Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Các Giải Pháp Thúc Đẩy Đầu Tư Trực Tiếp Ra Nước Ngoài Của Việt Nam Sang Các Nước ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 90 trang )

Phạm Văn Chung

1

Kinh tế phát triển 47BQN

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Việc tiếp nhận nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài vào
Việt Nam ,và ngược lại ,các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài là 2
mặt có tác động tương hỗ ,kích thích dòng vốn đầu tư luân chuyển ,tạo động
lực phát triển kinh tế đất nước .
Tuy nhiên hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
vẫn còn rất mới mẻ.Việc đánh giá kết quả hoạt động của các dự án đầu tư ra
nước ngoài đã thực hiện còn rất sơ sài và đóng góp những dự án này vào việc
mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với nước sở tại vẫn
chưa được chú trọng đúng mức .
Trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế
giới ,cần thiết phải từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý đối với hoạt động đầu
tư nước ngoài ,hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp trong nước thực hiện các
dự ác đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hướng tới mục tiêu tăng cả về số lượng
và chất lượng các dự án .Từ thực tế ấy ,đề tài ‘’các giải pháp thúc đẩy đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam sang các nước ASEAN’’được em lựa
chọn làm chuyên đề thực tập.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
Về mặt lý luận :nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực
tiếp nước ngoài và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam .
Về mặt thực tiễn:tìm hiểu ,phân tích đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua chỉ ra những
thuận lợi cũng như khó khăn ,những thành công hạn chế ách tắc và nguyên


nhân của những ách tắc .từ đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp
của Việt Nam ra nước ngoài sang các nước ASEAN


Phạm Văn Chung

2

Kinh tế phát triển 47BQN

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động ĐTRNN của các doanh
nghiệp Việt Nam sang các nước ASEAN.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài đi sâu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp
ASEAN thúc đẩy hoạt động ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam sang
các nước gắn với điều kiện Việt Nam là thành viên của tổ chức Thương mại
thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp: thống kê, tổng hợp và phân
tích, so sánh, hệ thống hoá trên cơ sở phương pháp luận duy biện chứng và
duy vật lịch sử để phân tích, đánh giá các nội dung liên quan đến đề tài nghiên
cứu. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy ĐTTTRNN của Việt
Nam sang các nước ASEAN.
5. Tổng quan nghiên cứu đề tài luận văn trong và ngoài nước:
ĐTTTRNN không còn là hoạt động mới mẻ đối với nhiều quốc gia trên
thế giới đặc biệt là đối với các nước phát triển. Do đó, trên thế giới đã có
nhiều nghiên cứu phân tích cụ thể vai trò, xu thế và kinh nghiệm của
ĐTTTRNN. Mặc dù vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến hoạt
động ĐTTTRNN sang các nước ASEAN của các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong nước, những năm gần đây cũng đã có một số công trình nghiên

cứu về ĐTTTRNN sang các nước ASEAN của các doanh nghiệp Việt Nam ra
nước ngoài. Tuy nhiên các đề tài và nghiên cứu trên chỉ mới đưa ra được thực
trạng và một số giải pháp thúc đẩy mà chưa gắn với điều kiện Việt Nam đã là
thành viên của WTO. Trên cơ sở kế thừa những lý luận của các tác giả đi
trước, đề tài sẽ đi sâu nghiên cứu thực tế tình hình hoạt động của các doanh
nghiệp Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
thúc đẩy hơn nữa hoạt động này trong điều kiện gia nhập tổ chức Thương mại
thế giới.


Phạm Văn Chung

3

Kinh tế phát triển 47BQN

6. Một số đóng góp mới của đề tài:
Luận văn đã có những đóng góp cả về lý luận và thực tiễn sau:
- Làm rõ thêm những vấn đề lý luận về ĐTTTRNN sang các nước
ASEAN, cụ thể là ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam sang các nước
ASEAN trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên của tổ chức Thương mại
thế giới.
- Đánh giá đúng thực trạng ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam
trong những năm qua.
- Đưa ra quan điểm và đề ra một số giải pháp có tính đột phá thúc đẩy
ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước ASEAN gắn với điều
kiện Việt Nam là thành viên của WTO.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu theo 3 chương:

Chương 1 :Sự cần thiết đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam sang các
nước ASEAN
Chương 2:Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sang các
nước ASEAN
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam
sang các nước ASEAN


Phạm Văn Chung

4

Kinh tế phát triển 47BQN

CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI CỦA
VIỆT NAM SANG CÁC NƯỚC ASEAN
1.1 Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và phân loại
1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được gọi là hình thức đầu tư dài hạn của
cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản
xuất ,kinh doanh…
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment - FDI) được hiểu
là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác
bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đầu tư trực tiếp chính là một
loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở nước khác (nước thu hút đầu tư) cung
với quyền quản lý tài sản đó. Phương tiện quản lý là thứ để phân biệt FDI với

các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài
sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những
trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản
được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”.
Ở Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài sang các nước ASEAN được
hiểu là việc di chuyển vốn dưới dạng tiền và tài sản từ nước này sang nước
khác để thu lợi nhuận. Tuy nhiên, quan niệm về đầu tư trên thực tế vẫn được
liên tục sửa đổi, bổ sung để phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam cả trong
các quy định pháp luật trong nước và các hiệp định quốc tế.


Phạm Văn Chung

5

Kinh tế phát triển 47BQN

Theo luật Đầu tư năm 2007, đầu tư được xem xét trên cả góc độ chung,
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Điều 3 của luật Đầu tư năm 2005 quy định
“Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình
để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; Đầu tư trực tiếp là hình
thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu
tư; Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu,
trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các
định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia
quản lý hoạt động đầu tư”.
Khái niệm đầu tư theo Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt
Nam - Nhật Bản lại là “tất cả các loại tài sản được sở hữu hoặc quản lý trực
tiếp hoặc gián tiếp bởi một nhà đầu tư, bao gồm:

- Một doanh nghiệp (là pháp nhân hoặc bất kỳ một chủ đề khác được
thành lập hoặc tổ chức theo các quy định và luật pháp hiện hành của một
bên ký kết, vì mục đích lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận, thuộc sở hữu hoặc
quản lý của tư nhân hoặc Chính phủ, bao gồm công ty, tổng công ty, tổ hợp
công ty, công ty hợp danh, công ty một chủ, chi nhánh, liên doanh, hiệp hội
và tổ chức);
- Cổ phần, cổ phiếu hoặc các hình thức tham gia cổ phần khác trong một
doanh nghiệp bao gồm các quyền phát sinh từ đó;
- Trái phiếu, trái phiếu phổ thông, khoản nợ và hình thưc vay nợ khác,
bao gồm các quyền phát sinh từ đó;
- Các quyên theo hợp đồng, bao gồm hợp đồng chìa khoá trao tay, hợp
đồng xây dựng, hợp đồng quản lý, hợp đồng phân chia sản phẩm hoặc
doanh thu;
- Các quyền đòi tiền và thực hiện bất kỳ việc nào theo hợp đồng có giá
trị tài chính;


Phạm Văn Chung

6

Kinh tế phát triển 47BQN

- Các quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm các nhãn hiệu thương mại, các kiểu
dáng công nghiệp, các thiết kế bố trí mạch tích hợp, các quyền tác giả, các
sáng chế, các tên thương mại, các xác nhận về nguồn gốc hoặc tên gọi theo
xuất xứ và thông tin không được công bố;
- Các quyền tố nhượng, bao gồm các quyền đối với việc thăm dò và khai
thác tài nguyên thiên nhiên
- Các tài sản hữu hình và vô hình, động sản và bất động sản và bất kỳ

quyền tài sản có liên quan như quyền cho thuê, quyền thế chấp, cầm cố và
cầm giữ.
Đầu tư bao gồm cả các khoản lợi tức phát sinh từ hoạt động đầu tư, cụ
thể là lợi nhuận, lãi suất, lãi cổ phần, cổ tức, tiền bản quyền và các loại phí.
Sự thay đổi hình thức đầu tư tài sản không ảnh hưởng đến tính chất đầu tư.
Theo hiệp định thương mại Việt - Mỹ thì “đầu tư” là mọi hình thức đầu
tư trên lãnh thổ của một Bên do các công dân hoặc công ty của Bên kia sở
hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, bao gồm các hình thức:
- Một công ty hoặc một doanh nghiệp;
- Cổ phần, cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi
nợ và các quyền lợi đối với khoản nợ dưới hình thức khác trong một công ty;
- Các quyền theo hợp đồng, như quyền theo các hợp đồng chìa khoá trao
tay, hợp đồng xây dựng hoặc hợp đồng quản lý, các hợp đồng sản xuất hoặc
hợp đồng phân chia doanh thu hoặc các hợp đồng tương tự khác;
- Tài sản hữu hình, gồm cả bất động sản và tài sản vô hình, gồm cả các
quyền như giao dịch thuê, thế chấp, cầm cố và quyền lưu giữ tài sản;
- Quyền sở hữu trí tuệ, gồm quyền tác giả và các quyền có liên quan,
nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, thiết kế bố trí (topography) mạch tích hợp, tín
hiệu thuê vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá, thông tin bí mật (bí mật
thương mại), kiểu dáng công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng; và


Phạm Văn Chung

7

Kinh tế phát triển 47BQN

- Các quyền theo quy định của pháp luật như các giấy phép và sự cho phép.
Mặc dù khái niệm về đầu tư được đề cập đến dưới góc độ nào thì đầu tư

trực tiếp nước ngoài cũng chính là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư bỏ
vốn để xây dựng hoặc sở hữu phần lớn hay toàn bộ cơ sở kinh doanh ở nước
ngoài bằng cách mua lại để trực tiếp quản lý điều hành hay tham gia quản lý
điều hành cũng như chịu trách nhiệm về hoạt động của đối tượng mà họ bỏ
vốn đầu tư.
1.1.2 Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sang các nước ASEAN và phân loại
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư mang vốn đi
đầu tư sang nước khác để tìm kiếm lợi nhuận. Do vậy, hoạt động này chịu tác
động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, một cách khái quát thì có thể
chia các yếu tố này thành các nhóm chính sau:
- Điều kiện tự nhiên
Các quốc gia có sức thu hút đối với nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất là
những quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú (nhiều khoáng
sản, khí hậu, đất đai và vị trí địa lý thuận lợi). Tại đây, nhà đầu tư nước ngoài
có thể tiến hành các hoạt động thăm dò, khai thác và chế biến các nguồn tài
nguyên hoặc tận dụng những tác động thuận lợi của nó.
Trữ lượng các nguồn tài nguyên này là yếu tố quyết định đến quy mô và
thời gian hoạt động của dự án. Nhà đầu tư nước ngoài nào khi tiến hành đầu
tư cũng muốn tận dụng tối đa và phát huy hết hiệu quả của các nguồn tài
nguyên của các nước sở tại.
Bên cạnh các nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân lực của nước sở tại cũng là
một trong những mục tiêu hướng đến của các nhà đầu tư. Đặc biệt, tại các
quốc gia đang phát triển, nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ là yếu tố rất hấp dẫn
đối với nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ nguồn lao động giá rẻ mà các nhà đầu tư
có thể giảm chi phí sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh.


Phạm Văn Chung

8


Kinh tế phát triển 47BQN

- Cơ chế, chính sách đầu tư
Trên thực tế, thu lợi nhuận không phải bao giờ cũng là mục tiêu duy nhất
của nhà đầu tư. Bên cạnh mục tiêu thu lợi nhuận, nhà đầu tư nước ngoài còn
đặt ra nhiều mục tiêu khác như tiếp cận nguồn lực, mở rộng ảnh hưởng và
tăng khả năng cạnh tranh. Các mục tiêu này bị chi phối rất lớn bởi cơ chế,
chính sách của cả quốc gia đi đầu tư và quốc gia nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sang các nước ASEAN trước hết phụ
thuộc rất nhiều vào đường lối chính sách và các biện pháp hỗ trợ từ phía nhà
nước của các quốc gia ASEAN tiến hành đầu tư.
Những chính sách kinh tế vĩ mô tác động mạnh mẽ đến việc thúc đẩy hay
hạn chế đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp như: chính sách
tài chính - tiền tệ, xuất nhập khẩu, khả năng di chuyển vốn của nhà đầu tư.
Nếu các chính sách vĩ mô trên không thuận lợi hoặc là cản trở việc đầu tư ra
nước ngoài sang các nước ASEAN thì các nhà đầu tư sẽ không mạo hiểm
thực hiện việc mang tiền, tài sản đi đầu tư ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, các hoạt động thúc đẩy, hỗ trợ đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài từ phía Chính phủ cũng đóng một vai trò rất quan trọng. Việc ký kết các
hiệp định đầu tư với nước ngoài sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng hàng đầu tạo
thêm niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình tiếp cận và kinh
doanh ở nước nhận đầu tư. Ngoài ra, khi Chính phủ thực sự khuyến khích
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp, Chính phủ có thể
trợ giúp các nhà đầu tư của mình bằng việc cung cấp thông tin thị trường,
thông tin đối tác, cơ hội và kinh nghiệm kinh doanh, thông tin về môi trường
đầu tư cũng như áp dụng các chính sách bảo hiểm cho hoạt động đầu tư ra
nước ngoài.
Nhìn chung, các cơ chế chính sách của Nhà nước tiến hành đầu tư có tác
động và ảnh hưởng bước đầu đến quyết định đầu tư cũng như có hiệu quả của

hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp.


Phạm Văn Chung

9

Kinh tế phát triển 47BQN

Kế tiếp phải kể đến những chính sách của Nhà nước, Chính phủ nước
nhận đầu tư. Chính phủ các nước nhận đầu tư có vai trò hết sức quan trọng
đối với hoạt động FDI ở từng nước. Hầu hết các Chính phủ đều có vai trò trực
tiếp hay hạn chế FDI. Một khi chính phủ các nước nhận đầu tư thấy được vai
trò và tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, Chính phủ sẽ củng
cố và tăng cường các hình thức khuyến khích đầu tư như một công cụ thu hút
đầu tư nước ngoài. Các khuyến khích đầu tư là những ưu đãi hay những ưu
thế kinh tế có thể lượng hoá do chính phủ hoặc theo chỉ đạo của chính phủ
dành cho một số doanh nghiệp nhất định hay một số loại hình doanh nghiệp
nhất định để nhằm khuyến khích các đối tượng này quyết định đầu tư tại nước
đưa ra khuyến khích đầu tư thay vì đầu tư vào nước khác.
Những chính sách khuyến khích đầu tư này tạo nên một môi trường
thuận lợi cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời
cũng gián tiếp tác động tới hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp này.
- Trình độ phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế cộng với những thay đổi về
chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, tuổi thọ,…) và những thay đổi cơ
cấu kinh tế. Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền
kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất
định. Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia được phản ánh qua các chỉ
tiêu như tốc độ tăng trưởng GDP, tình hình thất nghiệp, lạm phát, lãi suất, tình

trạng cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái.
Như vậy, khi một quốc gia có trình độ phát triển kinh tế cao nghĩa là tốc độ
tăng trưởng GDP cao, sẽ có thu nhập cao và tích luỹ lớn. Đây là tiền đề cho sự
gia tăng đầu tư cả trong nước và ra nước ngoài. Trình độ phát triển kinh tế cho
biết dung lượng thị trường đầu tư và là điều kiện để xác định quy mô dự án đầu
tư. Một nền kinh tế tăng trưởng cao sẽ làm tăng khả năng sinh lợi của vốn đầu
tư, giảm bớt rủi ro và do đó, tăng mức hấp dẫn hoạt động đầu tư.


Phạm Văn Chung

10

Kinh tế phát triển 47BQN

- Các rào cản khác
Ngoài các yếu tố kể trên, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
các doanh nghiệp sang các nước ASEAN còn chịu tác động của hàng loạt các
rào cản khác về chính trị, an ninh, cạnh tranh, hành chính, văn hoá - xã hội.
Trước hết là tình hình chính trị tại quốc gia nhận đầu tư. Nếu tình hình
chính trị bất ổn thì doanh nghiệp không thể tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh một cách an toàn và hiệu quả. Tình hình chính trị có nhiều biến
động chiến tranh cũng sẽ khiến cho nhu cầu tiêu dùng của thị trường giảm
sút, ảnh hưởng không nhỏ tới kế hoạch sản xuất kinh doanh của các nhà đầu
tư nước ngoài.
Mặt khác, nhu cầu cũng như thị hiếu ở nước nhận đầu tư chịu tác động
không nhỏ từ các yếu tố văn hoá, chính trị, xã hội tại nước đó. Chính vì vậy,
nếu như doanh nghiệp đầu tư có định hướng sản phẩm không đúng, không
phù hợp với tập tục của thị trường nước sở tại thì sản phẩm sản xuất ra sẽ
không thể tiêu thụ được thậm chí còn bị tẩy chay trên thị trường.

Các nhà đầu tư nước ngoài, trước khi tiến hành đầu tư vào một quốc gia
nào đó thì phải tìm hiểu kỹ các yếu tố này nếu muốn các dự án được triển khai
một cách có hiệu quả.
- Phân loại các hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt
Nam sang các nước ASEAN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài sang các nước ASEAN(FDI) thường được
thực hiện thông qua các hình thức tuỳ theo quy định của Luật đầu tư nước
ngoài của nước sở tại. Các hình thức FDI được áp dụng trên thế giới thường
là Hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, bán buôn đối ứng,
hợp đồng cấp giấy phép công nghệ hay quản lý hợp đồng ly xăng, 100% vốn
nước ngoài, hợp đồng chia sản phẩm, hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển
giao (BOT). Các hình thức FDI này có thể được thực hiện tại các khu công


Phạm Văn Chung

11

Kinh tế phát triển 47BQN

nghệ tập trung, đặc khu kinh tế, thành phố mở tuỳ thuộc điều kiện cụ thể và
từng lĩnh vực mà các quốc gia lựa chọn và thành lập các khu đầu tư nước
ngoài phù hợp trong đó thu hút các hình thức FDI khác nhau.
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: là hình
thức đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết thoả thuận để tiến
hành hoạt động sản xuất - kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trên cở sở quy định
rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia kết
quả kinh doanh cho các bên tham gia. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do
các bên thoả thuận và được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư phê
duyệt.

Đặc điểm:
+ Không thành lập pháp nhân mới
+ Hoạt động dựa trên văn bản ký kết giữa các bên. Khi hết thời gian
hiệu lực thì các bên không còn ràng buộc về mặt pháp lý.
Hình thức này dựa trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh chủ yếu áp dụng
trong lĩnh vưc thăm dò và khai thác dầu khí, dịch vụ bưu chính viễn thông.
- Doanh nghiệp liên doanh: là loại hình kinh doanh trong đó bên nước
ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và
chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập
theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật
pháp nước nhận đầu tư. Tỷ lệ góp vốn do các bên liên doanh thoả thuận.
Đặc điểm:
+ Thành lập doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
+ Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và
chia rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. Tuỳ theo từng quốc gia mà quy
định mức góp vốn tối đa hay tối thiểu vào vốn pháp định của chủ đầu tư
nước ngoài.


Phạm Văn Chung

12

Kinh tế phát triển 47BQN

- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp thuộc sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà,
tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh
Đặc điểm:
+ Chủ đầu tư nước ngoài có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo

quy định của luật nước sở tại. Doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu
của tổ chức cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, quản lý
và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một pháp nhân của nước nhận
đầu tư
Một vài dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài
là: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh- chuyển giao (BOT), hợp đồng xây
dựng- chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao
(BT). Đây là các dạng đầu tư được áp dụng đối với các công trình xây dựng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
BTO là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước
sở tại với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu
hạ tầng trong một thời hạn nhất định. Hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao không bồi hoàn hoặc với một giá tượng trưng công trình đó cho
nước sở tại.
BTO là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước
sở tại với nhà đầu tư nước ngoài về xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng;
sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao cho nước sở tại.
Chính phủ nước sở tại sẽ cùng với nhà đầu tư nước ngoài khai thác công trình
đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và đảm bảo có lãi.
BT là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước sở
tại với nhà đầu tư nước ngoài về việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng;
sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao cho nước sở tại.


Phạm Văn Chung

13

Kinh tế phát triển 47BQN


Chính phủ nước sở tại sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện
dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Tuỳ điều kiện và mục tiêu cụ thể mà các nhà đầu tư nước ngoài quyết
định hình thức đầu tư một cách thích hợp. Đối với điều kiện cụ thể của Việt
Nam, khi đầu tư sang các nước phát triển cần khuyến khích loại hình doanh
nghiệp liên doanh vì loại hình này đem lại cho bên Việt Nam kỹ thuật hiện
đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, đồng thời cho phép các nhà đầu tư Việt
Nam tham gia điều hành doanh nghiệp, từ đó học hỏi được nhiều kinh nghiệm
quý báu.
1.2 Những yếu tố tác động chủ yếu đến đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài sang các nước ASEAN
1.2.1 những tác động tích cực
Một trong những đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ đầu tư
nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự án nên thường có trách nhiệm
cao, thường đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Từ đó mà có thể đảm
bảo hiệu quả của vốn FDI cao. Dù là ĐTRNN sang các nước ASEAN theo
hình thức nào thỉ chủ đầu tư bao giờ cũng đưa ra những quyết định để làm sao
co lợi cho mình và phát triển đông đã bỏ ra đầu tư. Nhờ đó mà dự án đầu tư
cũng đạt được hiệu quả cao.
- Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước đầu tư sử dụng
có hiệu quả nguồn lực “dư thừa” tương đối trong nước, nâng cao tỷ suất lợi
nhuận đầu tư; đồng thời khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trên
trường quốc tế.
Đối với các quốc gia đang phát triển, để có thể cạnh tranh được trên thị
trường quốc tế, phải biết tận dụng lợi thế so sánh của quốc gia. Các nước
đang phát triển như Việt Nam là những nước có nền công nghiệp lạc hậu hơn
nền công nghiệp thế giới, không sở hữu những công nghệ tiên tiến hiện đại
cũng như không có nguồn vốn dồi dào. Do vậy, muốn tiến hành đầu tư sang



Phạm Văn Chung

14

Kinh tế phát triển 47BQN

các quốc gia phát triển chỉ có thể dựa vào lợi thế so sánh quốc gia cũng như
phát triển những ngành nghề thủ công truyền thống.
- Bằng cách đầu tư ra nước ngoài, các nước tiến hành đầu tư tận dụng
được lợi thế về chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư (do giá lao động
rẻ, chi phí khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm,
giảm chi phí vận chuyển đối với sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu của
nước nhận đầu tư, nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các công ty tiến hành hoạt
động đầu tư kéo dài chu kỳ sống của các sản phẩm được tạo ra trong nước
bằng một phần sản phẩm (chủ yếu là máy móc thiết bị) đang ở giai đoạn cuối
của chu kỳ sống sang các nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng tạo thêm lợi
nhuận cho nhà đầu tư.
Một công nghệ có thể là lạc hậu đối với quốc gia này nhưng lại là hữu
dụng hay là thậm chí là mới mẻ đối với một quốc gia khác có trình độ phát
triển thấp hơn. ĐTRNN nhà đầu tư có thể mang những công nghệ cũ này tới
những quốc gia cần nó để tiếp tục tiến hành sản xuất, tạo thêm lợi nhuận và
điều kiện để nhập khẩu về những công nghệ mới tiên tiến hơn. Nhà đầu tư
vừa có thể tiếp tục khai thác những công nghệ lạc hậu để tạo thêm nguồn
thu, vừa có được những công nghệ mới để nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép nước chủ đầu tư bành trướng
sức mạnh kinh tế, tăng cường khẳ năng ảnh hưởng của mình trên trường
quốc tế nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Điển hình là các quốc gia phát triển, có nền kinh tế hùng mạnh rất quan
tâm, chú trọng tới hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Bên cạnh tìm
kiếm cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao tỷ suất lợi nhuận
của đồng vốn bỏ ra, một trong những mục tiêu quan trọng của các quốc gia
này là mở rộng tầm ảnh hưởng. Các nhà đầu tư ở các nước phát triển có đầy


Phạm Văn Chung

15

Kinh tế phát triển 47BQN

đủ sức mạnh về vốn, về công nghệ cũng như kinh nghiệm để từng bước thao
túng thị trường nước nhận đầu tư, thông qua đó nâng cao tầm ảnh hưởng của
quốc gia đối với nước nhận đầu tư.
1.2.2 Tác động tiêu cực
- Nếu chính phủ các nước đi đầu tư đưa ra các chính sách không phù
hợp sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu tư ở trong nươc.
Khi đó các doanh nghiệp hướng mạnh ra thị trường nước ngoài đầu tư để thu
lợi, do đó các quốc gia chủ nhà có xu hướng bị suy thoái, tụt hậu.
Đây là một trong những nỗi lo lớn của các quốc gia đang phát triển
như Việt Nam trước khi quyết định có khuyến khích hoạt động ĐTRNN
hay không. Việt Nam đang trên con đường tiến hành CNH, HĐH nên cần
rất nhiều vốn. Nếu khuyến khích các doanh nghiệp mang vốn ra nước ngoài
đầu tư sẽ khiến trong nước thiếu hụt vốn, ảnh hưởng tới vấn đề tạo công ăn
việc làm cho người lao động trong nước. Điều này đòi hỏi các nhà lãnh đạo
phải có tầm nhìn, định hướng rõ ràng và đưa ra những chính sách phù hợp
với tiến trình hội nhập nhưng không được ảnh hưởng tới công cuộc xây
dựng đất nước.

- Đầu tư ra nước ngoài có nguy cơ bị nhiều rủi ro hơn trong nước, do
đó các doanh nghiệp này thường áp dụng các biện pháp khác nhau để phòng
ngừa, hạn chế rủi ro.
1.3 Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sang các nước
ASEAN đối với nước đầu tư
1.3.1 Tác động tích cực
- Một trong những đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ đầu
tư nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự án nên thường có trách
nhiệm cao, thường đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Từ đó mà có
thể đảm bảo hiệu quả của vốn FDI cao. Dù là ĐTRNN theo hình thức nào thỉ
chủ đầu tư bao giờ cũng đưa ra những quyết định để làm sao co lợi cho mình


Phạm Văn Chung

16

Kinh tế phát triển 47BQN

và phát triển đông đã bỏ ra đầu tư. Nhờ đó mà dự án đầu tư cũng đạt được
hiệu quả cao.
- Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước đầu tư sử dụng
có hiệu quả nguồn lực “dư thừa” tương đối trong nước, nâng cao tỷ suất lợi
nhuận đầu tư; đồng thời khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trên
trường quốc tế.
Đối với các quốc gia đang phát triển, để có thể cạnh tranh được trên thị
trường quốc tế, phải biết tận dụng lợi thế so sánh của quốc gia. Các nước
đang phát triển như Việt Nam là những nước có nền công nghiệp lạc hậu hơn
nền công nghiệp thế giới, không sở hữu những công nghệ tiên tiến hiện đại
cũng như không có nguồn vốn dồi dào. Do vậy, muốn tiến hành đầu tư sang

các quốc gia phát triển chỉ có thể dựa vào lợi thế so sánh quốc gia cũng như
phát triển những ngành nghề thủ công truyền thống.
- Bằng cách đầu tư ra nước ngoài, các nước tiến hành đầu tư tận dụng
được lợi thế về chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư (do giá lao động
rẻ, chi phí khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm,
giảm chi phí vận chuyển đối với sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu của
nước nhận đầu tư, nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các công ty tiến hành hoạt
động đầu tư kéo dài chu kỳ sống của các sản phẩm được tạo ra trong nước
bằng một phần sản phẩm (chủ yếu là máy móc thiết bị) đang ở giai đoạn cuối
của chu kỳ sống sang các nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng tạo thêm lợi
nhuận cho nhà đầu tư.
Một công nghệ có thể là lạc hậu đối với quốc gia này nhưng lại là hữu
dụng hay là thậm chí là mới mẻ đối với một quốc gia khác có trình độ phát
triển thấp hơn. ĐTRNN sang các nước ASEAN là nhà đầu tư có thể mang
những công nghệ cũ này tới những quốc gia cần nó để tiếp tục tiến hành sản
xuất, tạo thêm lợi nhuận và điều kiện để nhập khẩu về những công nghệ mới


Phạm Văn Chung

17

Kinh tế phát triển 47BQN

tiên tiến hơn. Nhà đầu tư vừa có thể tiếp tục khai thác những công nghệ lạc
hậu để tạo thêm nguồn thu, vừa có được những công nghệ mới để nâng cao
sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép nước chủ đầu tư bành trướng
sức mạnh kinh tế, tăng cường khẳ năng ảnh hưởng của mình trên trường

quốc tế nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Điển hình là các quốc gia phát triển, có nền kinh tế hùng mạnh rất quan
tâm, chú trọng tới hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Bên cạnh tìm
kiếm cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao tỷ suất lợi nhuận
của đồng vốn bỏ ra, một trong những mục tiêu quan trọng của các quốc gia
này là mở rộng tầm ảnh hưởng. Các nhà đầu tư ở các nước phát triển có đầy
đủ sức mạnh về vốn, về công nghệ cũng như kinh nghiệm để từng bước thao
túng thị trường nước nhận đầu tư, thông qua đó nâng cao tầm ảnh hưởng của
quốc gia đối với nước nhận đầu tư.
1.3.2 tác động không tích cực
- Nếu chính phủ các nước đi đầu tư đưa ra các chính sách không phù
hợp sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu tư ở trong nươc.
Khi đó các doanh nghiệp hướng mạnh ra thị trường nước ngoài đầu tư để thu
lợi, do đó các quốc gia chủ nhà có xu hướng bị suy thoái, tụt hậu.
Đây là một trong những nỗi lo lớn của các quốc gia đang phát triển
như Việt Nam trước khi quyết định có khuyến khích hoạt động ĐTRNN
hay không. Việt Nam đang trên con đường tiến hành CNH, HĐH nên cần
rất nhiều vốn. Nếu khuyến khích các doanh nghiệp mang vốn ra nước ngoài
đầu tư sẽ khiến trong nước thiếu hụt vốn, ảnh hưởng tới vấn đề tạo công ăn
việc làm cho người lao động trong nước. Điều này đòi hỏi các nhà lãnh đạo
phải có tầm nhìn, định hướng rõ ràng và đưa ra những chính sách phù hợp
với tiến trình hội nhập nhưng không được ảnh hưởng tới công cuộc xây
dựng đất nước.


Phạm Văn Chung

18

Kinh tế phát triển 47BQN


- Rút rỗng nền kinh tế
- Đầu tư ra nước ngoài có nguy cơ bị nhiều rủi ro hơn trong nước, do đó
các doanh nghiệp này thường áp dụng các biện pháp khác nhau để phòng
ngừa, hạn chế rủi ro.
1.4 Động lực và điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.4.1 Động lực thúc đẩy các nhà đầu tư (trong đó chủ yếu là doanh
nghiệp) mở rộng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sang các nước ASEAN
Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Lênin có nhấn mạnh việc các nhà tư
bản đã xúc tiến mở rộng xuất khẩu tư bản ra nước ngoài thông qua hai hình
thức: thứ nhất là hình thức xây dựng nhà máy, công xưởng…ở nước ngoài và
tiến hành sản xuất kinh doanh ở đó để thu lợi nhuận; thứ hai là cho vay kiếm
lời. Như vậy, ĐTRNN sang các nước ASEAN đã trở thành một xu thế tất yếu
không thể thiếu của Việt Nam.
Ngày nay, các nhà đầu tư trong đó có các doanh nghiệp cũng vẫn không
ngừng tiến hành hoạt động ĐTRNN sang các nước ASEAN. Sở dĩ như vậy vì
bên cạnh những tác động tích cực do hoạt động ĐTTTRNN sang các nước
ASEAN mang lại cho quốc gia tiến hành đầu tư còn có một số động lực thúc
đẩy các nhà đầu tư mở rộng. Đó là:
- Nếu chỉ sản xuất kinh doanh trong nước thỉ tỷ suất lợi nhuận thu được
trong nước luôn có xu hướng giảm do nguồn lực có hạn. Ngay cả Việt Nam,
một quốc gia đựơc đánh giá là giàu tài nguyên này cũng sẽ cạn kiệt. Đến lúc
đó, để thu được một đồng lợi nhuận thì nguồn vốn bỏ ra sẽ là rất lớn. Khi đó,
các nhà đầu tư phải tìm đến những thị trường khác, các quốc gia khác có sẵn
nguồn lực hơn nhằm giảm chi phí đầu tư.
- Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp ra nước ngoài sẽ tạo điệu kiện cho
doanh nghiệp mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận những
nguồn lực mới, đa dạng và tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu
dồi dào, ổn định với giá rẻ…



Phạm Văn Chung

19

Kinh tế phát triển 47BQN

Khi quyết định đầu tư sang một quốc gia nào đó, chủ đầu tư bao giờ
cũng nhắm tới những lợi thế của quốc gia đó. Đó có thể là một quốc gia có thị
trường rộng lớn, thị hiếu cũng như nhu cầu của người dân phù hợp với đặc
điểm của sản phẩm; hoặc như quốc gia đó có một nguồn nguyên liệu dồi dào,
giá rẻ cần thiết cho quá trình sản xuất ra sản phẩm. Đầu tư vốn, mở rộng sản
xuất sang các quốc gia này, chủ đầu tư sẽ tận dụng được những lợi thế mà
trong nước không có, không thể sử dụng một cách ổn định với giá thành thấp
hơn nhập khẩu rất nhiều. Trong điều kiện gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới, Việt Nam càng có cơ hội lớn khi được bình đẳng với các quốc gia khác
trong việc tiếp cận thị trường của 150 quốc gia khác.
- Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp ra nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch và phí mậu dịch của
nước sở tại vì thông qua FDI mà chủ đầu tư nước ngoài xây dựng được các
doanh nghiệp của mình ngay tại các nước thi hành chính sách bảo hộ.
Trong thời điểm hiện nay khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới - WTO, các doanh nghiệp Việt
Nam đã được bình đắng tham gia sân chơi lớn với các quốc gia khác. Xu thế
cùng chung một mái nhà sẽ càng giúp các doanh nghiệp Việt Nam nhanh
chóng tận dụng được những lợi thế của mình.
1.4.2 Những điều kiện đảm bảo cho các doanh nghiệp tiến hành đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài
1.4.2.1 những điều kiện về phía doanh nghiệp
Khác với các cơ quan, đơn vị dùng tiền Ngân sách nhà nước đầu tư nước

ngoài phần lớn vì mục tiêu ngoại giao hay mở rộng phạm vi ảnh hưởng thì
các doanh nghiệp thường đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Các doanh
nghiệp trước khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài luôn phải cân nhắc, so sánh
mức độ hấp dẫn và rủi ro giữa môi trường kinh doanh trong nước với môi


Phạm Văn Chung

20

Kinh tế phát triển 47BQN

trường kinh doanh của nước dự kiến sẽ đầu tư vào. Mặc dù luôn đứng trước
các rủi ro về chính trị, tỷ giá hối đoái hay rủi ro về văn hoá xã hội nhưng để
tìm kiếm nguồn lợi nhuận cao hơn thị trường trong nước, các doanh nghiệp
vẫn tích cực đầu tư ra nước ngoài. Chính vì muốn tìm được thị trường mà ở
đó tiền vốn có khả năng sinh lời cao hơn so với trong nước mà ngay cả các
doanh nghiệp các quốc gia đang phát triển - những quốc gia đang rất cần vốn
để phát triển đất nước - cũng vẫn mong muốn mang nguồn vốn trong nước để
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tuy nhiên, các doanh nghiệp khi muốn thực
hiện hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cần phải có năng lực cạnh tranh.
Khái niệm khả năng cạnh tranh (competitiveness) thường dùng để nói
đến các đặc tính cho phép một hãng cạnh tranh một cách có hiệu quả với các
hãng khác nhờ có chi phí thấp hoặc sự vượt trội về công nghệ trong so sánh
quốc tế (theo nhà kinh tế Alan V.Deardorff). Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp chính là năng lực tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên
thị trường cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Đó
chính là tính năng động, sáng tạo, vươn mẩnh thị trường, đương đầu với mọi
thách thức và cố gắng liên tục của các doanh nghiệp trong nước trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bịo tác động bởi nhiều yếu tố
được phân chia thành hai loại: các yếu tố ngoài doanh nghiệp và các yếu tố
do doanh nghiệp chi phối. Ở đây chỉ đề cập đến các yếu tố thuộc về doanh
nghiệp.
- Trước hết là trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp:
Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu, có tổ chức tốt, doanh nghiệp sẽ
làm tốt mọi việc. Nếu các yếu tố khác tốt mà tổ chức quản lý tồi thì hoạt
động của doanh nghiệp chắc chắn không đạt hiệu quả. Tổ chức quản lý tốt
phải đảm bảo:


Phạm Văn Chung

21

Kinh tế phát triển 47BQN

+ Có phương pháp quản lý tốt. Đó là áp dụng phương pháp quản lý hiện đại
+ Phải có hệ thống tổ chức gọn nhẹ. Đây là hệ thống tổ chức ít cấp, linh
hoạt, dễ thay đổi khi môi trường kinh doanh thay đổi, quyền lực được phân chia
để mệnh lệnh truyền đạt được nhanh chóng, góp phần tạo ra năng suất cao.
+ Quản lý có hiệu quả, biểu hiện ở năng suất , chất lượng cao, lợi
nhuận tăng, phát triển bền vững.
- Thứ hai là trình độ của đội ngũ lãnh đạo: Đội ngũ lãnh đạo của
doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng, là người nắm toàn bộ nguồn lực, vạch
ra đường lối, chiến lược, chính sách, kế hoạch hoạt động kinh doanh trong
từng thời kỳ; hướng dẫn đôn đốc, kiểm tra dánh giá để đưa hoạt động của
doanh nghiệp đạ hiệu quả cao. Đặc biệt khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài thị
đội ngũ lãnh đạo phải là “bộ chỉ huy” đề ra được một chiến lược kinh doanh
hợp lý dựa trên những phân tích thị trường và lợi thế so sánh của doanh

nghiệp. Từ đó, quyết định định hướng vào một hay một số mảng thị trường
nhất định, tập trung vào những sản phẩm, dịch vụ có khả năng, lợi thế cạnh
tranh, né tránh những đối thủ cạnh tranh quá mạnh.
- Nguồn lực của doanh nghiệp:
+ Nguồn vốn: đây là nguồn lực phải có trước tiên vì không có vốn không
thể thành lập được doanh nghiệp và không thể hoạt động được.
Dù được định nghĩa như thế nào thì bản chất của đầu tư ra nước ngoài
cũng chính là quá trình di chuyển vốn (bao gồm vốn bằng tiền và vốn bằng
hiện vật…) từ nước đi đầu tư sang nước nhận đầu tư. Vốn là yếu tố trọng
hàng đầu không thể thiếu được đối với hoạt động kinh doanh của bất kỳ
doanh nghiệp nào. Có vốn doanh nghiệp mới có thể xây dựng nhà xưởng, mới
có thể đầu tư mua trang thiết bị may móc và mua các nguyên liệu đầu vào để
tiến hành sản xuất. Quan trọng hơn cả là muốn cạnh tranh được trên thị
trường thì doanh nghiệp phải có một nguồn vốn dồi dào, đủ mạnh để nhanh
chóng chớp thời cơ thu lợi nhuận. Song để có được nguồn vốn dồi dào, tiềm


Phạm Văn Chung

22

Kinh tế phát triển 47BQN

lực tài chính mạnh thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một quá trình tích tụ
và tập trung vốn.
Việt Nam với những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới có thể
khằng định các doanh nghiệp trong nước đã lớn mạnh lên một bước căn bản.
Số doanh nghiệp ngày một tăng, nếu tính đến cuối năm 2000 cả nước có
42.288 doanh nghiệp đã và đang hoạt động sản xuất kinh doanh, thì cũng vào
thời điểm này năm 2005 là 113.352 doanh nghiệp, bình quân mỗi năm trong 5

năm tăng trên 14 nghìn doanh nghiệp thực tế có hoạt động. Tính đến nay tổng
số doanh nghiệp đã đạt khoảng 230 nghìn doanh nghiệp. Số doanh nghiệp
ngày một tăng có sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt khu vực
doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Không chỉ
tăng nhanh về số doanh nghiệp, quan trọng hơn là tăng cả về quy mô doanh
nghiệp (về lao động, vốn…), những yếu tố này cùng với các yếu tốq, về công
nghệ,…góp phần quan trọng để tăng nhanh hơn giá trị gia tăng cho toàn nền
kinh tế quốc dân.
Mặc dù theo tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ là dưới 500 lao động và
vốn dưới 10 tỷ đồng thì có tới 96.81% số doanh nghiệp nước ta thuộc nhóm
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây đã có rất nhiều
doanh nghiệp nhỏ và vừa lớn mạnh và tìm được chỗ đứng vững chắc trên thị
trường. Tuy chỉ chiếm thị phần khiêm tốn, nhưng các doanh nghiệp này đang
phát triển rất nhanh và có tỷ suất lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp này cũgn
đang từng bước mở rộng thị trường đầu tư ra nước ngoài, tìm kiếm lợi nhuận
cao hơn khi mà thị trường trong nước đang dần bị bão hòa.
+ Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp: Đây là nguồn rất quan trọng, vì
sáng tạo ra các nguồn khác. Trình độ của nguồn nhân lực thể hiện ở trình độ
quản lý của các cấp lãnh đạo, trình độ lành nghề của lao động.
Trước hết là năng suất lao động của đội ngũ công nhân viên làm việc cho
doanh nghiệp: bao gồm các yếu tố liên quan đến người lao động, các nhân tố


Phạm Văn Chung

23

Kinh tế phát triển 47BQN

tổng thể về năng suất lao động, vai trò đào tạo, bồi dưỡng nhân viên, người

lao động. Người lao động Việt Nam được đánh giá cao là thông minh, học hỏi
tiếp thu nhanh, khéo tay và nếu được trả lương và tổ chức lao động tốt sẽ có
năng suất và hiệu quả cao. Song trong nhiều trường hợp, lợi thế này chưa
được phát huy đầy đủ. Đáng chú ý là tổ chức lao động ở nhiều doanh nghiệp
chưa hợp lý và khoa học, biên chế quá lớn (đặc biệt là đội ngũ gián tiếp), chức
năng và nhiệm vụ không rõ ràng, kỷ luật lao động chưa nghiêm, tỷ lệ đào tạo
chính quy thấp, mức độ thuần thục kém làm cho năng suất lao động chưa cao.
Đặc biệt trong điều kiện hội nhập ngày nay, càng đòi hỏi nguồn nhân lực của
các doanh nghiệp bên cạnh năng lực sản xuất còn phải có nhận thức sâu sắc
về nhiều mặt, tính độc lập cao và ky năng xử lý các tình huống. Với tầm quan
trọng như vậy, trước khi đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp cần xem xét
kỹ trình độ của công nhân viên rồi mới tiến hành đưa họ ra nước ngoài, phải
lam sao để có thể thích ứng với điều kiện lam việc mới.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý cũng đóng vai trò rất quan trọng.
Các doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ đủ năng lực đầu tư, quản lý, sản
xuất, kinh doanh, có tính tổ chức cao và có đạo đức nghề nghiệp. Cần thiết
phải có đội ngũ cán bộ tiếp nhận và hướng dẫn đầu tư có trình độ, năng lực,
am hiểu sâu sắc để phân tích tình hình, lựa chọn đối tác đầu tư đúng mục tiêu
đề ra. Điều quan trọng nhất là những nhà quản lý và điều hành phải có trình
độ hiểu biết, đặc biệt là về lĩnh vực đang kinh doanh, biết khai thác triệt để
mọi nguồn lực trong doanh nghiệp và tận dụng mọi cơ hội đầu tư.
+ Trình độ khoa học công nghệ: Trình độ khoa học công nghệ, khả
năng tiếp cận công nghệ và đổi mới công nghệ hiện có, chi phí cho nghiên
cứu và triển khai là những yếu tố quyết định hàng đầu về chất lượng và tính
năng của sản phẩm. Do đó, để có thể cạnh tranh được trên thị trường các
doanh nghiệp phải đạt tới mức trình độ khoa học công nghệ nào đó hoặc phải
có những bí quyết kỹ thuật, kỹ năng riêng có để sản xuất sản phẩm.


Phạm Văn Chung


24

Kinh tế phát triển 47BQN

Nhờ có khoa học công nghệ mà các công ty, các tập đoàn có khả năng
tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm có chất lượng cao, đa dạng về mẫu mã,
chủng loại, phù hợp với nhu cầu của thị trường và yêu cầu ngày càng cao của
người tiêu dùng. Qua đó mà lợi nhuận thu được cao hơn, tạo tiền đề cho sự
phát triển vững chắc của doanh nghiệp tại thị trường nước nhận đầu tư.
Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể ứng dụng các
thành tựu khoa học hiện đại vào sản xuất. Để có được sản phẩm có hàm lượng
khoa học - công nghệ cao, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có nguồn lực lớn, đủ
mạnh chi phối các yếu tố đầu vào của sản xuất và công nghệ chế tạo sản
phẩm, với yêu cầu đó thì các doanh nghiệp nhỏ không đủ sức làm được. Các
doanh nghiệp nhỏ và vừa phải tìm được những “khoảng trống” thị trường hay
có những bí quyết kỹ thuật riêng có mới có thể đầu tư ra nước ngoài có hiệu
quả. Các bí quyết kỹ thuật giúp cho các nhà sản xuất tạo ra được những sản
phẩm mang tính chất đặc thù riêng của mình. Điều này sẽ giúp cho nhà sản
xuất giữ được vị thế độc quyền của mình về sản phẩm, nâng cao khả năng
cạnh tranh của sản phẩm và của cả doanh nghiệp.
Trình độ khoa học - công nghệ là yếu tố quan trọng thứ hai liên quan đến
hiệu quả của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tiến bộ khoa học công nghệ là yếu tố quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh và đạt được mục
tiêu của các công ty và các tập đoàn.
+ Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ: nói tới năng lựccạnh
tranh của doanh nghiệp không thể không bản tới năng lực cạnh tranh của các
sản phẩm dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất cung cấp. Năng lực cạnh tranh
của sản phẩm dịch vụ là khả năng sản phẩm dịch vụ đó được sử dụng nhiều
và nhanh chóng khi trên thị trường có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất cung
cấp loại sản phẩm dịch vụ đó. Do vậy, trước khi có dự án đầu tư ra nước

ngoài, các doanh nghiệp phải xác định được năng lực cạnh tranh của sản
phẩm dịch vụ của mình. Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam


Phạm Văn Chung

25

Kinh tế phát triển 47BQN

hiện nay, không đủ điều kiện để áp dụng các công nghệ hiện đại có thể tạo ra
các sản phẩm vượt trội thì có thể đầu tư vào phát triển các sản phẩm truyền
thống, mang đặc tính riêng có.
1.4.2.2 Cơ chế chính sách của nhà nước
Trong điều kiện phát triển và hội nhập hiện nay thì đầu tư trực tiếp nước
ngoài là một tất yếu khách quan không chỉ riêng đối với các quốc gia đang
phát triển cũng đang dần nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của hoạt động đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài. Doanh nghiệp tại các nước không ngừng tìm kiếm
cơ hội vươn ra thị trường quốc tế, mong gặt hái được lợi nhuận lớn hơn. Tuy
nhiên, hoạt động đầu tư ra nước ngoài có đạt được hiệu quả hay không thì bên
cạnh sự nỗ lực của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào những cơ chế chính sách
từ phía nhà nước. Hệ thống các chính sách này có thể thúc đẩy, khuyến khích
các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhưng cũng có thể làm cản
trở, hạn chế hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Do vậy, để khuyến khích doanh nghiệp tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, Chính phủ có thể thực thi các chính sách vĩ mô có tác động mạnh đến
thúc đẩy hoạt động này như: có thể thay đổi chính sách tài chính - tiền tệ sao
cho nới lỏng tiền tệ và thắt chặt tài chính. Điều này sẽ làm cho mức lãi suất
thực tế giảm làm cản trở môi trường đầu tư nội địa, đầu tư trong nước không
còn hiệu quả. Để đảm bảo nguồn thu, các doanh nghiệp phải đảm bảo tìm

đường vươn sang thị trường khác. Từ đó mà gián tiếp thúc đẩy đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài. Hay như chính sách quản lý ngoại hối ở nước đầu tư cũng
tác động lớn đến quyết định đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp. Nếu quản
lý ngoại hối được nới lỏng theo hướng tự do hoá thị trường vốn thì các nhà
đầu tư được quyền tự do chuyển vốn ra nước ngoài, do đó sẽ làm tăng khả
năng đầu tư ra nước ngoài của các chủ đầu tư.
Bên cạnh việc điều hành các chính sách vĩ mô thì các hoạt động hỗ trợ
trực tiếp cho doanh nghiệp của Chính phủ cũng có một tầm quan trọng nhất


×