Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Vấn đề dân chủ trong thể chế chính trị đa đảng ở các nước phương tây và thể chế một đảng lãnh đạo ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.25 KB, 19 trang )

LUẬN VĂN:

Vấn đề dân chủ trong thể chế chính trị đa
Đảng ở các nước phương Tây và thể chế một
Đảng lónh đạo ở nước ta hiện nay


Mở đầu

Tự do, dân chủ là khát vọng của bản nguyên thuộc về đời sống con người. Quá trình
phát triển của lịch sử chính trị nhân loại theo xu hướng tiến bộ chính là quá trình tiến hoá
cuả các nền dân chủ. Đối với các quốc gia dân tộc, dân chủ luôn là một mục tiêu chính trị
và do đó trở thành một động lực quan trọng trong cuộc đấu tranh nhằm giải phóng nhân
dân và tiến bộ xã hội. Nhưng vấn đề về nguồn gốc, thực chất và ý nghĩa của dân chủ là
như thế nào lại đang là tiêu điểm của những tranh cãi và đấu tranh tư tưởng hiện nay. Và
như một nghịch lý, ở những nước đang được gọi là tư bản phát triển nhất thì đối với đa số
người dân, dân chủ vẫn là một khát vọng, một mục tiêu đấu tranh gay gắt. ở đó những thế
lực thù địch chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin và các chính Đảng cộng sản cầm quyền
luôn dấy lên phong trào "dân chủ" đòi đa nguyên về chính trị và đa đảng đối lập, đẩy
phong trào dân chủ thế giới đi đến chỗ cực đoan nhằm kích động lật đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa và các chính phủ chịu áp đặt và ràng buộc. Trong bối cảnh đó, một vấn đề bức thiết
về lý luận là phải phân tích, so sánh việc thực thi dân chủ trong thể chế chính trị đa đảng ở
các nước phương Tây và chế độ một đảng lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay nhằm vạch trần
những luận điệu sai trái và phản động của những kẻ đang nhân danh những điều xa lạ với
bản chất của chúng để vu khống các lực lượng và trào lưu tiến bộ của thời đại.
Trong khuôn khổ của một tiểu luận và trình độ còn hạn chế, với đề tài: " Vấn đề
dân chủ trong thể chế chính trị đa Đảng ở các nước phương Tây và thể chế một Đảng
lónh đạo ở nước ta hiện nay " bước đầu nghiên cứu, phân tích, đánh giá góp phần làm rõ
vấn đề đó - nhằm nâng cao nhận thức, giữ vững bản lĩnh chính trị, khẳng định sự tốt đẹp
của dân chủ trong thể chế một Đảng lãnh đạo ở nước ta - Nền dân chủ XHCN dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.



1. Dân chủ là gì.
Thuật ngữ dân chủ xuất hiện từ thế kỷ VII - VI TCN thuộc về nền văn minh Hi Lạp,
được lưu lại trong các tác phẩm của Sô Lông (638 - 559 TCN) nhà hiền triết và là nhà lập
pháp Aten khi ông viết: "Cái quý nhất đối với tôi là được sống dưới quyền lực của nhân
dân" [P.S Taranốp 106 nhà thông thái, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.29]. Sau đó được thể
hiện rõ rệt hơn ở Hê rô đốt (480 - 425 TCN) và Arixtốt (384 - 325 TCN) khi các ông đi sâu


phân tích các hình thức chính trị: quân chủ, quý tộc và dân chủ. Nếu dịch sát nghĩa thì từ
Demokratia từ tiếng Hi Lạp là "nhân dân cai trị". Dân chủ là khái niệm dùng để chỉ tính
chất của mối quan hệ giữa cộng đồng dân cư với Nhà nước, theo đó cộng đồng là chủ thể
gốc và có quyền năng áp đặt ý chí lên Nhà nước. ở Việt Nam, Hồ Chí Minh định nghĩa
một cách ngắn gọn: dân chủ nghĩa là dân là chủ, dân làm chủ.
Với tư cách là hình thức tổ chức chính trị của Nhà nước, dân chủ xuất hiện cùng với
sự xuất hiện của Nhà nước. Khác với các hình thức khác của thiết chế Nhà nước, trong
thiết chế dân chủ, quyền của đa số, quyền bình đẳng của mọi công dân, tính tối cao của
pháp luật được chính thức thừa nhận; những cơ quan cơ bản của Nhà nước do bầu cử mà
ra. Dân chủ thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản: Dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp.
Khi dân chủ gắn liền với hình thức tổ chức Nhà nước thì phải khẳng định rằng
không bao giờ có một thứ dân chủ "thuần tuý", mà dân chủ bao giờ cũng mang bản chất
giai cấp sâu sắc. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh một cách khoa học rằng: Trên
thực tế, bất cứ nền dân chủ nào với tính cách là một hình thức tổ chức chính trị của xã hội,
xét đến cùng, đều do quan hệ sản xuất trong một xã hội nhất định quyết định. Vì vậy, sự
phát triển của các nền dân chủ chịu sự quy định trực tiếp của quá trình thay thế các hình
thái kinh tế - xã hội với tính chất và sự gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp. Trong những
hình thái giai cấp đối kháng, nền dân chủ chỉ tồn tại một cách thực tế đối với những đại
diện của giai cấp thống trị.
Trong lịch sử nhân loại thông qua việc xác lập phương thức sản xuất tư bản chủ

nghĩa thì chính giai cấp tư sản đã thực hiện một bước tiến vượt bậc về dân chủ, khi xoá bỏ
chế độ thần quyền phong kiến đưa loài người bước vào xã hội công dân mà ở đó quyền tự
do cá nhân được thừa nhân. Nhưng rồi khi đã thiết lập được quyền thống trị của giai cấp tư
sản lại lợi dụng dân chủ như một hình thức thống trị giai cấp. ở đó những khả năng sử
dụng những quyền và thiết chế dân chủ đối với quần chúng lao động rộng rãi đang bị cắt
xén bằng mọi cách, và toàn bộ bộ máy quan liêu của nền cộng hoà tư sản được sử dụng
vào việc hạn chế và trấn áp tính tích cực chính trị của quần chúng và làm cho quần chúng
không thể tham gia vào đời sống chính trị hòng bảo toàn lợi ích giai cấp tư sản. Không có
gì là khó hiểu cả, sự hạn hẹp của nền dân chủ tư sản nằm ngay trong lòng phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.


Sự phát triển của lịch sử cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất với tính chất
xã hội hoá ngày càng sâu rộng của nó sẽ tạo ra những tiền đề khách quan để phủ nhận
phương thức tư bản chủ nghĩa và chấm dứt vai trò lịch sử của giai cấp tư sản. Đó cũng
chính là quy luật phát triển nội tại của nền dân chủ xã hội, của bước chuyển biến lớn lao từ
nền dân của tư sản sang dân chủ xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giơí. Đó là yêu cầu
lịch sử. Quy luật khách quan sẽ vượt lên trên mọi tranh cãi và nguỵ biện để thực hiện
quyền lực tuyệt đối của mình. Và đó cũng chính là khát vọng ngàn đời của nhân loại muốn
vượt thoát khỏi sự tha hoá để vươn đến tiến bộ và tự do trên con đường nhân thức ra quy
luật tất yếu.
Như vậy, hướng đến chủ nghĩa xã hội là hướng đến nền dân chủ tiến bộ và hoàn
thiện. Cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh vì dân chủ. V.I.Lênin đã vạch
rõ : "Phát triền dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí
nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn v.v…, đó là một trong những nhiệm vụ cấu
thành của cuộc đấu tranh vì cách mạng xã hội” [V.I.Lênin, Toàn tập, T.33, Nxb Tiến bộ,
M, 1976, tr.97]. Cơ sở kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sở hữu xã hội về tư liệu
sản xuất. Vì thế dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa với dân chủ trong xã hội tư bản chủ
nghĩa khác nhau về chất và về trình độ với tư cách là những xã hội nối tiếp nhau trong nấc
thang từ thấp lên cao của xã hội loài người. Chính từ lôgíc đó mà trong tác phẩm cách

mạng vô sản và tên phản bội Cauxky, Lênin viết: "Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ
chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần" [V.I.Lênin, Toàn tập, T.37,
Nxb Tiến bộ, M., 1978, tr.312]. Tư tưởng này hội tụ cả tính khoa học và tính cách mang
sâu sắc định hướng cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm xây dựng một xã hội
dân chủ văn minh. Dân chủ gắn chặt với chủ nghĩa xã hội, dân chủ không chỉ là mục đích mà
còn là phương tiện: "Giai cấp vô sản, trong cuộc đấu tranh giai cấp của mình, sử dụng tất cả mọi
thiết chế và khuynh hướng dân chủ chống giai cấp tư sản nhằm chuẩn bị cho giai cấp vô sản
chiến thắng giai cấp tư sản , đánh đổ giai cấp tư sản" [V.I.Lênin, Toàn tập, T30, Nxb Tiến bộ,
M., 1976, tr.93].
Nền dân chủ vô sản gắn chặt với cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, cho nên nó
cũng chỉ có thể thực hiện được không bằng con đường nào khác ngoài con đường chuyên
chính vô sản, thông qua việc thiết lập quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản mà đội tiên
phong của nó là Đảng cộng sản. Chỉ có giai cấp vô sản và Đảng tiền phong của mình với


cơ sở xã hội rộng lớn, không có mục đích nào khác ngoài mục đích giải phóng giai cấp ,
giải phóng nhân loại mới có khả năng thiết lập được một nền dân chủ tạo ra khả năng
chính trị để đáp ứng với các lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng lao động. Chính từ ý
nghĩa đó mà trong tác phẩm làm gì, tác phẩm được viết với mục đích luận chứng lý luận
cho sự ra đời một chính đảng của giai cấp vô sản. V.I.Lênin viết: "'Người nào mà trên thực
tiễn quên rằng "những người cộng sản ủng hộ mọi phong trào cách mạng", quên rằng vì
thế, chúng ta phải trình bày và nhấn mạnh những nhiệm vụ dân chủ chung trước toàn thể
nhân dân và không lúc nào giấu những niềm tin xã hội chủ nghĩa của chúng ta, thì người
ấy không phải là người dân chủ - xã hội. Người nào mà trên thực tiễn quên rằng nhiệm vụ
của mình phải là người trước tiên đề cập, nêu bật và giải quyết mọi vấn đề dân chủ chung,
thì người ấy không phải là người dân chủ - xã hội" [V.I.Lênin, Toàn tập, T.6, Nxb Tiến bộ,
M., 1976, tr.106].
Như vậy, có thể khẳng định rằng việc các Đảng cộng sản ở các nước vươn lên
khẳng định vị trí Đảng cầm quyền duy nhất sau khi đã giành được chính quyền cũng là
một quy luật gắn chặt với tiến trình đấu tranh vì nền dân chủ. Một Đảng cầm quyền như

vậy không thể đi ngược lại mà còn thống nhất từ bản chất, mục tiêu, phương thức của một
nền dân chủ vì quyền lực và lợi ích của đa số những người lao động. Nói Đảng cầm quyền
tức là nói đến vai trò lãnh đạo của Đảng, còn quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
2. Chế độ đa đảng ở các nước phương Tây với việc thực thi dân chủ.
Đa nguyên về chính trị và đa đảng đối lập là nét đặc trưng của thể chế chính trị tư
sản cộng hòa trên thế giới hiện nay. Và cuộc đấu tranh của các Đảng phái chính trị đó
không nằm ngoài một mục tiêu là trở thành Đảng cầm quyền.
Vì mục tiêu giành lấy chính quyền để bảo vệ lợi ích giai cấp, cho nên vai trò của
các Đảng chính trị tư sản và bản chất của nền dân chủ tư sản thể hiện rõ rệt nhất ở thể chế
bầu cử (dân chủ đại diện). Đây là lát cắt rất quan trọng cần phải tập trung phân tích, vì bên
cạnh đó hình thức dân chủ trực tiếp tức nhân dân trực tiếp tham gia vào một số công việc
của xã hội cộng đồng ngày càng áp dụng hạn chế, bở không có những lãnh thổ đủ nhỏ để
mọi người đều có khả năng tham gia như nhau. Trong xã hội tư sản hiện đại, chính bầu cử
đã sinh ra các đảng phái chính trị để tranh cử, rồi đến lượt vận động tranh cử trở thành một
trong những chức năng quan trọng nhất khẳng định sự tồn tại của các chính đảng.


Bầu cử dưới chế độ tư sản là một chế định pháp luật của Nhà nước tư sản được quy
định rất chặt chẽ nhưng xưa nay vẫn không bao giờ hết những cuộc bầu cử gian lận và
không công bằng. Nước Mỹ là nơi điển hình để xem xét, một nước xưa nay vẫn tự nhận
mình có nền dân chủ cao và là "khuôn thước” để các nước khác học tập. Mỹ là một quốc
gia có rất nhiều đảng phái chính trị, nhưng hầu như trong suốt lịch sử chỉ là sự luân phiên
kiểm soát của hai đảng Dân chủ và Cộng hoà. Thực tế này hoàn toàn có thể hiểu được, vì
không ai khác ngoài những người của hai đảng trên đang nắm giữ các vị trí then chốt trong
chính quyền và chính họ là người đã đề ra các "luật chơi", thiết kế các quy tắc bầu cử để
bảo vệ sự độc quyền của hai đảng lớn và phong toả các con đường chiến thắng của các
Đảng nhỏ. Không chỉ Mỹ mà nói chung ở các nước tư sản về hình thức thì các Đảng chính
trị đều "tự do", "bình đẳng" trong cuộc đấu tranh nghị trường và đều có khả năng trở thành
Đảng cầm quyền. Nhưng trong thực tế thì chỉ có các đảng lớn, có thế lực, được sự hậu
thuẫn của các tập đoàn tư bản lớn và được pháp luật giành cho những điều kiện thuận lợi

và đương nhiên là hạn chế các đối thủ của họ thì mới có khả năng đó mà thôi. Vì thế Lênin
viết: "Trong các chế độ dân chủ tư sản, bọn tư bản dùng trăm phương nghìn kế - chế độ
dân chủ "thuần tuý" càng phát triển, thì những mưu kế đó càng tinh xảo và có hiệu quả - để
gạt quần chúng ra, không cho họ tham gia quản lý Nhà nước" [V.I.Lênin, Toàn tập, T.3,
Nxb Tiến bộ, M., 1976, tr.311]. Ngay trong khu vực Đông Nam á nơi một số nước thực
hiện chế độ đa Đảng, nhưng vai trò cầm quyền luôn thuộc về một Đảng như: PAP (Singa-po), Golkar (In-đô-nê-xia), UMNO (Ma-lai-xia)… vì các đảng đó luôn được xây dựng
và hoạt động như một đảng đứng trên các đảng. Rồi từ khi lên cầm quyền, các đảng này
đều nắm trong tay mình công cụ mạnh là giới quân sự để loại trừ các lực lượng đối lập
(đặc biệt là Đảng cộng sản) để giữ vững địa vị thống trị của mình. Trong các nước này,
không có nước nào Đảng cộng sản tồn tại được. Đó là bản chất giai cấp tư sản, không nên
mơ hồ và ảo tưởng.
Mặt khác, chế độ đa Đảng ở phương Tây xét về thực chất cũng là dựa trên cơ sở
nhất nguyên vì tất cả các đảng đó (trừ Đảng cộng sản) đều nhằm phục vụ chế độ tư bản.
Qua tổng tuyển cử, đảng có đa số phiếu thì thành lập chính phủ điều hành công việc, các
đảng khác là đối lập. Các học giả tư sản gọi các đảng đối lập ở phương Tây (trừ Đảng cộng
sản) là đối lập trung thành. Nghĩa là: không thách thức các thể chế chủ yếu của chế độ tư
bản, chỉ phê phán và đấu tranh các chính sách của chính phủ; Mục tiêu của phái đối lập là


giành thắng lợi trong tuyển cử và lên cầm quyền và khi lên cầm quyền sẽ cố gắng làm tốt
hơn trong việc phục vụ chế độ tư bản chủ nghĩa. Chúng ta thừa nhận một cách khách quan
rằng, trong bối cảnh mà các đảng tư sản nắm quyền lãnh đạo thì việc đời sống chính trị của
nó tồn tại cơ chế nhiều đảng đưa lại những giá trị nhất định hơn là một đảng tư sản độc
quyền lãnh đạo. Đó là quyền lợi cá nhân sẽ được bảo vệ hơn thông qua sự cạnh tranh giưã
các nhóm lãnh đạo, một quá trình kiểm soát lẫn nhau sẽ không cho phép lạm dụng quá
mức quyền lực của mình. Các cá nhân có thể tác động đến các chính sách công khai bằng
cách lựa chọn ai trong các cuộc bầu cử và yêu cầu các nhà lãnh đạo chịu trách nhiệm và
giải thích hành vi của mình. Như vậy, thể chế đa đảng và "phái đối lập trung thành" chỉ có
tác dụng đảm bảo dân chủ ở mức độ tương đối, giới hạn trong nội bộ giai cấp thống trị,
ngăn độc tài, sa thải những ê kíp lãnh đạo kém năng lực hoặc phẩm chất, làm cho Nhà

nước tư sản hữu hiệu hơn trong việc phát triển kinh tế, quản lý xã hội và đối phó với các
thách thức, còn quyền lực của số đông không phải là mối bận tâm lớn của thể chế dân chủ
này.
Về tính nhất nguyên tư sản, ngay người Mỹ cũng phải công nhận rằng hai đảng của
họ không khác gì hai nhân vật "Tweedledun và Tweedledes" - tức gần giống với nhau. Có
rất ít sự khác nhau về tư tưởng giữa Đảng dân chủ và Đảng Cộng hoà. Những quan điểm
cơ bản của hai đảng là y hệt; hoàn toàn tán thành chủ nghĩa tư bản và các thể chế của nó,
ủng hộ sứ mạng toàn cầu hoá của Mỹ, bác bỏ chủ nghĩa cộng sản ở trong và ngoài nước
Mỹ. Hơn nữa, tuy khác nhau về một số tư duy cụ thể, cán bộ lãnh đạo hai đảng đều giống
nhau về nguồn gốc xã hội, quá trình đào tạo và tuyển dụng …
Từ tính nhất nguyên tư sản, về mặt nguyên tắc không bao giờ được lãng quên tính
giai cấp của nền dân chủ. Đúng như V.I.Lênin tổng kết: "Đảng thống trị của chế độ dân
chủ tư sản chỉ cho một Đảng tư sản khác được quyền bảo hộ thiểu số, còn đối với giai cấp
vô sản, thì trong mọi vấn đề trọng đại, sâu sắc, cơ bản, thay cho "quyền bảo hộ thiểu số"
thì có luật giới nghiêm hay những cuộc tàn sát. Chế độ dân chủ càng phát triển, thì trong
trường hợp có sự chia rẽ về chính trị sâu sắc và nguy hiểm cho giai cấp tư sản, nó càng
tiến gần đến tàn sát hay nội chiến" [V.I.Lênin, Toàn tập, T37, Nxb Tiến bộ, M., 1978,
tr.309]. Cuộc đàn áp đẫm máu của chính quyền Mỹ đối với cuộc bạo động chống phân biệt
chủng tộc của người da đen ở Lốt An -giơ - lét năm 1922 là một ví dụ. Thậm chí, năm
1957, các thẩm pháp của Tòa án tối cao liên bang đã cãi nhau kịch liệt về việc có nên coi


hành động "cổ vũ cho những nguyên tắc trừu tượng" (tức việc ủng hộ các nguyên lý của
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản) là một hành vi phạm pháp. Thông qua thể chế bầu
cử ta cũng thấy được rằng tiền bạc ngày càng trở thành yếu tố quyết định trong đời sống
chính trị phương Tây và làm hoen ố nền dân chủ của nó. Tiền bạc đã làm biến dạng hầu
như hoàn toàn bản chất của các quyền con người trên lĩnh vực này. Cụ thể, pháp luật Mỹ
quy định người ứng cử vào các cơ quan quyền lực phải có một lượng tài sản lớn làm vật
bảo đảm. Ngoài ra, các ứng cử viên còn phải có tiền để tiến hành các chiến dịch vận động
tranh cử vô cùng tốn kém; do đó, trên thực tế, chỉ có những người giàu mới có cơ hội tham

gia bộ máy chính quyền. Cái gọi là "nền dân chủ Mỹ" chỉ là nền dân chủ nhà giàu. Tờ
Thời báo tài chính (Anh) ngày 25-11-2000 viết: "Cuộc bầu cử năm 2000 đã cho thấy rõ
nền dân chủ Mỹ có thể bán cho những người trả giá cao nhất". Có thể gọi đấy là nền dân
chủ đấu giá. Tờ Thế giới (Tây ban Nha) cùng ngày đã ví tiền như là"căn bệnh ung thư của
nền dân chủ Mỹ",… Một chính quyền được tạo lập bởi tiền thì tất yếu phải hướng đến
phục vụ những kẻ nhiều tiền, chứ không thể là một "chính quyền của tất cả mọi người" mà
các lý luận gia của họ tuyên bố.
Từ trước đến nay, cả pháp luật và văn hoá tư sản đều bảo vệ và đề cao người giàu.
Người giàu được coi là những phần tử ưu tú, còn người nghèo bị khinh rẻ, bị coi là gánh
nặng, là gốc của những tệ nạn xã hội và tội phạm. Có một tình trạng mà chúng ta cần phải
để ý là sự tẩy chay cá cuộc bầu cử chính quyền trong các chính thể đa đảng phương Tây
ngày càng gia tăng. Các cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ 1996 và 2000 chỉ có khoảng 50% so
với 63% vào năm 1960. Điều quan trọng là cách thức bầu cử không phản ánh được ý chí
và nguyện vọng của đa số người dân và đảng nào cầm quyền cũng vậy, đều chỉ bảo vệ lợi
ích của người giàu, của giới chủ…
Tóm lại, vấn đề dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập. Nhà nước và xã hội cụ thể nào đó suy đến cùng cũng là do một đảng lãnh đạo, đó
có thể là Đảng Tư sản, Đảng Cộng sản…, vấn đề các bản chất của Đảng đó là như thế nào.
Đa đảng ở các nước tư bản thực chất không phải dân chủ đối với nhân dân, mà chỉ là loại
hình dân chủ tư sản hạn hẹp. Đó là một thực tế nhưng rất nhiều người đã cố tình phớt lờ,
xuyên tạc để tán dương vì những động cơ chính trị xấu xa.
3. Chế độ một Đảng lãnh đạo và thực hiện dân chủ ở Việt Nam.


Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản là tổ chức thực hiện sự thống trị
của giai cấp vô sản, cho nên sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản đối với hệ thống
chính trị là điều mặc nhiên. Điều đó được thể hiện ở đường lối, chính sách của Đảng về
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, được thể chế hoá trong toàn bộ Hiếp pháp và pháp luật.
Đảm bảo sự thắng lợi của Đảng cộng sản là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và phát triển
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

ở Việt Nam, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân là bản chất, là quy luật hình thành, phát triển tự hoàn thiện của Nhà nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản lãnh đạo. Và từ khi ra đời đến nay, Đảng cộng sản là nhân
tố đảm bảo cho mọi hoạt động thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó không phải là trạng
thái chủ quan về chính trị mà là một vấn đề khách quan của lịch sử, và ngày nay, mọi mưu
toan hạ thấp vai trò của Đảng cộng sản là trái với yêu cầu khách quan của quá trình phát
triển đất nước và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Việc thực hiện dân chủ ở Việt
Nam không có sự cần thiết khách quan cho việc hình thành chế độ đa đảng đối lập, đa
nguyên chính trị. Điều đó xuất phát từ một số căn cứ lý luận và thực tiễn sau đây:
- Đảng cộng sản Việt Nam là người đại diện chân chính nhất và cho lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống, quyền tự do,
dân chủ và hạnh phúc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập và lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã
khẳng định: "Ngoài lợi ích của tổ quốc và của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác"
[Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, T.8, tr.279-280]. Chính cuộc đời Hồ Chí Minh và
lịch sử của Đảng gắn liền với lịch sử của cuộc đấu tranh cho việc thực hiện một chế độ dân
chủ và nhân đạo của nhân dân. ở Việt Nam cũng đã có lúc có nhiều đảng, nhưng những
đảng khác đã không vượt qua được thử thách gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân chủ, rốt cuộc sứ mệnh lịch sử được giao phó cho Đảng cộng sản Việt Nam.
Chính những lúc khó khăn đã thể hiện bản lĩnh vững vàng và trách nhiệm lớn lao của
Đảng đối với vận mệnh của đấu tranh, của dân tộc. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng,
ngoài Đảng Cộng sản không một đảng phái hoặc một lực lượng chính trị nào có thể đưa ra
được cưong lĩnh, đường lối cho cách mạng Việt Nam, có thể đồng thời giải quyết hai mục
tiêu dân tộc và dân chủ. Xuất phát tự sự thống nhất sâu sắc giữa tính giai cấp và tính dân


tộc như vậy của Đảng cộng sản Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã nói: Tôi chỉ có một đảng là
Đảng Việt Nam.
- Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngay sau khi cách mạng tháng tám thành công, Đảng cộng sản Việt Nam đã tuyên
bố thành lập chế độ Nhà nước là Việt Nam dân chủ cộng hoà, tiến hành tổng tuyển cử và
xây dựng Hiến pháp để thể chế hoá quyền lực của nhân dân lao động. Đảng cộng sản cầm
quyền không ngoài mục đich nào khác là nhằm đảm bảo Nhà nước của dân, do dân, vì dân
và nhân dân sẽ có điều kiện làm chủ bằng Nhà nước, tránh được sự lạm quyền của Nhà
nước và tình trạng dân chủ quá trớn, dân chủ vô chính phủ. Đảng cầm quyền là Đảng cộng
sản, Đảng vô sản, cũng tức là Đảng đại biểu cho tuyệt đậi đa số nhân dân lao động.
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền là nhằm khẳng
định nguồn gốc của chính quyền Nhà nước là ở nhân dân. Nhà nước đó đề cao tính hợp
hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của mình và Đảng cộng sản cũng tồn tại và hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tất nhiên, pháp luật trong Nhà nước pháp
quyền do Đảng cộng sản lãnh đạo là pháp luật mang tính nhân văn, nhân đạo, là "pháp luật
vì con người", hướng về "tự do cá nhân" về sự "phát triển toàn diện con người".
Mặt khác, xây dựng Nhà nước pháp quyền là một quá trình hoạt động tự giác, đòi
hỏi một lực lượng tiên phong, có lương tâm và trí tuệ dẫn đường. Vì vậy sự lãnh đạo của
Đảng là nhằm đảm bảo cho Nhà nước hoạt động đúng là một Nhà nước dân chủ và pháp
quyền, định hướng xã hội chủ nghĩa. Không chỉ là thể chế Nhà nước, Đảng cộng sản Việt
Nam còn khẳng định dân chủ là quy luật hình thành và tự hoàn thiện của cả hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa: "Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và
kiện toàn hệ thống chính trị. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới"
[Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.90].
- Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Một trong những đặc trưng cơ bản của Đảng vô sản kiểu mới là thừa nhận và thực
hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ trong toàn bộ hoạt động của mình. Trung thành
với các nguyên lý xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ khi được thành lập đến
nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng,
củng cố về tư tưởng, chính trị và tổ chức, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.


Dù diễn đạt tập trung dân chủ hay dân chủ tập trung thì đây là một nguyên tắc hoàn

chỉnh và hai khái niệm đó thống nhất với nhau cả về bản chất và nội dung. ý nghĩa của nó,
như V.I.Lênin viết: "Chế độ tập trung- hiểu theo nghĩa thực chất của dân chủ, đã bao hàm
cả khả năng - khả năng này do lịch sử tạo ra lần đầu tiên - phát huy một cách đầy đủ và tự
do không những các đặc điểm của địa phương mà cả những sáng kiến của địa phương, tính
chủ động của địa phương, tính chất muôn hình muôn vẻ của các đường lối, của các phương
pháp và phương tiện để đạt mục đích chung" [V.I.Lênin, Toàn tập, T.36, Nxb Tiến bộ, M.,
1977, tr.186-187]. Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý: "Tập
thể lãnh đạo cá nhân và phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau" và "Tập thể lãnh đạo
là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ
tập trung" [Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.59].
Nói cụ thể, tập trung trên cơ sở dân chủ mang tính chất dân chủ là sự tập trung
quyền lực của đa số, thiểu số phải phục tùng. Tập trung gắn liền với dân chủ, được quyết
định bởi nền dân chủ là sự tập trung do toàn thể đảng viên kiến lập nên chứ không phải
một nhóm nào đó có quyền lực thâu tóm; là sự tập trung của ý chí, trí tuệ và quyền lực của
đa số tạo nên một cách thống nhất và tự giác chứ không phải là tập trung được thiết lập
một cách hình thức hoặc cưỡng bức nào đó, nó đối lập với sự tập trung quan liêu, độc đoán
chuyên quyền.
Mặt khác, dân chủ hướng tới tập trung là việc bảo vệ và tôn trọng quyền bình đẳng
của các đảng viên trong việc bàn bạc, thảo luận và quyết định các công việc của Đảng. Đó
là con đường tạo nên sức mạnh chung bằng sự đoàn kết thống nhất, hướng vào thực hiện
mục tiêu, lý tưởng chung của toàn Đảng, vì lợi ích của toàn thể nhân dân, vận mệnh và
tương lai của Tổ quốc, chứ không phải là dân chủ cực đoan của các bè phái, phá vỡ sự
đoàn kết thống nhất của Đảng, làm mất khả năng hành động thống nhất.
- Đảng cộng sản Việt Nam duy nhất lãnh đạo đã đưa lại những tiền đề thuận lợi
trong việc thực hiện dân chủ.
Khi Đảng thực hiện toàn quyền lãnh đạo sẽ thống nhất được quan niệm, mô hình,
mục tiêu và phương hướng xây dựng nền dân chủ, không phải điều hoà nhân nhượng lẫn
nhau giữa các lực lượng chính trị; Đảng hoàn toàn chủ động trong việc đề ra các chủ
trương, biện pháp thực hiện dân chủ; đường lối, chính sách của Đảng chắc chắn được Nhà
nước thể chế hoá, cụ thể hoá thành pháp luật, chính sách và các biện pháp tổ chức thực



hiện; có sự tập trung thống nhất giữa trung ương và địa phương vì không có địa phương
nào do lực lượng chính trị khác chi phối; người dân có một đầu mối để đề đạt nguyện
vọng, phản ánh tình hình, đề xuất sáng kiến, không có tình trạng đùn đẩy giữa các đảng
như ở các nước có thể chế đa đảng [Tô Huy Rứa, Đảm bảo và phát huy dân chủ trong điều
kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2-2000, tr.15].
Quả thực nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho toàn thể quần chúng lao
động, nền dân chủ ấy không chấp nhận sự chia rẽ xã hội, không thể tạo ra những lực lượng
đối lập, đối kháng trên lĩnh vực tư tưởng và chính trị. Vì vậy, nhân danh chiêu bài "dân
chủ" , "nhân quyền", "đa nguyên, đa Đảng" chỉ là cái áo khoác của những lợi ích vụ lợi,
chống nhân dân và dân tộc, làm lệch hướng xã hội chủ nghĩa - đó là âm mưu và hành động
của các lực lượng thù địch muốn xoá bỏ Đảng cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa,
trong điều kiện nền kinh tế - xã hội còn kém phát triển như Việt Nam hiện nay, dân trí còn
thấp, các thiết chế còn chưa hoàn thiện … nếu không có sự lãnh đạo tập trung của Đảng
cộng sản thì dân chủ sẽ rất dễ bị vi phạm.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, ở Việt Nam dân chủ là một sản phẩm thực
tế và đang trên đà phát triển với các thành tựu của sự nghiệp đổi mới.
Ngày nay, dân chủ đã được thực hiện khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh
tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức … Đó là các quyền có tư liệu sản xuất, có công ăn việc làm,
quyền học tập và hưởng thụ văn hoá, quyền tham gia quản lý Nhà nước, giám sát cán bộ,
đảng viên, công chức và cơ quan Nhà nước, quyền đóng góp ý kiến vào các chủ trương,
chính sách, pháp luật, bày tổ ý kiến về các hiện tượng tích cực và tiêu cực trong đời sống
xã hội… Bộ máy Nhà nước đã từng bước chuyển đổi cơ chế điều hành các lĩnh vực của
đời sống xã hội thông qua cuộc cải cách lớn hệ thống các thể chế, trước hết là thể chế kinh
tế. Các bộ phân lập pháp, hành pháp, tư pháp được điều chỉnh một bước đáng kể, phát huy
được các mặt tích cực, gải phóng các năng lực sản xuất, các khả năng tiền tàng của đất
nước. Hệ thống văn bản chính sách đã từng bước thực hiện dân chủ hoá mọi mặt đời sống
góp phần phát huy sự chủ động, tính tích cực chính trị của nhân dân trên cơ sở môi trường
tâm lý - xã hội lành mạnh. Những thành tựu nổi bật của sự nghiệp đổi mới do Đảng cộng

sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo là không thể phủ nhận. Vì thế, trong nhiều năm qua
Việt Nam luôn được cộng đồng quốc tế đánh giá là môi trường xã hội ổn định.


Tất nhiên, khi khẳng định mạnh mẽ về các thành tựu dân chủ mà Việt Nam đạt
được dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản chúng ta cũng phải nhìn nhận ra những tồn tại
của nó. Có một tính quy luật phải được lưu ý, trong mọi điều kiện, Nhà nước kể cả Nhà
nước tư sản hay vô sản, tuy bản chất khác nhau về cơ bản, nhưng đều mang trong mình nó
khả năng bị quan liêu hoá và mất dân chủ ở mức độ này hay mức độ khác. Những nguy cơ
làm thoái hoá Đảng cầm quyền luôn được đặt ra trong bất cứ chế độ chính trị nào. Sự
khủng hoảng triền miên của các Đảng chính trị phương Tây đang là một thực thế, khi mà
ngay các chính đảng đó bị lũng đoạn bởi một nhóm nhỏ ngày càng trở thành một cơ thể
riêng, có những mục đích và quyền lợi riêng và tách dần ra khỏi giai cấp hình thành các
nhóm tài phiệt. Và trong thời đại ngày nay, Đảng nào chỉ đại diện hạn hẹp cho lợi ích của
giai cấp thiểu số giàu có, tham lam thì có thích ứng đến đâu cũng khó tồn tại bền vững
được là điều tất yếu.
ở Việt Nam, chúng ta cũng không phủ nhận rằng, tình trạng vi phạm dân chủ hay
dân chủ hình thức còn diễn ra không ít nơi này nơi nọ. Tuy nhiên tình trạng đó không bắt
nguồn từ bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ chế độ một đảng cầm quyền mà
trước hết do sự suy thoái về phẩm chất của một bộ phận cán bộ. đảng viên, công chức và
những sơ hở, thiếu đồng bộ của cơ chế chính sách cùng những khiếm khuyết trong phương
thức lãnh đạo. Những tồn tại đó là đi ngược lại bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà ở
đó mọi quyền lực thuộc về nhân dân, trái với bản chất của Đảng cộng sản mà mọi hoạt
động không nằm ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Khi Đảng cộng sản Việt Nam
nhìn ra được những tồn tại và kiên quyết khắc phục, thường xuyên quan tâm công tác xây
dựng, chỉnh đốn và hiện đại hoá Đảng thì nó sẽ là một Đảng cách mạng sẵn sàng hoàn
thành nhiệm vụ lịch sử của mình vì quyền lực và lợi ích của người dân lao động, vì một
nền dân chủ tiến bộ và hoàn thiện cho mọi người.
Để vấn đề nghiên cứu được đặt ra trở nên phổ biến và khách quan hơn, ở đây chúng
ta có thể tham chiếu những kết luận khoa học từ một công trình nghiên cứu sâu rộng do

Viện phát triển quốc tế Harvard - Trường đại học Harvard và quỹ SIDA Thuỵ Điển tiến
hành về Đông Dương. Trong đó, tác giả Adam Fforde viết. "So với các chế độ cộng sản
cùng ban cải cách khác, Việt Nam có những lợi thế chính trị quan trọng. Nên nắm quyền
qua chiến tranh và cách mạng chứ không phải do lực lượng bên ngoài áp đặt, năm 1975
Đảng cộng sản đứng đầu một hệ thống chính trị nhất thể với một quyền lực và tính hợp


pháp không bị ai thách thức. Sau 3 thập kỷ đấu tranh, Đảng đã loại mọi đối thủ và khôi
phục được Việt Nam thành một nước độc lập thống nhất. Ban lãnh đạo của Đảng nằm
trong số ổn định và thật sự nhất trí trong thế giới cộng sản và đảng viên của Đảng bao gồn
một phần lớn những người tận tuỵ và yêu nước nhất ở Việt Nam. Hơn nữa, đó là một đảng
mà sự tồn vong và thắng lợi cuối cùng đã dựa vào việc huy động sự ủng hộ của quần
chúng và Đảng đã có được sự chấp nhận rộng rãi của quần chúng" [Harvard: Những thách
thức trên con đường cải cách ở Đông Dương, Nxb CTQG, H., 1994, tr.523]. "Đảng cộng
sản Việt Nam không chỉ độc quyền lãnh đạo mà còn gắn liền với chủ nghĩa dân tộc và chủ
quyền Việt Nam" [Sđd, tr.536]. "ở Việt Nam trong tương lai khó có thể hình dung cơ sở xã
hội cho việc xây dựng một Đảng có khả năng cạnh tranh với Đảng cộng sản Việt Nam"
[Sđd, tr.539]. "Hơn nữa, Đảng phải tăng cường hệ thống một Đảng không chỉ vì ý do tư
tưởng mà còn hầu hết đảng viên đều tin rằng đường lối chính trị cạnh tranh sẽ làm trầm
trọng thên những chia rẽ giữa các vùng và làm mất ổn định chính trị. Phát triển kinh tế có
khả năng sẽ cơ cấu lại nền chính trị trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam hơn là tạo nên
những Đảng thay thế có uy tín" [Sđd, tr.539-540]. "Thách thức lớn nhất đối với chế độ này
không nằm ở bất kỳ nguy cơ sụp đổ cấp thời nào, mà ở nhiệm vụ là thể chế hoá trong khi
thiếu một mô hình đã được thể hiện" [Sđd, tr.537].
Rõ ràng, chỉ có một Đảng - Đảng cộng sản Việt Nam đã vượt qua những thử thách
của lịch sử, gắn bó máu thịt với nhân dân, luôn biết tự đổi mới, chứ không phải một lực
lượng nào khác có thể đề ra đường lối đáp ứng yêu cầu lịch sử, nguyện vọng và lợi ích của
nhân dân, phù hợp quy luật khách quan của sự phát triển trong xã hội ngày nay. Một Đảng
như thế đủ sức đảm đương vai trò là lãnh tụ chính trị của xã hội, của dân chủ mà không
cần có một lực lượng nào khác làm đối tượng.



Kết luận

Suốt nhiều thập kỷ qua, các thế lực chống cộng, chống CNXH tìm đủ mọi cách,
dùng mọi thủ đoạn đánh vào Đảng Cộng sản, phá rã tổ chức đảng, xóa sự lãnh đạo của
Đảng. Vì họ thấy rõ và "ngầm" thừa nhận Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định con
đường đi lên CNXH. Chính Đảng Cộng sản chứ không ai khác đã từng phát động, lãnh đạo
và tổ chức quần chúng lao động tiến hành những cuộc đấu tranh chống CNTB, làm thay
đổi trật tự thế giới cũ, mở ra một thế giới mới, thế giới của hòa bình, tự do, bình đẳng,
hạnh phúc, ấm no. Họ nghĩ rằng chỉ có tiêu diệt Đảng Cộng sản hoặc vô hiệu hóa sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản mới xóa bỏ được tư tưởng cách mạng XHCN, bảo vệ được "trật tự
vĩnh hằng của CNTB". Trên thực tế, bằng hết "chiến dịch" này đến "chiến dịch" khác, họ
ra sức vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam là "độc đoán", "đảng trị", "thực hiện sự chuyên
chính của một đảng", dùng chiêu bài "tự dọ", "dân chủ", "nhân quyền" và những ngón đòn
độc ác về "đa nguyên, đa đảng" để đánh vào nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của
Đảng, đánh vào nguyên tắc tổ chức của Đảng, hòng phá vỡ sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, kích động chia rẽ Đảng với Nhà nước và đoàn thể quần chúng, đối lập Đảng với
nhân dân...
Những nội dung (tuy chưa đầy đủ, sâu sắc) của tiểu luận đưa ra để phân tích, lý
giải, so sánh dân chủ trong thể chế chính trị đa đảng ở các nước phương Tây và thể chế
một Đảng lãnh đạo ở nước ta đã hiểu đúng hơn cái "cốt" của vấn đề dân chủ không phụ
thuộc vào chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; thấy rõ hơn bản chất, thực chất của
hình thức che đậy của cái gọi là "dân chủ phương Tây" - Một dân chủ của thiểu số thuộc
giai cấp tư sản, dân chủ không đối với nhân dân lao động, mà chỉ là loại hình dân chủ tư
sản hạn hẹp mà thôi.
Vấn đề dân chủ trong thể chế chính trị nào suy đến cùng đều phụ thuộc vào bản
chất của Đảng đó (Đảng cầm quyền) như thế nào.
ở Việt Nam, thực hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là bản
chất. Bản chất của Nhà nước XHCN là dân chủ. Nền dân chủ XHCN gắn liền với cuộc đấu

tranh vì CNXH. Nó được thiết lập bằng quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với
toàn xã hội thông qua đội quân tiên phong là Đảng Cộng sản. Vì vậy, có thể khẳng định
rằng, việc các Đảng Cộng sản cầm quyền, trong quá trình lãnh đạo, thông qua Nhà nước,


thực hiện nền dân chủ XHCN. Một nền dân chủ được xem là đích thực, tiến bộ, phải là nền
dân chủ của nhân dân lao động, lực lượng duy nhất sáng tạo ra lịch sử và quyết định lịch
sử.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là Đảng cầm quyền.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân chủ trong thể chế chính trị nước ta được khẳng định và
phát triển tốt đẹp. Những thành quả vĩ đại mà nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có khả năng lãnh đạo
nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Dân chủ của Đảng là Đảng lãnh đạo làm cho Nhà nước hoạt động có hiệu quả theo
đúng đường lối, quan điểm của Đảng, thể hiện được ý chí, nguyện vọng lợi ích của nhân
dân và gắn bó máu thịt với nhân dân. Đảng lãnh đạo không phải là Đảng thay thế Nhà
nước quản lý xã hội hoặc thay thế nhân dân làm chủ Nhà nước. Cả Đảng, cả Nhà nước đều
là công cụ bảo đảm và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đều phấn đấu, hoạt động vì
lợi ích của nhân dân. Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không nên hiểu
Đảng và Nhà nước là hai hệ thống quyền lực song song, càng không nên tách rời hoặc đối
lập Đảng và Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo hệ thống chính trị, nhưng lại là
một bộ phận của hệ thống chính trị, một thành viên của Mặt trận Tổ quốc, Đảng lãnh đạo
định ra Hiến pháp và pháp luật, đồng thời Đảng hoạt động tuân theo Hiến pháp và pháp
luật. Cán bộ, đảng viên của Đảng không đứng trên pháp luật, không hoạt động ngoài
khuôn khổ của pháp luật.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi đó là một trong những căn cứ lý luận quan trọng
để tiến hành đổi mới phương thức lãnh đạo của mình và đó cũng là nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo hoạt động của một Đảng cầm quyền.
Vì vậy, xây dựng một đảng cách mạng chân chính là công việc không đơn giản, trái
lại, cực kỳ phức tạp khó khăn, đặc biệt là trong điều kiện Đảng cầm quyền, phát triển kinh

tế thị trường, mở cửa, trước xu thế dân chủ hóa hiện nay. Đảng vừa phải đối p hó với
những âm mưu của các thế lực thù địch vừa phải tự vượt qua những hạn chế của chính
mình. Tuy nhiên, với những gì đã làm được trong gần 75 năm qua, với những triển vọng
tốt đẹp trong thời kỳ đổi mới, được nhân dân tin cậy và ủng hộ, Đảng Cộng sản Việt Nam
nhất định sẽ từng bước vươn lên hoàn thiện bản thân mình, đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới./.


Tài liệu tham khảo

1.

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976.

2.

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978.

3.

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976.

4.

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976.

5.

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976.


6.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

7.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

8.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX,
Nxb Chính trị quốc gia.

9.

Tô Huy Rứa, "Đảm bảo và phát huy dân chủ trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm
quyền", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2-2000.

10. Đặng Đình Tân (chủ biên), Thể chế Đảng cầm quyền - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
11. Viện Phát triển quốc tế Harward - Trường Đại học Harward, Những thách thức trên
con đường cải cách ở Đông Dương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
12. P.S Taranốp: 106 nhà thông thái, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
13. Hoàng Chí Bảo, Cơ chế thực hiện dân chủ XHCN ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
14. Hội đồng lý luận Trung ương, Lẽ phải thuộc về chúng ta và vững bước trên con
đường đã chọn, Nxb Chính trị quốc gia.
15. Viện Khoa học chính trị, Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
trị (trích dẫn), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
16. Tập bài giảng chính trị năm 2002 và các Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Lý luận, báo

chí...


Mục lục

Trang
Mở đầu

1

1. Dân chủ là gì.

2

2. Chế độ đa đảng ở các nước phương Tây với việc thực thi dân chủ

5

3. Chế độ một Đảng lãnh đạo và thực hiện dân chủ ở Việt Nam

9

Kết luận

17

Tài liệu tham khảo

20





×