TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO
VIÊN TRONG TRƯỜNG MẦM NON
A.
PHẦN MỞ ĐẦU:
Lý do chọn đề tài:
Bước vào thế kỉ XXI, với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công
nghệ, Đảng, Nhà nước ta đang ra sức đưa đất nước đi lên về mọi mặt: kinh tế,
chính trị, văn hóa, giáo dục… Trong đó, giáo dục - đào tạo được xem là “quốc
sách hàng đầu”(Đại hội VII của Đảng khẳng định). Sự hưng thịnh của đất nước
phụ thuộc nhiều vào sự hưng thịnh của giáo dục - đào tạo. Giáo dục luôn được
xem với tư cách là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, là “chiếc chìa khóa
mở cửa vào tương lai”, là nồng cốt trong việc tạo nguồn lực con người. Đảng
cộng sản Việt Nam khẳng định: “Nguồn lực con người là người lao động có trí
tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi dưỡng,
phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học - công
nghệ hiện đại.
Giáo dục mầm non là ngành học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân
có vai trò quan trọng là hình thành ở trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con
người mới xã hội chủ nghĩa Việt nam và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ
vào trường phổ thông.
Cô giáo mầm non không chỉ là người thầy, mà còn là người mẹ, người bạn
gần gũi với trẻ trong mọi hoạt động. Giúp đỡ trẻ, hướng dẫn trẻ, chăm sóc trẻ,
yêu thương và quan tâm đến trẻ.
Cô giáo mầm non là những kỹ sư tâm hồn, những bác sĩ, những ca sĩ, những
họa sĩ để có thể hiểu được hết tâm sinh lý của trẻ, dạy trẻ múa, hát, biết yêu thơ
ca, truyện kể, biết thể hiện những cảnh vật thiên nhiên, con người gần gũi, xung
quanh trẻ thông qua những tranh vẽ của trẻ.
Cô giáo mầm non còn là những tuyên truyền viên, những cán bộ tham mưu
xuất sắc trong mọi chiến dịch triển khai nhiệm vụ, kế hoạch năm học của nhà
trường.
Trong những năm gần đây, chương trình giảng day của bậc học Mầm non
ngày càng được đổi mới, cải tiến nhiều về phương phap, hình thức. Không chỉ
dạy 1,2 tiết lên lớp trong một buổi học là xong, mà giáo viên còn phải tổ chức
rất nhiều hoạt động khác. Chỉ riêng trong một tiết day cũng đã tích hợp rất nhiều
I.
1/20
1
các bộ môn, các chuyên đề khác như tích hợp về An toàn giao thông, phòng
ngừa thiên tai, vệ sinh dinh dưỡng, an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường ...
Bên cạnh các giờ lên lớp, giáo viên còn phải tổ chức tốt các chuyên đề như Làm
quen chữ cái, công tác tuyên truyền, công tác làm đồ dùng đồ chơi. Nhưng sự
thay đổi này được tiến hành trên toàn bộ đội ngũ giáo viên quá “cũ” về trình độ
đào tạo, về khả năng sáng tạo, về nội dung tiếp cận. Tuy cũng có một số giáo
viên đang được nâng cao trình độ bằng phương pháp học các lớp “Tại chức”...
Chính vì điều đó việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên là một vấn đề
hết sức quan trọng và cần thiết.
Chất lượng giáo dục mầm non do đội ngũ giáo viên mầm non quyết định. Họ
là nhân tố trung tâm của quá trình thực hiện mục tiêu đào tạo. Vai trò của ngành
học chỉ được thể hiện và phát huy bằng chính vai trò của người giáo viên mầm
non- chủ thể trực tiếp của quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Vì vậy muốn nâng
cao chất lượng của ngành học, vấn đề mang tính chiến lược hàng đầu là phải
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên cả về trình độ, phẩm chất và năng lực.
Nghị quyết hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã
nêu: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội
tôn vinh. Giáo viên phải có đủ đức, đủ tài. do đó phải đào tạo giáo viên có chất
lượng cao, thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên, bồi dưỡng, chuẩn
hoá, nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ giáo viên.” Có thể nói, đội ngũ
giáo viên nói chung và giáo viên mầm non nói riêng là lực lượng cốt cán biến
các mục tiêu giáo dục thành hiện thực, đội ngũ này giữ vai trò quan trọng quyết
định chất lượng và hiệu quả giáo dục. Bởi vậy phải nhanh chóng củng cố và bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên giỏi về chuyên môn, vững vàng về nghiệp vụ tay nghề,
có phẩm chất đạo đức phong cách sư phạm tốt mới đáp ứng kịp thời xu hướng
đổi mới của nền giáo dục hiện nay.
Là một cán bộ quản lý của trường, tôi thấy công tác bồi dưỡng, nâng cao chất
lượng cho giáo viên trong trường mầm non là hết sức cần thiết. Nếu làm tốt
công tác này sẽ giúp giáo viên nắm vững phương pháp dạy, có hình thức tổ chức
các tiết học linh hoạt, sáng tạo, giúp họ bình tĩnh, tự tin khi lên lớp, từ đó nâng
cao trình độ, nghiệp vụ, tay nghề.
Từ những nhận thức trên , tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên trong trường mầm non”. Đặc biệt là giáo viên trường
Mần non Chuyên Mỹ.
II. Mục đích nghiên cứu:
2/20
2
Nghiên cứu thực trạng giáo dục Mầm non để tìm ra những biện pháp nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên trong trương mầm non.
III. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
1. Đối tượng nghiên cứu
- Cán bộ, Giáo viên trong trường mầm non Chuyên Mỹ.
2. Khách thể nghiên cứu.
- Chất lượng của đội ngũ giáo viên.
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của đề tài.
- Qua nghiên cứu để xác định nguyên nhân của thực trạng đội ngũ giáo
viên mầm non.
- Tìm ra những biện pháp phù hợp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
mầm non.
V. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện nhiệm vụ của đề tài, tôi sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
1.Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Tìm đọc, nghiên cứu các tài liệu đã học và tài liệu tham khảo các Văn
kiện của Đảng, chỉ thị của Nhà nước về giáo dục mầm non.
2. Phương pháp điều tra khảo sát:
Đầu năm học mới công tác tổ chức khảo sát trình độ của giáo viên được
thông qua hội giảng đầu năm học. Cho giáo viên tự đánh giá xếp loại bản thân
từng người.
3. Phương pháp thống kê:
Thống kê đầy đủ, chi tiết về trình độ đội ngũ giáo viên, năng lực chuyên
môn, tuổi đời, tuổi nghề, chất lượng giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy
và học.
4. Phương pháp phân tích tổng hợp:
Dựa trên cơ sở số liệu đã có trên, từ đó đánh giá, tìm nguyên nhân thành
công và hạn chế. Rút ra kết luận có những đề xuất phù hợp về chất lượng đội
ngũ.
VI. Phạm vi – Thời gian nghiên cứu:
- Nghiên cứu trong phạm vi tại đơn vị trường Mầm non Chuyên Mỹ.
- Thời gian thực hiện từ tháng 9/2018 đến tháng 4/2019.
3/20
3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1 Cơ sở lý luận.
Như chúng ta đã biết Ngành học Mầm non là bậc học đầu tiên là nền móng
sơ khai của hệ thống giáo dục quốc dân. Song việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo
viên lại càng quan trọng hơn, quyết định hơn, làm đòn bẩy để nâng cao chất
lượng giáo dục mầm non. Do đó việc xây dựng bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên
với phương châm là yêu nghề mến trẻ và thực sự là người mẹ hiền thứ hai của
trẻ. Để đạt được mục tiêu trên chúng ta phải xây dựng được một đội ngũ giáo
viên vững mạnh, một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi có như vậy với đáp ứng được
yêu cầu của giáo dục hiện nay. Đó chính là tập thể sư phạm của nhà trường đủ
về số lượng, đảm bảo về chất lượng vừa “ Hồng” vừa “chuyên” Tập thể sư phạm
bao gồm cán bộ quản lý và giáo viên, trong đó giáo viên là lực lượng chủ yếu vì
đó là người trực tiếp tổ chức quá trình giáo dục phải có những thành viên trong
tập thể sư phạm gắn bó với nhau, phải có lý tưởng chung, tinh thần trách nhiệm
chung trước thế hệ trẻ, với những tình cảm đẹp đẽ đó các cán bộ giáo viên động
viên giúp đỡ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên vững mạnh là việc làm rất cần thiết ,
thường xuyên và liên tục. Vì đội ngũ giáo viên là người quyết định đến chất
lượng giáo dục toàn diện cho trẻ Mầm non.
1.2 Các khái niệm cơ bản:
- Về giáo viên:
Giáo viên là người có đầy đủ kiến thức cơ bản về giáo dục mầm non trong việc
chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ mầm non và áp dụng thực tế vào trong
việc làm cụ thể bằng những kiến thức đã có.
- Chất lượng đội ngũ:
Là hiệu quả công việc trong quá trình mà người giáo viên thực hiện được
1.3 Các đặc điểm cơ bản của đối tượng và khách thể nghiên cứu:
- Lao động sư phạm của giáo viên mầm non là loại lao động rất đặc thù.
Tính đặc thù được thể hiện rõ nét ở đối tượng lao động, phương tiện lao động,
thời gian và hiệu quả lao động.
4/20
4
- Đối tượng lao động của giáo viên mầm non là trẻ em dưới 6 tuổi. Đây là
lứa tuổi vừa non nớt, vừa tăng trưởng và phát triển rất nhanh, đồng thời rất nhạy
cảm với mọi tác động. Những can thiệp trong chăm sóc giáo dục trẻ càng thích
hợp bao nhiêu thì càng tạo nên những nền tảng vững chắc bấy nhiêu cho những
tiến bộ sau này của trẻ.
- Giáo viên mầm non không chỉ làm nhiệm vụ giáo dục trẻ mà còn phải
chăm sóc nuôi dưỡng các cháu phát triển tài hoa, cân đối về thể chất cũng như
tinh thần. Nếu không tính đến những nét đặc trưng về lứa tuổi này thì không thể
tổ chức có hiệu quả công tác chăm sóc nuôi dạy trẻ. Giáo viên mầm non phải là
người có trình độ khoa học nuôi dậy trẻ, có năng lực sư phạm và có những phẩm
chất nghề nghiệp cần thiết mới hoàn thành nhiệm vụ xã hội giao phó.
- Phương tiện lao động chủ yếu của giáo viên mầm non chủ yếu là phương
tiện tinh thần. Giáo viên tác động đến trẻ chủ yếu bằng lời nói, bằng tình cảm,
bằng tấm lòng và bằng sự cảm hóa của bản thân.
- Chỉ có thật sự yêu thương tôn trọng trẻ và thành thạo về phương pháp thì
lao động sư phạm của giáo viên mầm non mới có hiệu quả.
- Hiệu quả lao động sư phạm của giáo viên mầm non là chất lượng thực hiện
mục tiêu đào tạo, được thể hiện cụ thể ở nhân cách đứa trẻ.
Từ những đặc điểm nên trên cho chúng ta thấy lao động sư phạm của giáo
viên mầm non là hết sức phức tạp, vất vả, tinh tế, đầy khó khăn nhưng vô cùng
có trách nhiệm đối với xã hội. Việc làm của cô giáo mầm non hôm nay là đặc
nền móng cho thế giới ngày mai.
Để làm tốt công tác đặc nền móng của mình, yêu cầu người giáo viên mầm
non phải luôn luôn yêu thương, tôn trọng trẻ, có tinh thần trách nhiệm, phải
tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao nghiệp vụ, tự rèn luyện tay
nghề, nắm được quan điểm mục tiêu đào tạo, nội dung, phương pháp giáo dục
mầm non, biết vận dụng vào thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục.
Muốn làm được điều đó, trước hết tôi cần phải kế hoạch cụ thể, quan tâm đến
công tác bồi dưỡng giáo viên, đây là công việc phải được làm thường xuyên,
liên tục, lâu dài để xây dựng một đội ngũ giáo viên có chất lượng đẻ phục vụ
cho công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng một thế hệ tương lai cho đất nước.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp của vấn đề nghiên cứu
2.1. Khảo sát thực trạng:
a/ Tình hình chung:
Trường Mầm non Chuyên Mỹ là một trường công lập. Trường được phụ
huynh nơi đây rất tin tưởng vào chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ nên hiện nay
5/20
5
số lượng trẻ học ở trường ngày càng đông. Nhưng nhu cầu phụ huynh khi gửi
con cần được chăm sóc, dạy dỗ quan tâm đúng mức hơn.
b/ Tình hình đội ngũ giáo viên:
Đội ngũ giáo viên rất nhiệt tình, tận tụy với nghề. Trường giữ vững khối đoàn
kết nội bộ, giúp đỡ nhau trong công tác và đời sống. Số lượng giáo viên được
tăng dần theo từng năm khi trường tổ chức bán trú.
TT
CBGVNV
Tổng
số
CBQL
Giáo
viên
Nhân
viên
Ghi
chú
1
2
3
4
5
6
7
8
Đảng viên
15
3
11
1
Trình độ chuyên môn
60
3
41
16
Đại học trở lên
41
3
37
1
Cao đẳng
6
0
1
5
Trung cấp
13
0
3
10
Trình độ TC lý luận chính trị
3
3
Trình độ Tiếng Anh A2
43
3
38
2
Trình độ TC Tin học
46
3
37
6
Bảng khảo sát chất lượng đội ngũ đầu năm học
T
CBGV, NV Số lượng
Tốt
Khá
Đạt
Chưa
T
đạt
1
CBQL
03
2
1
0
0
2
Giáo viên
41
12
25
04
0
d. Về cơ sở vật chất:
- Để nâng cao chất lượng dạy và học thì cơ sở vật chất rất cần thiết cho giáo
viên thực hiện chương trình dạy nhằm đạt kế hoạch nhiệm vụ năm học.
- Hiện nay trang thiết bị và đồ dùng phục vụ cho công tác chăm sóc và giáo
dục trẻ tương đối đầy đủ: Có bàn ghế theo quy định, có phòng vệ sinh, có nguồn
nước sạch, có bếp ăn,…
2.2. Thuận lợi:
Đội ngũ có ý thức trách nhiệm cao trong công việc, nhiệt tình tâm huyết
với nghề. 100% giáo viên có trình độ đào tạo đạt chuẩn.
Tập thể cán bộ giáo viên, nhân viên trong trường đoàn kết cùng quyết tâm
phấn đấu xây dựng, giữ vững trường tiên tiến xuất sắc và trường mầm non đạt
chuẩn Quốc gia. Đội ngũ cán bộ giáo viên tâm huyết với nghề, luôn yêu nghề,
mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao, luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được
giao.
6/20
6
Các đồng chí trong ban Giám hiệu nhà trường tận tụy với công việc, tâm
huyết với nghề, năng động, sáng tạo trong công tác quản lý, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ vững vàng.
Nhà trường luôn chăm lo điều kiện làm việc cũng như đời sống tinh thần
cho đội ngũ: tăng trưởng cơ sở vật chất hàng năm, bổ sung thay thế các trang
thiết bị đồ dùng dạy học; tạo điều kiện cho giáo viên theo học các lớp đào tạo
trên chuẩn.
Nhà trường luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn của Phòng
Giáo dục-Đào tạo, được sự quan tâm của lãnh đạo địa phương, tạo điều kiện
giúp đỡ, động viên về tinh thần, vật chất... để nhà trường hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ của ngành.
Các bậc phụ huynh có trình độ nhận thức cao, có sự phối hợp chặt chẽ với
nhà trường trong việc thống nhất các biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ, tích cực
ủng hộ nhà trường về tinh thần và cơ sở vật chất.
2.3. Khó khăn:
Do trình độ đội ngũ đào tạo chủ yếu "tại chức"; vừa học, vừa làm nên còn
hạn chế về tính linh hoạt, sáng tạo, tay nghề của giáo viên không đồng đều; đội
ngũ giáo viên giỏi đều được tạo nguồn và bổ nhiệm cán bộ quản lý các trường
mầm non trên địa bàn huyện nên đội ngũ giáo viên giỏi làm nồng cốt mỏng. Một
số giáo viên mới vào nghề thiếu kinh nghiệm, giáo viên lớn tuổi khả năng tiếp
cận chương trình, ứng dụng công nghệ thông tin, tính linh hoạt sáng tạo trong
việc tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục
mầm non còn nhiều hạn chế. Một số giáo viên chưa có ý thức vươn lên trong
nghề nghiệp. Năng lực sư phạm và trình độ tay nghề chưa tương xứng với bằng
cấp đào tạo.
Trước thực trạng chất lượng đội ngũ, đối chiếu với yêu cầu nhiệm vụ của
cấp học trong giai đoạn hiện nay. Là một cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn
tôi xác định trách nhiệm của mình trong việc xây dựng, bồi dưỡng nâng cao chất
lượng đội ngũ và cũng chính là động lực để giúp tôi suy nghĩ, trăn trở, nghiên
cứu, tìm tòi thử nghiệm các biện pháp, giải pháp bồi dưỡng nhằm nâng cao trình
độ tay nghề, năng lực sư phạm cho giáo viên góp phần nâng cao chất lượng
chăm sóc-giáo dục trẻ xứng đáng là địa chỉ tin cậy của các bậc phụ huynh trong
và ngoài địa bàn.
7/20
7
2.2. Các biện pháp thực hiện:
2.2.1. Chỉ đạo giáo viên xây dựng và thực hiện kế hoạch chương trình
Ngay từ đầu năm học, bản thân tôi đã chủ động xây dựng Kế hoạch chỉ
đạo chương trình giáo dục. Dựa vào đặc điểm, nội dung và kết quả mong đợi
của từng độ tuổi để xây dựng kế hoạch đầy đủ 5 lĩnh vực phù hợp với yêu cầu đề
ra. Ngoài việc xây dựng các nội dung theo quy định, khác với những năm trước
chúng tôi đã mạnh dạn đưa những nội dung mới vào hoạt động học. Trong đợt
bồi dưỡng chuyên môn đầu năm học bản thân tôi đã hướng dẫn và tổ chức cho
giáo viên thảo luận về kế hoạch chung của nhà trường (có thể điều chuyển một
số nội dung, đề tài cho phù hợp với chủ đề…). Sau đó để giáo viên cụ thể hóa kế
hoạch của nhà trường phù hợp với tình hình thực tế của lớp, lựa chọn đề tài, bài
thơ, câu chuyện, bài hát, bản nhạc…đưa vào kế hoạch cho phù hợp. Kế hoạch
thực hiện chương trình của các lớp được chúng tôi kiểm tra, phê duyệt kĩ càng.
Một điểm mới cần đề cập đến trong việc xây dựng kế hoạch chuyên môn
đó là tăng cường chú trọng phát triển thể chất cho trẻ trong trường mầm non. Tôi
đã cùng Ban giám hiệu xây dựng kế hoạch năm học ưu tiên mua sắm các loại đồ
dùng phục vụ cho hoạt động giáo dục phát triển thể chất cho trẻ . Phân công bố trí
giáo viên hợp lý; phát động các phong trào thể dục thể thao trong nhà trường. Chỉ
đạo rà soát kiểm tra đối chiếu các loại đồ dùng tối thiểu theo thông tư 02 của Bộ
GD&ĐT để có kế hoạch điều chỉnh mua sắm các trang thiết bị phục vụ giáo dục
phát triển vận động cho các lớp kịp thời đầy đủ. Chỉ đạo các khối, nhóm lớp xây
dựng môi trường học tập trong và ngoài lớp theo chương trình từng chủ đề.
Trực tiếp chỉ đạo các tổ, khối trong nhà trường sinh hoạt chuyên môn tập trung vào
lĩnh vực phát triển thể chất. Đặc biệt chuyên đề phát triển vận động được chú trọng
nhiều hơn sau khi được tham gia đợt tập huấn do Phòng giáo dục tổ chức. Chúng
tôi đã trực tiếp chỉ đạo giáo viên bổ sung kịp thời các bài thể dục theo nội dung mới
vào kế hoạch năm, tháng và soạn bài tính từ tháng 02 trở đi. Nhìn chung giáo viên
đã biết cách soạn giáo án theo hình thức mới, tổ chức thực hiện tiết học thể dục
trên lớp theo từng độ tuổi, tổ chức các trò chơi vận động ngoài trời, trò chơi dân
gian, tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động vào các giờ hoạt động chiều bài
bản.
2.2.2. Biện pháp bồi dưỡng thông qua dự giờ, thao giảng
Dự giờ và tổ chức thao giảng cho giáo viên cũng là một biện pháp bồi
dưỡng chuyên môn cho giáo viên có hiệu quả. Cho nên, ngay từ đầu năm học
Ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo cho mỗi giáo viên dự 2-3 hoạt động/ tháng,
là giáo viên mới ra trường thì 3-4 hoạt động/tháng. Hoạt động thao giảng được
8/20
8
tổ chức mỗi 01 lần/tháng theo từng lĩnh vực. Sau mỗi hoạt động dự giờ hay
những đợt thao giảng đều có trao đổi, phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm về
các hoạt động theo chuẩn đánh giá các giờ hoạt động. Các vấn đề cần trao đổi là
sự chuẩn bị về đồ dùng, giáo cụ trực quan như thế nào, về nội dung kiến thức, về
kỹ năng, thái độ ra sao. Phương pháp dạy học có phù hợp với khả năng của trẻ,
có giúp trẻ đạt được mục tiêu đề ra hay không?...Cách tổ chức lớp của giáo viên
có phát huy được tính tích cực của trẻ không? Có quan tâm đến các trẻ cá biệt,
nhút nhát không... từ đó rút ra những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân cho bản
thân giáo viên được dự giờ và các giáo viên khác cùng được tiếp thu học hỏi
kinh nghiệm. Để tạo điều kiện cho các giáo viên có thể dự giờ đầy đủ, chủ động,
kế hoạch dự giờ, thao giảng luôn được báo trước. Ngoài những hoạt động dự giờ
theo kế hoạch của tổ chuyên môn các giáo viên cần dự giờ đồng nghiệp thường
để học hỏi kinh nghiệm.
Ban giám hiệu, tổ trưởng chuyên môn cũng dự giờ thường xuyên và đột
xuất để có sự góp ý chính xác, kịp thời cho giáo viên.
Ví dụ: Ngay từ đầu năm chúng tôi tiến hành dự giờ để kiểm tra năng lực,
trong năm học dự giờ đánh giá năng lực. Hình thức dự giờ cũng được thường
xuyên thay đổi (có thể dự giờ đột xuất hoặc theo kế hoạch), cuối năm dự giờ để
nghiệm thu năng lực tay nghề tiến bộ đến mức nào so với đầu năm học. Qua dự
giờ có thể đánh giá được tiến bộ và chỉ rõ những cái được, những điểm cần rút
kinh nghiệm để họ có kế hoạch tự bồi dưỡng. Có những giáo viên có thể đánh
giá xếp loại ngay sau đợt thanh tra, kiểm tra; song cũng có giáo viên chưa thể
kết luận, xếp loại cho họ được vì điều kiện chủ quan hoặc khách quan nào đó
ảnh hưởng đến chất lượng giờ dạy (do điều kiện sức khoẻ, điều kiện gia đình…)
Một trong những yếu tố dự giờ có hiệu quả là cần phải thay đổi cách dự
giờ từ việc hướng tập trung vào giáo viên sang hướng tập trung vào trẻ. Một
hoạt động có thành công hay không không phải chỉ quan sát đánh giá quá trình
lên lớp, tác phong của giáo viên mà lấy trẻ làm trung tâm, lấy kết quả trong quá
trình hoạt động của trẻ làm thước đo năng lực của giáo viên. Vì vậy, người dự
cần chú ý chọn vị trí ngồi cho thích hợp để dễ dàng quan sát trẻ hoạt động. Từ
đó có thể đánh giá hoạt động nào giáo viên tổ chức chưa thành công để góp ý,
đánh giá, bổ sung rút ra bài học cho quá trình tổ chức các hoạt động cho mỗi
giáo viên, đồng thời người dự cũng rút được những điểm hay, những kinh
nghiệm từ người dạy.
Có thể khẳng định rằng, đây là phương pháp bồi dưỡng trực tiếp, kịp thời,
nâng cao tay nghề, ít tốn kém, điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy kịp
9/20
9
thời. Dễ dàng phổ biến được phương pháp mới. Qua tiết dạy mỗi giáo viên dự
rút ra được những ưu, khuyết điểm cần thiết để áp dụng cho các tiết dạy của bản
thân, khắc phục những khuyết điểm để loại bỏ; đây là biện pháp gần gũi, tiết
kiệm mà lại có hiệu quả. Khi lên lớp tổ chức các hoạt động giáo viên thể hiện
hết những gì mà họ đã chuẩn bị cho hoạt động từ nội dung, phương pháp, cho
đến tinh thần trách nhiệm đối với trẻ. Cho nên thông qua công tác dự giờ có thể
đánh giá được năng lực của giáo viên, đây là biện pháp bồi dưỡng giáo viên có
tính khả thi. Những hoạt động dự giờ theo kế hoạch đã định trước giáo viên
chuẩn bị tốt tạo điều kiện cho đồng nghiệp học hỏi nhiều kinh nghiệm.
Tổ chức dự giờ, thao giảng các giáo viên trẻ là để bồi dưỡng được hai
mặt: giáo viên có kinh nghiệm dự giờ giáo viên mới ra trường nhằm giúp họ
nâng cao thêm năng lực chuyên môn và ngược lại cũng học hỏi được rất nhiều
từ lớp trẻ là những điều rất tốt, những cái mới mà ở trường chưa được tiếp thu.
2.2.3. Kết hợp lồng ghép bồi dưỡng thường xuyên vào bồi dưỡng
chuyên môn hàng tháng.
Bồi dưỡng chuyên môn và bồi dưỡng thường xuyên theo kế hoạch định kì
hàng tháng là một việc làm không thể thiếu của cán bộ quản lý. Hình thức bồi
dưỡng thường xuyên chỉ mới thực hiện đến nay là năm thứ 2. Tuy là một hình
thức còn mới mẽ nhưng đây là một trong những hình thức góp phần không nhỏ
trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ rõ rệt. Bởi vì nội dung bồi dưỡng không
phải xa vời mà trực tiếp bổ trợ đắc lực trong chuyên môn nghiệp vụ của giáo
viên cũng như giáo dục phẩm chất đạo đức nhà giáo. Từ đầu năm học, tôi bám
vào kế hoạch của phòng giáo dục để lên kế hoạch cụ thể cho từng tháng. Trong
quá trình thực hiện tôi chú ý vào những nội dung trọng tâm của những tiết dạy
tập trung để trực tiếp bồi dưỡng. Sau mỗi chuyên đề tôi đưa ra bài tập thu hoạch
để giáo viên trình bày lại những kiến thức đã được học, đồng thời vận dụng vào
thực tế giảng dạy như thế nào, có phù hợp không. Từ đó nắm bắt được khả năng
tiếp thu vận dụng kiến thức của mỗi giáo viên để đưa ra những hình thức bồi
dưỡng kế tiếp cho phù hợp. Ngoài hình thức bồi dưỡng tập trung thì chủ yếu là
hình thức tự học qua tài liệu, qua mạng internet. Như chúng ta biết, việc tự học
tự bồi dưỡng là ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi giáo viên. Tuy nhiên là
hiệu trưởng phụ trách chuyên môn tôi đã chú ý hơn trong việc quan tâm giúp đỡ,
động viên khuyến khích quá trình học tập của từng giáo viên kịp thời. Cung cấp
thêm một số tài liệu cho giáo viên tìm đọc. Xây dựng tủ sách nhà trường với
nhiều đầu sách phong phú, đa dạng phục vụ cho dạy và học. Đặc biệt là những
đầu sách phục vụ nâng cao trình độ năng lực sư phạm cho giáo viên. Trong quá
10/20
10
trình giáo viên thực hiện, tôi đã chú ý kiểm tra đánh giá kịp thời từng chuyên đề
theo tháng, nắm bắt được khả năng tiếp cận kiến thức và vận dụng thực tế của
mỗi giáo viên. Tôi thấy hình thức lồng ghép bồi dưỡng thường xuyên vào bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ hàng tháng rất có hiệu quả trong việc nâng cao
năng lực cũng như khả năng vận dụng linh hoạt vào thực tế của mỗi giáo viên.
2.2.4. Bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin.
Hiện nay, công nghệ thông tin được ứng dụng ngày càng phổ biến trong
giáo dục nói chung và mầm non nói riêng. Đây là một biện pháp mang lại hiệu
quả cao, gây được hứng thú cho trẻ, và là một chỉ tiêu đặt ra cho mỗi giáo viên.
Nhưng muốn ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động giảng dạy
hiệu quả thì ngoài những hiểu biết căn bản về nguyên lý hoạt động của máy tính
đòi hỏi giáo viên cần phải có kỹ năng cơ bản thuần thục. Thực tế cho thấy dù có
chứng chỉ bằng cấp cao về tin học nhưng nếu ít sử dụng thì kỹ năng sẽ mai một,
ngược lại nếu chịu khó học hỏi, thực hành thì việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào giảng dạy sẽ rất dễ dàng.
Nhận thức được điều đó, tôi đã chú ý bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công
nghệ thông tin cho cán bộ, giáo viên thông qua các buổi tổ chức các lớp bồi
dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm tin học. Nội dung tập trung
chủ yếu vào những kỹ năng mà giáo viên cần sử dụng trong quá trình soạn giảng
hàng ngày như thể thức trình bày văn bản, các bước soạn một bài trình chiếu
powerpoint, các phần mềm thông dụng, cách chuyển đổi các loại phông chữ,
cách sử dụng một số phương tiện như máy chiếu, máy quay phim, chụp ảnh,
cách lồng ghép nhạc trong các bài giảng về thơ truyện hay các trò chơi, cách
tổng hợp các kết quả trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ trên Excel... Ngoài
ra, trong các đợt sinh hoạt chuyên môn tôi lồng ghép trao đổi thêm về những
vướng mắc khi sử dụng công nghệ thông tin cũng như những kinh nghiệm ứng
dụng công nghệ thông tin chia sẽ cho giáo viên học tập tham khảo.
Bên cạnh đó, tôi cũng đã cố gắng tìm tòi, sưu tầm, chọn lọc tài liệu hướng
dẫn ứng dụng công nghệ thông tin photo phát cho giáo viên. Với hình thức này
tôi thấy hiệu quả rõ rệt trong việc soạn giáo án của giáo viên. Lỗi chính tả giảm
đáng kể. Thể thức văn bản trình bày khoa học hơn. Các bài giảng được thiết kế
powerpoint hình ảnh sống động, đẹp mắt, những câu chuyện, bài thơ được lồng
thêm những đoạn nhạc khi du dương khi sôi động gây được hứng thú cho trẻ
góp phần làm nên thành công của tiết dạy.
Chúng tôi cho rằng, chuyên môn nhà trường phải là bộ phận kết nối, là
trung tâm tạo ra một môi trường học hỏi chuyên môn tích cực cho giáo viên.
11/20
11
việc động viên kịp thời giáo viên tích cực tự học, khiêm tốn học hỏi, sẵn sàng
chia sẻ, luôn cầu thị tiến bộ, thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp cũng được
chúng tôi quan tâm chú trọng.
Tuy nhiên ứng dụng công nghệ thông tin không đồng nhất với đổi mới
phương pháp dạy học, công nghệ thông tin chỉ là phương tiện tạo thuận lợi cho
triển khai phương pháp tích cực chứ không phải là điều kiện đủ của phương
pháp này. Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến
quá trình tổ chức các hoạt động cho trẻ. Để một giờ hoạt động có ứng dụng công
nghệ thông tin là một giờ hoạt động phát huy tính tích cực của trẻ thì điều kiện
tiên quyết là việc khai thác công nghệ thông tin phải đảm bảo các yêu cầu và
tính đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên sử dụng.
Nhờ làm tốt công tác bồi dưỡng này mà 100% CBQL có khả năng sử dụng
các phần mềm tin học ứng dụng dành cho quản lý. 100%giáo viên sử dụng thành
thạo máy vi tính và biết khai thác mạng Internet phục vụ công tác giảng dạy, tất
cả hồ sơ của giáo viên được vi tính hóa, trình bày khoa học, đẹp mắt, 80% giáo
viên soạn bài thành thạo trên chương trình powerpoint và các phần mềm ứng
dụng khác. Đa số giáo viên thường xuyên có tin bài đăng trên Website của
trường, của ngành hàng tháng.
2.2.5 Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng nâng cao nhận thức
cho đội ngũ giáo viên.
Thông qua các đợt học tập chính trị, Nghị quyết , nhà trường đã giáo dục,
bồi dưỡng cho giáo viên nhận thức được vai trò, nhiệm vụ của người giáo viên
trong giai đoạn mới. Cụ thể nhà trường đã tổ chức cho 100% CBQL, GV học
tập, quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo, chủ trương đường lối của Đảng và nhà
nước về giáo dục đào tạo, phân công đảng viên chịu trách nhiệm lãnh đạo các tổ
chức quần chúng như đoàn thanh niên, Công đoàn. Mỗi Đảng viên đều nêu cao
tinh thần tiên phong gương mẫu, giúp đỡ quần chúng về mặt tư tưởng chính trị
cũng như các hoạt động khác. Thường xuyên bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống giúp cho giáo viên tin tưởng vào chủ trương đường lối chính sách
của Đảng về công tác giáo dục. Từ đó giáo viên yên tâm công tác, gắn bó với
nghề nghiệp, luôn bám trường, bám lớp , có lòng yêu nghề mến trẻ, ý thức trách
nhiệm của người giáo viên được nâng cao. Tích cực tham gia phong trào “ Kỷ
cương - Tình thương - Trách nhiệm” . Từ những hoạt động trên, nhận thức của
giáo viên được nâng lên rõ rệt, có những đồng chí cán bộ giáo viên trước đây có
những tư tưởng tự ti, mặc cảm, không có động cơ phấn đấu. Nay nhận thức và
quan điểm thay đổi hẳn đã hăng hái tham gia các phong trào thi đua. Nhất là đối
12/20
12
với những giáo viên trẻ mới vào ngành đã xác định được được nhiệm vụ của
mình trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ. Kết quả trong năm học các Phó
hiệu trưởng và giáo viên thuộc diện quy hoạch cán bộ quản lý: Được tham gia
học tập lớp trung cấp chính trị, quản lý giáo dục, quản lý nhà nước. đã bình xét
được 3 đoàn viên xuất sắc tham gia học lớp đối tượng Đảng và 1 đông chí đã
được chuẩn y kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam.
2.2.6. Bồi dưỡng ngoại ngữ:
Chúng ta đang sống và làm việc trong một thế giới phong phú, đa dạng về
ngôn ngữ, điều này đòi hỏi mỗi người phải học hỏi và khám phá. Học ngôn ngữ
là hình thành một công cụ giao tiếp mới để trao đổi những tri thức khoa học,
kiến thức tiên tiến, tìm hiểu các nền nếp văn hóa, qua đó góp phần tạo dựng sự
hiểu biết lẫn nhau, hình thành ý thức công dân toàn cầu, góp phần vào việc phát
triển phẩm chất và năng lực cá nhân.
- Đối với CBQL và giáo viên trong nhà trường tôi luôn động viên, hhuyến
khích và tạo điều kiện cho CBQLvà giáo viên học tập nâng cao trình độ ngoại
ngữ của mình. Đến hiện tại có 40/60 CBGV có trình độ ngoại ngữ đạt chứng chỉ
tiếng Anh A2 (theo khung đánh giá năng lực ngôn ngữ của Cộng đồng chung
Châu Âu (CEFR)).
2.2.7. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá:
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Giao công việc mà không
kiểm tra, đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là không biết yêu dấu cán bộ”.
Công tác kiểm tra, đánh giá là một hoạt động không thể thiếu trong chu trình
quản lý giáo dục. Để công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên đạt hiệu quả
cao nhất, cán bộ quản lý không được phép buông lỏng công tác kiểm tra. Để
công tác kiểm tra việc thực hiện bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên đạt hiệu
quả cao nhất, cán bộ quản lý cần đảm bảo. Thứ nhất cần xác định rõ mục đích
yêu cầu của từng đợt kiểm tra dựa trên yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của nhà trường
của năm học. Thứ hai phải có kế hoạch cụ thể trên cơ sở kế hoạch kiểm tra cả
năm, học kỳ, đi sâu vào kế hoạch từng đợt kiểm tra xác định rõ mục đích yêu
cầu, nội dung, hình thức, phương pháp kiểm tra. Thứ ba là làm tốt công tác
tuyên truyền giúp cho giáo viên thông suốt việc kiểm tra, khuyến khích tinh thần
tự giác, trung thực của giáo viên để giáo viên chuẩn bị mọi phương tiện và điều
kiện tích cực góp phần thực hiện tốt đợt kiểm tra đó.
Hàng năm, chúng tôi đã tích cực tham mưu cho đồng chí Hiệu trưởng
trong việc xây dựng Kế hoạch kiểm tra nội bộ trường học, vừa đảm bảo quy
định của ngành, vừa phù hợp với tình hình chất lượng đội ngũ. Đảm bảo số
13/20
13
lượng giáo viên được kiểm tra toàn diện 60-70%, mỗi giáo viên được kiểm tra
chuyên đề 2 lần/năm học. Nội dung chuyên đề khá phong phú đa dạng như kiểm
tra hoạt động theo lĩnh vực thẩm mỹ, nhận thức, ngôn ngữ, thể chất, tình cảm
quan hệ xã hội... kiểm tra hồ sơ chuyên môn, kiểm tra hồ sơ sản phẩm của trẻ,
kiểm tra xây dựng môi trường học tập…Đánh giá khách quan và thực chất năng
lực đội ngũ được chúng tôi quan tâm hàng đầu. Bởi vì như thế mới nhận ra được
ưu nhược điểm của mỗi giáo viên. Từ đó có biện pháp cụ thể trong việc bồi
dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn cho mỗi giáo viên. Về hình thức đánh giá
chúng tôi luôn thay đổi thường xuyên. Hàng tháng ngoài việc thực hiện kiểm tra
theo kế hoạch, chúng tôi đã kiểm tra đột xuất việc thực hiện quy chế chuyên
môn của giáo viên như: Kiểm tra việc thực hiện chương trình, chế độ sinh hoạt,
hồ sơ chuyên môn, giáo án, hồ sơ trẻ (thực hiện đánh giá trẻ 5 tuổi theo chuẩn,
trẻ 3-4 tuổi, sản phẩm học tập của các cháu), công tác chuẩn bị đồ dùng dạy học
trước khi tổ chức các hoạt động…Sau kiểm tra, chúng tôi đều tổ chức trao đổi,
góp ý trực tiếp giúp giáo viên tự nhận xét kết quả công việc, nhận thấy được
những ưu điểm cần phát huy, những tồn tại-hạn chế cần khắc phục. Cuối tháng
chúng tôi có đánh giá nhận xét chung về công tác kiểm tra giúp giáo viên chia sẽ
những kinh nghiệm, cách làm hay của đồng nghiệp, cũng như rút kinh nghiệm
những tồn tại hạn chế cho bản thân.
Nhờ công tác kiểm tra đánh giá thường xuyên chúng tôi đã phát huy hiệu
quả, có nhiều biện pháp thúc đẩy, tư vấn cho giáo viên trước và sau các đợt dự
giờ, kiểm tra đánh giá. Động viên khích lệ chị em cùng phấn đấu vươn lên trong
nghề nghiệp, đã tạo được không khí thi đua sôi nổi trong nhà trường. Trình độ
tay nghề của đội ngũ được nâng lên rõ rệt. Nền nếp lớp học được duy trì ổn
định, chất lượng chăm sóc-giáo dục trẻ được chuyển biến đáng kể càng tăng
thêm niềm tin yêu của phụ huynh đối với nhà trường.
2.2.8. Đầu tư chỉ đạo chất lượng mũi nhọn
Như chúng ta biết hội thi là đỉnh cao của phong trào thi đua dạy tốt, học
tốt. Thông qua chất lượng hội thi để đánh giá năng lực sư phạm cũng như trình
độ tay nghề của giáo viên. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm sau khi tiếp thu hướng
dẫn nhiệm vụ năm học của Bộ, Sở và Phòng Giáo dục-Đào tạo. Bản thân tôi đã
trực tiếp cùng với đồng chí Phó hiệu trưởng tham mưu cho đồng chí Hiệu trưởng
trong việc tổ chức các hội thi. Năm học 2014-2015 với nhiều hội thi như Hội thi
“Cô và cháu hát dân ca hò khoan Lệ Thủy” cấp trường, cấp huyện; Hội thi “Xây
dựng môi trường xanh sạch đẹp và hiệu quả” cấp trường và cấp huyện; Hội thi
“Giáo viên dạy giỏi” cấp trường và cấp huyện. Xác định chất lượng mũi nhọn
14/20
14
nên ngay từ đầu năm học tôi đã bám vào kế hoạch và các công văn hướng dẫn
của Sở và Phòng Giáo dục - Đào tạo về việc tổ chức và tham gia các hội thi của
các cấp, tham mưu kịp thời với Hiệu trưởng để triển khai và thực hiện nghiêm
túc các nội dung theo yêu cầu. Nội dung Hội thi đã được đưa vào nhiệm vụ năm
học của nhà trường, chính vì vậy tất cả giáo viên ngoài việc thực hiện tốt nhiệm
vụ chăm sóc giáo dục trẻ, các cô đã tận dụng mọi thời gian trong ngày để luyện
tập cho các cháu có năng khiếu hát múa, rèn cho các cháu có tính tự tinh mạnh
dạn chuẩn bị tham gia hội thi Cô và bé hát dân ca hò khoan Lệ Thủy. Dành các
thời gian rảnh rỗi trang trí lại môi trường học tập cho phù hợp, hình ảnh đẹp mắt
luôn tươi mới theo từng chủ đề, tận dụng những phế liệu như lốp xe, hay các
nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để tạo nên những đồ dùng, dụng cụ, các
chậu hoa tự tạo góp phần tạo nên môi trường thân thiện hiệu quả nhằm phục vụ
hội thi xây dựng môi trường xanh sạch đẹp và hiệu quả các cấp. Bên cạnh đó, tôi
còn chủ động chỉ đạo giáo viên huy động sự tham gia của các bậc phụ huynh
trong việc luyện tập kỹ năng hát múa cho trẻ, tìm kiếm sưu tầm các nguyên vật
liệu để phục vụ hội thi, đóng góp ngày công lao động. Ban giám hiệu nhà trường
thu thập ý tưởng, có sự hướng dẫn, tư vấn thúc đẩy cho giáo viên và các cháu
trong việc rèn kĩ năng hát múa.
Huy động sức mạnh của cán bộ, giáo viên nhân viên nhà trường trong việc bổ
sung ý tưởng, tìm kiếm sưu tầm các nguyên vật liệu để phục vụ tốt hội thi.
Việc bồi dưỡng giáo viên giáo viên qua phong trào thi giáo viên dạy giỏi
cũng góp phần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên.
Ngay từ học kì 1 năm học 2018-2019 trường tôi đã tổ chức cho giáo viên thi
giáo viên dạy giỏi. Hội thi phần nào động viên, khuyến khích, tạo cơ hội để giáo
viên nâng cao ý thức tự học, tự nghiên cứu và sáng tạo trong nghiệp vụ của
mình, đẩy mạnh phong trào thi đua nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
trong toàn trường. Qua hội thi thực tế cho thấy việc tổ chức phong trào thi giáo
viên dạy giỏi có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao năng lực chuyên môn cho
giáo viên. Khi tham gia thi giáo viên dạy giỏi, đòi hỏi giáo viên phải xâm nhập
nội dung chương trình kĩ hơn, suy nghĩ nghiên cứu nội dung chương trình kỹ
hơn, tìm tòi những phương pháp, biện pháp lên lớp thật linh hoạt, sáng tạo trong
khi lên lớp, tạo nên những tình huống mới lạ để trẻ tập trung chú ý hơn, hứng
thú trong giờ học. Bên cạnh đó giáo viên đầu tư nhiều hơn vào việc làm đồ dùng
dạy học, đồ chơi phục vụ cho hoạt động vui chơi, đồ dùng có nhiều sáng tạo để
tham gia dự thi đạt kết quả cao. Và một điều quan trọng hơn đây là đợt sinh
hoạt, giao lưu học hỏi, trao đổi về chuyên môn nghiệp vụ. Cứ sau mỗi lần tổ
15/20
15
chức thi, thì số giáo viên trong trường tham gia thi nắm vững chuyên môn, tạo
được uy tín đối với đồng nghiệp với các bậc cha mẹ phụ huynh học sinh.
Đồng thời qua hội thi đã tuyển chọn công nhận và tôn vinh giáo viên đạt danh
hiệu giáo viên giỏi, động viên, khen ngợi, khích lệ giáo viên kịp thời. Đồng thời
cũng là căn cứ để lựa chọn giáo viên có năng lực tốt tham gia hội thi cấp huyện. Nhờ
sự tham mưu kịp thời trong việc chỉ đạo chất lượng mũi nhọn là các hội thi nên trong
năm học qua chất lượng tham gia các hội thi cấp huyện đạt kết quả cao. Giáo viên tự
tin mạnh dạn hơn, năng lực chuyên môn được nâng lên rõ rệt.
2.2.7. Bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên qua lớp điểm.
Việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên bằng hình thức qua xây dựng
lớp điểm cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu trong việc nâng cao năng
lực chuyên môn cho đội ngũ. Thông qua hình thức lớp điểm, giáo viên trong
trường được học tập, từ cách trang trí sắp sếp đồ dùng đồ chơi các góc, nề nếp
các cháu, làm đồ dùng đồ chơi tự tạo... Ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng lớp
điểm về các lĩnh vực khác nhau như lớp điểm về xây dựng môi trường học tập,
lớp điểm về chuyên đề phát triển vận động, lớp điểm về các tiết dạy mẫu. Tôi
chủ động tham mưu Hiệu trưởng phân công giáo viên đứng lớp phù hợp. Chọn
những giáo viên phải là những người có trình độ chuyên môn vững vàng, có
năng lực chuyên môn giỏi, có uy tín với mọi người. Những lớp điểm là nơi đi
đầu trong việc thực hiện nội dung mới để rút kinh nghiệm trước khi chỉ đạo đại
trà. Thông qua các lớp điểm giáo viên được tham quan, trao đổi kinh nghiệm với
đồng nghiệp, tai nghe, mắt thấy, học tập để áp dụng vào lớp của mình. Từ đó
giáo viên trường tôi đã tạo được môi trường học tập, góc phát triển vận động
sinh động, phù hợp với đặc điểm của trẻ ở độ tuổi của lớp mình, các cô đã có ý
thức hơn, tự học tập, tự nghiên cứu để bằng lớp đồng nghiệp mình. Qua quá
trình chỉ đạo, tôi thấy nhiều giáo viên khi mới vào trường chuyên môn hạn chế,
chưa biết cách sắp xếp, trang trí lớp, dự giờ tiết dạy giáo viên cc̣n lúng túng...
Nhưng qua các hình thức bồi dưỡng trên tôi thấy đã có sự thay đổi rõ rệt.
2.2.8 Giữ vững và phát huy vai trò của sinh hoạt tổ chuyên môn.
Song hành xuyên suốt cùng với giáo viên trong bồi dưỡng chuyên môn
cũng như tất cả các hoạt động khác của tổ chuyên môn là một cách thiết thực
nhất, gần gũi và có điều kiện nhất trong việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo
viên. Ban giám hiệu không thể sinh hoạt chuyên môn xuyên suốt với tổ được.
Do vậy, xây dựng tổ chuyên môn vững mạnh là một trong những biện pháp
không thể thiếu trong công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng chuyên môn cho
giáo viên.
16/20
16
Vì thế, vào đầu năm học khi chọn tổ trưởng chuyên môn, tôi luôn chú ý
tham mưu Hiệu trưởng chọn giáo viên có năng lực chuyên môn, có kinh nghiệm,
nhiệt tình, luôn hòa nhã cởi mở với các thành viên trong nhà trường và có khả
năng tập hợp giáo viên để tổ chức sinh hoạt tổ.
Điều đầu tiên được tôi chú ý quan tâm trong việc bồi dưỡng cho tổ
chuyên môn đó là bồi dưỡng cho tổ trưởng chuyên môn nhận thức được vị trí,
vai trò của người tổ trưởng chuyên môn, kỷ năng nghiệp vụ quản lý: Cung cấp
tài liệu về lý luận nghiệp vụ quản lý để tổ chuyên môn nghiên cứu như điều lệ
trường mầm non, nội quy, quy chế của nhà trường, các văn bản có liên quan.
Tạo điều kiện tổ trưởng chuyên môn được tham gia bàn bạc việc xây dựng kế
hoạch của nhà trường, giao nhiệm vụ cụ thể cho tổ chuyên môn... để dần dần
biết và vận dụng những điều cơ bản nhất về nghiệp vụ quản lý, giúp cho họ nắm
rõ vai trò, chức năng nhiệm vụ của tổ trưởng trong nhà trường.
Bồi dưỡng về tổ chức điều hành hoạt động tổ chuyên môn rất quan trọng.
Là cán bộ quản lý phải thường xuyên bồi dưỡng kỷ năng quản lý cho đội ngũ tổ
chuyên môn thông qua việc quản lý tổ chuyên môn trong nhà trường. Hướng
dẫn kỷ năng phân công nhiệm vụ cho từng giáo viên, nội dung nề nếp sinh hoạt
tổ, các điều hành một buổi sinh hoạt tổ, cách lập hồ sơ, lên kế hoạch tổ dựa vào
kế hoạch chung của nhà trường và tình hình thực tế của tổ. Đặc biệt là công tác
thao giảng, hoạt động CS - GD.
Để tổ chuyên môn hoạt động tốt, tôi chỉ đạo và yêu cầu tổ trưởng phải là
người quán xuyến toàn bộ công việc của tổ, nắm bắt những công việc đã làm để
nhận xét, đánh giá được về những mặt mạnh, mặt yếu, rút ra những kinh nghiêm
trong công tác chỉ đạo của tổ. Trước lúc họp, tổ trưởng chuyên môn phải dựa trên
kế hoạch đầu năm và những vấn đề phát sinh trong quá trình chăm sóc giáo dục
trẻ để xây dựng kế hoạch các buổi họp cụ thể, tránh tình trạng đến lúc họp mới
đưa nội dung như vậy sẽ bị động, không đảm bảo nội dung và có thể những vấn đề
quan trọng không đề cập đến. Cho nên ngay vào các tháng đầu của năm học tôi
duyệt góp ý kế hoạch của các tổ và dự họp để góp ý trực tiếp giúp tổ trưởng
chuyên môn làm tốt vai trò của người điều hành. Đối với giáo viên tham gia hội
họp thì yêu cầu phải trật tự, ghi chép nội dung, phải lắng nghe ý kiến phát biểu
của đồng nghiệp và đặc biệt phải suy nghĩ, phát biểu ít nhất 1 ý kiến, hiến mưu,
hiến kế cùng tổ để có thêm những ý kiến hay bổ sung vào kế hoạch, có như vậy
công tác mới trôi chảy, thực hiện dân chủ hóa trong hội họp, công tác. Nếu giáo
viên nào không làm được thì tự mình trừ điểm thi đua khi tham gia xếp loại.
17/20
17
Sau khi các thành viên trong tổ góp ý, tổ trưởng tóm tắt lại, lấy ý kiến
thống nhất bổ sung vào biên bản tổ và đó là nghị quyết của tổ, mọi thành viên
trong tổ phải có nhiệm vụ thực hiện. Tránh tình trạng họp tổ, tổ trưởng đưa ra ý
kiến buộc mọi thành viên phải thực hiện, quát nạt các giáo viên vi phạm, khen
chê ai hợp với mình, không tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Như vậy, tổ chuyên môn là cầu nối giữa BGH nhà trường và giáo viên
trong tổ về thông tin 2 chiều nhằm mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng
giáo dục. Người hiệu trưởng có thông tin để đánh giá chính xác giáo viên, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ của họ từ đó phân công giáo viên hợp lý, đạt hiệu quả
tốt; chuyển tải cho giáo viên trong tổ các chỉ đạo chuyên môn của nhà trường và
cơ quan quản lý cấp trên.
Nhờ chỉ đạo tốt công tác bồi dưỡng thông qua sinh hoạt chuyên môn toàn
trường và sinh hoạt tổ chuyên môn nên đã xuất hiện nhiều ý tưởng hay, nhiều
kinh nghiệm trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ được nhân rộng. Năng lực
của giáo viên được nâng lên rõ rệt.
2.3. Kết quả đạt được:
Qua việc thực hiện các biện pháp và cách làm trên tôi thấy công tác bồi
dưỡng chuyên môn đã đi vào hoạt động nền nếp và có hiệu quả tốt.
Giáo viên có ý thức được trách nhiệm nghề nghiệp, yêu nghề mến trẻ,
luôn thể hiện được tinh thần tự nghiên cứu, tự học tập để nâng cao được trình độ
tay nghề của mình, linh hoạt sáng tạo hơn khi xây dựng kế hoạch cũng như tổ
chức các hoạt động chăm sóc - giáo dục trẻ. Họ đã mạnh dạn, tự tin tham gia
thảo luận trong các buổi họp, buổi sinh hoạt chuyên môn....
Chất lượng giảng dạy và chăm sóc giáo dục trẻ được nâng lên rõ rệt sau
các lần kiểm tra của nhà trường, Phòng giáo dục và sau các đợt đánh giá, khảo
sát của nhà trường.
Bảng so sánh chất lượng đội ngũ CBGV trước và sau khi áp dụng đề tài
Tốt
Khá
Đạt
Trước
Sau
Trước
Sau
Trước Sau khi
CBGV,
Số
TT
áp
NV
lượng khi áp khi áp khi áp khi áp khi áp
dụng
dụng
dụng
dụng
dụng
dụng
1
CBQL
3
2
3
1
0
0
0
2 Giáo viên
41
12
33
25
8
4
0
Nhìn vào bảng ta kết quả xếp loại năng lực sư phạm cuối năm: ta thấy 100%
đồng chí CBQL xếp loại tốt, Có 80,5% giáo viên xếp loại tốt 19,5% giáo viên
xếp loại khá.
18/20
18
Có 100% giáo viên sử dụng thành thạo máy vi tính và biết khai thác mạng
Internet phục vụ công tác giảng dạy, biết soạn bài và lưu giữ trên máy vi tính,
85% giáo viên soạn bài thành thạo trên chương trình powerpoint và các phần
mềm ứng dụng khác. Đa số giáo viên thường xuyên có tin bài đăng trên Website
của trường, của ngành.
Có 73% CBGV, NV trong nhà trường có chứng chỉ tiếng Anh A2
Chất lượng hội thi cấp trường và hội thi cấp huyện đạt kết quả cao.
Tổ trưởng chuyên môn đúc rút được kinh nghiệm trong công tác quản lý tổ.
* Bài học kinh nghiệm:
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chương trình, từ yêu cầu "chuẩn", giáo viên
mầm non và thực tế đội ngũ giáo viên của trường, đặc biệt là kết qủa học tập của
trẻ trong những năm trước; bằng những giải pháp cụ thể, năm học 2018 - 2019
chất lượng đội ngũ giáo viên của trường đã có những chuyển biến rõ rệt. Qua
đó, bản thân tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng
chuyên môn cho đội ngũ giáo viên là:
- Người phụ trách công tác chuyên môn một mặt phải có trình độ, năng
lực chuyên môn vững vàng. Mặt khác phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao
trình độ về mọi mặt, phải xây dựng được uy tín của mình trước đội ngũ giáo
viên cũng như phụ huynh. Phải năng nổ, nhiệt tình, luôn tìm tòi, sáng tạo, giám
nghỉ, giám làm.
- Phải nắm vững tình hình đội ngũ, biết lắng nghe ý kiến và nguyện vọng
của giáo viên, thu nhận kết quả và các quy trình hoạt động giáo dục trẻ, xem xét,
so sánh, đánh giá và xử lý khách quan, khoa học để giúp giáo viên phát huy
những mặt mạnh, hạn chế những mặt còn tồn tại yếu kém để họ vươn lên .
- Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên hàng năm, theo chu kì. Chỉ đạo các
khối lập được kế hoạch chuyên môn của bộ phận mình phụ trách, trong đó đặc
biệt quan tâm đến nội dung sinh hoạt khối, toàn trường; xây dựng kế hoạch thanh
- kiểm tra một cách cụ thể phù hợp với tình hình thực tế của trường, từng giáo
viên; người quản lý phải là người theo dõi chặt chẽ việc thực hiện kế hoạch đó.
- Bên cạnh việc tham gia các lớp tập huấn, nghiên cứu chương trình giáo dục
mới; người quản lý cần đặc biệt quan tâm đến công tác bồi dưỡng tại chỗ, quản lý
các tổ thực hiện nghiêm túc có chiều sâu các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn.
- Chỉ đạo nhất quán, tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện
quy chế chuyên môn: Thực hiện đúng lịch sinh hoạt, soạn bài và tổ chức các
hoạt động cho trẻ đảm bảo, đặc biệt người quản lý phải thường xuyên dự giờ
giáo viên để kịp thời góp ý rút kinh nghiệm.
19/20
19
- Muốn nâng cao chất lượng đội ngũ cần thực hiện công khai, dân chủ,
không thành kiến trong việc đánh giá xếp loại giáo viên. Khen chê đúng người,
đúng việc để kịp thời động viên giúp đỡ họ nỗ lực phấn đấu đạt kết quả cao hơn.
Để đạt được mục tiêu giáo dục nói chung, giáo dục mầm non nói riêng;
đáp ứng yêu cầu thực hiện đổi mới chương trình việc nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên là rất quan trọng phải được quan tâm hàng đầu bởi chất lượng đội
ngũ quyết định sự tồn tại và uy tín của một nhà trường. Với nhận thức như vậy,
bản thân người quản lý đã luôn chỉ đạo sát sao, quyết liệt, thường xuyên để khắc
phục yếu kém những năm trước, xây dựng đội ngũ giáo viên đạt tới "chuẩn" với
nghĩa đích thực của nó.
C. KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ:
I. Ý nghĩa của đề tài:
Giáo dục hiện nay là một trong những vấn đề đanng được Đảng và Nhà
nước ta chú trọng và quan tâm để phát triển. Bởi vì đây là nguồn nhân lực phục
vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết đại hội Đảng lần
thứ VIII đã nêu rõ “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực phát
triển kinh tế - xã hội. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Nghành
học mầm non là một bộ phân trong hệ thống giáo dục quốc dân, giúp trẻ hình
thành và phát triển nhân cách toàn diện.
Giáo dục mầm non vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật
nên đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực toàn diện để phục vụ trẻ, giáo viên
mầm non vừa là cô giáo vừa là người mẹ thứ hai của trẻ. Muốn đạt được mục
tiêu đó, chúng ta cần phải xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên có đầy đủ
kiến thức, năng lực vững vàng, phương pháp linh hoạt sáng tạo trong chuyên
môn nhàm chăm sóc giáo dục các cháu thành những người công dân có ích cho
thế hệ tương lai mai sau.
II. Kiến nghị, đề xuất:
20/20
20
+ Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo
- Mở các lớp tập huấn chuyên môn về nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ theo 5 lĩnh vực.
- Duy trì và tăng số lần sinh hoạt chuyên môn các cụm để giúp cán bộ
quản lý và giáo viên học tập kinh nghiệm lẫn nhau.
- Tổ chức cho cán bộ quản lý và giáo viên cốt cán tham quan học tập các
trường có chất lượng trong và ngoài địa bàn.
- Tham mưu với lãnh đạo các cấp có sự hỗ trợ kinh phí mua sắm trang
thiết bị, đồ dùng dạy học, đồ chơi cho các cháu.
+ Đối với địa phương
- Tuyên truyền nhân dân thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục để
tăng trưởng cơ sở vật chất cho trường mầm non nhằm đáp ứng yêu cầu giáo dục
trong giai đoạn hiện nay.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân. Từ kết quả của việc bồi
dưỡng chuyên môn cho giáo viên trong năm học 2018 - 2019 bước đầu có
những hiệu quả tích cực đối với giáo viên. Bản thân tôi nhận thấy vẫn còn nhiều
vấn đề cần tiếp tục học hỏi, tìm kiếm giải pháp, đúc rút kinh nghiệm ở các đơn
vị bạn. Rất mong nhận được nhiều ý kiến góp ý của đồng nghiệp để bản thân tôi
thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình.
Xin chân thành cảm ơn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục trong chiến lược giáo dục đào
tạo hiện nay.
2. Luật giáo dục 2005.
3. Tài liệu bồi dưỡng hè năm 2018 Bộ Giáo dục mầm non.
4. Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ theo hình thức đổi mới.
5. Một số định hướng đổi mới trong chương trình Giáo dục MN - Vụ GDMN.
6. Chiến lược MN từ 2001 đến 2002 và 2020 - Vụ Giáo dục Mầm non
7. Tập san giáo dục mầm non.
8. Tài liệu xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch trong trường MN: Tài liệu
bồi dưỡng cán bộ quản lý ngành học mầm non.
9. Tài liệu tập huấn bồi dưỡng hè CBQL và GVMN năm học: 2017 - 2018.
10. Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục mầm non năm học 2018 - 2019
21/20
21
22/20
22