Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.9 KB, 98 trang )

LUẬN VĂN:
Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
hiện nay

mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước pháp quyền - nhà nước xác định pháp luật ở vị trí tối thượng, tổ
chức và hoạt động theo pháp luật, sử dụng pháp luật trong quản lý xã hội - như kinh
nghiệm lịch sử cho thấy là hình thức tổ chức nhà nước có thể đáp ứng được các yêu cầu
phát triển của xã hội. Trong thời đại ngày nay, xây dựng nhà nước pháp quyền đã trở
thành một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của các
quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển. Xây dựng nhà nước pháp quyền, một
mặt, là xây dựng một nhà nước có khả năng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của nhân dân cho phát triển đất nước, mặt khác,
còn là cơ sở đảm bảo sự ổn định, sự bền vững của bản thân nhà nước.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (NDCM) xác định phải từng bước đổi mới
và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào theo hướng
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân.
Bởi vì, đối với nước CHDCND Lào - một nước còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa và xã hội còn thấp như hiện nay - thì việc xây một nhà nước
pháp quyền càng có ý nghĩa quyết định. Việc đặt vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền theo định hướng XHCN ở Lào hiện nay, một mặt, là đòi hỏi khách quan của
việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, của quá trình dân chủ hoá xã hội và quá
trình hội nhập quốc tế, mặt khác, còn là yêu cầu của việc xây dựng và củng cố chế
độ dân chủ nhân dân theo định hướng XHCN.
Xây dựng nhà nước pháp quyền dù ở quốc gia nào cũng là một quá trình lịch
sử, là kết quả của sự phát triển của sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội. Trong những
điều kiện lịch sử nhất đinh, việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở mỗi nước lại lại đòi hỏi


những cách làm cụ thể - những giải pháp cụ thể, phù hợp. Xây dựng nhà nước pháp
quyền trong điều kiện ở Lào là một công việc lâu dài, phức tạp và hệ trọng, đòi hỏi nhiều
giải pháp các yếu tố liên quan đến điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội, truyền thống lịch
sử, văn hóa, tâm lý dân tộc, nhu cầu xã hội, quan hệ quốc tế. Việc xác định các giải
pháp đòi hỏi phải gắn được lý luận với thực tiễn, các giải pháp được nêu ra cần phải phù
hợp với điều kiện trong nước của Lào và xu hướng phát triển của thế giới.


Quá trình xây dựng nhà nước hiện nay ở Lào được tiến hành trong giai đoạn
đầu của sự nghiệp đổi mới với điều kiện kinh tế - xã hội còn thấp, trình độ dân trí văn
hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ chưa phát triển cao, dân chủ hóa trong xã hội còn
hạn chế. Do vậy, trong các phương hướng và giải pháp cần xác định được những mô
hình, cách thức tổ chức thích hợp, khả thi và có hiệu quả thiết thực tạo cơ sở vững chắc
cho các bước đi trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào. Việc xác định
những giải pháp ấy phải dựa trên cơ sở thực tiễn khách quan của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng củng cố bộ máy nhà nước và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
qua từng giai đoạn nhằm đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân các bộ tộc Lào trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Việc nghiên cứu một cách trực tiếp và có hệ thống về “Một số giải pháp xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay” là có ý nghĩa
thiết thực về lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây dựng và phát triển đất nước ở
CHDCND Lào.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quan điểm của Đảng NDCM Lào về đổi mới và hoàn thiện nhà nước theo
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào đã được nêu trong một số văn
kiện của Đảng, đã được cụ thể hóa một bước thành Hiến pháp (Hiến pháp 1991, Hiến
pháp sửa đổi 2003) và một số đạo luật khác. Theo tinh thần ấy, ở Lào đã có một số công
trình khoa học đề cập tới vấn đề xây dựng nhà nước, nhưng chủ yếu mới dừng lại ở vấn
đề xây dựng nhà nước pháp quyền như là một tất yếu khách quan của việc đảm bảo
quyền lực của nhân dân lao động, củng cố hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung. Cho

đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập cụ thể đến các giải pháp cho việc
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào. Tuy nhiên, những công trình đã có có thể xem là
những cơ sở, những tiền đề có thể kế thừa, khai thác phục vụ đề tài của luận văn này.
Có thể xem đề tài về các giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào (đề tài luận
văn này) là sự tiếp nối các đề tài, các công trình nghiên cứu đã có về tính tất yếu, những
đặc điểm, những yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào. Có thể thấy một
số công trình sau đây:


1. Khăm Cải Viêng Xa Văn (1995), Sự kiện lịch sử của việc thành lập Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào, Tạp chí A Lun May (CHDCND Lào).
2. Phông Xa Vặt Búp Pha (1996), Sự phát triển của Nhà nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào, Tạp chí A Lun May (CHDCND Lào).
3. Chả Lơn Dia Pao Hơ (1995), Sự vững mạnh của quyền lực nhà nước là yếu
tố đảm bảo cho nền độc lập chủ quyền quốc gia, Tạp chí Xây dựng Đảng Nhân dân
cách mạng Lào.
4. En Sô La Thi (2000), Xây dựng nhà nước đảm bảo quyền lực của nhân dân
lao động ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ
Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu với những quy mô và cấp độ
khác nhau về nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền được thực hiện
từ những năm 1991 -1995 và từ 1995 đến nay. Có thể thấy nhiều đề tài lớn đã được thực
hiện trong những năm 1991 -1995 như một số đề tài cấp Nhà nước thuộc Chương trình
KX. 05, một số đề tài cấp Nhà nước thuộc các Chương trình KX. 08 và KX. 10 cho đến nay.
Những kết quả nghiên cứu trên là những cơ sở hết sức quý giúp cho việc thực hiện đề tài của
luận văn này.
Đăc biệt, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đã được nhiều tác giả nghiên
cứu dưới góc độ của khoa học chính trị, trong đó có Chính trị học. Có thể nêu một số
công trình sau đây:
1. Nguyễn Thị Tâm (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo đối với nhà nước

trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Võ Văn Bơ (1999), Xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
3. Phạm Ngọc Hà (2002), Nhà nước pháp quyền với việc thực hiện quyền lực
chính trị của nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay, Luận án thạc sĩ Chính trị học.
4. Nguyễn Quốc Bảo (2000-2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nhằm phát huy quyền lực chính trị của nhân dân lao động thể hiện trên


địa bàn huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Luân văn tốt nghiệp cử nhân chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Cộng Hòa (2002), Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam,
Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Những công trình nêu trên chủ yếu đề cập tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền,
thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động và đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền nói chung. Chưa có
công trình nào đề cập trực tiếp và có hệ thống tới vấn đề những giải pháp xây dựng nhà
nước pháp quyền. Có thể nói, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về vấn đề này.
Với việc xác định các giải pháp này, luận văn sẽ góp phần làm rõ căn cứ lý luận và
thực tiễn cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào hiện nay và những
năm tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của luận văn
Mục đích trên luận văn là xác định một số giải pháp cần thiết, phù hợp và có
tính khả thi cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội ở ở nước CHDCND Lào hiện nay và những năm tới.
Nhiệm vụ của luận văn là lý giải những cơ sở lý luận và thực tiễn của một số
giải pháp về: 1) kinh tế; 2) chính trị và 3) xã hội đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở CHDCND Lào.

Luận văn giới hạn nghiên cứu ở một số giải pháp chủ yếu về kinh tế, chính trị và xã
hội để xây dựng nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, của Đảng NDCM Lào và của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cơ sở lý luận cho
việc nghiên cứu.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp của chính trị học và xã hội học mácxít, gắn phân
tích lý luận với tổng kết thực tiễn.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn


Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của một số giải pháp xây dựng nhà nước
pháp quyền ở CHDCND Lào trên cơ sở tư duy mới về việc phát triển kinh tế thị trường,
xây dựng xã hội công dân, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước ở Lào hiện nay.
6. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện bộ
máy Nhà nước CHDCND Lào theo hướng nhà nước pháp quyền.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
nghiên cứu, học tập và giảng dạy trong các cơ sở đào tạo về một số nội dung liên quan đối
với những giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 6 tiết.


Chương 1
Phát triển kinh tế - xã hội tạo điều kiện
cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay


1.1. phát triển nền kinh tế thị trường, chuẩn bị công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là yêu cầu và điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào
1.1.1. Về quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa ở Lào hiện nay
1.1.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội ở Lào thời kỳ trước đổi mới
CHDCND Lào là một nước nhỏ bé nằm trong bán đảo Đông Dương với diện
tích 236.800 km2 có dân số hơn 5 triệu người (thống kê dân số cuối năm 2004), mật
độ dân số bình quân 12 người/1km2. Lào có hơn 49 các bộ tộc khác nhau cùng sinh
sống và được chia thành ba khối dân tộc lớn: dân tộc Lào Lum, dân tộc Lào Thâng,
dân tộc Lào Xung. Trong đó dân tộc Lào Lum chiếm 60% của dân số các bộ tộc Lào.
Về tổ chức hành chính của Nhà nước Lào được chia thành bốn cấp: Trung
ương, tỉnh, huyện, bản - làng. Về phong tục tập quán các bộ tộc Lào phần lớn theo
Phật giáo. Về kinh tế nhìn chung Lào là một nước nông nghiệp lạc hậu, một nền kinh
tế tự nhiên và nửa tự nhiên. Sản xuất nông nghiệp phân tán, manh mún, nặng tính tự
cấp, tự túc. Sản xuất với công cụ phương thức canh tác gồm nhiều loại hình, từ loại
sản xuất kiểu xa xưa trước phong kiến cho đến canh tác hiện đại đan xen nhau,
nhưng nhìn chung còn rất lạc hậu cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mức
sống của nhân dân các bộ tộc còn nghèo nàn.
Những đặc điểm đó được thể hiện rõ nét trên các vùng địa bàn miền núi, các
tỉnh phía Bắc và phía Đông. Sản xuất và đời sống của nhân dân phần lớn phụ thuộc
vào điều kiện tự nhiên. Các bộ tộc miền núi sống du canh, du cư, phá rừng đốt
nương làm rẫy, tận hưởng trực tiếp vật phẩm của tự nhiên để duy trì cuộc sống
thường ngày của họ. ở các vùng thung lũng và đồng bằng nhỏ ven các triền sông,
suối, nông dân trồng lúa nước một vụ kết hợp với chăn nuôi trong gia đình và đánh
bắt hái lượm tự nhiên để sinh sống. ở các vùng đồng bằng, thành phố, thị xã trục


đường giao thông ven các triền sông lớn và sông Mê Kông sản xuất phát triển hơn so
với các vùng khác. Nhưng nhìn chung sản xuất nông nghiệp là chính và vẫn giữ

phương thức canh tác tiểu nông sản xuất nông nghiệp chủ yếu là dựa vào sức kéo của
trâu bò, sức người với các công cụ lao động thô sơ như: cày, cuốc, dao, liềm. Công
cụ cơ khí nhỏ chưa được sử dụng phổ biến, việc dùng phân bón, thuốc trừ sâu và kỹ
thuật canh tác như thâm canh, tăng vụ còn rất hạn chế, cho nên hiệu quả, năng suất
chất lượng lao động sản xuất còn rất thấp kém. Nông sản làm ra chỉ đủ để ăn và tiêu
dùng trong cuộc sống hàng ngày.
Trong nông nghiệp và nông thôn cũng chưa có phân công chuyên môn hóa rõ
rệt, sản xuất của các hộ nông dân là vừa trồng trọt, vừa chăn nuôi, cho nên hiệu quả
năng suất còn thấp.
Năng suất lúa nước bình quân đạt: năm 1976 là 1,43 tấn/ha, 1980 là
1,65 tấn/ha, 1985 là 2,11 tấn/ha. Trồng trọt độc canh, trồng lúa nếp là
chủ yếu, kỹ thuật canh tác lạc hậu và chỉ làm một vụ, chăn nuôi cũng
chỉ là hoạt động mang tính chất kinh tế gia đình chưa thành sản xuất
hàng hóa [45, tr.36].
Hoạt động lâm nghiệp chủ yếu tập trung khai thác gỗ, lâm sản để tiêu dùng
trong cuộc sống và một phần để xuất khẩu. Một số lâm sản có giá trị rất cao và rất
quý, nhưng phương thức khai thác còn thô sơ, tùy tiện và coi thường các biện pháp
tu bổ tái tạo rừng. Sản xuất tự nhiên dựa vào rừng núi, sông hồ chủ yếu chỉ cung cấp
cho tiêu dùng hàng ngày của nhân dân địa phương, chưa tận dụng một cách hợp lý và
có hiệu quả những tiềm năng sắn có ấy, chưa được bảo vệ và khai thác đúng mức.
Trước ngày giải phóng kinh tế - xã hội của Lào là từng trải qua một thời kỳ
có hai vùng kinh tế - xã hội khác nhau:
Vùng kinh tế - xã hội mang tính chất dân chủ nhân dân (vùng giải phóng cũ)
là nơi căn cứ cách mạng. Đây là vùng có quan hệ mật thiết và được sự giúp đỡ của
các nước thuộc phe XHCN trước đây, đặc biệt là Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Vùng kinh tế - xã hội mang tính chất phụ thuộc vào sự viện trợ của chủ nghĩa
thực dân đế quốc, nhất là Mỹ với mục đích chiến tranh xâm lược. Đây là vùng kiểm
soát tạm thời của chính quyền ngụy Viêng Chăn.



Sau năm 1975 kinh tế - xã hội hai vùng đã thống nhất thành nền kinh tế - xã hội
dân chủ nhân dân và đã từng trải qua thời kỳ cơ chế quan liêu bao cấp. Trong thời kỳ
này nhà nước ưu tiên bảo hộ kinh tế tập thể và quốc doanh, trên cơ sở những điều kiện,
sự viện trợ giúp đỡ của các nước XHCN.
Tuy vậy, sau hàng chục năm về cơ bản nền kinh tế Lào vẫn chưa thoát
ra khỏi tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc, rất nhỏ bé, phân tán và lạc
hậu. Điều đó thể hiện rõ trong cơ cấu kinh tế ngành. Theo những số
liệu thống kê gần đây, cơ cấu kinh tế Lào với những ngành chính là
[46]:
Ngành

1980

1984

1985

1986

Nông nghiệp

83,00

73,00

73,10

73,30

Công nghiệp


6,00

8,60

9,9

10,50

Dịch vụ

11,00

17,90

17,00

16,20
Tính theo %

Một cơ cấu kinh tế như vậy ảnh hưởng đến sự phát triển đi lên của đất nước.
Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm chiến lược của đất nước vẫn là làm thế nào để đưa Lào
thoát khỏi nền kinh tế nhỏ bé, phân tán lạc hậu. Phải làm sao xây dựng được cả lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mới. Trong đó căn bản, trọng tâm nhất là phải xây
dựng cho được lực lượng sản xuất mới.
Song việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược đó vào cuối những năm
1980 trở đi không còn nằm trong bối cảnh phát triển thuận chiều với những quan hệ
kinh tế được triển khai một cách truyền thống theo hướng có sự giúp đỡ một chiều
của các nước XHCN phát triển đi trước. Dù còn sơ khai nhỏ bé nhưng nền kinh tế
đất nước vẫn phải tự tìm đường tồn tại và phát triển trên cơ sở bình đẳng, hai bên

cùng có lợi với các nước XHCN và quan hệ thị trường sòng phẳng với các nền kinh
tế khác trên thế giới. Đó là những thách thức rất to lớn và căng thẳng đối với nền
kinh tế cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước Lào.
Trước những đòi hỏi gay gắt và nghiêm trọng đó của thực tế lịch sử, Đảng
NDCM Lào đã khởi xướng sự nghiệp đổi mới, tiếp nhận xu thế đổi mới đúng đắn của
một số nước XHCN anh em, đặc biệt là Việt Nam. Đại hội Đảng lần thứ IV (1986) đã
khẳng định: "Quyết tâm chuyển nền kinh tế tự nhiên, nửa tự nhiên sang nền kinh tế


hàng hóa với một kiểu cơ cấu mới, gắn nông nghiệp, lâm nghiệp với công nghiệp và
dịch vụ" [43, tr.25].
1.1.1.2. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội ở Lào thời kỳ đổi mới
Thực hiện đường lối đổi mới trong đó có đổi mới kinh tế mà trọng tâm là đổi
mới cơ chế quản lý, sự phát triển của nền kinh tế Lào đã từng bước có những chuyển
biến rất quan trọng. Có thể thấy những chuyển biến cơ bản sau đây:
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ
Cơ cấu kinh tế trước năm đổi mới (1985), tiêu biểu là các năm 1980-1984,
1985 và 1986 nông nghiệp chiếm 73-83%, công nghiệp chiếm 6-10%, dịch vụ chiếm
11-17% (như đã thể hiện ở bảng trên).
Qua đổi mới cơ cấu kinh tế đã có sự đổi thay đáng kể: về cơ cấu nông nghiệp
năm 1995 chiếm 54,3%, 1996 chiếm 52%, 1997 chiếm 51,5% và 1998 chiếm
52,8%. Công nghiệp năm 1995 chiếm 18,8%, 1996 chiếm 20,6%, 1997
chiếm 20,82%, 1998 chiếm 21,73%. Dịch vụ năm 1995 chiếm 27,00%, 1996
chiếm 27,4%, 1997 chiếm 26,96% và 1998 chiếm 26,2% của GDP [47,
tr.83].
Với sự chuyển dịch tích cực của cơ cấu kinh tế đó nên tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) hàng năm đã tăng trưởng đáng kể: "Năm 1990 tăng 6,7%, năm 1991 tăng
4,00%, năm 1992 tăng 7,0%, năm 1993 tăng 5,9%, năm 1994 tăng 8,1%, năm 1995
tăng 7,0%, năm 1996 tăng 6,9%, năm 1997 tăng 6,9%, năm 1998 tăng 4,0%” [35,
tr.73, 83].

+ Chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết
của nhà nước
Trong những năm qua ở Lào đã có chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp, mệnh lệnh, hành chính từ trên xuống dưới sang cơ hế
thị trường. Nhà nước thực hiện vai trò định hướng và điều tiết vĩ mô, để cho các đơn
vị sản xuất kinh doanh là người tự chủ, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh
theo quy luật cung - cầu, theo yêu cầu của thị trường. Thực tế kinh nghiệm bước đầu
ở Lào đã cho thấy phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường vẫn cần phải có kế hoạch,
nhất là với những nền kinh tế còn nhỏ bé và nhiều yếu kém. Nhà nước sử dụng kế


hoạch làm công cụ định hướng, cần thiết điều tiết sự phát triển của thị trường đúng
hướng, có trọng tâm, trọng điểm, tạo ra sức mạnh cần thiết cho sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế theo định hướng XHCN. Kế hoạch trong cơ chế mới là kế hoạch được
hình thành thông qua những căn cứ của thị trường.
Sự thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế từ chế độ tập trung bao cấp sang cơ chế
thị trường, có thể nói, là sự thay đổi căn bản nhất, tạo nền tảng cho những thay đổi
về chính trị và xã hội Lào trong những năm qua và hiện nay. Có thể thấy những thay
đổi lớn trong cơ chế kinh tế mới như:
Một là, để thích ứng với thị trường ở Lào đã từng bước thực hiện trao đổi
thông qua giá cả và tỷ giá theo cơ chế thị trường. Nhà nước chỉ quản lý giá cả của
những sản phẩm chủ yếu mang tính chiến lược như điện lực, nước sạch, thông tin
liên lạc, hàng không. Việc thực hiện chính sách kinh tế mới, những năm vừa qua đã
thúc đẩy sản xuất kinh doanh, mở rộng ngành nghề tạo công ăn việc làm cho người
lao động, tỷ lệ lạm phát giảm (89% của năm 1989, xuống 10% của những năm 19901996).
Hai là, đã chuyển đổi hệ thống ngân hàng, từ hệ thống ngân hàng một cấp
thành hệ thống ngân hàng hai cấp với chức năng nhiệm vụ khác nhau: Ngân hàng
Trung ương làm nhiệm vụ quản lý điều tiết tầm vĩ mô về mặt lưu thông tiền tệ; Ngân
hàng Thương mại làm nhiệm vụ lưu động tín dụng và cung ứng dịch vụ vốn cho các
đơn vị sản xuất kinh doanh. Tách Kho bạc Nhà nước khỏi hệ thống Ngân hàng Quốc

gia. Đồng thời đã cho một ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh tại CHDCND Lào,
nhằm mở rộng thị trường vốn, tăng đầu tư cho nền kinh tế.
Việc thực hiện chính sách trên đã góp phần làm cho kinh tế thị trường ổn
định và mở rộng. Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống ngân hàng vẫn còn nhiều yếu
kém, chưa thực sự trở thành công cụ điều tiết chủ đạo cho nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN. Điều này thể hiện rõ trong việc đồng Kíp hiện đang ngày càng
có nguy cơ tụt xuống làm cho thị trường giá cả biến động liên tiếp.
Ba là, hệ thống tài chính nhà nước được chuyển từ hệ thống tài chính dưới
hình thức làm nghĩa vụ cho nhà nước của các đơn vị kinh doanh, các hộ gia đình
thành hệ thống nộp thuế theo pháp luật. Sự thay đổi trên đã góp phần làm cho chính


sách tài chính cấp vĩ mô của Nhà nước có hiệu lực và có khả năng huy động nguồn
tài chính ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước, góp phần thúc đẩy việc đầu tư vào
sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống tài chính các cấp chưa hẳn là công cụ điều tiết có hiệu
quả, nhất là trong nền kinh tế thị trường của một quốc gia kém phát triển. Việc quản
lý, sử dụng, kiểm soát ngân sách vốn đầu tư cả trong và ngoài nước chưa chặt chẽ.
Hiện tượng bội chi ngân sách vẫn thường xảy ra. Do những yếu kém đó nên chưa
phát huy tối đa tiềm lực tài chính của đất nước, cũng như việc thu hút các nguồn tài
chính từ bên ngoài.
Bốn là, đã cải cách hệ thống quản lý hành chính về kinh tế từ quản lý kinh tế
theo sự phân cấp như tỉnh, huyện và Trung ương sang quản lý theo ngành trong hệ
thống chiều dọc. Giảm biên chế bộ máy hành chính từ 106.000 người năm 1986
xuống còn 76.000 người năm 1994.
+ Chuyển từ thừa nhận hai thành phần kinh tế sang thừa nhận nhiều
thành phần kinh tế
Trước đổi mới nền kinh tế của CHDCND Lào có hai thành phần kinh tế chủ
yếu là quốc doanh và tập thể. Bước vào thời kỳ đổi mới đã có sự điều chỉnh lớn
trong quan hệ sản xuất với việc thừa nhận nhiều thành phần kinh tế. Đây là một
trong những chính sách cơ bản, trụ cột về phát triển kinh tế. Sự chuyển đổi này từng

bước khơi dậy các tiềm năng phát triển của nền kinh tế đất nước.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần là việc chuyển các đơn
vị kinh tế nhà nước và tập thể hoạt động kém hiệu quả và không mang tính chất chiến
lược sang các hình thức sở hữu khác như cho thuê, tư nhân góp vốn cùng kinh doanh
hay bán cho tư nhân trong và ngoài nước theo thời gian hợp đồng. Đã có hàng loạt
doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và nhỏ thuộc cấp tỉnh, cấp Trung ương đã chuyển
sang hình thức trên. Nhà nước chỉ nắm giữ một số đơn vị kinh tế có tính chất chiến
lược, có liên quan tới nhu cầu ổn định đời sống của toàn xã hội như điện lực, nước sạch,
hàng không, xăng dầu, bưu chính viễn thông v.v.. ở Lào hiện nay đang tồn tại và phát
triển nhiều thành phần kinh tế. Trong đó có cả các thành phần kinh tế có vốn đầu tư
100% vốn nước ngoài và vốn liên doanh trong - ngoài nước.


Các đơn vị kinh tế từng bước hoạt động sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị
trường và bình đẳng trước pháp luật. Từng bước phát huy tính chủ động và sáng tạo
trong sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp.
+ Chuyển từ quan hệ trao đổi hiện vật sang quan hệ trao đổi hàng hóa, tiền tệ
Quan hệ hàng hóa tiền tệ là một vấn đề cơ bản của sự chuyển đổi sang hệ
thống kinh tế thị trường. Ngay từ khi bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới Nhà nước
Lào đã chuyển đổi từ cơ chế chi - trả có tính chất hành chính sang chế độ chi - trả
bằng tiền mặt theo quy luật thị trường, mở rộng buôn bán tự do hợp pháp, chuyển từ
chế độ tiền lương cung cấp theo phiếu sổ tay sang chế độ lĩnh lương bằng tiền mặt.
Chuyển từ hệ thống nhiều tỷ giá trao đổi của nhà nước sang hệ thống giá cả và tỷ giá
trao đổi đơn nhất. Xóa bỏ những hàng rào ngăn sông cấm chợ giữa các tỉnh và địa
phương với nhau.
Trao đổi buôn bán theo cơ chế thị trường được mở rộng giữa thành thị và nông
thôn trên cả nước và mở rộng buôn bán qua biên giới.
Theo thống kê, năm 1994-1995 giá trị lưu thông hàng hóa cả nước so với
năm 1985 tăng 9 lần, riêng năm 1995 khả năng sức mua tăng lên 11,3% so
với năm 1994. Việc buôn bán với nước ngoài ngày càng phát triển. Đến

nay CHDCND Lào đã có quan hệ buôn bán với hơn 30 nước trên thế giới
với tổng giá trị buôn bán năm 1994-1995 đạt đến 759,7 triệu USD so với
năm 1993-1994 tăng 461%, trong đó xuất khẩu đạt 274 triệu USD so với
năm 1985 tăng 24,7 lần, nhập khẩu đạt tới 485 triệu USD, so với năm
1985 tăng 24,4 lần [36, tr.59].
+ Chuyển sang mở rộng và đa phương hóa các quan hệ kinh tế với nước
ngoài
Trước khi có những biến động lớn ở Liên Xô và Đông Âu những năm 19901991, Lào có quan hệ kinh tế chủ yếu với các nước XHCN. Trong đó, chủ yếu Lào tiếp
nhận viện trợ từ các nước XHCN. Hiện nay, một mặt Lào tiếp tục củng cố, mở rộng
quan hệ với các nước XHCN anh em truyền thống - trong đó có Việt Nam và quan hệ
trên tinh thần mới, cơ chế mới. Mặt khác, tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước trong


cộng đồng thế giới. Trong điều kiện hiện nay Đảng và Nhà nước Lào đã và đang coi
việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài theo hướng đa phương hóa như một chiến
lược hàng đầu để thu hút vốn đầu tư và công nghệ hiện đại nhằm xây dựng củng cố đất
nước. Chính sách này đã là một trong những yếu tố giúp CHDCND Lào vượt qua tình
trạng khó khăn về nhiều mặt đặc biệt là về mặt tài chính. Do chính sách mở cửa, tranh
thủ sự giúp đỡ hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, bình quân mỗi năm Lào nhận
được khoảng 300 triệu USD dưới hình thức viện trợ không hoàn lại và vay lãi xuất thấp.
Đây là nguồn vốn quan trọng hỗ trợ ngân sách quốc gia cũng như việc xây dựng phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ năm 1988 trở lại đây nhờ có Luật đầu tư nước ngoài nên tổng giá trị đầu tư
nước ngoài vào Lào đã tăng lên. Theo thống kê 1995, Chính phủ Lào đã phê duyệt
khoảng 500 dự án với tổng giá trị 5,5 tỷ USD.
Phần lớn các dự án đầu tư vào ngành điện lực, khai mỏ và dịch vụ. Năm
1996 đã thu hút được 63 dự án đầu tư của nước ngoài với tổng giá trị
972.185.770 USD, năm 1997 có 62 dự án các loại với tổng số vốn là
113.611.310 USD, năm 1998 thu hút được sự đầu tư của nước ngoài 69 dự
án với tổng giá trị là 97.788.160 USD [47, tr.84].

Hơn 10 năm qua, thực hiện chính sách đổi mới kinh tế - xã hội, CHDCND Lào
đã thu được những thành tựu bước đầu. Song, cũng còn nhiều tồn tại yếu kém, gặp khó
khăn nhiều mặt nhất là hệ thống các thể chế, chính sách, pháp luật và cán bộ.
+ Chuyển sang từng bước chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Để nâng cao chất lượng sản xuất thoát khỏi tình trạng phụ thuộc vào tự nhiên,
tự cung, tự cấp chúng ta ở Lào đang bắt đầu chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, về cơ cấu giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ qua
hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới, kiểu sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc trong
nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ hơn 50% GDP. Sản xuất nông nghiệp phần lớn vẫn phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên nhất là vùng nông thôn xa xôi, hẻo lánh. Chưa tạo được
điều kiện, môi trường thuận lợi để giúp đỡ nông dân các vùng này thoát ra khỏi tình


cảnh nghèo nàn, lạc hậu. Việc chặt cây phá rừng, đốt nương làm rẫy và hình thức làm
ăn sinh sống, theo kiểu tự nhiên, tự cung, tự cấp của đồng bào vẫn tiếp diễn.
Qua khảo sát của các tổ chức quốc tế về vấn đề nghèo nàn lạc hậu cho
thấy vẫn còn hơn 40% số dân cư trên cả nước đang sinh sống dưới mức
nghèo khổ, riêng miền Nam chiếm 60%, đa số gia đình có thu nhập bình
quân dưới 100 USD/năm nhiều hộ còn thiếu đói [36, tr.61].
Về sản xuất công nghiệp, tuy tỷ lệ tăng bình quân tương đối cao (12%/năm).
Nhưng công nghiệp chưa thực sự có tác dụng thúc đẩy sản xuất nông, lâm nghiệp.
Tỷ lệ sản xuất công nghiệp phục vụ nông lâm nghiệp còn rất thấp mới
chiếm 0,5% tổng giá trị sản phẩm công nghiệp, sản phẩm tiêu dùng chưa
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội, hơn 90% hàng tiêu dùng nhất là thực
phẩm, phải nhập từ bên ngoài vào. Tổng giá trị xuất khẩu chỉ chiếm khoảng
60-65% so với tổng giá trị nhập khẩu. Việc sản xuất để bù đắp nhập siêu
cũng rất khó khăn, vì không ít các doanh nghiệp trong nước bị phá sản, hàng
hóa sản xuất ra không có khả năng cạnh tranh với hàng ngoài [36, tr.62-63].

Về du lịch đã có phát triển khá nhanh, nhưng phần lớn là dịch vụ trong thành
phố lớn mà chủ yếu lại phục vụ trong sinh hoạt xa xỉ, lãng phí như nhà hàng ăn uống,
khách sạn. ở đây các đồ ăn, thức uống và các thiết bị phục vụ toàn là hàng nhập từ bên
ngoài vào. Dịch vụ vẫn trải qua biên giới chưa được củng cố thỏa đáng, hệ thống
thương mại, tài chính, ngân hàng chưa thực sự là công cụ điều tiết khuyến khích sản
xuất tiêu dùng trong nước, tâm lý thích dùng hàng ngoại, xài tiền ngoại còn phổ biến
làm ảnh hưởng đến uy tín giá trị đồng Kíp - nội tệ.
Việc thu hút đầu tư nước ngoài dù đạt kết quả tốt trên nhiều lĩnh vực nhưng
khâu chuẩn bị điều kiện đón nhận các dự án đầu tư nước ngoài cũng còn hạn chế nhất là
thiếu đội ngũ cán bộ có kiến thức kinh nghiệm trên lĩnh vực này, thiếu sự chuẩn bị cho việc
thống kê, khảo sát cơ bản trước khi đón nhận các dự án. Việc quản lý đầu tư các dự án nước
ngoài còn chưa thực hiện tốt.
Hệ thống giao thông thông tin liên lạc, giáo dục y tế cơ sở hạ tầng chưa phát
triển đầy đủ, thông suốt cũng là trở ngại lớn kìm hãm việc phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.


1.1.2. Một số vấn đề về tiếp tục phát triển kinh tế đáp ứng yêu cầu và tạo điều
kiện cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay
1.1.2.1. Tiếp tục nhận thức sâu sắc và thực hiện nhất quán chính sách phát
triển kinh tế thị trường trong điều kiện cụ thể ở Lào
Việc giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho
phát triển kinh tế, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức sản xuất
kinh doanh là một chủ trương, một đường lối có tầm quan trọng chiến lược, một chính sách
nhất quán và lâu dài của Đảng và Nhà nước Lào. Do vậy, các cấp bộ Đảng, chính quyền
và các đoàn thể nhân dân, các tầng lớp nhân dân các bộ tộc Lào cần nhận thức đầy đủ
hơn về nền kinh tế thị trường và việc chuyển sang nền kinh tế thị trường như một chủ
trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với kinh doanh kinh tế - xã hội của Lào.
Phát triển kinh tế thị trường ở Lào bắt đầu từ việc chính thức thừa nhận, bảo vệ
và khuyến khích về chính trị, pháp lý đến việc thừa nhận tạo mọi điều kiện xã hội cho

sự phát triển của mọi lực lượng - mọi thành phần kinh tế, khơi dậy mọi tiềm năng kinh
tế của đất nước vào quá trình phát triển. Thừa nhận hay công nhận các thành phần kinh
tế, trong thực tế, bắt đầu từ việc thừa nhận sự đa dạng trong sự tồn tại và vận hành của
các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, thừa nhận sự tồn tại và phát triển của nhiều chủ
thể kinh tế trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Từ thừa nhận xác lập các hình
thức sở hữu tư liệu sản xuất đi đến thừa nhận, xác lập củng cố các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh và phân phối sản phẩm.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả
kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản
xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thừa nhận sự tồn tại lâu dài
của các hình thức thuê mướn lao động, tuy không để biến thành quan hệ thống trị, dẫn
tới sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập, phân phối và phân phối lại hợp lý các thu
nhập. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, không để diễn ra
chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển, giữa các vùng, các tầng lớp dân
cư.
Đồng thời, tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước, khai thác triệt để
vai trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa hạn chế những tác động tiêu cực của


cơ chế thị trường. Bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi
doanh nghiệp và cá nhân không phân biệt thành phần xã hội. Từng bước chuyển nền
kinh tế tự nhiên, nửa tự nhiên, tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa, trao đổi theo
cơ chế thị trường. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý
kinh tế.
Thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự
quản lý của nhà nước theo cơ chế thị trường trong điều kiện nước CHDCND Lào, như
vậy, đòi hỏi một sự nỗ lực vượt bậc và căn bản trong nhận thức và hành động không chỉ
của Đảng, Nhà nước, mà còn của tất cả mọi tầng lớp nhân dân các bộ tộc Lào. Từng
bước từ bỏ cách nghĩ, cách làm từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tự túc - tự cấp
để chuyển sang cách nghĩ, cách làm trong sản xuất hàng hóa, theo cơ chế thị trường,

cạnh tranh ngày càng gay gắt thật sự là một cuộc cách mạng. Đó là cuộc cách mạng
không chỉ trong xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà còn
là cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng và văn hóa. Do vậy, tuyên truyền, giáo dục
nhân dân mạnh dạn chuyển đổi cách làm ăn, đầu tư vốn cho sản xuất, kinh doanh, đóng
góp sức người, sức của xây dựng đất nước. Tuyên truyền giáo dục trong cán bộ, đảng
viên cách làm ăn mới trong điều kiện của thị trường, qua đó mà rèn luyện cán bộ
trưởng thành.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường tất yếu đặt ra yêu cầu và tạo ra những điều
kiện cần thiết, hiện thực cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào. Quá trình
đổi mới kinh tế luôn đặt ra yêu cầu đổi mới chính trị và tạo điều kiện cho đổi mới chính trị, trong
đó có Nhà nước, là một tất yếu khách quan.
1.1.2.2. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chính sách phát triển
các thành phần kinh tế, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ lệ công
nghiệp và dịch vụ
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào xây dựng đất nước từng bước đi lên CNXH
trong điều kiện xuất phát triển còn thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, cơ sở vật chất nghèo
nàn, lạc hậu lại bị một phần được chiến tranh tàn phá nặng nề. Do đó, sự tồn tại các
thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan để khai thác các nguồn lực cho sự phát
triển. Phát triển các thành phần kinh tế, là chính sách phù hợp với điều kiện cụ thể của


nước Lào. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ làm thế nào để phát huy tốt các thành phần kinh tế
để phát triển kinh tế được mục tiêu chung mà Đảng, Nhà nước Lào đã xác định là phục
vụ nhiều nhất cho lợi ích của đất nước, của nhân dân các bộ tộc Lào. Vấn đề đặt ra
chúng ta phải làm như thế nào để đưa các thành phần kinh tế phát triển theo quỹ đạo
chung gắn liền giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng tiến bộ xã hội. Cho nên phải lựa
chọn hình thức và bước đi thích hợp để khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh của các
thành phần kinh tế, về vốn, năng lực, tổ chức quản lý, khoa học kỹ thuật của các thành
phần này, nhất là kinh tế tư bản tư nhân của các nhà tư bản nước ngoài.
Để là được điều đó, Nhà nước phải từng bước làm tốt vai trò điều tiết vĩ mô đối

với quá trình quản lý toàn bộ nền kinh tế. Tạo môi trường hành lang pháp lý thuận lợi
để cho các thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát triển trên nguyên tắc dân chủ, tự
nguyện có những chính sách biện pháp phù hợp để phát huy được nội lực của các thành
phần kinh tế. Trong xu thế hợp tác toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ, Nhà nước phải có
chính sách cởi mở hơn, hấp dẫn hơn, chắc chắn hơn nhằm thu hút sự đầu tư của các nhà
tư bản nước ngoài và các doanh nghiệp tư nhân trong nước để họ yên tâm bỏ vốn sản
xuất kinh doanh trên cơ sở chấp hành đúng các chính sách, pháp luật của Nhà nước Lào.
Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới những năm qua có sự đóng góp
của tất cả các thành phần kinh tế, nhưng do bản chất các thành phần kinh tế khác nhau,
nên mục tiêu hoạt động của các thành phần kinh tế không chỉ có mặt thống nhất mà còn
có mâu thuẫn với nhau. Nhà nước cần có chính sách kết hợp hài hòa lợi ích kinh tế,
hướng sự hoạt động của các thành phần kinh tế vào những mục tiêu phát triển chung
của đất nước.
Càng phát triển nền kinh tế thị trường thì Nhà nước càng cần phải có chính sách
toàn diện, đồng bộ, đúng đắn và lâu dài đối với các thành phần kinh tế trong quá trình
phát triển. Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục tư tưởng chính trị nâng cao nhận
thức trong mọi tầng lớp nhân dân về đường lối phát triển các thành phần kinh tế.
1.1.2.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế mới đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế thị trường và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ lệ
công nghiệp và dịch vụ


Thời kỳ đổi mới được đánh dấu bằng Đại hội IV của Đảng NDCM Lào, quyết
định chuyển nền kinh tế bao cấp sang kinh tế hàng hóa, chuyển nền kinh tế với hai
thành phần cơ bản là kinh tế quốc doanh và tập thể sang nền kinh tế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đường lối đổi mới đó
được ghi trong Hiến pháp đầu tiên của chế độ CHDCND Lào.
Điều 13 của Hiến pháp quy định, “Chế độ kinh tế của đất nước là kinh tế
nhiều thành phần có mục tiêu phát triển sản xuất và mở rộng lưu thông,
chuyển từ kinh tế tự nhiên thành kinh tế hàng hóa, đưa nền kinh tế phát

triển đi lên và nâng cao cuộc sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân các
bộ tộc Lào” [34, tr.5].
Việc chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường đòi hỏi Nhà nước phải từng bước thiết lập một hệ thống các thể chế, các cơ
chế quản lý mới, phù hợp với sự vận động và phát triển của kinh tế hàng hóa.
Nhà nước phải tự đổi mới toàn diện, từ chính sách, pháp luật, tổ chức, bộ máy
quy chế làm việc đến đội ngũ công chức nhà nước.
Mọi hoạt động của nhà nước phải hướng vào việc tạo môi trường thuận lợi, khuyến
khích cho sự phát triển kinh tế - xã hội theo cơ chế kinh tế mới giúp các thành phần kinh tế
phát huy năng lực hoạt động có hiệu quả phù hợp với những quy luật khách quan, đảm bảo
cho sự phát triển có hiệu quả của thị trường phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhìn tổng thể, có thể thấy thực trạng của nền kinh tế đất nước đã đặt ra những
yêu cầu bức thiết phải đổi mới và hoàn thiện Nhà nước CHDCND Lào theo hướng xây
dựng nhà nước pháp quyền thì mới có khả năng và điều kiện quản lý, điều tiết kinh tế
theo cơ chế mới - cơ chế thị trường. Hiến pháp 1991 - Hiến pháp đầu tiên của nước
CHDCND Lào - ra đời đã phản ánh xu thế vận động phát triển khách quan, tất yếu của
xã hội Lào khi bước vào công cuộc đổi mới, đáp ứng những yêu cầu công cuộc đổi mới
kinh tế, chính trị và xã hội ở Lào và là điều kiện để Lào hội nhập với thế giới. Trên cơ sở
Hiến pháp Quốc hội Lào đã xây dựng và công bố hơn 40 đạo luật các loại để quản lý đất
nước, quản lý xã hội trong đó 10 đạo luật về lĩnh vực kinh tế. Trên cơ sở Hiến pháp 1991


Nhà nước Lào đã từng bước chuyển dần sang quản lý xã hội, quản lý kinh tế bằng Hiến
pháp và pháp luật.
Trong đó, Nhà nước tập trung vào xây dựng các thể chế pháp lý đảm bảo và
phát huy các hình thức sở hữu như sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở
hữu tư nhân của tư bản trong nước và sở hữu của tư bản người nước ngoài đầu tư tại
CHDCND Lào. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng hàng đầu cho quá trình đa dạng hóa các
hình thức sản xuất kinh doanh, thu hút các nguồn vốn từ trong và ngoài nước vào phát triển

kinh tế. “Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác phát
triển sản xuất và kinh doanh. Mọi thành phần kinh tế đều có quyền bình đẳng trước pháp
luật” [34, tr.5]. Nhà nước thừa nhận và bảo vệ các quyền sở hữu, quản lý, sử dụng,
chuyển nhượng và thừa kế tài sản của tổ chức và cá nhân theo pháp luật. Đối với đất đai
tài nguyên, tài sản quốc gia, Nhà nước đảm bảo quyền sử dụng, quyền chuyển nhượng
và quyền thừa kế theo pháp luật.
Về quản lý kinh tế thực hiện theo cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước, thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý, hợp lý cho địa phương. “Nhà nước
khuyến khích và hướng dẫn phát triển hợp tác kinh tế với các nước bằng nhiều hình
thức trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng đôi bên cùng có
lợi” [34, tr.6].
Trên cơ sở Hiến pháp và các chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội do Đảng đề ra. Nhà nước từng bước thể chế hóa thành hệ thống các thể chế
kinh tế mới làm chỗ dựa cho việc thực hiện các quyền tự chủ, chủ động sáng tạo của
mọi thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, mở rộng quan
hệ hợp tác kinh tế với các nước. Các quyền lợi và nghĩa vụ của người sản xuất kinh
doanh và mọi công dân đều được tôn trọng và bảo vệ bằng Hiến pháp và pháp luật
thông qua hệ thống các thể chế kinh tế được xác định.
1.1.2.4. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển của
kinh tế:
Vấn đề đổi mới và hoàn thiện Nhà nước Lào đáp ứng yêu cầu của sự phát triển
kinh tế hiện nay, về cơ bản, có thể thấy ở một số hướng sau đây:


Thứ nhất, xây dựng một nhà nước có đủ khả năng và điều kiện xây dựng và
hoàn thiện không ngừng hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý ổn định cho sự phát
triển của các thành phần kinh tế, các vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, sản xuất kinh doanh
và phân phối lợi ích.
Thứ hai, xây dựng một nhà nước có đủ khả năng và điều kiện từng bước xây
dựng và hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường, các cơ chế quản lý kinh tế trong điều

kiện thị trường. Nhà nước chủ động và tích cực tham gia vào việc xây dựng - phát triển
- hoàn thiện các yếu tố, các lĩnh vực của kinh tế thị trường, củng cố hoàn thiện các thị
trường đã có, chủ động hình thành các thị trường mới.
Thứ ba, xây dựng một nhà nước trong sạch vững mạnh, tập trung khơi dậy được
mọi nguồn lực vật chất cả tinh thần của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng đất nước, xây
dựng kinh tế. Quyền lực nhà nước được tập trung và giám sát chặt chẽ quyền lực; tổ
chức và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; có nền hành
chính tinh giản hiệu lực, hiệu quả, thống nhất; có đội ngũ công chức, có đạo đức chuyên
nghiệp.
1.2. Tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ, ý thức pháp luật và nâng cao
dân trí trong nhân dân
1.2.1. Tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ
Dân chủ trong hiện thực được thể hiện bằng các quy định của pháp luật với các
cơ quan thực thi pháp luật tương ứng. Dân chủ cần đến pháp luật như là những công cụ
phương thức thực hiện. Không phải nhà nước nào cũng là dân chủ, nhưng bất cứ nền
dân chủ nào cũng phải qua nhà nước, thông qua pháp luật. Nhà nước pháp quyền là nhà
nước xác lập những cơ chế, thiết chế thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân bằng
những công cụ pháp lý, hợp hiến, hợp pháp.
Dân chủ phải gắn liền với nhà nước, với pháp luật, kỷ cương - dân chủ xã
hội chủ nghĩa, không thể tách rời việc xây dựng nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Dân chủ còn gắn
với dân trí, với trình độ học vấn [10, tr.28].


Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, không có nhà nước pháp quyền không có pháp
luật thì không thể có dân chủ. Nói đến dân chủ là nói đến pháp luật, pháp luật là sự phản
ánh yêu cầu dân chủ, vừa là công cụ để thực hiện dân chủ. Quá trình dân chủ hóa xã hội
là quá trình xây dựng hoàn thiện không ngừng pháp luật, càng dân chủ hóa càng cần
pháp luật.
Dân chủ trước hết là dân chủ về chính trị, có nội dung cốt lõi là quyền lực

nhà nước thuộc về ai, quyền lực được tổ chức và vận hành theo phương
thức nào. Trong thiết chế dân chủ, nhân dân lập nên nhà nước, ủy quyền
cho nhà nước thực hiện quyền làm chủ của mình. Trong nhà nước pháp
quyền, pháp luật quy định các thiết chế dân chủ như bầu cử, ứng cử, kiểm
tra và giám sát của công dân đối với các hoạt động của nhà nước, pháp
luật trong nhà nước pháp quyền là công cụ làm chủ, công cụ đấu tranh cho
các quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của công dân. Pháp luật quy định
các tổ chức và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và
vận hành các thiết chế dân chủ [14, tr.16].
Nhà nước pháp quyền và dân chủ có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhà
nước pháp quyền chỉ có thể hình thành khi trong xã hội có nhu cầu dân chủ. Do vậy
tuyên truyền giáo dục, ý thức dân chủ, ý thức làm chủ trong nhân dân, trong xã hội,
trong cán bộ đảng viên có ý nghĩa quan trọng như là mục tiêu và động lực của quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền. Do vậy, việc tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ ở Lào hiện
nay cần tập trung vào những nội dung sau đây:
Một là, tuyên truyền, giáo dục để nhân dân có nhận thức và ý thức ngày càng
đầy đủ về vị thế, vai trò và quyền làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Là một nước dân chủ, theo Hồ Chí Minh, thì dân là chủ, dân
làm chủ. Mọi quyền hành đều của dân, mọi lực lượng đều ở nơi dân. Sự nghiệp đổi mới,
xây dựng bảo vệ tổ quốc là công việc của dân, chính quyền từ trung ương đến xã đều do
dân bầu ra, các đoàn thể đều do dân tổ chức nên. "Tuyên truyền, giáo dục dân chủ có
nghĩa là “làm cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình,
dám nói, dám làm”[8, tr.223].


Hai là, tuyên truyền, giáo dục để nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua
nhà nước, thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng. Nhân dân tham gia vào công việc quản lý của nhà nước, kiểm tra, giám sát
nhà nước, thực hiện các quyền dân chủ trong kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Ba là, kết hợp thực hiện dân chủ đại diện và thực hiện dân chủ trực tiếp và ở cơ

sở. Xây dựng và thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở và từ cơ sở bản làng. Bởi vì: “Cần xây dựng ngay chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến
của bản thân quần chúng, với sự tham gia của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà
nước, Không có “sự giám sát” từ trên, không có quan lại” [6, tr. 336 - 337].
Bốn là, tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ trong gia đình, trong nhà trường,
trong xã hội, trong sản xuất kinh doanh và trong công tác. Kết hợp các hình thức,
phương tiện tuyên truyền, giáo dục về dân chủ.
Năm là, thực hiện ngày càng đầy đủ dân chủ trong tổ chức Đảng làm cơ sở cho dân
chủ trong nhà nước, đoàn thể nhân dân và trong các tầng lớp nhân dân.
1.2.2. Tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật
Việc chuẩn bị tiền đề cho một nhà nước pháp quyền cần phải có một trình độ ý
thức pháp luật phù hợp. Xã hội là một thực thể vật chất và tinh thần. Tổng thể những
quan niệm, tư tưởng, lý luận, tình cảm, phong tục truyền thống, những yếu tố hợp thành
ý thức xã hội, tạo thành thực tại tinh thần xã hội là bộ phận hợp thành của đời sống xã
hội. Do bản chất của ý thức pháp luật là yếu tố không thể tách rời của đời sống xã hội,
nên không thể cải tạo, đổi mới được tồn tại xã hội nếu không đồng thời tác động đến ý
thức, không phát huy được năng lực tinh thần của xã hội và của mỗi người dân.
ý thức pháp luật là một bộ phận cấu thành nên ý thức xã hội, nó là một trong
những tiền đề tư tưởng, lý luận quan trọng không thể thiếu được của sự nghiệp đổi mới.
Thực tiễn cho thấy trong sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, dựa trên
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở CHDCND Lào ngày càng làm tăng
thêm vai trò và giá trị của pháp luật. Pháp luật trở thành nhu cầu để phát huy dân chủ
của nhân dân, là phương tiện không thể thiếu để nâng cao hiệu quả quản lý xã hội của
nhà nước. Song, để pháp luật thể hiện được vai trò và giá trị của mình trong cuộc sống


đòi hỏi phải không ngừng nâng cao ý thức pháp luật của mọi người trong xã hội. ý thức
pháp luật có vai trò vô cùng to lớn đối với pháp luật thể hiện các mặt sau:
Trước hết ý thức pháp luật là tiền đề trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Những thay đổi khách quan trong đời sống xã hội trước hết được phản
ánh trong ý thức pháp luật, rồi sau đó mới được thực hiện trong các quy phạm pháp luật.

Chính ý thức pháp luật cao cho phép đánh giá đúng tầm quan trọng của các quan hệ xã
hội cần phải điều chỉnh. Vì vậy, bất kỳ một tổ chức, cá nhân tham gia trong quá trình
xây dựng pháp luật cũng cần một trình độ ý thức pháp luật nhất định.
ý thức pháp luật là một nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật, việc thực hiện
pháp luật bao giờ cũng phụ thuộc vào trình độ nhận thức pháp luật và trạng thái tâm lý
pháp luật của con người. ý thức pháp luật của các chủ thể để càng cao thì sự tuân thủ
pháp luật, sử dụng pháp luật, chấp hành pháp luật của họ càng đúng đắn.
ý thức pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động áp dụng pháp
luật. áp dụng pháp luật là quá trình vận dụng các quy phạm pháp luật để xem xét phán
xét các trường hợp cụ thể trong thi hành pháp luật. Muốn áp dụng pháp luật giải quyết
tốt các việc cụ thể, đòi hỏi người có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải phân tích chính
xác các tình tiết của vụ việc trên cơ sở đó lựa chọn quy phạm pháp luật thích ứng để áp
dụng. Muốn thế, người áp dụng phải có kiến thức rộng, trong đó ý thức pháp luật là yếu
tố quan trọng để áp dụng đúng đắn pháp luật. Chính vì vậy để sự nghiệp đổi mới và
hoàn thiện nhà nước ở CHDCND Lào đạt được kết quả thì không thể không tính đến
việc tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người trong xã hội.
ý thức pháp luật gắn liền với từng con người cụ thể. Mỗi người lại có hoàn cảnh
kinh tế - xã hội, gia đình, giáo dục, ý thức đạo đức, ý thức chính trị, tâm lý, sức khỏe
v.v.. không giống nhau. Do đó, sự hiểu biết pháp luật và thái độ đối với pháp luật suy
cho cùng là do bản thân mỗi người - mỗi công dân quyết định. Trong điều kiện kinh tế
và xã hội hiện nay mọi công dân đều cần pháp luật, hiểu biết pháp luật và chấp hành
pháp luật.
Để nâng cao ý thức pháp luật trong điều kiện ở Lào hiện nay, cần tập trung vào
những nội dung sau đây:


Một là, nâng cao trình độ văn hóa nói chung làm cơ sở để nâng cao văn hóa dân
chủ, văn hóa pháp luật.
Hai là, từng bước đưa việc tuyên truyền, giáo dục dân chủ, giáo dục pháp luật
vào chương trình giáo dục phổ thông và các cấp sau phổ thông, các trường đào tạo cán

bộ các cấp, các ngành.
Ba là, từng bước đưa việc tuyên truyền, giáo dục dân chủ, pháp luật vào các
chương trình phát thanh, truyền hình, báo chí.
Lào là một quốc gia có nét đặc thù về lịch sử hình thành dân cư, về kinh tế - xã
hội và văn hóa. Các yếu tố này đều ảnh hưởng đến quá trình hình thành pháp luật của họ.
Chính vì vậy việc giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân các bộ tộc Lào ngoài
những phương pháp, hình thức chung còn phải tìm kiếm những phương pháp, hình thức
thích hợp với nhân dân các bộ tộc.
Có thể nói tính thích ứng và phù hợp với đối tượng là một trong những nguyên
tắc của giáo dục nói chung và đối với giáo dục ý thức pháp luật nói riêng. Nó nhằm kích
thích khả năng, động cơ tính tích cực của đối tượng giáo dục, biến quá trình giáo dục trở
thành tự giáo dục. Đồng thời nó cũng là quan điểm chỉ đạo hoạt động giáo dục ý thức
pháp luật. Do đó, để hoạt động giáo dục ý thức pháp luật đạt được hiệu quả, chất lượng,
đòi hỏi phải tiến hành điều tra, khảo sát, nắm bắt từng đối tượng khác nhau, đặc thù của
từng vùng dân cư, trên cơ sở đó tìm kiếm những hình thức, phương pháp, nội dung giáo
dục ý thức pháp luật phù hợp với đặc điểm và nhu cầu của việc quản lý xã hội.
1.2.3. Nâng cao dân trí trong nhân dân.
Dân trí luôn là điều kiện của các sinh hoạt chính trị, dân chủ. Muốn nâng cao
trình độ dân trí việc đầu tiên phải nâng cao về đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân bằng con đường cải cách kinh tế và thúc đẩy phát triển xã hội theo phương châm
dân giàu, nước mạnh. Tuy hiện nay Lào còn nghèo, nhưng không vì thế mà sự nghiệp
lại thờ ơ, xem nhẹ sự nghiệp giáo dục.
Nâng cao dân trí tác động trực tiếp đến nâng cao ý thức dân chủ và ý thức pháp
luật. Dân trí càng cao thì ý thức dân chủ và pháp luật càng cao. Dân trí càng cao thì ý
thức pháp luật càng có điều kiện phát triển, người mù chữ hay văn hóa thấp thì đứng
ngoài chính trị (Lênin), đứng ngoài dân chủ, ngoài pháp luật. Sự thấp kém về học vấn


×