Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

skkn nâng cao kĩ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.55 KB, 39 trang )

Đề tài nghiên cứu
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KỸ NĂNG
GIAO TIẾP CHO THIÊU NHI Ở LIÊN ĐỘI
TIỂU HỌC PHƯƠNG ĐÌNH B

A.PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, nội dung giáo dục kỹ năng sống,
trong đó có giáo dục kỹ năng giao tiếp đã nhận được sự quan tâm không chỉ từ
phía các nhà quản lý, mà còn từ phía đông đảo phụ huynh và dư luận xã hội.
Giáo dục kỹ năng giao tiếp được xác định là một trong những nội dung cơ bản
của Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện - Học sinh tích cực”
trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013 do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ
đạo.
Chúng ta đều biết, giao tiếp là một hoạt động không thể thiếu trong đời
sống của mỗi con người và toàn xã hội, thông qua giao tiếp con người có thể trao
đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm, bày tỏ thái độ, chia sẻ cảm xúc… Tuy nhiên
giao tiếp như thế nào cho hiệu quả, thu hút được người khác và thể hiện một
người có văn hoá thì vẫn là một vấn đề cần quan tâm.
Giáo dục kỹ năng sống nói chung và giáo dục kỹ năng giao tiếp nói riêng
là một nhu cầu cần thiết và hết sức quan trọng, nhất là trong xã hội hiện nay, khi
mà tốc độ đô thị hoá ngày càng nhanh trong khi khả năng giao tiếp ứng xử để
đáp ứng lại hoàn cảnh đó thì vẫn chưa theo kịp, dẫn đến một bộ phận học sinh
trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung quanh, khả năng ứng xử

1


cần thiết trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến những bất cập trong hành vi, lối sống, đạo đức của nhiều học sinh.
Thực tế cho thấy, việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh còn bị xem


nhẹ. Một phần từ phía phụ huynh còn quá coi trọng vào kiến thức, thành tích học
tập của con em mình mà xao nhãng việc rèn cho các em có lời ăn tiếng nói, hành
vi ứng xử cho phù hợp. Một phần từ phía giáo viên chưa có nhận thức đầy đủ về
tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh, dẫn đến tình trạng
các em rụt rè, lúng túng trong giao tiếp, ngại giao tiếp ở môi trường mới hay xu
hướng thu mình lại.
Liên đội Tiểu học Phương Đình B (xã Phương Đình - Huyện Đan Phượng)
có đến 90% các em thiếu nhi có bố mẹ làm nông nghiệp và lao động phổ thông,
thêm vào đó đời sống dân cư ở địa bàn của trường chưa cao và còn nhiều khó
khăn. Chính những đặc điểm xã hội trên đã tác động không nhỏ đến ý thức cũng
như khả năng giao tiếp của các em thiếu nhi trong liên đội. Việc giáo dục kỹ
năng sống nói chung và kỹ năng giao tiếp nói riêng cho các em ở trong nhà
trường cũng vì lý do trên mà chưa có chuyển biến rõ rệt trong hành vi và cách
ứng xử của các em.
Theo lời GS.TS Nguyễn Vinh Hiển, thứ trưởng Bộ GD và ĐT, giáo dục
kỹ năng giao tiếp cũng như giáo dục kỹ năng sống nói chung là “rất đa dạng và
mang đặc trưng vùng miền”. Tuy nhiên, vấn đề kỹ năng giao tiếp tại liên đội
tiểu học Phương Đình B còn là vấn đề bỏ ngỏ, chưa được nghiên cứu.
Vậy làm thế nào để việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và giáo dục kỹ
năng giao tiếp nói riêng được cải thiện? Làm thế nào để tạo cho các em thiếu nhi
sự tự tin và cởi mở trong giao tiếp? Là một giáo viên tổng phụ trách, hàng ngày
tiếp xúc với các em, thấy được những khó khăn và lúng túng của các em trong
giao tiếp, tôi đã trăn trở rất nhiều. Vì vậy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và thử
nghiệm đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp cho thiếu
nhi ở Liên đội tiểu học Phương Đình B”.

2


1. Mục đích nghiên cứu.

Trên cơ sở lý luận về kỹ năng giao tiếp và thực trạng việc giao tiếp của
thiếu nhi để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp cho thiếu
nhi ở liên đội vùng nông thôn.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về kỹ năng giao tiếp.
- Đánh giá thực trạng kỹ năng giao tiếp và việc giáo dục giao tiếp trong
thiếu nhi tại liên đội, những ưu điểm, hạn chế yếu kém, thuận lợi và khó khăn,
nguyên nhân và những kinh nghiêm.
- Tổ chức các hoạt động thực nghiệm, thử nghiệm nhằm lựa chọn các giải
pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho phù hợp với đối tượng là thiếu nhi vùng
nông thôn.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi vùng
nông thôn nói chung và ở liên đội tiểu học Phương Đình B nói riêng.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
- Kỹ năng giao tiếp của thiếu nhi vùng nông thôn và giải pháp nhằm nâng
cao kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi vùng nông thôn.
Khách thể nghiên cứu.
- Nhi đồng và đội viên trong liên đội.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nội dung nghiên cứu: Các giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp
cho thiếu nhi ở liên đội tiểu học Phương Đình B.
Phạm vi không gian nghiên cứu: Liên đội Tiểu học Phương Đình B.
Thời gian nghiên cứu và thử nghiệm: Năm học 2011-2012.
Thời gian thực nghiệm: 2012 – 2013

3


5. Phương pháp nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp điều tra.
+ Điều tra thu thập thông tin bằng 500 phiếu cho các đối tượng: 300 phiếu
cho thiếu nhi, 50 phiếu cho cán bộ và giáo viên, 150 phiếu cho phụ huynh học
sinh.
+ Phỏng vấn mang tính chuyên biệt 22 đồng chí giáo viên nhằm phát hiện
và làm rõ thực trạng giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ năng giao tiếp nói
riêng trong nhà trường.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp nghiên cứu thực hành

4


B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Một số khái niệm công cụ.
1.1. Khái niệm giao tiếp
Trong cuộc sống, con người có nhiều nhu cầu hoạt động để tồn tại và phát
triển. Có những nhu cầu mang tính sinh tồn như ăn, ở, sinh nở… song cũng có
những nhu cầu vượt ra khỏi tính bản năng của động vật đó là giao tiếp. Con
người trong quá trình hoàn thiện mình, một mặt phải thích ứng dần với tính đa
dạng, phong phú và phức tạp của tự nhiên, mặt khác để có thể tồn tại và phát
triển, phải có sự liên kết giữa các cá thể theo những chuẩn mực nhất định. Chính
trong quá trình liên kết này đã tạo nên tính xã hội của con người. Do đó có thể
nói, cùng với lao động, hoạt động giao tiếp được coi là một trong những đặc
trưng nổi bật, cơ bản tạo nên tính người, phản ánh bản chất của con người, vừa
như là phương thức liên kết giữa con người với con người, giữa con người với tự
nhiên, vừa như là kết quả của sự phát triển thế giới vật chất và của các mối quan

hệ xã hội. Với ý nghĩa như vậy, hoạt động giao tiếp là nhu cầu tất yếu của mỗi
người và toàn thể xã hội. Thông qua hoạt động giao tiếp mỗi các nhân biểu hiện
mình như một chủ thể, bộc lộ tính cách, kinh nghiệm sống và rộng hơn là nhân
cách của một chủ thể.
Nhà tâm lý học nổi tiếng Fischer đưa ra khái niệm: Giao tiếp là một quá
trình xã hội thường xuyên bao gồm các dạng thức ứng xử rất khác nhau: Lời lẽ,
cử chỉ, cái nhìn; theo quan điểm ấy, không có sự đối lập giữa giao tiếp bằng lời
và giao tiếp không bằng lời: giao tiếp là một tổng thể toàn vẹn.
Còn theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng : Giao tiếp là quá trình thiết lập
và phát triển tiếp xúc giữa các nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động.

5


Giao tiếp bao gồm hàng loạt các yếu tố như trao đổi thông tin, xây dựng chiến
lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác. Giao tiếp có ba khía
cạnh chính: giao lưu, tác động tương hỗ và tri giác.
Theo Tâm lý học đại cương của Trần Thị Minh Đức (chủ biên): Giao tiếp
là quá trình tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích nhận thức,
thông qua sự trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, sự ảnh hưởng tác động
qua lại lẫn nhau.
Theo Tâm lý học xã hội của Trần Thị Minh Đức (chủ biên): Giao tiếp là
sự tiếp xúc trao đổi thông tin giữa người với người thông qua ngôn ngữ, cử chỉ,
tư thế, trang phục…
Như vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp, mỗi tác giả tuỳ
theo phương diện nghiên cứu của mình đã rút ra một định nghĩa giao tiếp theo
cách riêng và làm nổi bật khía cạnh nào đó. Tuy vậy, số đông các tác giả đều
hiểu giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người nhằm trao đổi thông tin,
tư tưởng, tình cảm… Giao tiếp là phương thức tồn tại của con người.
Giao tiếp vừa mang tính xã hội vừa mang tính cá nhân. Tính xã hội của

giao tiếp thể hiện ở chỗ nó được nảy sinh và hình thành trong xã hội và sử dụng
các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Tính cá nhân của giao tiếp thể hiện ở nội dung, phạm vi, nhu cầu, phong
cách, kỹ năng … giao tiếp của mỗi người.
Giao tiếp là một quá trình xã hội thường xuyên bao gồm các ứng xử rất đa
dạng và phong phú được thể hiện qua 2 loại phương tiện giao tiếp: Giao tiếp
ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ.
- Giao tiếp ngôn ngữ là sự giao tiếp được tiến hành thông qua hệ thống tín
hiệu lời nói và chữ viết. Đây là hình thức giao tiếp đặc trưng cơ bản nhất trong

6


hệ thống giao tiếp xã hội bởi nó có những chức năng: chức năng thông báo, chức
năng diễn cảm và chức năng tác động.
- Giao tiếp phi ngôn ngữ được thể hiện thông qua vận động của cơ thể
như: cử chỉ, tư thế, nét mặt, thông qua cách trang phục hay tạo ra khoảng không
gian nhất định khi tiếp xúc. Giao tiếp phi ngôn ngữ có 2 chức năng cơ bản đó là:
chức năng biểu hiện trạng thái cảm xúc nhất thời và chức năng biểu hiện các đặc
trưng cá nhân.
1.2. Khái niệm Kỹ năng giao tiếp
a. Khái niệm Kỹ năng:
- Theo A.G.Covaliop: kỹ năng là phương thức thực hiện hành động phù
hợp với mục đích và điều kiện của hành động.
- Theo A.V.Petrovxki: kỹ năng là sự vận dụng những tri thức, kỹ xảo đã
có để lựa chọn thực hiện những phương thức hành động tương ứng với mục đích
đề ra.
- Theo Từ điển Tiếng Việt: Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến
thức thu được vào thực tế.
b. Khái niệm Kỹ năng giao tiếp.

Kỹ năng giao tiếp là khả năng chủ thể thực hiện có kết quả hành động giao
tiếp phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của giao tiếp.
Khi phân tích cấu trúc kỹ năng giao tiếp, người ta thường chú ý tới cả hai
cấp độ: cấp độ tri thức (biết) và cấp độ thao tác(làm).
- Cấp độ tri thức đòi hỏi chủ thể hành động giao tiếp biết rõ mình cần làm
gì, nói gì, vì sao và làm như thế nào trên vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm của quá
trình giao tiếp.

7


- Cấp độ thao tác đòi hỏi chủ thể có khả năng thực hiện những hành động
giao tiếp một cách ý thức, tiến hành các thao tác, các hành vi giao tiếp phù hợp
với điều kiện giao tiếp.
Theo PGS.TS Hoàng Anh, có thể nêu lên 3 nhóm kỹ năng cơ bản của giao
tiếp như sau:
- Nhóm kỹ năng định hướng trong giao tiếp.
- Nhóm kỹ năng định vị trong giao tiếp.
- Nhóm kỹ năng điều chỉnh, điều khiển giao tiếp.
Ba nhóm kỹ năng giao tiếp cơ bản nói trên có quan hệ chặt chẽ, bổ sung
cho nhau và được biểu hiện cụ thể trong hành vi giao tiếp.
1.3. Khái niệm Giáo dục kỹ năng giao tiếp.
Trong cuộc sống hàng ngày, ở mọi ngành nghề đều cần đến các hoạt động
giao tiếp. Giao tiếp qua việc sử dụng ngôn ngữ sao cho chọn lọc để diễn đạt ý
của mình nhằm giúp người khác biết và hiểu những thông tin đến đối tượng cần
giao tiếp, nhằm đạt đến thành công trong công việc. Đặc biệt trong lĩnh vực giáo
dục cũng đòi hỏi người giáo viên hướng dẫn giảng dạy sao cho học sinh của
mình có được kỹ năng giao tiếp thật tốt. Chính vì lý do đó đối với học sinh ở bất
cứ cấp học nào cũng được rèn luyện 4 kỹ năng: nghe – nói - đọc - viết để đáp
ứng nhu cầu giao tiếp trên.

Giáo dục Kỹ năng giao tiếp cho học sinh là giáo dục kỹ năng mang tính cá
nhân và xã hội nhằm giúp các em có thể chuyển tải những gì mình biết (nhận
thức), những gì mình cảm nhận (thái độ) và những gì mình quan tâm (giá trị)
thành những khả năng thực thụ giúp các em biết phải giao tiếp như thế nào (hành
vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc sống.
Giáo dục kỹ năng giao tiếp nói riêng và giáo dục kỹ năng sống nói chung
trong trường tiểu học không trở thành một môn học độc lập nhưng được lồng
8


ghép trong các môn học giúp các em học sinh tiếp cận với các kỹ năng một cách
tự nhiên và nhẹ nhàng nhất. Nếu như với các môn học các em không chỉ được
học kiến thức mà còn được học các kỹ năng trong từng môn cụ thể thì với công
tác Đội, việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và giáo dục kỹ năng giao tiếp nói
riêng được rèn luyện hàng ngày qua các hoạt động Đội. Từ những hoạt động vui
chơi, hoạt động ngoài giờ lên lớp đến những buổi sinh hoạt theo chủ đề, chủ
điểm cũng là những điều kiện thuận lợi để rèn kỹ năng giao tiếp. Có thể nói giáo
dục kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi phải là việc làm hàng ngày, phải trở thành
thói quen và phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội
mới có thể tạo nên một môi trường giao tiếp lành mạnh, một ý thức giao tiếp có
văn hoá trong thiếu nhi.
2. Tâm sinh lý và nhu cầu giao tiếp của lứa tuổi tiểu học.
2.1 Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi tiểu học
Lứa tuổi tiểu học từ 6 đến 11 tuổi, đây là giai đoạn đánh dấu sự thay đổi
của trẻ từ tuổi mẫu giáo sang tuổi đi học ở trường phổ thông. Ở lứa tuổi này có
những đặc điểm cơ bản sau:
a. Đặc điểm về mặt cơ thể.
Hệ xương, hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh, do đó các em ở lứa
tuổi này thường hiếu động, không thể ngồi yên được lâu, thích các trò chơi vận
động. Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của

các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu
tượng. Do đó các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ.
b. Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống.
Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là sự vui chơi thì đến
tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của các em đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ

9


hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song vơi hoạt động
học tập ở các em còn diễn ra nhiều các hoạt động khác như:
- Hoạt động vui chơi: thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang
chơi các trò chơi vận động.
- Hoạt động lao động: bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và gia
đình, ngoài ra các em còn tham gia lao động tập thể ở trường lớp…
- Hoạt động xã hội: các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của
trường, của Đội TNTP, của lớp và của cộng đồng dân cư.
c. Sự phát triển của quá trình nhận thức.
• Nhận thức cảm tính:
Các cơ quan cảm giác: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác
đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện. Ở đầu tiểu học tri giác thường
gắn với hành động trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính
xúc cảm, các em thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp dẫn.
Tri giác mang tính mục đích, có chủ định, có phương hướng rõ ràng.
• Nhận thức lý tính
Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan
hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu
tượng khái quát.
Tưởng tượng của học sinh tiểu học phát triển phong phú hơn so với trẻ
mầm non nhờ bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng phong phú.

Nhưng phải đến cuối tiểu học tưởng tượng mới bắt đầu hoàn thiện.
2.2. Ngôn ngữ và nhu cầu giao tiếp của học sinh tiểu học.
Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi các em vào lớp
1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết, đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết bắt đầu hoàn thiện

10


về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà các em có
khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản
thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
Ngôn ngữ đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm
tính và lý tính ở trẻ em, đặc biệt là với lứa tuổi tiểu học, nhờ có ngôn ngữ mà
cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của các. Mặt khác, thông qua ngôn ngữ
của các em ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ và tình cảm của các em.
Ở bất cứ lứa tuổi nào cũng đều có nhu cầu giao tiếp, lứa tuổi tiểu học cũng
không phải ngoại lệ. Tuy nhiên phạm vi giao tiếp của các em chỉ giới hạn trong
những chủ đề về gia đình, trường lớp và bạn bè. Chúng ta có thể bắt gặp hình
ảnh một học sinh lớp 1 luôn quay ngang quay dọc để nói chuyện với các bạn
xung quanh về những chuyện có khi không hề liên quan đến tiết học. Nhưng đến
lớp 5, đó không còn là hình ảnh phổ biến, bởi lúc này các em đã có sự chú ý vào
với tiết học, cũng như các em đã hình thành những thói quen, nề nếp và ý thức
khi ngồi trong lớp.
3. Ý nghĩa của việc nâng cao kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi vùng
nông thôn.
Năm 2008 với việc mở rộng địa giới hành chính của Thủ đô, huyện Đan
Phượng cùng nhiều huyện khác của tỉnh Hà Tây cũ đã sát nhập về Hà Nội. Đây
là một sự thay đổi lớn và cũng là một thách thức không nhỏ với ngành Giáo dục
nói chung và công tác Đội nói riêng. Việc trở thành một công dân Thủ đô đòi hỏi
phải giáo dục các em có những ngôn ngữ, cách ứng xử, cử chỉ phù hợp. Tuy

nhiên để thay đổi một thói quen cũ và hình thành một thói quen mới không phải
việc làm một sớm một chiều là có kết quả.

11


Thực tế cho thấy, đã qua 4 năm, nhưng sự chuyển biến trong thói quen
giao tiếp của thiếu nhi nông thôn nói chung và thiếu nhi ở liên đội Tiểu học
Phương Đình B nói riêng vẫn chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Các em luôn có thái
độ rụt rè, thiếu tự tin đặc biệt là ở một môi trường mới, mặc dù luôn được các
thầy cô cổ vũ và khích lệ. Điều này là một thực tế thường thấy ở các em học sinh
nông thôn. Cho dù về kiến thức các em không hề thua kém các bạn trong nội
thành, nhưng các em thiếu các kỹ năng xã hội, trong đó có kỹ năng giao tiếp.
Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến các em, bởi nếu thiếu kỹ năng giao tiếp các
em sẽ luôn cảm thấy mất tự tin và luôn sợ giao tiếp ở môi trường mới. Thiếu kỹ
năng giao tiếp các em sẽ không dám nói lên những suy nghĩ và quan điểm của
mình. Quan trọng hơn là khi trưởng thành, việc thiếu kỹ năng giao tiếp cũng
đồng nghĩa với việc các em bỏ qua rất nhiều cơ hội cho mình trong tương lai.
Việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và giáo dục kỹ năng giao tiếp nói
riêng là một việc làm cần thiết và rất có ý nghĩa, nhất là trong xã hội hiện nay,
khi yêu cầu của xã hội về con người hiện đại không chỉ có chuyên môn giỏi mà
cần phải có thêm rất nhiều kỹ năng xã hội. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với
các em thiếu nhi nông thôn, khi mà tốc độ đô thị hoá ngày càng nhanh, nhưng
nền tảng về ý thức, hành vi, ngôn ngữ, ứng xử, văn hoá….chưa phù hợp. Đó
cũng là những hệ quả tất yếu trong một bộ phận lớn thanh thiếu nhi nông thôn
hiện nay, các em vội vã học theo cái mới, đắm chìm trong Internet hay Game
online… Cũng từ đây rất nhiều những điều đáng tiếc đã xảy ra, hiện tượng các
em trốn học đi chơi game hay ăn cắp để có tiền chơi game không còn là câu
chuyện lạ hay vấn nạn bạo lực học đường đang xảy ra ở các trường học cũng


12


chính là từ việc các em thiếu những kỹ năng xã hội cần thiết, trong đó có kỹ
năng giao tiếp.
II. THỰC TRẠNG VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG GIAO TIẾP TẠI
LIÊN ĐỘI TIỂU HỌC PHƯƠNG ĐÌNH B.
1. Thực trạng kỹ năng giao tiếp trong thiếu nhi tại liên đội Tiểu học
Phương Đình B.
Kết quả khảo sát cho thấy mặc dù đã đưa giáo dục kỹ năng giao tiếp vào
trong các môn học (kỹ năng nói, kỹ năng viết, kỹ năng trình bày…) nhưng việc
áp dụng các kỹ năng đó vào cuộc sống hàng ngày của các em thiếu nhi vẫn chưa
có kết quả rõ rệt.
100% thiếu nhi được hỏi đều cho rằng khi giao tiếp với người lớn (người
thân trong gia đình, thầy cô giáo và những người lớn khác) thì các em phải có
thái độ kính trọng, lễ phép, vâng lời. Nhưng khi đưa ra các tình huống giao tiếp
với người lớn, sự kính trọng, lễ phép và vâng lời của các em được thể hiện bằng
thái độ im lặng, chấp nhận để giải quyết vấn đề (86%), thái độ giận dỗi, không
bằng lòng, khóc (14%). Các em không dám và cũng không biết cách bày tỏ thái
độ, quan điểm và suy nghĩ của mình với người lớn, bởi theo các em nếu làm như
thế là sai với những gì đã được dạy, là không vâng lời, là không ngoan.
Trong giao tiếp với bạn bè, 100% thiếu nhi được hỏi đều khẳng định rằng
đối với bạn bè cần phải tôn trọng, thân thiện, cởi mở, hoà đồng… Nhưng khi đưa
các em vào với từng tình huống cụ thể thì có đến 62% các em thiếu kỹ năng
đồng cảm và chia sẻ, 53% thiếu kỹ năng hợp tác.
Trong giao tiếp với các em nhỏ, các em đều cho rằng cần phải có thái độ
gương mẫu, nhường nhịn, thương yêu… nhưng các em lại áp đặt quan điểm các

13



em nhỏ phải vâng lời, ngoan ngoãn với các anh chị lớn. Đây chính là quan điểm
ngược khi các em giao tiếp với người lớn.
Có thể nhận thấy trong cách giao tiếp của các em thiếu nhi trong liên đội
bên cạnh sự nhút nhát, dut dè, thiếu tự tin thì các em còn thiếu tính chủ động
trong việc xử lý các tình huống giao tiếp, lúng túng trong việc sử dụng ngôn ngữ
và thường không biết nói gì khi đứng trước đám đông.
2. Thực trạng việc giáo dục kỹ năng giao tiếp tại liên đội Tiểu học
Phương Đình B.
2.1. Về phía gia đình
Gia đình là nơi hình thành cho các em những thói quen giao tiếp đầu tiên,
là nền tảng trong hành vi, ứng xử của các em. Như đã nói ở phần đầu, liên đội
Tiểu học Phương Đình B có đến 90% phụ huynh làm nông nghiệp và lao động
phổ thông, điều này lý giải một phần cho việc giao tiếp của các em thiếu nhi luôn
thụ động và rụt rè. Phụ huynh không có nhiều thời gian dành cho con em mình,
hơn thế nữa gia đình cũng coi nhẹ việc các em giao tiếp như thế nào.
Khi được hỏi về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp, 28 % ý kiến
cho rằng do yếu tố giáo dục của gia đình, 13% ý kiến cho rằng do điều kiện sống
ở khu dân cư, 52% cho rằng do sự giáo dục trong nhà trường (Mần non và Tiểu
học), 7% ý kiến cho rằng do ảnh hưởng từ bạn bè.
Khi được hỏi về sự cần thiết trong việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho
thiếu nhi, 5% ý kiến cho rằng đây là việc làm rất cần thiết, 12% ý kiến cho rằng
cần thiết, 56% ý kiến cho rằng bình thường, 27% ý kiến cho rằng ít cần thiết.
2.2. Về phía nhà trường.
Nhà trường là nơi các em được học không chỉ là những kiến thức cần thiết
mà ở đó các em còn được giáo dục về đạo đức, về truyền thống, về những phẩm

14



chất tốt đẹp của người Việt Nam…. Khi chưa đưa giáo dục kỹ năng sống trong
đó có giáo dục kỹ năng giao tiếp vào trong trường học, thì các em vẫn được các
thầy cô giáo quan tâm và rèn các kỹ năng cơ bản là nghe, nói, đọc, viết (điều này
được thể hiện rõ nhất trong phân môn Tiếng Việt ở tiểu học). Ngoài các kỹ năng
cơ bản trên, các em còn được giáo dục và hình thành những thói quen tốt trong
quan hệ với người thân, với thầy cô, bạn bè và với cộng đồng (môn Đạo đức)….
Tuy nhiên, với xu thế của thời đại, với tốc độ phát triển chóng mặt của
nông thôn hiện nay, công tác giáo dục trên dường như là chưa đủ. Việc đưa giáo
dục kỹ năng sống trong đó có giáo dục kỹ năng giao tiếp lồng ghép trong các
môn học là một yêu cầu tất yếu.
Khi được hỏi về đánh giá thực trạng giáo dục kỹ năng giao tiếp trong nhà
trường, các ý kiến của các đồng chí giáo viên tương đối ổn định. Việc xác định
nội dung cơ bản trong giáo dục kỹ năng giao tiếp nói riêng và giáo dục kỹ năng
sống nói chung có 78% ý kiến đánh giá xác định tốt, 22% ý kiến đánh giá bình
thường. Việc tổ chức phối hợp với các lực lượng giáo dục: về phía gia đình 87%
ý kiến đánh giá phối hợp tốt, 13% ý kiến đánh giá bình thường; về phía xã hội
(cac đoàn thể, thôn xóm) 43% ý kiến đánh giá tốt, 57% ý kiến đánh giá bình
thường; về phối hợp với Đội TNTP Hồ Chí Minh có 92% ý kiến đánh giá tốt, 8%
ý kiến đánh giá bình thường; về ý thức tự giáo dục của thiếu nhi 38% ý kiến
đánh giá tốt, 52% ý kiến đánh giá bình thường, 10% ý kiến đánh giá chưa tốt.
Từ những ý kiến đánh giá của phụ huynh và giáo viên ta có thể thấy trong
quan điểm giáo dục kỹ năng sống nói chung và giáo dục kỹ năng giao tiếp nói
riêng của gia đình và nhà trường vẫn còn một khoảng cách. Để có thể thu hẹp

15


khoảng cách này cần rất nhiều sự nỗ lực của các đồng chí giáo viên và sự quan
tâm hơn nữa của phụ huynh học sinh đến vấn đề giáo dục kỹ năng giao tiếp cho
con em mình.


3. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.
3.1. Nguyên nhân.
Liên đội Tiểu học Phương Đình B (Thôn Địch Đình – Xã Phương Đình)
cách trung tâm huyện Đan Phượng 6km, địa bàn dân cư còn nhiều khó khăn,
phần lớn phụ huynh làm nông nghiệp và lao động phổ thông. Toàn liên đội có 41
học sinh gia đình thuộc hộ nghèo, 17 học sinh có hoàn cảnh khó khăn và đặc biệt
khó khăn (mồ côi bố, mẹ hoặc bố mẹ li dị). Nhiều em do hoàn cảnh gia đình nên
dù còn rất nhỏ nhưng đã biết giúp bố mẹ cùng lao động để tăng thu nhập. Đây là
những nguyên nhân khách quan có ảnh hưởng không nhỏ đến thói quen giao tiếp
của các em thiếu nhi trong liên đội. Đây cũng là nguyên nhân có tác động trực
tiếp đến việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho các em thiếu nhi chưa có kết quả rõ
rệt.
Bên cạnh đó, việc các em ở lứa tuổi tiểu học, chưa có ý thức về giao tiếp
và chưa có sự nhận thức đầy đủ về giao tiếp nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả và chất lượng của việc giáo dục kỹ năng giao tiếp trong nhà trường.
Về phía nhà trường, việc nội dung và chương trình học với khối lượng
kiến thức rất nhiều đã khiến cho các đồng chí giáo viên luôn phải ưu tiên đến
truyền thụ đầy đủ kiến thức cho các em mà không có nhiều thời gian dành cho
việc rèn kỹ năng giao tiếp. Ngoài ra điều kiện về cơ sở vật chất của liên đội còn

16


nghèo nên không có điều kiện tổ chức nhiều các buổi giao lưu, nói chuyện và
thảo luận về kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi. Tổ chức Đội TNTP trong nhà
trường còn lúng túng trong việc hướng dẫn các hoạt động, mô hình về giáo dục
kỹ năng giao tiếp cho đội viên và nhi đồng.
3.2. Bài học kinh nghiệm
Từ những nguyên nhân trên có thể nhận thấy rằng, việc giáo dục kỹ năng

giao tiếp cho thiếu nhi nông thôn là việc làm cần thiết và phải có sự phối hợp của
các lực lượng giáo dục mới mong có kết quả tích cực.
Kỹ năng giao tiếp là một trong những kỹ năng thực hành, chính vì vậy
việc tổ chức các mô hình câu lạc bộ, các buổi giao lưu, thảo luận theo các nội
dung giao tiếp hoặc tình huống giao tiếp để các em có điều kiện trao đổi và học
hỏi lẫn nhau cũng là một hoạt động tích cực để thúc đẩy việc nâng cao kỹ năng
giao tiếp cho thiếu nhi nông thôn nói chung và thiếu nhi ở liên đội Tiểu học
Phương Đình B nói riêng.
Việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi là việc làm cần sự quan tâm
từ phía gia đình, nhà trường và xã hội, là việc làm cần sự kiên trì, bền bỉ của
những người trực tiếp hướng dẫn để có thể dần dần thay đổi thói quen giao tiếp
trong thiếu nhi, tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp.
III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KỸ NĂNG GIAO TIẾP
CHO THIẾU NHI TẠI LIÊN ĐỘI TIỂU HỌC PHƯƠNG ĐÌNH B.
1. Nâng cao nhận thức về giáo dục kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi.
Giúp cho thiếu nhi có cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của việc giao
tiếp có hiệu quả là việc làm quan trọng đầu tiên. Bởi nếu gia đình và nhà trường

17


có cố gắng giáo dục đến đâu, tích cực như thế nào nhưng nếu bản thân thiếu nhi
chưa có cái nhìn đúng đắn thì các em sẽ không tham gia. Mà bất cứ sự giáo dục
nào không nhận được sự hưởng ứng của học sinh thì sự giáo dục đó coi như thất
bại.
Chính vì vậy, việc giúp các em hiểu được tầm quan trọng của giao tiếp là
việc làm hết sức quan trọng, bởi từ sự nhận thức đúng đắn sẽ tác động vào hành
động cụ thể của các em, các em sẽ dần có ý thức hơn trong việc giao tiếp, sẽ tích
cực và tự tin khi tham gia các nhóm thảo luận…
Nếu như chỉ nói với các em rằng giao tiếp rất quan trọng, rất cần thiết e

rằng điều này không thể nâng cao thêm nhận thức của các em về giao tiếp.
Người phụ trách có thể đưa ra các tấm gương gần gũi, thân quen trong liên đội
có khả năng giao tiếp và ứng xử tốt, được thầy cô và các bạn yêu quý. Chính
những tấm gương đó sẽ là sự tác động trực quan tốt nhất đến nhận thức của các
em.
Người phụ trách nếu như chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn thôi thì chưa
đủ, vì giao tiếp là sự thiết lập mối quan hệ, hãy để các em có sự tin tưởng, thoải
mái và vui vẻ bên cạnh người phụ trách. Điều này có vẻ mâu thuẫn với nguyên
tắc tôn trọng, lễ phép với người lớn, tuy nhiên đối với các em thiếu nhi, không
phải lúc nào chúng ta cũng áp đặt nguyên tắc để bắt các em thực hiện. Người phụ
trách nếu trong vai một người chị, một người bạn của các em sẽ nhận được nhiều
lời chia sẻ hơn từ phía các em và như thế sẽ hiểu hơn các em đang lúng túng và
khó khăn ở đâu để có biện pháp giúp đỡ. Bởi giáo dục kỹ năng giao tiếp không

18


phải chỉ là hướng dẫn các em theo tài liệu, theo sách.. mà có thể giáo dục các em
thông qua chính những lời tâm sự, chia sẻ giữa người phụ trách và các em thiếu
nhi.
2. Giải pháp về đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục kỹ năng
giao tiếp cho thiếu nhi trong liên đội Tiểu học Phương Đình B.
2.1. Giải pháp về xác định và lựa chọn nôi dung giáo dục kỹ năng giao
tiếp cho thiếu nhi:
- Giáo dục các giá trị văn hoá, đạo đức, các chuẩn mực đạo đức nói chung
của xã hội thể hiện trong giao tiếp.
- Giáo dục hệ thống các giá trị trong quan hệ với người khác (lễ phép,
gương mẫu, thân thiện…), với người lớn nói chung, với cha mẹ và người thân
trong gia đình, với thầy cô, với bạn bè và các em nhỏ.
- Giáo dục hệ thống các giá trị trong quan hệ với bản thân (tự trọng, khiêm

tốn, tự giác, trung thực..)
- Triển khai giáo dục kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi theo bốn nội dung cơ
bản sau:
* Giáo dục thái độ và phong cách giao tiếp.
* Giáo dục hành vi và ngôn ngữ giao tiếp.
* Giáo dục cử chỉ, điệu bộ, tư thế giao tiếp.
* Giáo dục ý thức và lựa chọn trang phục giao tiếp.
2.2. Giải pháp về phương pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi.
Cần tiến hành một cách đồng bộ 3 nhóm phương pháp giáo dục:
• Nhóm phương pháp tổ chức các hoạt động giáo dục (sinh hoạt theo chủ
điểm, sinh hoạt theo nhóm câu lạc bộ, trò chơi, …).

19


• Nhóm các phương pháp hình thành ý thức giao tiếp với các chuẩn mực và
quy tắc giao tiếp (kể chuyện, thảo luận nhóm, giải quyết các tình huống giao
tiếp…).
• Nhóm các phương pháp kích thích và điều chỉnh hành vi giao tiếp (động
viên, nhắc nhở, thi đua, khen thưởng, tự giáo dục, tự rèn luyện…)
3. Giải pháp phát huy sự tham gia của gia đình và các lực lượng xã hội
trong việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi.
Việc giáo dục thế hệ trẻ là việc làm của toàn xã hội, chính vì thế, giáo dục
kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi không thể tách rời gia đình, nhà trường và xã hội.
Như đã nói ở trên, gia đình là nền tảng trong việc hình thành thói quen trong
hành vi, ngôn ngữ giao tiếp. Vì vậy,việc giáo dục kỹ năng giao tiếp trong nhà
trường sẽ không có hiệu quả nếu như ở gia đình các em không được sự quan tâm
chỉ bảo và động viên của bố mẹ. Những người thân trong gia đình phải là những
người chuẩn mực đầu tiên về kỹ năng giao tiếp. Nói như thế không có nghĩa là
các bậc cha mẹ phải luôn mẫu mực thì mới có thể dạy con, làm gương cho con

noi theo. Điều quan trọng là dạy các em từ những điều nhỏ nhặt hàng ngày, ví dụ
như: biết nói lời xin lỗi, nói lời cảm ơn; không cướp lời, nói leo khi người khác
nói; không tự tiện lấy và sử dụng đồ dùng của người khác… Chính trong những
hành động nhỏ này, nếu bố mẹ làm gương thì chắc chắn việc giáo dục kỹ năng
giao tiếp trong gia đình không phải là vấn đề khó, dù với phụ huynh ở nông thôn.
Kỹ năng giao tiếp là một trong những kỹ năng xã hội, chính vì thế không
thể thiếu vai trò giáo dục của cộng đồng trong việc hình thành kỹ năng giao tiếp
cho thiếu nhi. Các tổ chức xã hội cần quan tâm đến giáo dục toàn xã hội về văn
hoá giao tiếp bởi thiếu nhi chịu ảnh hưởng rất nhiều của hoàn cảnh sống, môi
trường sống đặc biệt là môi trường giao tiếp. Thực tế cho thấy, hàng ngày, ở đâu
đó các em vẫn bắt gặp những hành vi giao tiếp xấu và có thể làm các em hoang
mang, nhưng nếu chúng ta cùng các em phân tích cũng có thể cho các em đóng
vai trong hành vi giao tiếp đó để các em lựa chọn hành vi giao tiếp đúng hoặc

20


sai. Điều này cũng có tác dụng giáo dục rất tốt để các em hiểu rằng cuộc sống
đôi khi không phải chỉ có những điều tốt đẹp, điều quan trọng là chúng ta hướng
đến những điều tốt đẹp.
IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Tục ngữ Việt Nam có câu:
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Con người sáng tạo ra ngôn ngữ và nó trở thành phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất của xã hội loài người. Trong quá trình vận dụng, người ta luôn
có ý thức chú ý đến việc tổ chức lời nói sao cho đạt hiệu quả cao trong quá trình
giao tiếp. Ngay từ thuở xa xưa, khi chưa có các ngành khoa học về ngôn ngữ,
ông cha ta đã đúc kết những kinh nghiệm vận dụng lời ăn tiếng nói của mình
trong tục ngữ và những kinh nghiệm này vẫn còn nguyên giá trị.

Ngày nay, việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và giáo dục kỹ năng giao
tiếp nói riêng là một việc làm rất cần thiết đối với các em thiếu nhi. Qua nghiên
cứu tài liệu, học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp và áp dụng thực hiện đề
tài, bước đầu đã có những kết quả khả quan. Dù không thể thay đổi ngay thói
quen giao tiếp đã ăn sâu trong tiềm thức của các em nhưng trong thói quen đó đã
dần dần có những chuyển biến tích cực.
Kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng thực hành, chính vì vậy việc khuyến
khích, động viên các em luôn tích cực tham gia vào các hoạt động giao tiếp là
một việc làm cần thiết. Người phụ trách phải là người luôn tạo ra những điều
mới trong môi trường giao tiếp của các em, có như thế mới thu hút được sự quan
tâm, hứng thú cũng như phát huy hết sự sáng tạo của thiếu nhi trong giao tiếp.
Việc khuyến khích, động viên các em thiếu nhi trong quá trình tham gia giao tiếp

21


cũng rất cần thiết, nhất là với tâm lý nhút nhát, tự tin thì một lời khen đúng lúc sẽ
giúp các em có thêm tự tin với bản thân mình.
Để tạo ra một môi trường giao tiếp hiệu quả, tích cực cho các em thiếu nhi
cần sự chung tay phối hợp của gia đình và xã hội, có như thế việc giáo dục kỹ
năng giao tiếp cho thiếu nhi mới có sự thống nhất và đồng bộ. Hơn thế nữa, sự
quan tâm của gia đình và xã hội cũng chính là nhân tố quan trọng giúp thay đổi
thói quen giao tiếp trong thiếu nhi, đồng thời là sự động viên tích cực để cổ vũ
các em thiếu nhi có thêm sự tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp.
Trong quá trình nghiên cứư và thực hiện đề tài không tránh khỏi còn nhiều
sai sót, rất mong sự góp ý của các đồng chí cán bộ giáo viên trong nhà trường và
các đồng chí GV – TPT để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân
thành cảm ơn!
Phương Đình, ngày 15 tháng 5 năm 2012
Người thực hiện


Nguyễn Thị Yến Oanh

22


BỘ CÔNG CỤ KHẢO SÁT ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KỸ
NĂNG GIAO TIẾP VÀ MỘT SỐ TRÒ CHƠI GIÚP NÂNG CAO KHẢ
NĂNG GIAO TIẾP CHO THIẾU NHI TẠI LIÊN ĐỘI
TIỂU HỌC PHƯƠNG ĐÌNH B.
I. Phiếu trưng cầu ý kiến dành cho phụ huynh, cán bộ giáo viên và
thiếu nhi trong liên đội.
ĐỘI TNTP HỒ CHÍ MINH
LIÊN ĐỘI TIỂU HỌC PHƯƠNG ĐÌNH B

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Kính thưa quý phụ huynh!
Để góp phần nâng cao kỹ năng giao tiếp cho thiếu nhi của Liên đội, xin
quý phụ huynh đóng góp ý kiến cho một số câu hỏi dưới đây theo sự nhìn nhận
và quan điểm của quý phụ huynh. Xin chân thành cảm ơn!
Xin quý phụ huynh vui lòng cho biết đôi điều về bản thân:
- Họ tên:…………………………………………….
- Giới tính:……………
- Nghề nghiệp:……………………
- Trình độ học vấn:
Phổ thông
Cao đẳng

23



Đại học
Trên đại học

Câu 1: Nhận định của quý phụ huynh về các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng
giao tiếp của thiếu nhi ở Liên đội Tiểu học Phương Đình B.
CÁC YẾU TỐ

MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG
Nhiều
Bình thường
Ít

1. Sự giáo dục của gia đình.
2. Điều kiện sống ở khu dân cư.
3. Sự giáo dục trong nhà trường.
4. Bạn bè cùng trang lứa.
Câu 2: Đánh giá của quý phụ huynh về khả năng giao tiếp của con em mình.
CÁC NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ

MỨC ĐỘ ĐÁNH GIÁ
Cởi mở,
Bình
Rụt rè, ít
hoạt bát

thường

nói.


1. Giao tiếp với những người thân trong
gia đình.
2. Giao tiếp với người lớn tuổi.
3. Giao tiếp với các bạn cùng trang lứa.
4. Giao tiếp với các em nhỏ.
Câu 3: Nhận định của quý phụ huynh về các nguyên nhân của những tồn tại
và hạn chế trong giao tiếp của thiếu nhi tại liên đội Tiểu học Phương Đình
B.
NGUYÊN NHÂN

MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG
Nhiều
Bình thường
Ít

1. Do thiếu sự quan tâm từ phía gia đình.
2. Do các hình thức giáo dục về kỹ năng

24


sống trong nhà trường chưa thích hợp.
3. Thiếu sự đồng bộ trong việc phối hợp
các lực lượng giáo dục.
4. Ảnh hưởng từ điều kiện sống và các
hiện tượng tiêu cực xảy ra hàng ngày
trong xã hội.
5. Do các em chưa quan tâm đến việc rèn
kỹ năng giao tiếp cho bản thân.
6. Do bản tính rụt rè, nhút nhát của các

em
Câu 4: Quan điểm của quý phụ huynh về việc giáo dục kỹ năng giao tiếp
cho thiếu nhi.
a. Rất cần thiết.
b. Cần thiết.
c. Bình thường.
d. Ít cần thiết.
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác và giúp đỡ nhiệt tình của quý phụ huynh!

ĐỘI TNTP HỒ CHÍ MINH
LIÊN ĐỘI TIỂU HỌC PHƯƠNG ĐÌNH B

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
25


×