụ huynh các cháu chủ yếu là thuần nông nên kinh tế
gia đình có phần eo hẹp, dẫn đến một số trẻ chưa được học ở các lớp 1 tuổi, 2 tuổi,
3 tuổi dẫn đến tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ đạt 18,96%.
Giáo viên có trình độ trên chuẩn cao song trình độ chuyên môn áp dụng vào
thực tế chưa đáp ứng với nhu cầu của trẻ. Chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng
đều, giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh còn hạn chế, một số giáo viên mới ra trường chưa
nắm vững chương trình giáo dục mầm non hiện hành và ứng dụng công nghệ thông
tin vào soạn giảng còn nhiều yếu kém, kinh nghiệm giảng dạy, lên kế hoạch, thiết
kế giáo án chưa sáng tạo, còn rập khuôn máy móc, tổ chức các hoạt động cho trẻ
ôm đồm. Đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị dạy học đã có song chưa phong phú, sắp
xếp, trang trí các góc chưa khoa học, chưa phù hợp theo chủ đề, chủ điểm, chưa tạo

hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động...
Trường đã chuyển vào công lập nhưng giáo viên ngoài biên chế còn nhiều
(8/20 chiếm tỷ lệ: 40%) mức lương thấp, công việc, áp lực nhiều nên nhiều giáo
viên còn khó khăn vất vả, chưa thực sự yên tâm công tác.
1.2.3.1. Nguyên nhân của những hạn chế
Do trình độ nhận thức chưa toàn diện về giáo dục mầm non của xã hội hiện
nay, do sự thiếu hiểu biết của một số bộ phận người dân thuần túy là nông nghiệp
nông thôn.

16


Do suy thoái kinh tế toàn cầu, do điều kiện, hoàn cảnh của người dân còn
gặp nhiều khó khăn dẫn đến việc tiếp thu,, cập nhật các thông tin nuôi dạy con theo
khoa học còn hạn chế.
Lãnh đạo địa phương tuy đã quan tâm song do nguồn kinh phí của địa
phương hạn hẹp nên chưa mạnh dạn đầu tư cho giáo dục mầm non.
Giáo viên không có thời gian tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, kỷ năng sống cũng như kỷ năng, năng lực tổ chức các hoạt
động giáo dục trẻ.
Giáo viên trẻ, nhiệt tình, có trình độ trên chuẩn cao song trình độ chuyên
môn áp dụng thực tế chưa đáp ứng với nhu cầu của trẻ, còn lúng túng trước nhận
thức chưa toàn diện của xã hội, chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp, hình thức tổ
chức chăm sóc - giáo dục các cháu.
Để khắc phục những nguyên nhân dẫn đến khó khăn, tồn tại trên, chúng tôi
đã tiến hành khảo sát ngay từ đầu năm học.
1.2.3.2. Kết quả khảo sát thực trạng trước khi thực hiện đề tài tại đơn vị tôi
có:
- 100% người dân thuần nông; Tỷ lệ sinh con thứ 3 cao; Tỷ lệ huy động trẻ 5
tuổi ra lớp 100%; trẻ 4 tuổi ra lớp 86,7 %; trẻ 3 tuổi ra lớp 59,0 %; trẻ 2 tuổi ra lớp

18.2%; trẻ 1 tuổi ra lớp 5%.
Đời sống của nhân dân được nâng lên đáng kể năm 2013 có 23% hộ nghèo,
năm 2014 phấn đấu số hộ nghèo giảm xuống còn 15 %.
Đầu năm số giáo viên xếp loại theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non
có: Loại xuất sắc : 8/20, tỷ lệ 40%; Loại khá: 8/20, tỷ lệ 40% ; Loại đạt TB: 4/20,
tỷ lệ 20%; không có loại yếu kém.
- Hồ sơ sổ sách, giáo án soạn giảng được xếp loại: Tốt: 6/20 tỷ lệ: 30%; Khá:
6/20 tỷ lệ: 30%; TB: 8/20, tỷ lệ: 40%
17


- Giáo viên có trình độ đại học: 11 đ/c; cao đẳng; 01đ/c; Trung cấp: 08 đ/c.
2. Các giải pháp cơ bản:
2.1. Phương hướng chung:
Tập trung quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI, xây dựng và nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, đảm bảo về số
lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu đổi mới về nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức. Đưa trường mầm non chúng tôi ngày càng phát triển, nâng cao chất
lượng về công tác chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp với xu thế phát triển của đất nước
trong thời kỳ mới.
2.2. Giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm
non tại trường chúng tôi.
2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền địa phương đối
với việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường Mầm non.
Tăng cường công tác phổ biến, quán triệt sâu rộng các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vị trí và tầm quan trọng của giáo
dục - đào tạo đối với sự phát triển đất nước nói chung và đối với sự phát triển giáo
dục của địa phương nói riêng nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách
nhiệm và hành động của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
và các tầng lớp nhân dân; trong mỗi gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư đối với

sự nghiệp phát triển giáo dục của xã trong tình hình mới;
Căn cứ thực tế công tác giáo dục của địa phương, cấp uỷ xây dựng nghị quyết
lãnh đạo; chính quyền, cơ quan quản lý giáo dục, trường học xây dựng kế hoạch,
chương trình hành động, xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, đề ra giải pháp cụ thể, sát
với tình hình theo hướng đổi mới, nâng cao chất lượng, phát triển toàn diện, bền
vững;

18


Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân (hội Cựu chiến binh, Phụ nữ,
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Nông dân, Công đoàn), các tổ chức kinh
tế, xã hội, Ban đại diện cha mẹ học sinh, hội Khuyến học, hội Cựu giáo chức,...
trong công tác phối hợp, động viên các lực lượng xã hội tham gia thực hiện nhiệm
vụ phát triển giáo dục và công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định,
quy chế về giảng dạy, học tập, thi tuyển, quản lý tài chính, tài sản…Tranh thủ sự
giúp đỡ của Phòng Giáo dục và Đào tạo, các ngành của huyện và các trường Tiểu
học, Trung học cơ sở đóng trên địa bàn xã. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục,
huy động mọi nguồn lực phát triển giáo dục - đào tạo; đảm bảo công bằng và
hướng tới xã hội học tập;
Kịp thời tuyên truyền phản ánh, cổ vũ động viên khuyến khích đối với các tổ
chức, cá nhân có thành tích; đánh giá, tổng kết, nhân rộng các mô hình, điển hình
tốt trong sự nghiệp phát triển giáo dục của địa phương. Thực hiện tốt chế độ khen
thưởng theo quy định. Đẩy mạnh hoạt động khuyến học, khuyến tài, khen thưởng
kịp thời cho cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh có thành tích cao trong các kỳ thi
giáo viên giỏi.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm đối với cán bộ, giáo
viên vi phạm quy chế chuyên môn, vi phạm chính sách, pháp luật, mất đoàn kết nội
bộ; không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2.2.2. Nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lòng say mê nghề nghiệp cho

đội ngũ giáo viên.
Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 đã chỉ ra rằng, một trong những
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém, bất cập của giáo dục, đào tạo nước
ta lâu nay là “chưa nhận thức đúng vai trò quyết định của đội ngũ nhà giáo…”.
Theo chúng tôi, đây là một nhận định, đánh giá nghiêm túc, khách quan. Từ Hội
nghị Trung ương 2, khóa VIII, Đảng đã chỉ rõ: “Giáo viên là nhân tố quyết định
chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh”. Luật giáo dục năm 2005 cũng đã
19


khẳng định: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo
dục…”. Chính vì vậy, muốn phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên nhằm đổi mới
phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc giáo dục trẻ, chúng ta phải giáo dục nâng
cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên trong trường.
Bởi nhận thức của giáo viên ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của nhà
trường. Do vậy hàng năm chúng tôi đã tăng cường bồi dưỡng chính trị, phẩm chất
đạo đức, nếp sống trên cơ sở đó, xây dựng tập thể sư phạm đoàn kết, cộng đồng
trách nhiệm. Muốn đạt được điều này thì phải làm cho mỗi giáo viên luôn có ý
thức phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng Sản. Mỗi một đảng viên phải thật sự
gương mẫu về mọi mặt là hạt nhân của phong trào quần chúng. Vì vậy phải làm
cho giáo viên hiểu được quan điểm đường lối giáo dục của Đảng, nhiệm vụ của
ngành học mầm non bằng cách: Tạo điều kiện cho tất cả giáo viên được học tập
nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tiếp thu các
chế độ, chính sách của chính quyền địa phương, in ấn tài liệu đủ cho 100% giáo
viên nghiên cứu trước, sau đó tổ chức thảo luận, sau mỗi buổi học đều có bài thu
hoạch kiểm tra việc hiểu nội dung, các chủ trương đó như thế nào, việc học tập các
chủ trương, đường lối phải được cụ thể hóa với nhiệm vụ của bậc học. Tổ chức
cho giáo viên học tập nhiệm vụ năm học của ngành, nội qui quy chế của nhà
trường, tiếp thu những chính sách đổi mới về giáo dục nói chung và giáo dục mầm
non nói riêng. Từ đó giúp cho giáo viên nhận thức và xác định đúng vị trí của mình

trong giai đoạn hiện nay.
Hưởng ứng cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung trọng tâm do Bộ Giáo
dục và Đào tạo phát động, trước hết cần phải chuẩn bị những nội dung để cho giáo
viên biết mình cần phải làm gì. Vấn đề thứ nhất là vấn đề dạy học như thế nào để
phát huy tính tích cực ở trẻ, vì vậy đòi hỏi giáo viên lên lớp phải tận tụy, phải
chuẩn bị đồ dùng dạy học thật đầy đủ và chu đáo, áp dụng đổi mới hình thức, đổi
mới phương pháp dạy học một cách hợp lý. Vấn đề thứ hai đó là chúng ta chăm sóc
20


giáo dục trẻ với mục tiêu phát triển toàn diện nên tất cả các nội dung phải được cân
bằng, như vậy kết quả mới thực chất. Một vấn đề nữa là việc “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được cụ thể hóa bằng các buổi nói chuyện về
Bác Hồ, thi kể chuyện về tấm gương đạo đức của Người trong tập thể giáo viên, từ
đó giúp giáo viên thấm nhuần tư tưởng của Người. Việc học tập tư tưởng chính trị
là việc làm thường xuyên thông qua các cuộc họp hội đồng, chi bộ, công đoàn từ đó
giúp giáo viên có lập trường tư tưởng tốt, xây dựng khối đoàn kết nhất trí cao.
Bồi dưỡng giáo viên trở thành những tuyên truyền viên để tuyên truyền giáo
dục mầm non cho cha mẹ trẻ và cộng đồng về nuôi dạy con theo khoa học. Làm tốt
công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Tuyên truyền để huy động trẻ ra
lớp đạt chỉ tiêu.
2.2.3. Nâng cao ý thức trách nhiệm nghề nghiệp:
Để nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ giáo viên, chúng tôi đã tạo điều
kiện cho giáo viên nghiên cứu luật giáo dục; điều lệ trường mầm non; chuẩn nghề
nghiệp giáo viên mầm non; Hướng dẫn giáo viên tự đánh giá theo qui định chuẩn
nghề nghiệp giáo viên mầm non (theo quyết định 02/2008/QĐ-BGD-ĐT), để giáo
viên thấy được mình còn thiếu những vấn đề gì so với chuẩn và động viên giáo
viên tự học, tự bồi dưỡng phấn đấu đạt chuẩn.
Để công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non có hiệu quả, chúng tôi đầu tư về
thời gian, hỗ trợ kinh phí học tập, động viên giáo viên tích cực tự học, tự bồi

dưỡng, học qua trường lớp, học qua sách báo, đi thực tế tham quan các đơn vị
bạn, học qua các trang wed giáo dục…nhằm xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm
chất chính trị vững vàng, có đạo đức lối sống lành mạnh, trong sáng của nhà giáo,
tâm huyết, yêu thương tôn trọng trẻ, có ý thức phấn đấu vươn lên trong nghề
nghiệp. Trung thực trong công tác, đoàn kết trong quan hệ với đồng nghiệp. Tích
cực tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nắm vững kiến thức
cơ bản về giáo dục mầm non, có kiến thức phổ thông về chính trị, kinh tế, văn hóa
21


xã hội liên quan đến giáo dục mầm non; có kỷ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ,
đồng nghiệp, phụ huynh, cộng đồng và kỷ năng tổ chức thực hiện các hoạt động
chăm sóc – giáo dục cho trẻ.
2.2.4. Nâng cao trình độ chuyên môn và phương pháp dạy học.
Nội dung công tác chăm sóc – giáo dục trẻ được thể hiện đầy đủ, toàn diện
trong các hoạt động của trẻ ở trường mầm non. Mỗi hoạt động có một thế mạnh
riêng. Ví dụ: Thể dục và trò chơi vận động giúp cho thể lực của trẻ phát triển mạnh,
các giác quan trở nên nhanh nhạy, trẻ hoạt động nhanh nhẹn hơn…Làm quen với
toán, trò chơi xây dựng, trò chơi học tập…giúp trẻ lĩnh hội những kiến thức sơ
đẳng về không gian, thời gian, phát triển trí tuệ cho trẻ…Do đó, cần phải nâng cao
trình độ chuyên môn và phương pháp dạy học cho đội ngũ giáo viên nhằm tổ chức
tốt các hoạt động, thực hiện tốt chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ.
Hiệu quả của việc tổ chức các hoạt động cho trẻ ở trường mầm non phụ thuộc
rất lớn vào công tác chăm sóc và giáo dục của giáo viên. Chúng tôi bồi dưỡng giáo
viên nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ, tố chức các hoạt động cho trẻ
phải có kế hoạch khoa học, có hệ thống và giáo viên phải có kỷ năng quản lý, tổ
chức các hoạt động học tập, vui chơi, lao động cho trẻ.
Để thực hành không khập khiểng so với lý thuyết, để học đi đôi với hành tôi
đã lên kế hoạch và tổ chức dạy thể nghiệm, dạy mẫu, tổ chức dạy thao giảng, cho
giáo viên tự đăng ký các hoạt động, tạo điều kiện cho giáo viên có cơ hội thể hiện

những gì đã tiếp thu được qua lý thuyết.
Tạo điều kiện cho tất cả giáo viên được tham gia dạy mời đồng nghiệp dự
giờ và tạo điều kiện cho tất cả giáo viên được dự giờ đồng nghiệp, được đánh giá,
nhận xét, bổ sung và đúc rút kinh nghiệm qua các tiết dạy mẫu, dạy thể nghiệm,
dạy thao giảng. Qua đó tạo điều kiện cho giáo viên được cọ xát nhiều hơn, giúp
giáo viên tự tin, chủ động và sáng tạo trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo
dục trẻ.
22


2.2.4.1. Xác định nội dung, chương trình và lên kế hoạch bồi dưỡng
Tăng cường bồi dưỡng đội ngũ giáo viên để đổi mới phương pháp dạy học cần
phải triển khai một cách hợp lý, xây dựng hệ thống kế hoạch chương trình, nội
dung bồi dưỡng bao gồm chính trị tư tưởng, kiến thức văn hóa, chuyên môn nghiệp
vụ, năng lực sư phạm và các kiến thức bổ trợ khác để bổ sung kiến thức, tăng vốn
hiểu biết cho giáo viên, hình thành năng lực truyền đạt kiến thức, giúp cho giáo
viên tư duy, sáng tạo có thói quen tự học, tự bồi dưỡng. Nội dung bồi dưỡng phải
kết hợp kiến thức cơ bản với thực hành, rèn luyện kỹ năng tay nghề, năng lực sư
phạm và tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên vào thời điểm thích hợp. Kế hoạch bồi
dưỡng của trường chúng tôi trong năm qua bao gồm:
- Động viên, khuyến khích giáo viên học tin học vào tháng 6/2013(vào dịp hè).
- Bồi dưỡng tư tưởng chính trị, nhận thức cho giáo viên vào tháng 8, tháng
11/2013.
- Bồi dưỡng phương pháp giảng dạy: Tháng 9, tháng 10/2013 kết hợp bồi
dưỡng qua chuyên đề, bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng qua các đợt thao giảng
trong cả năm học.
- Bồi dưỡng thiết kế bài giảng bằng giáo án điện tử vào tháng 9/2013
- Bồi dưỡng kỷ năng làm đồ dùng, đồ chơi vào tháng 11, tháng 12/2013
- Tổ chức thao giảng 4 đợt 20/10, 20/11, 22/12, 08/03 hàng năm.
- Bồi dưỡng giáo viên yếu; phát hiện và bồi dưỡng giáo viên có năng lực

thường xuyên.
- Tổ chức thi giáo viên giỏi vào tháng 2 hàng năm.
- Tổ chức viết sáng kiến kinh nghiệm vào tháng 12 hàng năm.

23


- Tham quan trường bạn: Trường mầm non Thị Trấn Đức Thọ; trường mầm
non Đức Yên; trường mầm non Tùng Ảnh - huyện Đức Thọ. Trường mầm non
Thiên Lộc – huyện Can Lộc.
2.2.4.2. Bố trí giáo viên hợp lý.
Việc bố trí giáo viên hợp lý ở các lớp phản ánh trình độ về mọi mặt của Ban
giám hiệu nhà trường. Đây là nhiệm vụ quan trọng để đi đến thành công trong việc
chăm sóc – giáo dục trẻ ở trường mầm non. Chúng tôi đã bố trí mỗi lớp có ít nhất
một giáo viên có kinh nghiệm trong giảng dạy, tâm huyết với nghề, nắm vững các
nội dung, phương pháp, hình thức tố chức các hoạt động sư phạm cho trẻ, biết vận
dụng linh hoạt, sáng tạo trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Bên cạnh đó chúng
tôi ưu tiên bố trí giáo viên dạy lớp 5 tuổi có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình
độ nhận thức, trình độ ứng dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học và tuổi tác
tương đối đồng đều. Việc bố trí giáo viên hợp lý đã tạo được niềm vui, sự phấn
khởi, hăng hái hoàn thành nhiệm vụ trong tập thể giáo viên. Muốn nhanh chóng
nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên mầm non hiện nay chúng ta cần kết hợp nhiều
loại hình bồi dưỡng như:
2.2.4.3. Bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ:
Là loại bồi dưỡng dài ngày, nội dung bồi dưỡng vừa cập nhật, vừa nâng cao,
thời gian bồi dưỡng linh hoạt nên mọi người đều được tham gia đầy đủ với ý thức
cao. Nội dung bồi dưỡng có tính toàn diện, nếu ý thức bồi dưỡng thường xuyên của
giáo viên nghiêm túc sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng các bài dạy trên lớp.
2.2.4.4. Bồi dưỡng chuyên đề: Là hình thức bồi dưỡng cập nhật những nội
dung có tính cấp thiết để bổ sung, điều chỉnh chương trình và phương pháp giảng

dạy. Bồi dưỡng qua chuyên đề là biện pháp tích cực có hiệu quả cao trong việc
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, muốn tổ chức tốt ban giám hiệu phải nghiên
cứu và có kế hoạch bồi dưỡng theo từng thời điểm trong năm thích hợp và tổ chức
thực hiện các chuyên đề: Hướng dẫn xây dựng kế hoạch năm học, tháng, tuần và
24


hằng ngày theo chương trình và từng độ tuổi phù hợp; Đổi mới phương pháp, hình
thức tổ chức các hoạt động cho trẻ; Hướng dẫn thực hiện bộ chuẩn trẻ 5 tuổi; sử
dụng biểu đồ phát triển trẻ em; vệ sinh an toàn thực phẩm; Kỷ năng sống…. trong
quá trình thực hiện phải có kiểm tra đánh giá, sơ kết, tổng kết, tổ chức thi giáo viên
giỏi để rút kinh nghiệm, tổ chức triển khai lần lượt từng chuyên đề đến giáo viên,
khi tổ chức chuyên đề nào thì phải xây dựng kế hoạch chỉ đạo cụ thể..Và chúng tôi
lưu ý các vấn đề sau:
Triển khai toàn trường: Việc triển khai thực hiện khi có Hiệu phó phụ trách
chuyên môn giỏi hướng dẫn, nếu triển khai không chuyên sâu về chuyên môn thì
khi thực hiện sẽ có những bước đi không đúng hướng.
Thể hiện chuyên đề: Về lý thuyết tôi Hiệu phó phụ trách chuyên môn trực tiếp
lên lớp. Sau đó chọn giáo viên giỏi, soạn bài kỹ, có sự giúp đỡ của phó hiệu trưởng
phụ trách chuyên môn. Trước khi dạy thể nghiệm phải tổ chức dạy thử, dạy thể
nghiệm xong, tổ chức rút kinh nghiệm để đánh giá xếp loại tiết dạy. Cũng có những
chuyên đề, tôi để cho giáo viên tự soạn bài và tổ chức cho đồng nghiệp dự giờ, sau
đó tổ chức thảo luận, đánh giá từ giáo án đến các bước lên lớp chổ nào được, chổ
nào chưa được.
Triển khai đại trà: Ban giám hiệu và tổ trưởng dự giờ góp ý từng tiết dạy cho
từng giáo viên trong tổ, tổ chức cho giáo viên dự giờ, thăm lớp lẫn nhau, cách làm
này vừa khắc sâu nội dung chuyên đề vừa khơi dậy được tiềm năng đội ngũ để
người biết trước giúp đỡ người chưa biết và người chưa biết cần cố gắng học tập để
vươn lên cùng tiến bộ.
2.2.4.5. Bồi dưỡng thông qua sinh hoạt cụm chuyên môn liên trường.

Đây là dịp tốt để cho toàn thể cán bộ và giáo viên có điều kiện học hỏi qua các
giờ dạy mẫu, bổ sung hồ sơ bài soạn và đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực. Bản thân tôi là Cụm trưởng phụ trách chuyên môn của Cụm chuyên môn
liên trường nên có nhiều thuận lợi trong việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo
25


×