Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tổng quan dân tộc Hà Nhì (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 23 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ

MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Hà Nhì .................................................................................................. 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4

2.3.

Khai Thác Tự Nhiên ......................................................................................................... 4

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 5


2.5.

Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 6

Văn hóa truyền thống ............................................................................................................ 6
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 6

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 8

3.3.

Trang phục........................................................................................................................ 9

3.4.

Trang sức ........................................................................................................................ 11

3.5.

Ẩm thực .......................................................................................................................... 11

3.6.

Phương tiện vận chuyến ................................................................................................. 13

3.7.


Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 13

3.8.

Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 13

3.9.

Lễ Hội ............................................................................................................................. 17

3.10.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 18

3.11.

Sinh đẻ, nuôi dạy con ................................................................................................. 19

3.12.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 21

3.13.

Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 22

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

1.

Vài Nét Về Dân Tộc Hà Nhì
Dân số : 21.725 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc hệ ngôn ngữ hệ ngôn ngữ
Hán - Tạng, nhóm ngôn ngữ Tạng - Miên
Tên gọi khác: U Ní, Xá U Ní.
Nhóm địa phương: Hà Nhì, Cồ Chồ, Hà Nhì La
Mí, Hà Nhì đen
Địa bàn cư trú: Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên

Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hà Nhì ở Việt Nam có dân
số 21.725 người, cư trú tại 32 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Hà Nhì cư
trú tập trung tại các tỉnh: Lai Châu (13.752 người, chiếm 63,3% tổng số người Hà
Nhì tại Việt Nam), Lào Cai (4.026 người), Điện Biên (3.786 người)

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Cây lương thực chính của dân tộc Hà Nhì là cây lúa. Lúa có hai loại: lúa ruộng và
lúa nương. Trước đây người Hà Nhì ở tỉnh Lai Châu (các xã Mù Cả, Chúng Chải,
Kan Hồ, huyện Mường Tè) chủ yếu làm nương du canh và nương định canh,
nhưng hiện nay đồng bào đã khai phá được nhiều ruộng bậc thang, diện tích làm
nương đã giảm nhiều. Người Hà Nhì ở tỉnh Lai Châu (các xã Ca Lăng, Thu Lủm,
huyện Mường Tè) và ở tỉnh Lào Cai (huyện Bát Xát) vốn từ lâu đã làm ruộng bậc
thang. Đồng bào có nhiều kinh nghiệm khai hoang ruộng trên đồi núi, khơi
mương, đào phai, đắp đập.Họ chọn đất để khai phá thành ruộng không kể núi cao
hay thấp, miễn là những nơi đó có khả năng dẫn nước đến tưới cho ruộng.Đồng

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

bào khai phá ruộng vào mùa
mưa,

khoảng

tháng

năm,

tháng sáu âm lịch là mùa vỡ
hoang, lúc đó đất mềm, dễ
đào xới.Việc khai phá ruộng
được bắt đầu từ trên đỉnh núi,
dần

dần

làm

xuống

thấp.Trước tiên, phải phát cỏ,
đánh gốc cây lên bỏ đi, rồi
dùng cày, bừa, cuốc, cuốc
chim, thuổng tạo mặt bằng,

đắp bờ giữ nước.Gắn liền với
mỗi khu ruộng bậc thang là cả

Ruộng bậc thang của người Hà Nhi

một hệ thống thủy lợi gồm
các phai, đập, mương. Hệ thống mương được kiến thiết để có thể vừa dẫn nước
tưới, vừa
tháo nước tiêu khi cần thiết. Ruộng bậc thang của người Hà Nhì ở huyện Bát Xát,
tỉnh Lào Cai được chụp hình và nhiều lần đưa lên các phương tiện thông tin đại
chúng (TV, báo ảnh, tạp chí...). Những tấm ảnh ruộng bậc thang ở đây trông như
là một sản phẩm mỹ thuật tuyệt tác, do những người nông dân Hà Nhì “vẽ, khắc”
lên đồi núi, tô dáng đẹp tuyệt mỹ cho quê hương của người Hà Nhì.về kỹ thuật
sản xuất, người Hà Nhì chú ý sử dụng phân tro, chủ yếu là ph ân chuồng bón cho
lúa ruộng. Cách đưa phân chuồng ra ruộng cũng rất độc đáo. Do ruộng trên đồi
cao, khó gánh phân đến từng thửa ruộng, đồng bào làm chuồng trâu ở nơi gần đầu
nguồn nước, khi có nhu cầu bón phân cho ruộng, đồng bào hất phân chuồng
xuống mương nước, dòng chảy sẽ đưa phân tới từng thửa ruộng.
Ngoài làm ruộng, đồng bào còn làm nương trên các sườn đồi, núi. Trên nương
người Hà Nhì trồng các loại cây: ngô, khoai, sắn, khoai sọ, các loại rau, đậu đỗ,
bầu bí, ớt. Ngoài cây lương thực và thực phẩm, n gười Hà Nhì ở Lai Châu còn
trồng bông và trồng chàm để lấy nguyên liệu làm vải may mặc. Cây bông được
trồng vào khoảng tháng 4, tháng 5 và thu hoạch vào tháng 8, tháng 9. Theo kinh
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

nghiệm, đồng bào thường trồng bông trên nương đất khô, nhiều nắng.Bông được
trồng bằng cách vãi hạt.Sau khi gieo trồng, đồng bào chú ý khâu làm cỏ.Làm sạch

cỏ cho cây bông thì cây bông mới phát triển mạnh, mới cho bông tốt. Nếu như
gieo trồng và làm cỏ bông là công việc của cả nam, nữ thì thu hoạch bông lại là
công việc của riêng phụ nữ. Nghề trồng chàm và nhuộm chàm rất phổ biến ở
người Hà Nhì. Trồng chàm vào tháng 5, đến tháng 6 năm sau thì thu hoạch. Công
việc chăm sóc nương chàm cũng tương tự như chăm sóc nương bông. Khác với
trồng ngô và trồng bông, việc trồng chàm do phụ nữ đảm nhiệm từ khâu đầu đến
khâu cuối. Đến mùa thu hoạch chàm, cây chàm (cả cành và lá) được đem về ngâm
trong chum nước 3 ngày, 3 đêm. Sau đó vớt cành chàm lên, đổ nước vôi trong vào
chum chàm, dùng chày giã khoảng nửa tiếng cho lá chàm nát, rồi đậy lại . Sau 6-7
tiếng đồng hồ, khi chàm đã lắng xuống đáy thành cao chàm, người ta tháo hết
nước trong chum chàm ra, múc cao chàm vào túi vải treo lên, đến khi cao chàm
thành bột nhão thì cất đi. Khi cần nhuộm vải thì đem cao chàm ra sử dụng. Một
bộ phận nhỏ người Hà Nhì còn làm nương du canh và do đó sống du cư.
2.2. Chăn nuôi
Đồng bào Hà Nhì rất quan tâm đến
chăn nuôi gia súc, gia cầm.Đàn trâu
của người Hà Nhì rất phát triển, mỗi
gia đình nuôi hàng chục con trâu. Ở
bản Sín Thượng, huyện Mường Tè
(tỉnh Lai Châu) năm 1972 có 44 hộ
mà đàn trâu có tới 400 con. Người Hà
Nhì nuôi trâu chủ yếu phục vụ sức
kéo và lấy phân bón cho ruộng. Đồng
bào cũng nuôi nhiều lợn, gà... vừa
phục vụ nhu cầu cúng bái, vừa để ăn
thịt trong các dịp lễ tết, hội hè.
2.3. Khai Thác Tự Nhiên
Sống trong môi trường thiên nhiên núi cao rừng rậm, nhiều lâm sản, muông thú,
đồng bào Hà Nhì có ý thức tận dụng sự ưu đãi của thiên nhiên. Người Hà Nhì
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

hàng ngày đi làm ruộng, làm nương trên đường về nhà, thường tranh thủ thu hái
rau rừng, nấm hương, măng, mộc nhĩ, mật ong, hoa quả dại khác mang về ăn.
Đồng bào Hà Nhì còn khai thác nguồn lâm sản quý giá là sa nhân, thảo quả.
Những thứ này vừa để dùng, vừa để bán ở chợ.Rừng núi cũng là nơi có nhiều
muông thú.Người Hà Nhì thường tổ chức săn tập thể.Vũ khí săn là dao lớn, súng
kíp, nỏ, còn dùng cả chó săn. Theo tập quán, khi hạ thủ được con mồi, người ta
thường dành đầu hoặc một đùi con mồi cho người có công hạ thủ nó. Phần còn lại
chia đều cho tất cả mọi người cùng đi săn.Ngoài săn tập thể, đồng bào còn có
hình thức bẫy.Các loại bẫy như bẫy sập, bẫy hố được đồng bào triển khai sử dụng
phổ biến. Khi đặt bẫy, phải thông tin cho dân làng biết để tránh việc người bị
vướng vào bẫy. Người Hà Nhì thường bắt cá vào tháng 2 - 3 là lúc nông nhàn,
đồng thời cũng là mùa nước cạn. Có một số hình thức bắt cá như: câu, mò tay,
quăng chài hoặc ruốc bằng lá cây rừng độc.
2.4. Ngành nghề thủ công
Ở người Hà Nhì, nghề thủ công
khá phát triển, có các nghề: dệt,
nhuộm chàm, đan lát, mộc, rèn.
Phần lớn đồng bào Hà Nhì tự
túc vải mặc từ khâu trồng bông
dệt vải đến nhuộm vải, cắt may
thành quần áo. Duy chỉ có người
Hà Nhì ở Lào Cai, do sống trên
núi cao, khí hậu lạnh, không
trồng được bông, nhưng trồng
được chàm. Do đó người Hà Nhì
ở đây thường đem các sản phẩm


Nghề dệt của người Hà Nhi

chàm, đồ đan và gia cầm đổi cho người Giáy, người Dao lấy bông. Ở Lai Châu,
đồng bào Hà Nhì dảnh những nương tốt để trồng bông vải. Chị em phụ nữ dệt vải
trên khung cửi nhỏ, dệt được khô vải nhỏ, thường chỉ rộng khoảng 20cm. Nhuộm
chàm là khâu quan trọng trong quá trình làm ra bộ y phục. Công việc nhuộm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

chàm tương như đơn giản, nhưng thực chất lại khá phức tạp. Khâu quan trọng là
sau khi cho nước gio trong hòa vào cao chàm và một chút rượu cho vừa phải, sau
đó phải chờ khoảng 1 - 2 ngày sau cho nước gio - cao chàm chuyển hóa thành
thuốc nhuộm thì mới nhuộm được, chất chàm mới bám vào vải. Nhuộm nhiều lần
vải mới lên màu theo yêu cầu. Nhuộm chàm cũng là công việc chỉ chị em phụ nữ
làm.Đan lát là công việc của nam giới. Họ tự làm ra các vật dụng cần thiết cho
gia đình như rổ, rá, địu, mâm, ghế; phụ nữ Hà Nhì rất khéo tay đan những chiếc
nón bằng nan giang với nghệ thuật tạo hoa văn độc đáo trong vùng. Nghề mộc của
người Hà Nhì làm nhà ở, làm cày, bừa, thùng đập lúa... Người Hà Nhì có các lò
rèn chuyên sản xuất lưỡi cày, lưỡi cuốc, liềm, dao.Mỗi lò rèn thường chỉ có một
thợ cả, không có thợ phụ giúp việc.Tuy nhiên khi có khách hàng, thì khách hàng
lại trở thành thợ giúp việc cho thợ cả, làm các việc k éo bễ, quai búa. Nhìn chung
nghề thủ công cuủa người Hà Nhì cũng như nhiều dân tộc khác ở nước ta chưa
tách khỏi nông nghiệp, hoạt động của nghề thủ công cũng theo mùa như nghề
nông - mùa nông nhàn.
2.5. Trao đỏ i, mua bán
Người Hà Nhì ở tỉnh Lào Cai, có điều kiện thuận lợi hơn so với người Hà Nhì ở
tỉnh Lai Châu trong hoạt động trao đổi buôn bán. Tại khu vực Y Tý các xã Y Tý,

A Lù và Ngài Thầu, có chợ họp vào ngày chủ nhật.Người Hà Nhì đến c hợ bán gia
cầm, cao chàm, một số đồ mây tre đan. Họ mua kim khâu, muối, dầu thắp...

3. Văn hóa truyền thống
3.1. Làng

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

Làng của người Hà Nhì có
nhiều dạng cố kết khác nhau,
chủ yếu phụ thuộc vào việc
canh tác sản xuất của từng nơi
cụ thể. Đồng bào Hà Nhì có hai
loại bản: bản của cư dân làm ăn
du canh, dư cư và bản của cư
dân làm ruộng nước. Người Hà
Nhì làm ăn theo nương rẫy kiểu
du canh, du cư thì làng không ổn định, ở phân tán theo nương rẫy, trên không
gian rộng. Mỗi bản có vài chòm xóm, mỗi chòm xóm có vài ba nóc nhà, các chòm
xóm cách nhau khá xa.Những cư dân làm ruộng bậc thang, làm nương định cư thì
lập bản ổn định. Nhiều bản đã định cư hàng trăm năm, mỗi bản có vài chục hộ gia
đình, với vài thế hệ cùng chung sống như bản Mù Cả, bản Lao Chải, bản Xín
Chải. Mỗi bản có một phạm vi đất đai nhất định. Ranh giới làng được quy ước
miệng với nhau, chứ không có văn bản.Tuy hiện mọi thành viên trong bản đều
được biết. Trong phạm vi bản cũng có đất công và đất tư. Đất công chính là đất
rừng, dòng sông, suối thuộc phạm vi bản chưa được khai phá thành ruộng, nương
riêng của gia đình nào. Đất công là quỹ đất dự trữ của bản, dà nh cho sự phát triển

bản về con người (lập hộ gia đình mới) và về sản xuất (khai khẩn ruộng nương
mới).Đồng bào Hà Nhì có nhiều dòng họ. Ở Lào Cai thường có các họ Ly, sần,
Có (Cáo), Phà, Phu, Chu; còn ở Lai Châu thường gặp các họ như: Ly, Bờ, Vù,
Toán. Phải chăng do có nguồn gốc từ Trung Quốc di cư đến Việt Nam, cho nên
họ của người Hà Nhì là những tên bằng âm Hán và cư trú ở Việt Nam cũng đã lâu
đời nên có họ của người Thái (họ Lò). Có cả họ của người Nùng (họ Nùng), có cả
họ của người Mông (họ Vàng, Giàng, Thào). Mỗi họ chia thành nhiều chi. Ở xã Y
Tý (tỉnh Lào Cai), các họ sần, Cáo, Phu... đều chia thành hai chi; họ Ly chia
thành 4 chi. Mỗi chi thường lấy tên ông tổ của chi làm tên họ. Họ Ly có các chi:
Lò Ly Đo Xá, Lò Ly Mẻ Xe, Lò Ly Dú Xí, Lò Ly Dé Phe. Việc lấy tên ông tổ chi
làm tên họ của người Hà Nhì phải chăng là tàn dư cuối cùng của phong tục “phụ
tử liên danh chi”, tức là tục lấy tên của bố làm họ của con của dân tộc này... Ở
nước ta hiện tượng “phụ tử liên danh chi” đã từng tồn tại trong dân tộc Kinh ở
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

Sơn Tây (Hà Nội) và ở tỉnh Hưng Yên, mà nhiều năm trước đây thông tin đại
chúng có nói đến, vì nó không gây khó khăn cho việc xác định tính huyết thống
của một số cá nhân lấy tên họ theo phong tục này. “Phụ tử liên danh chi” là tập
quán của người Hà Nhì sinh sống ở Trung Quốc, Myanma.
Dân tộc Hà Nhì có lễ chung của dòng họ gọi là lễ Chự cư. Theo tiếng Hà Nhì, chự
là tổ (tổ tiên), cư là nói (kể).Chự cư là kể về tổ tiên của dòng họ mình.Hàng nă m
vào tối 30 tết, cả gia đình ngồi quây quần bên bếp lửa, nghe người già kể về lịch
sử sinh ra con người, tổ tiên và dòng họ của mình.Khởi đầu của lễ Chự cư là kể
về dòng họ. Người già đọc tên từng tổ tiên, các con trai, cháu trai đều đọc theo.
Phụ nữ ngồi nghe, không được đọc.Có nhiều tổ tiên, có họ đọc đến mấy chục đời
tổ tiên. Họ Ly ở xã Y Tý (tỉnh Lào Cai), trong buổi lễ Chự cư, sau khi kể sự hình
thành con người là Ô Ma, Ma Hồ, trải qua 42 đời nữa mới đến đời Ly Ngô. Từ

đời Ly Ngô bắt đầu tách thành từng họ riêng như Ly, Tráng, Phà. Nếu tính họ Ly
bắt đầu từ đây cho đến thể hệ những người họ Ly trên 60 tuổi hiện nay, thì dòng
họ này đã trải qua tất cả 29 đời. Để dễ đọc, dễ nhớ, người Hà Nhì đặt tên theo
nguyên tắc, tên cha là tên đệm của con. Bằng cách làm lễ Chự Cư - kể chuyện tổ
tiên như vậy, những người cùng tên họ với nhau, dù sống xa nhau, không quen
biết nhau cũng dễ dàng tìm ra mối quan hệ họ hàng của mình.
Đồng bào Hà Nhì ở Mường Tè (tỉnh Lai Châu) còn Chự cư vào dịp tang lễ. Sau
khi liệm thi hài vào quan tài xong, con trai của người quá cố hay ngư ời chủ tang
lễ đọc lại gia phả dòng họ, kể từ đời bố mẹ trở lên để đưa hồn người chết về với
tổ tiên. Phải Chự cư ba lần.
3.2. Nhà ở
Nhà ở của người Hà Nhì là nhà đất, trình tường, tường dày 30 - 40cm, phù hợp
với khí hậu lạnh ở trên núi cao. Nhà ở vùng Y Tý, A Lù (Lào Cai) có đặc điểm là
tường cao 3 - 4m, mái lợp cỏ gianh rất dày, dốc, ngắn, ở vùng này nhà không có
hiên và chỉ có một cửa ra vào. Vào bên trong nhà còn có một lần tường đất
nữa.Tường bên trong nhà có tác dụng phòng thủ

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

và chống rét, chống sương, mây
mù lùa vào nhà. Lớp tường ngoài
và lớp tường trong cách nhau
chừng l,50m, tạo nên khoảng
trống gọi là hiên trong. Ở bức
tường thứ hai mở một hoặc hai
cửa để vào trong nhà. Bố trí bên
trong nhà ở của người Hà Nhì

như sau: hai gian ở hai đầu hồi được
ngăn thành buồng ngủ của chủ nhà và

Nhà đất tường trình

vợ chồng con trai. Khoảng 1/3 chiều rộng của hai gian giữa là phần đất, là nơi đặt
bếp lò nấu cơm, nấu cám lợn, đặt chạn bát; phần còn lại dựng thành sàn, là nơi
đặt bàn thờ tổ tiên, nơi ngủ của con cái, khách. Trên sàn có bếp lửa để sưởi.
Nhà ở của người Hà Nhì ở Mường Tè cơ bản cũng được cấu trúc như nhà ở của
người Hà Nhì ở Y Tý, A Lù (Lào Cai), tuy nhiên có một số tiểu tiết khác nhau:
tường và mái thấp hơn, nhà có hàng hiên phía trước, tường trong lát ván hay liếp
(riêng xã Ka Lăng, Thu Lủm cũng tường là đất), chia nhà theo chiều dọc thành
hai nửa bằng nhau (hoặc nửa ngoài nhỏ hơn một chút). Nửa ngoài là nơi tiếp
khách, có bếp sưởi và cối giã
gạo.Nửa bên trong không có sàn,
được ngăn thành từng buồng riêng
và có bếp lò để nấu cơm và nấu cám
lợn.Thời gian gần đây, một số gia
đình làm nhà sàn để ở.
3.3. Trang phục
Dân tộc Hà Nhì dùng vải bông dệt
tho, nhuộm chàm để làm trang phục.
Họ chỉ có trang phục chung, không
có lễ phục, không có trang phục
thầy cúng. Do cư trú ở hai vùng
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần


miền có sự khác nhau về môi trường tự nhiên, trang phục của người Hà Nhì cư trú
ở Lai Châu và người Hà Nhì cư trú ở Lào Cai có nét khác nhau.
Đáng chú ý là trang phục của phụ nữ.Người Hà Nhì ở Lai Châu tự sản xuất bông,
tự dệt vải, rồi tự làm ra trang phục cho mình.Trang phục nữ có màu sắc sặc sỡ.
Phụ nữ Hà Nhì thường mặc hai áo: áo trong có tay áo và thân áo đều dài, còn áo
ngoài thì tay ngắn. Áo ngoài của người Hà Nhì nhiều khi không xẻ ở ngực mà cài
cúc dưới nách bên phải.Áo phụ nữ Hà Nhì thường chỉ trang trí bằng cách đính
những đồng xu, khuy bạc hình bán cầu, nhiều dải hạt cườm trên nửa bên phải thân
trước của áo. Ở Lào Cai, do khí hậu nơi đồng bào Hà Nhì cư trú lạnh, không
trồng được bông đê làm quân áo, họ thường ra chợ mua vải của người Giáy,
người Dao về làm quần áo, cho nên nhìn chung quần áo của họ giản dị hơn người
Hà Nhì ở Lai Châu. Trên trang phục không có trang trí hoa văn, mà chỉ là một
màu chàm duy nhất, về kiểu dáng, áo phụ nữ Hà Nhì ở Lào Cai chỉ dài đến đầu
gối, gấu to, hơi nhô ra ở phần giữa. Phụ nữ Hà Nhì mặc quần chân què, cạp lá toạ,
ống rộng, gấu to.Trên quần không trang trí hoa văn.Ngoài quần, áo, phụ nữ Hà
Nhì còn mặc yếm và xà cạp.Theo các nhà nghiên cứu, việc mặc xà cạp của người
Hà Nhì chỉ thấy khi làm lễ thượng thọ.Phụ nữ Hà Nhì để tóc dài, quấn quanh đầu,
hoặc tết tóc rồi quấn quanh đầu.Phụ nữ Hà Nhì có nhiều loại khăn đội đầu.Thiếu
nữ đội khăn dài, màu trắng, đính nhiều đồng bạc, Nôm, hạt cườm.Chị em có
chồng đội khăn màu chàm.
Ngoài ra phụ nữ còn đội chiếc khăn - mũ hình trụ và loại khăn vuông chàm có tua
rua chỉ màu bốn cạnh, đính hạt cườm, có hoa văn thêu ở giữa khăn. Con trai, con
gái Hà Nhì trước đây thường nhuộm răng đỏ
(bằng cánh kiến đỏ) để cho thêm đẹp, thêm
duyên.
Nam giới Hà Nhì mặc loại quần chân què, ống
rộng hơn 30cm, dài khoảng 75 - 80cm, cạp lá
tọa, to bản (rộng 7- 8cm), cũng màu chàm.
Nam giới Hà Nhì có hai loại áo truyền thống.
Phổ biến nhất là áo 5 thân, tay áo dài, cài cúc

dưới nách bên phải, ống tay áo may nối bởi
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

hai đoạn ở trên và dưới cùi tay, tay áo chật, gấu tay áo rộng 3 - 5cm, cô áo cao
2cm. Loại áo này có vạt trong và vạt ngoài. Vạt trong dài, có túi nhỏ, không nắp
túi.Cúc áo làm bằng vải tết. Loại áo nảy được sử dụng phổ biến ở người Hà Nhì
sinh sống ở tỉnh Lào Cai. Loại áo thứ hai cũng khá phố biến là áo xẻ ngực. Loại
áo này may chật, bó lấy thân người, cố áo cao 2 - 3cm, ống tay áo rộng 15 16cm. Áo dài ngang mông hoặc trùm kín mông. Đàn ông Hà Nhì thường đội chiếc
khăn dài (4m X 20cm), nhuộm chàm đen.Khi đội lấy khăn qu ấn thành nhiều vòng
trên đầu rồi giắt mối ra sau gáy.
3.4. Trang sức
Nhìn vào trang phục của người Hà Nhì có vẻ đồ sộ và khá sặc sở nhưng đặc biệt
thay trang sức lại không đóng góp nhiều để tạo nên vẻ đẹo ấy, người Hà Nhì chỉ
dung trang sức đơn gian như khuyên tai và vòng tay,… nhưng chủ yếu chỉ dùng
trong các dịp lễ hội là chính
3.5. Ẩm thực
Hoạt động kinh tế truyền
thống quy định ẩm thực
truyền thống của đồng bào.
Do cuộc sống định cư, có
làm vườn, chăn nuôi tương
đối phát triển, cho nên âm
thực của người Hà Nhì có
phần khá hơn các dân tộc
trong cùng nhóm ngôn ngữ
sinh


sống



Tây

Bắc.

Người Hà Nhì quen dùng
Gói bánh cho lễ Tết (Ảnh sưu tầm)

cả cơm nếp lẫn cơm tẻ trong
bữa ăn hàng ngày. Đồng bào

không nấu cơm bằng nồi như các dân tộc khác, mà quen nấu cơm bằng chảo trên
bếp lò.Người Hà Nhì đem gạo vào chảo luộc sắp chín, rồi đổ ra đưa vào chõ đồ
tiếp cho đến chín.Cơm tẻ đồ không bị nát, tiện cho việc gó i đi nương.Bếp lò được
xây trên mặt đất ngay trong nhà ở. Bữa cơm của đồng bào có cơm, rau xanh, thỉnh
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

thoảng có thịt, cá. Rau xanh và thịt cá dùng trong bữa ăn hàng ngày chủ yếu là do
hái lượm, săn bắt được. Những gia súc gia cầm chăn nuôi trong gia đình cũng
được sử dụng làm thức ăn, nhưng thường là kết hợp với các lễ nghi cúng bái, lễ
tiết, hoặc các dịp tiếp khách quý (khách thông gia), cưới xin, sinh đẻ, tang ma.
Trong cách chế biến thức ăn, người Hà Nhì hay xào rau bằng mỡ lợn, nướng thịt,
nấu cháo với thịt gà hoặc thịt lợn. Vào dịp lễ tết, ngoài việc sử dụng nhiều thức
ăn từ thịt, đồng bào còn làm nhiều loại bánh từ gạo tẻ và gạo nếp.


N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

3.6. Phương tiện vận chuyến
Sinh sống ở vùng núi cao, các dân tộc đều dùng chiếc
gùi đeo qua vai.Đồng bào Hà Nhì cũng dùng gùi đeo
làm phương tiện vận chuyển, nhưng họ không đeo
qua vai mà thường đeo qua trán.Một số nơi đồng bào
dùng ngựa thồ hàng. Ngựa thồ cũng là đặc điểm vận
chuyển ở vùng núi cao, bởi vì đất dốc không thể dùng
xe kéo.
Chiếc gùi (Ảnh minh họa)
3.7. Ngôn ngữ
Tiếng nói của người Hà Nhì thuộc nhóm ngôn ngữ
Tạng - Miến (yếu tố Miến trội hơn yếu tố Tạng), hệ
ngôn ngữ Hán - Tạng. Đây là ngôn ngữ phổ biến ở
vùng Tây
Nam Trung Quốc, vùng biên giới của các nước láng
giềng có đường biên với Tây Nam Trung Quốc.
Dân tộc Hà Nhì chưa có chữ viết riêng của mình.
Trong lịch sử, họ sử dụng chữ Hán (chữ Nho) để
ghi chép sách cúng, gia phả, khai sinh của con
cháu... Chữ Hán là chữ tượng hình, khó viết, khó
nhớ, cho nên chỉ một số thầy cúng và một số rất ít
người biết và sử dụng chữ Hán.Đại đa số người Hà
Nhì không biết chữ Hán.


Người Hà Nhì dung chữ
Hán để ghi chép

3.8. Tín ngưỡng tôn giáo
Dân tộc Hà Nhì tin theo quan niệm vạn vật hữu linh, nhưng không phải mọi vật
đều có linh hồn (hlá hay thả) mà chỉ con người và vật sống, có khả năng sinh
trưởng và phát triển và quan hệ gần gũi với con người (lúa, ngô, gia súc, thú
rừng...) mới có linh hồn. Người Hà Nhì quan niệm, mọi vật sống, trừ con người,
đều chỉ có một linh hồn.
Đồng bào tin rằng, cuộc sống của mọi người đều phụ thuộc vào những thế lực
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

siêu nhiên.Trời là một thể giới riêng, ở đó có ông trời (Mo mí) là người quyết
định hết thảy mọi việc trên thế gian.Mô mí cùng với mẹ Thò Po (Thò Po amạ)
phân định ngành nghề cho mọi người. Do đó, hàng năm vào ngày mồng 1 tết, các
gia đình đều cúng mo mí. Lễ vật cúng là một con gà, nếu không có gà thì cúng
bằng một bát nước. Đồng bào cũng quan niệm mẹ Thò Po ở trên trời là người
trông nom đường sinh tử.Mẹ Thò Po khác phụ nữ khác ở chỗ, mẹ có 6 vú ở trước
ngực cho người bú và 7 vú ờ sau lưng cho ma bú. Mẹ chia con cho ai thì người đó
mới có con. Con người sinh ra được sống lâu hay chết non đều do mẹ Thò Po
định đoạt; còn con người sống khỏe mạnh hay ốm đau lại hoàn toàn tùy thuộc vào
trạng thái của các hồn.
Với con người, người Hà Nhì quan niệm mỗi người có 12 hồn và các hồn đều có
vai trò, vị trí ngang nhau, chứ không có hồn chính, hồn phụ. Các hồn đều yếu
đuối, bất lực, thường sợ hãi, dễ bị động, bị hại. Trong khi đó, các ma lại khỏe
mạnh, hay gây sự và bắt các hồn của người. Vì vậy, người Hà Nhì luôn quan tâm
chăm sóc, bảo vệ các hồn của trẻ em, người lớn và người già.Khi hồn bị lạc, bị

ma bắt... thì người bị ốm đau, người ta phải mời thầy cúng l àm lễ gọi hồn chữa
bệnh.Khi người chết, hồn biến thành ma.Ma của người chết trở thành tổ tiên, là
đối tượng thờ cúng tổ tiên của đồng bào Hà Nhì.
Xuất phát từ quan niệm, mọi
vật sống đều chỉ có một linh
hồn. Do đó, để tiếp sức cho
cây trồng sinh trưởng và
phát triển mạnh, đồng bào
phải làm một số lễ thức, tác
động đến linh hồn của cây
trồng, nhằm đảm bảo cho
cây trồng phát triển mạnh
mẽ cho vụ mùa đạt hiệu quả
cao. Đồng bào làm lễ gieo nương

Giết trâu để tế thần Rừng

tượng trưng trước khi gieo nương
chính.Để làm lễ này, từng gia đình chuẩn bị một khoảng đất nhỏ (khoảng lm2 gần
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

lều nương chính).Tại đó, họ trồng một gốc gừng, một gốc hẹ với mong muôn cây
lúa sẽ mọc nhanh như cây hẹ, mọc khỏe như cây gừng.Người ta còn kê bên cạnh
gốc hẹ một hòn đá cho hồn lúa trú ngụ.Trong quá trình phát triển cây lúa, khi lúa
trổ bông, đồng bào làm lễ cúng trên nương, cầu mong cây lúa phát triển tốt và
không bị muông thú phá hoại. Lễ vật cúng là một con lợn hoặc gà. Cũng dịp này
đồng bào còn cúng thần sét (xá trụ thẻ) đế cầu xin sét đừng đánh cháy lúa trên

nương. Mùa mưa bão đã đến, nhưng lúa chưa được gặt, đồng bào Hà Nhì còn
cúng ma gió (ùng nế nẹ khă), cầu cho cây lúa không bị đổ, không bị l ép hạt. Lúa
chín, mùa gặt đến, người Hà Nhì đón mùa lúa mới bằng lễ cơm mới.
Lễ cơm mới (xế xự hứ) được tổ chức một cách trọng thể.Mỗi gia đình cử một
người, nam hoặc nữ đều được, lên nương ngắt ba hoặc sáu bông lúa và một gốc
gừng (gừng trồng khi gieo nương tượng trưng), bắt hai con châu chấu đem về
cúng tổ tiên. Người lên nương hái lúa gọi hồn lúa về theo những bông lúa đó. về
đến đầu làng, người ta chặt một cành cây cắm xuống đất, trên cành cây chặt vát
ba nhát dao. Một con châu chấu bị gói trong lá được nhét vào nhát dao giữa, hai
nhát kia được nhét lá. Một con châu chấu khác được thả ra sau khi bị bẻ răng. Khi
làm việc đó, họ khấn “ba tháng châu chấu không ăn lúa của ta, thì ba ngày ta
không bắt mày nữa”. Ba ngày sau đó người ta không bắt châu chấu, vớ i hy vọng
là chúng không phá hại lúa.Buổi tối, cả gia đình nấu cơm cúng tổ tiên và treo
những bông lúa mới lên cột thờ.Ý nghĩa của việc làm này là để cảm ơn hồn lúa và
cầu mong châu chấu đừng đến phá hoại mùa màng.Trong lễ cơm mới, người Hà
Nhì lấy gạo cũ trộn lẫn gạo mới làm bánh giầy cúng tổ tiên.Đặc biệt khi làm bánh
giầy cúng cơm mới, người Hà Nhì lấy gạo mới và gạo cũ cùng con châu chấu làm
bánh giầy cúng tố tiên.
Mở đầu vụ gặt lúa, người Hà Nhì ở Lai Châu tổ chức lễ xé dò do. Chọn một ngày
tốt, chủ nhà, nam hoặc nữ, đem một nắm cơm nếp, một quả trứng lên nương khấn
hồn lúa ở đám nương nhỏ gieo hôm đầu tiên, khấn hòn đá chủ nương, cầu mong
gặt nhanh, thu hoạch được nhiều thuận lợi. Cúng khấn xong, chủ nhà gặt ba bông
lúa đặt cạnh hòn đá chủ nương.Sau đó gia đình mới được gặt lúa. Vào cuối vụ
gặt, người Hà Nhì ở Lai Châu cũng như người La Hủ có tục lệ làm lễ thu hồn lúa.
Họ lấy mấy bông lúa, có quyện cơm và trứng, tết lại thành dây đem cất trên đỉnh
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần


đống thóc trong nhà kho.Đồng bào có tục làm kho thóc ở trên nương.Tất cả thóc
gặt được không đem về nhà cất giữ mà để ở nhà kho. Mồi lần cần mở kho lẩy thóc
lại phải cúng kho (ký lòng khụ) - cúng rồng coi kho.
Người Hà Nhì làm ruộng nước, ngoài những lễ nghi như làm nương, còn phải làm
lễ cúng mương nước (ló gá hlẹ) để mong thần linh phù hộ có nhiều nước, nước
chảy đều, mương không bị vỡ.Lễ cúng thực hiện ở cuối mương.Có bao nhiêu
mương thì bấy nhiêu lần cúng. Lễ vật cúng mương nước gồm có: một đôi gà, một
quả trứng, bát gạo, bát nước, một ít tiền và vải. Mươn g dẫn nước là mương chung
cho cả làng, cho nên, lễ vật cúng do dân làng đóng góp.
Ngoài các lễ nghi liên quan đến sản xuất nông nghiệp, người Hà Nhì còn có lễ
nghi liên quan đến đất ở - đất dựng làng.Lễ cúng bản (gà ma) thường được tổ
chức trong hai ngày. Ngày thứ nhất, dân làng cúng bản (gà ma) và cúng (hàn đất
(thu tỉ) ở gốc cây cao trên bản - nơi có hòn đá tượng trưng cho thần đất. Có nơi
(xã Sín Thầu, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu), quan niệm thần đất là một đôi vợ
chồng, cho nên có hai hòn đá tượng trưng.Ngày thứ hai dân làng làm cá tu tu, tức
là làm công ở mọi ngả đường vào bản để ngăn ma vào bản.cổng gồm hai cây cột
trồng xuống hai bên đường, dùng một sợi dây bện rơm hay cỏ gianh. Người ta
cắm những con dao nhọn bằng gỗ vào đó. Trên hai cột, người ta buộc những con
dao nhọn, giáo, súng, cung, nỏ... hướng ra phía ngoài làng. Dưới hai chân cột là
hai cái sọt đựng đất - tượng trưng cho lúa và đá - tượng trưng cho ngô.Bên cạnh
là các hình dương vật của người và chó được đẽo bằng gỗ tượng trưng cho sự
phồn thực. Vật hiến sinh là một con chó. Người ta làm lễ hiến sinh chó ở ngay
dưới chân cột cổng của con đường chính dẫn vào làng. Tại cổng ở các ngả đường
khác, người ta đem đuôi chó, chân chó hoặc cả bộ lông treo lên.Tham gia lễ cúng
là người đàn ông đại diện cho các gia đình trong làng. Sau cúng, mọi người cùng
ăn uống ngay tại nơi làm lễ - cổng làng. Theo phong tục, khi thực hiện lễ này, cả
làng thực hiện kiêng cấm trong ba ngày: nghỉ sản xuất (được đánh cá và săn bắt);
không được mang rau xanh hay củi vào bản; người lạ không được vào làng.
Người Hà Nhì ở tỉnh Lào Cai giỏi làm ruộng nước bậc thang. Làm ruộng nước thì
phải có nước cho cây lúa.Rừng là nơi đầu nguồn của nước cho ruộng. Thấu hiểu

điều đó, đồng bào tổ chức lễ cúng rừng hàng năm vào tháng 6 - mùa cấy lúa - tại
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

khu rừng cấm của làng. Trong rừng cấm có một phiến đá hình vuông mỗi cạnh
khoảng 2m, cao khoảng 1 m, đã được tôn tạo cho đẹp để làm bàn thờ thần trong
dịp lễ. Các cụ kể lại rằng, từ ngàn xưa, khu rừng cấm đã được lưu giữ ở một địa
điểm đầu nguồn nước, có nhiều cây gỗ quý sống lâu năm.Làng nghiêm cấm không
ai được vào chặt phá cây cối trong rừng này. Nếu ai vi phạm sẽ bị thần rừng, chúa
đất trừng phạt, người ốm đau, chăn nuôi lụn bại. Dân làng, một mặt sợ ma quỷ,
thần linh, mặt khác sợ dân làng lên án, cho nên không ai dám vào rừng cấm chặt
cây hoặc thu hái lâm thổ sản.
3.9. Lễ Hội
Lễ hội được tổ chức ở hai nơi: ở
trong nhà và ở ngoài rừng cấm, để
cúng thần gió, thần đất. Tổ chức ở tại
nhà, lễ vật phải do người vợ chế
biến. Nểu vợ đi vắng phải do con gái
cả làm, nếu con gái cả đi lấy chồng
thì cũng phải về để giúp gia đình. Lễ
hội còn tổ chức tại một khu rừng
cấm, ba ngày.Ngày đầu chọn ngày
Thìn (tháng 6), cúng ở ga khẽ la cóc

Nhảy múa trong lễ hội (Ảnh minh họa)

(rừng cấm) vào ban đêm. Tổ chức
vào ban đêm để thần mưa, thần gió yên tĩnh nghỉ ngơi, để xoi xét mọi việc được

công tâm, để dân làng ai cũng gặp may mắn. Ngày thứ hai là ngày Tỵ coòng nai
nha, ngày vui của dân bản, nam, nữ rủ nhau vào rừng du na, mỗi người lấy 6 cành
củi nhỏ
về nộp cho lễ hội. Ngày thứ ba là ngày Ngọ, tất cả dân làng tập trung ở ga khe la
cóc để người cao tuổi nhất cắt da trâu chia cho từng gia đình. Nếu già làng cắt
chia đủ cho mỗi gia đình hai chiếc thì năm đó làm ăn không thuận lợi, Nhưng nếu
già làng cắt da trâu ra, chia đủ cho số dân trong làng mà lẻ một chiếc thì năm đó
dân làng làm ăn gập rất nhiều may mắn, lúa, ngô đầy nhà, trâu, bò, gia súc đầy
chuồng, đầy sân, trai gái lấy nhau cũng nhiều hơn.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

3.10.

Tục lệ cưới xin

Người Hà Nhì thực hiện hôn nhân
ngoại hôn dòng tộc. Phong tục không
cho phép hôn nhân con chú với con
bác, con cô với con cậu, con dì với
con già. Các tục “sôrôrát” và “levirát”
bị ngăn cấm. Ở Bát Xát, người cùng
Chự cư (cùng một chi họ) dù cách xa
nhau bao nhiêu đời cũng không được
lấy nhau, nhưng ở Mườne Tè thì
người cùng họ, nhưng cách nhau 7 đời
có thể lấy nhau được. Người Hà Nhì


Cô dâu Hà Nhì trong lễ cưới

thực hiện hôn nhân một vợ, một chồng bền vững.
Người Hà Nhì có hai hình thức cưới: do bố mẹ đi hỏi và cưới không qua lễ hỏi.
Cưới do bố mẹ đi hỏi: thanh niên Hà Nhì được tự do yêu đương, tìm hiểu nhau
trước khi cưới. Sau khi trai gái tìm hiểu nhau, nhất trí làm lễ cưới, chàng trai nói
với bố mẹ ý định của mình và xin bố mẹ lo liệu lễ cưới.Tùy từng vùng, tục lệ
cưới xin có một số chi tiết khác nhau.Ở Bát Xát, lễ dạm hỏi gồm ba bước. Bước
1, người mổi ịdíe khă) mang một chai rượu, quả trứng và hai gói cơm nếp sang
nhà gái nói chuyện cưới xin. Bước 2, ông mổi mang thêm một đồng bạc trắng
biếu cho cô dâu tương lai. Bước 3, ông mối sang xin nhà gái định ngày cưới.
Cưới được tổ chức hai lần cho mỗi đôi vợ chồng: Cưới lần thứ nhất, người con
trai rủ vài người bạn đến nhà người yêu hay một nơi nào đó đã thỏa th uận sẵn.
Khi gặp nhau, người con gái trả lại cho người con trai đồng bạc trắng, mà ông
mối đã đưa cho khi dạm hỏi bước 2.Họ đưa nhau về nhà trai chào bổ mẹ và cúng
tổ tiên.Hôm đó nhà trai cũng như nhà gái đều làm bữa cơm thân mật mời bà con
họ hàng, làng xóm để mừng hạnh phúc của con cái.Từ sau ngày cưới này, cô dâu
ở lại hẳn bên nhà chồng. Sáng hôm sau, nhà trai sang nhà gái để hỏi về đồ thách
cưới trong cưới lần thứ hai. Lễ vật nhà trai mang theo sang nhà gái là một chai
rượu, cơm nếp và một quả trứng. Cưới lần thứ hai: Trước đây lễ cưới lần thứ hai
rất tốn kém, cho nên người Hà Nhì chỉ tổ chức cưới lần thứ hai khi gia đình làm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

ăn khá giả. Trường hợp làm ăn khó khăn, nhiều gia đình, 50 - 60 năm sau, khi đã
có con, có cháu, mới tổ chức lễ cưới lần thứ hai. Cá biệt có người đến chết rồi mà
vẫn chưa cưới xong lần thứ hai.Với trường hợp như vậy, tục lệ đã có cách xử lý.

Trước khi làm ma, người ta tiến hành lễ cưới tượng trưng với lễ vật là một con gà
và ba gói xôi. Ở Tây Bắc, lễ cưới được tổ chức đơn giản hơn. Hai người mối và
có khi cả người con trai nữa mang một chai rượu, ít đậu tương rang đến nhà gái
xin cho người con trai đến làm rể. Nếu đồng ý, bố mẹ cô gái cùng ngồi uống
rượu, ăn đậu tương rang. Sau nghi lễ này, người con trai có thể ở lại nhà người
con gái. Nếu không ở rể, sau lễ dạm hỏi, người mối đem tiền cưới trao cho nhà
gái (từ 100 đến 150 đồng bạc trắng), lễ cưới được tổ chức ngay sau hôm đó.
Cưới không qua lễ ăn hỏi: Người Hà Nhì có hình thức cưới không qua lễ ăn hỏi.
Đôi trai gái yêu nhau tự định ngày cưới. Người con trai nói trước với bố mẹ mình
ý định đó.
Người con gái có thể không nói gì với bố mẹ, để đề phòng trường hợp bố mẹ
không đồng ý. Lễ cưới được tổ chức tương tự như lễ cưới lần thứ nhất của hình
thức cưới do bố mẹ đi hỏi. Theo hình thức cưới này, mỗi đôi vợ chồng chỉ cưới
một lần, không có cưới lần thứ hai nữa.
Đồng bào Hà Nhì ở Tây Bắc có tục vợ đổi họ theo họ chồng sau khi cưới, về ở
nhà chồng. Tuy nhiên, khi người con trai ở rể đời hay ở rể một vài năm lại không
phải đổi họ sang họ vợ. Ở Mường Tè, tục ở rể tương đối phổ biến.Trước đây thời
gian ở rể thường là 3 - 4 năm, nhiều nhất là 12 năm.Khi ở rể thì không mất tiền
cưới, không ở rể thì trả tiền cưới từ 100 đến 150 đồng bạc trắng cho nhà gái.
3.11.

Sinh đẻ, nuôi dạy con

Người Hà Nhì có tập quán sinh đẻ và nuôi dạy con cái riêng. Thời gian ở cữ,
trong buồng sản phụ lúc nào cũng có một lò than hay bếp sưởi, bất kể mùa nóng
hay mùa lạnh. Phụ nữ Hà Nhì có tập quán đẻ đứng. Gặp trường hợp khó đẻ, đồng
bào không dùng thuốc, mà làm một số động tác mang ý nghĩa “phép thuật” để
giúp cho sản phụ dễ đẻ. Đồng bào tin rằng để dễ đẻ cần phải đập vỡ ống bương
đựng nước cho nước bắn tung toé ra, hoặc thả một ống bương trong đó có một
chiếc đục và đựng đầy nước từ trên đỉnh nóc nhà xuống sân. Ống bương rơi

xuống, nước đổ ra bắn tung toé, chiếc đục cũng bắn ra. Đồng bào tưởng tượng,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 19 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

chiếc đục bắn ra giống như đứa trẻ được đẻ ra từ bụng mẹ. Một cách khác làm
cho sản phụ dễ đẻ là người Hà Nhì lấy da, ruột voi đốt thành than rồi hòa với
nước cho sản phụ uống với suy nghĩ sản phụ to lớn như con voi, sẽ dễ đẻ hơn.
Người Hà Nhì quan niệm, rau đẻ có liên quan trực tiếp đến sức khỏe con người. Ở
vùng Tây Bắc, rau đẻ được chôn ngay sau cửa ra vào nhà, trong một hố sâu
khoảng 20 - 30cm, dưới đáy lót ít tro bếp, xung quanh miệng hổ cắm những que
tre sát nhau để sau này răng đứa trẻ mọc đều và khít nhau. Suốt 4 -5 tháng liền,
hàng ngày người ta phải dội nước sôi xuống hố đó để cho rau khỏi bốc mùi thối
và diệt kiến, mối đển ăn, làm tổ. Đồng bào tin rằng, nếu rau bị kiến hoặc bất cứ
con gì ăn thì da, thịt của đứa bé sẽ bị đau, bé sẽ bị ốm. Ở Bát Xát (Lào Cai), đồng
bào Giáy lại có tập quán chôn rau đẻ ở chân cột cạnh bếp lò.
Khi trong nhà có người đẻ, đồng bào có tập quán làm dấu hiệu ở trước cửa ra vào
nhà, để báo cho khách muốn vào nhà được biết.Dấu hiệu là một chiếc cột cắm
xuống đât. Căn cứ vào cột cắm, người ta nhận biết gia đình sinh con trai hay con
gái. Nếu cột cắm ở phía bên phải cửa ra vào nhà và trên cột úp một nón th ì gia
đình sinh con trai; còn nếu cột cắm ở bên trái cửa ra vào nhà và trên cột không úp
nón, có nghĩa là gia đình sinh con gái.
Người Hà Nhì có phong tục đặt tên cho con rất ấn tượng. Tên của đứ a trẻ thường
được nhóm Hà Nhì đến đặt ngay sau khi sinh.Nhóm Hà Nhì khác thì sau 3 ngày
mới đặt tên. Khi đứa trẻ chưa được đặt tên mà đã có khách vào nhà, thì người
khách đó sẽ đặt tên cho bé và được coi là bố mẹ nuôi của bé. Từ đó kéo dài suốt 3
năm, cứ đến ngày tết, bố mẹ đẻ lại phải bồng bế con cùng lễ vật: hai năm đầu là
gà, năm thứ ba là lợn sang nhà bố mẹ nuôi cúng tổ tiên. Con nuôi còn mang biếu
bố mẹ nuôi một sải vải nhuộm chàm để làm khăn đội đầu. Đáp lại, bố mẹ nuôi lại

tặng cho con nuôi lợn hay gà. Ở Lai Châu thông thường người Hà Nhì căn cứ vào
ngày sinh theo cách tính lịch 12 con vật của người Hà Nhì để đặt tên riêng gắn
với tên con vật đó. Thí dụ, Cà Bơ: Cà là ngày sinh theo tên con vật, Bơ là tên
riêng. Cà Bơ là cô Bơ sinh ngày con lợn. Tương tự như vậy, Hà Dé là cậu Dé sinh
ngày con gà. Còn ở Lào Cai và một số nơi ở Lai Châu g iáp với Lào Cai, đồng bào
có phong tục đặt tên theo “phụ tử liên danh”- tên bố gắn với tên riêng của con,
tên bố trước, tên con sau. Thí dụ, tên bố là Ly Suỳ Dờ, các con của bố (con trai
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 20 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

và con gái) đều có tên như: Dờ Dì, Dờ Thó, Dờ Xe... Với các tên này, Dờ là tên
bố, Dì, Thó, Xe là các tên con. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đặt tên theo
nguyên tắc “phụ tử liên danh” là một đặc điểm của cư dân nói ngôn ngữ Tạng Miến.
Đồng bào Hà Nhì có tục, sau sinh một tuần (12 ngày) theo lịch dân tộc, vào đúng
ngày sinh của con (theo tên con vật), bố mẹ làm lễ đưa con ra ngoài trời. Nếu con
gái, mẹ địu đi lấy củi ở quanh bản; còn nếu con trai, mẹ cầm dao đi phát nương
và làm cái móc treo chài đánh cá. Người Hà Nhì coi thời gian ở cữ là 20 tuần
(240 ngày).Họ coi đẻ sinh đôi là điều không bình thường.
3.12.

Tập quán tang ma

Tin vào vạn vật hữu linh và theo truyền thống dân tộc, đồng bào Hà Nhì rất coi
trọng việc tang ma. Theo phong tục, sau khi bổ (mẹ) chết, con cháu phải dỡ ngay
một tấm liếp ở buồng ngủ của bố (mẹ) và phá bàn thờ đi. Đó là dấu hiệu trong
nhà có tang.Người chết được khâm liệm cẩn thận đặt trên giường ở giữa nhà, đầu
hướng về phía bàn thờ vừa bị phá.Cách cúng người chết ở hai vùng có sự khác
nhau. Ở Lai Châu, người chết được cúng bằng gà nướng, khô ng cắt tiết, chỉ vặt

long thôi, còn ở Lào Cai lại cúng gà sau khi đã cắt tiết, để nguyên lông cùng một
ổng gạo. Quan tài được làm bằng một cây to, khoét rỗng giữa, có nắp đậy kín.Khe
hở giữa nắp và thân quan tài được mít kín bằng sáp ong hoặc đất bùn.Đồng bào
chọn nơi đào huyệt mai táng bàng cách ném trứng.Ném trứng gà xuống vùng đất
định chọn làm nơi đào huyệt, trứng vỡ ở đâu thì đào huyệt ở đó.Đồng bào không
làm nhà mồ, nhưng có tục xếp đá quanh mộ từ khoảng giữa nấm mộ trở xuống.
Sau khi chôn cất xong, buổi tối hôm đ ó, có nơi người Hà Nhì sàng tro bếp lên chỗ
ngủ của người quá cố, hoặc sàng tro bếp lên lối cửa vào nhà. Căn cứ vào “lốt
chân” con vật in trên tro, người ta đoán biết người quá cố đã hóa thành con gì rồi.
Đồng bào Hà Nhì có tục kiêng chôn người chết vào mù a mưa (từ tháng 6 đến
tháng 9 âm lịch), vì sợ người chết biến thành con hổ về hại người và gia súc. Do
vậy, nếu có người chết vào mùa mưa, người ta treo quan tài ngay trong huyệt.
Huyệt không lấp đất, trên huyệt có mái che nắng, che mưa; cũng có khi người ta
treo quan tài lên một cái giàn gỗ, có mái hoặc không có mái, cao khoảng 1 - l,5m,
dựng lên ở trong rừng, hết mùa mưa mới đem chôn xuống huyệt. Đồng bào Hà
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 21 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

Nhì rất kiêng chôn người chết vào ngày 1 của tháng, vì theo quan niệm của đồng
bào, đó là “ngày lẻ” - ngày mặt trăng mọc. Chôn người chết vào ngày đó, người
chết sẽ sổng lại không phải toàn thân, mà chỉ sống lại từng bộ phận trong cơ thể
như chân, tay... và đó là mối hiểm hoạ cho dân toàn bản.
3.13.

Văn nghệ dân gian

Người Hà Nhì có truyền thuyết kể về việc vì sao họ bị mất chữ. Truyền thuyết kể
rằng, xưa kia người Hà Nhì cũng có chữ, nhưng trong một lần đi học về gặp lũ, vì

không hiểu rõ tín hiệu của những người qua được lũ mách cách vượt lũ, người Hà
Nhì đã nuốt sách vào bụng, cho nên từ đó người Hà Nhì mất chữ. Theo các nhà
nghiên cứu, trước đây có thể người Hà Nhì đã có loại chữ tượng hình với 140 chữ
cái.
về văn học dân gian, người Hà Nhì có truyện thần thoại kể về nạn hồng thủy.
Truyện kể rằng, ngày xưa có trận lụt lớn, loài người và muông thú chết hết, duy
chỉ có hai anh em ruột chui vào quả bầu và một con chim do bị mắc mòng vào
trời cho nên đã sống sót. Do không còn người nào khác, hai anh em phải lấy nhau
để sinh ra loài người. Hai anh em ruột là tổ tiên của người Hà Nhì và của cả loài
người hiện nay.Một hôm, người Hà Nhì dùng nỏ bắn được một con chim. Mổ diều
con chim ra, người ta thấy có đủ các loại hạt giống. Con người đã lấy các loại hạt
giống đó trồng các loại cây. Hà Nhì mí chạ (Đất Hà Nhì) cũng là câu truyện thần
thoại của người Hà Nhì, nhưng mang tính trường ca và kể bằng văn vần. Theo
thần thoại, người Hà Nhì cũng có lịch
thời gian, theo đó một năm có 360
ngày chia thành 12 tháng, dưới tháng
là tuần, mỗi tuần có 12 ngày. Một bài
ca văn vần tiêu biểu là bài ca đám
cưới của người Hà Nhì ở Mường Tè
dài 400 câu. Ngoài bài ca đám cưới,
người Hà Nhì còn có nhiều hình thức
ca hát khác và hát vào những dịp khác nhau
như mừng nhà mới, tết, lễ... hát theo các
lứa tuổi khác nhau. Thanh niên nam nữ

Thanh la- một trong số nhạc cụ
người Hà Nhì hay dùng

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 22 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HÀ NHÌ | Hoàng Trần

thích hát đối đáp mỗi bên một đôi, người có tuổi, người g ià lại thích kể chuyện
bằng thơ - văn vần, còn các bà mẹ, các bà già thường thích hát ru con, ru cháu với
những bài ca ngắn.
Người Hà Nhì có bộ nhạc cụ đủ loại: bộ hơi, bộ dây, bộ gõ. Một điều mang nét
đặc trưng dân tộc là nhạc khí của người Hà Nhì chỉ dành cho việc tỏ tình giữa trai
gái.Bộ nhạc khí hơi chí pa po được dùng linh hoạt nhất.Chí pa po được làm từ
chiếc lá tươi, tốt nhất là lá ổi. Bứt lá ổi trên cây, gấp lại đưa lên mồm thổi; nhạc
khí am pa làm bằng một ống rạ còn tươi, dài chừng 25cm, phía thổi là đầu mấu
ống rạ. Cách đầu mấu ống khoảng 3cm, người ta tách ống theo chiều dọc thành
nhiều phần bằng nhau, cầm hai đầu ống rạ đẩy nhẹ dồn lại, làm phần tách ra
phồng lên, tạo thành bộ phận phát ra .âm thanh; nhạc khí là tỳ - đàn môi, được
làm từ một lá đồng, có rạch một hình lưỡi gà ở giữa. Khi thổi, người ta ngậm cả
phần lưỡi gà vào miệng, tay phải cầm cán đàn, tay trái gẩy đầu đàn, lưỡi đàn rung
lên phát ra âm thanh. Nhạc khí dây của người Hà Nhì là chiếc la khư. La khư là
nhạc khí 3 dây, chỉ dành cho con trai sử dụng để đệm cho con gái hát, đánh cho
các điệu múa hay độc tấu, đánh để gọi người yêu, đánh để tâm tình với bạn gái
lúc đêm khuya. Người Hà Nhì còn có nhạc cụ gõ: trống, chập cheng và thanh la.
Ba loại nhạc cụ này được sử (lụng trong các ngày hội, ngày tết. Trổng có tang
được làm bàng nhiều thanh gồ uốn hình vòng cung ghép lại, hai đầu trống bịt da
trâu. Chập (tùng be be) và thanh la đều được làm bằng đồng, có đường kính
khoảng 25cm.
Đồng bào Hà Nhì thường nhảy múa vào các đêm trăng sáng, các dịp hội hè, lễ tết,
tang ma. Họ múa tập thế, cả nam nữ đều tham gia.Khi múa thường có tiếng trống,
thanh la giữ nhịp.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 23 | 23




×