Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tổng quan dân tộc Ba Na (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 21 trang )

TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

Tổng Quan Dân Tộc Ba Na

Mục Lục:
1.

Vài Nét về Dân Tộc Ba Na .................................................................................................... 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 3

2.1.

Trồng Trọt ............................................................................................................................ 3

2.2.

Chăn Nuôi ............................................................................................................................ 4

2.3.

Khai thác tự nhiên ................................................................................................................ 4

2.4.

Ngành nghề thủ công ........................................................................................................... 5

2.5.


Trao đổi mua bán ................................................................................................................. 6

3.

Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 6

3.1.

Làng ..................................................................................................................................... 6

3.2.

Nhà ở .................................................................................................................................... 8

3.3.

Y phục ................................................................................................................................ 10

3.4.

Trang sức ........................................................................................................................... 11

3.5.

Ẩm thực ............................................................................................................................. 12

3.6.

Phương tiện vận chuyển ..................................................................................................... 12


3.7.

Ngôn ngữ ........................................................................................................................... 13

3.8.

Tín ngưỡng tôn giáo ........................................................................................................... 14

3.9.

Lễ hội ................................................................................................................................. 17

3.10.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................... 18

3.11.

Tập quán sinh đẻ và nuôi con ......................................................................................... 19

3.12.

Tập quán tang ma ........................................................................................................... 19

3.13.

Văn nghệ dân gian. ......................................................................................................... 19

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 1 | 21



TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

1. Vài Nét về Dân Tộc Ba Na
Dân số : 227.716 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm ngôn
ngữ Môn - Khmer.
Tên gọi khác: Ba Na Dưới Núi, Ba Na Đông,
Ba Na Tây, Ba Na Trên Núi
Nhóm địa phương: Gơ Lar. Tơ Lô, Giơ
Lâng (Y Lăng), Rơ Ngao, Krem, Roh, Con
Kde, Ala Công, Kpang Công, Bơ Nâm.
Địa bàn cư trú: Gia Lai, Kon Tum, Phú
Yên, Bình Định, Phú Yên, Đắk Lắk ,Bình
Thuận

Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ba Na ở Việt Nam có dân số
227.716 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Ba Na cư trú tập trung
tại các tỉnh: Gia Lai(150.416 người, chiếm 11,8% dân số toàn tỉnh và 66,1% tổng số
người Ba Na tại Việt Nam), Kon Tum (53.997 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và
23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Phú Yên (4.145 người, chiếm 12,5% dân số
toàn tỉnh và 23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Bình Định (18.175 người, chiếm
8,0% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Phú Yên(4.145 người, chiếm 1,8% tổng số
người Ba Na tại Việt Nam), Đắk Lắk (301 người), Bình Thuận (133 người)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 2 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần


2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng Trọt
Dân tộc Ba Na trồng lúa nương trên rẫy là chính. Ngoài ra ở vùng Kon Tum, đồng bào
thường trồng cây kmứt hay bagang hmôi, một loại cây giống như cây nghệ để chữa đau

Người Ba Na đang chăm sóc lúa
(Ảnh: sưu tầm)

bụng, đồng thời để xác định thời vụ canh tác. Mùa xuân sang, khi cây kmứt nhú mầm là
mùa sản xuất mới bắt đầu. Cuối mùa thu, khi cây tàn lụi là lúc mùa màng phải thu hoạch
xong xuôi. Người Ba Na còn có cách xác định thời vụ là căn cứ vào mùa hoa cây blang
(cây gạo) nở. Khi mùa xuân đến, cây cối đâm chồi nẩy lộc, hoa blang nở, là thời điếm mở
đầu cho đồng bào đi dọn nương, cuốc ruộng. Khi hoa blang rụng thì họ trỉa lúa.
Đồng bào cho rằng gieo trồng vào thời kỳ trăng lên, trăng tròn thì vụ mùa sẽ bội thu hơn.
Tuy nhiên chưa có lời giải thích về cách chọn thời kỳ gieo trồng này. Vụ mùa kéo dài từ
tháng 4 (dương lịch) khi bắt đầu mùa mưa, đến hết tháng 10 (dương lịch) hết mùa mưa.
Trong suốt thời gian cây lúa phát triển trên ruộng, trên nương, đồng bào Ba Na rất chú ý
đến khâu chăm sóc, bảo vệ cây trồng khỏi sự phá hoại của muông thú; đồng bào rào kỹ
xung quanh nương, đặt bẫy, treo các loại bù nhìn làm thú rừng sợ. Ngoài ra đồng bào
thường xuyên thăm nương, thậm chí làm chòi ngủ trên cây cao bên cạnh nương nhất là từ
thời gian khi cây lúa trổ bông cho đến khi lúa chín. Vào tháng 10 khi cây cối hoang dại
bắt đầu tàn lụi, đồng bào cũng thu hoạch mùa màng. Trong trồng trọt, ngoài trồng cây lúa
tẻ, đồng bào còn trồng lúa nếp và cây sắn (mì).

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 3 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần


Kỹ thuật trồng trọt truyền thống còn thô sơ, dùng trâu quần làm đất; công cụ sản xuất chủ
yếu là cuốc và xà gạc. Sống ở trong rừng, cuộc sống nhờ vào rừng, còn rừng tốt thì còn
cuộc sống tốt, thấu hiểu điều này, khi phát rừng làm nương rẫy, đồng bào Ba Na rất có ý
thức bảo vệ tài nguyên rừng: không làm rừng bị kiệt quệ bằng cách, khi đốt nương không
để xảy ra cháy rừng và thực hiện luân canh
Người Ba Na có nghề làm vườn khá phát triển. Trong vườn, đồng bào thâm canh các loại
cây như bông, chàm; các loại rau như bầu, bí, mướp, đậu đỗ, vừng, lạc, dưa; các cây ăn
quả như chuối, đu đủ, mít, dứa và các loại cây gia vị. Ngoài ra, người ta cũng thấy trên
các mảnh vườn còn có mía, ngô, bo bo, kiều mạch, các loại kê, khoai sọ... Nghề làm
vườn đã tận dụng được thêm nguồn nhân lực (người trẻ, người già ở nhà), đồng thời góp
phần tăng thu nhập cho gia đình.
2.2. Chăn Nuôi
Đồng bào nuôi trâu, bò, ngựa, lợn, dê, chó, gà, vịt, ngan... Cũng như nhiều dân tộc ở Tây
Nguyên khác, đối với đồng bào Ba Na con trâu được coi là tiêu chí đánh giá sự giàu
nghèo. Đồng bào chăn nuôi trâu, bò không nhằm mục đích phục vụ sức kéo trong sản
xuất nông nghiệp, mà mục đích chính là để phục vụ nhu cầu cúng bái: cúng Yàng, và
bán, ăn thịt hoặc dùng vào việc đổi chác lấy cồng, chiêng, ché, đồ trang sức. Việc chăn
nuôi gia súc, gia cầm được thực hiện theo hình thức chăn thả. Sáng thả gia súc đi vào
rừng kiếm ăn, chiều lùa đàn trâu, bò về chuồng. Đàn trâu bò từng gia đình thường đi ăn
cỏ với nhau. Chủ đàn trâu, bò thường chỉ nhớ con đầu đàn, khi tìm được con đầu đàn là
tìm được cả đàn trâu. Dân tộc Ba Na ít nuôi voi.
2.3. Khai thác tự nhiên
Ngoài sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), khai thác rừng và thu hái lâm thổ sản
là nguồn kinh tế quan trọng thứ hai của đồng bào. Các loại cây trên rừng là đối tượng để
đồng bào khai thác. Dân tộc Ba Na lấy cây gỗ tốt ở trong rừng, loại gỗ chắc, không bị
mối mọt ăn về làm nhà ở, nhà rông, làm công cụ sản xuất: cán cuốc, cán xà gạc, gậy chọc
lỗ; cây rừng còn được dùng vào việc rào vườn, rào nương, làm cột đâm trâu, làm củi đun
hàng ngày. Sinh sống với rừng, đồng bào hiểu giá trị của các loại cây rừng: cây gỗ trầm
hương, được khai thác, sử dụng phổ biến, một số loại cây rừng làm thảo dược. Ngoài việc
sử dụng gỗ, rừng còn có nhiều hoa, quả, lá, củ có thể khai thác về làm thực phẩm.

Hằng ngày, trẻ em và phụ nữ đi rừng kiểm củi, hái rau rừng, các loại măng, nấm, mộc
nhĩ,... Còn nam giới lại để tâm vào việc săn bắn các loài thú rừng. Việc săn bắn bao giờ
cũng được kết hợp bảo vệ mùa màng trên rẫy. Trong săn bắn, đồng bào hay dùng bẫy, nỏ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 4 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

tên tẩm thuốc độc. Trên rẫy đồng bào hay làm bù nhìn, dùng tiếng nhạc nước, nhạc rừng
để xua đuổi các loại thú

2.4. Ngành nghề thủ công
Nghề thủ công là nghề mà tất cả mọi
dân tộc đều biết làm trong thời kỳ
kinh tế tự túc, tự cấp. Với dân tộc Ba
Na một số nghề thủ công đáng chú ý
là nghề rèn, nghề dệt, nghề đan lát và
nghề mộc.
Đồng bào làm công cụ sản xuất như
dao, cuốc, thậm chí trong kháng chiến
chống thực dân Pháp đồng bào còn rèn cả vũ khí thô sơ để đánh giặc. Nghề dệt được chị
em phụ nữ thực hiện trong từng gia đình. Họ dệt để cung cấp vải mặc cho cả gia đình. Kỹ
thuật dệt còn thô sơ, chưa có khung cửi, nhưng đồng bào rất chú ý dệt hoa văn. Hoa văn
là những đường thẳng bằng chỉ màu đỏ. Nghề đan lát lại được cánh đàn ông quan tâm
đảm nhiệm. Sản phẩm đan lát chính là những chiếc gùi đủ các loại to, nhỏ, gùi có cóc,
gùi không cóc. Kỹ thuật đan gùi
đạt đỉnh cao của nghệ thuật đan
lát... Gùi là phương tiện vận
chuyển của người Tây Nguyên
nói chung và của người Ba Na nói

riêng. Hàng ngày lên nương đồng
bào mang sẵn gùi sau lưng để
đựng lúa hoặc các thứ thu hái
được từ rừng. Ngoài đan gùi,
đồng bào Ba Na còn đan các loại
bồ, bịch để đựng thóc lúa. Trình
độ nghề mộc của dân tộc Ba Na chưa thật cao, song họ tự làm nhà ở, nhà rông, đẽo tượng
nhà mồ, ghế dài (kpan). Những chiếc kpan to, dài, dày là tài sản quý giá của gia đình..

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 5 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

2.5. Trao đổi mua bán
Việc trao đổi buôn bán ở đồng bào Ba Na ít phát triển. Là những người nông dân, đồng
bào tập trung công sức, thì giờ vào công việc chính của nhà nông là: trồng trọt, chăn nuôi.
Trao đổi hàng, mua bán hàng hóa thường được thực hiện vào mùa nông nhàn - mùa khô.
Việc buôn bán thực hiện theo công thức: người Ba Na tổ chức đoàn đi xuống vùng đồng
bằng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi tìm mua cồng chiêng, chum ché, hoặc chờ có
đoàn người Kinh (Việt), người Lào, Căm - pu - chia mang cồng, chiêng, nồi đồng, đồ
trang sức đến vùng đồng bào cư trú, đổi lấy trâu, bò, ngà voi, các loại lâm thổ sản. Cồng
chiêng có nhiều loại, nhưng đồng bào Ba Na thích nhất là loại chiêng của người Lào, vì
theo đồng bào chiêng của người Lào có pha chất bạc nên đánh vào chiêng, tiếng kêu vang
xa, ngân lâu trong núi rừng và vọng lại rất êm tai. Một chiêng tốt, có đường kính khoảng
l,5m có thể đổi đến 30 con trâu hoặc một con voi. Ché cũng là báu vật trong gia đình, là
nơi cư ngụ của thần linh bảo vệ, phù hộ cho sức khỏe và công ăn, việc làm của gia đình.
Giá trị của chiếc ché chủ yếu là ở sự “thiêng” của nó. Một chiếc ché to cũng có thể phải
đổi bằng 2-3 chục con trâu hoặc một con voi. Thông thường người ta đôi một con gà lấy
một con dao hoặc một lưỡi cuốc.


3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Làng (plây) là
đơn vị cư trú của
cộng đồng dân
tộc Ba Na. Mỗi
làng có địa vực
riêng do đồng
bào tự quy định
với nhau bằng
miệng, có nhà
rông là trung tâm
văn hóa làng và
có vài máng dẫn
nước chảy từ
mạch nước trong
rừng về làng. Đất

Ngôi làng Kon Sơ Lăl (xã Hà Tây, huyện Chư Pah, Gia Lai)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 6 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

của làng thường được chia thành hai loại: đất chung của cả làng và đất riêng của
từng gia đình. Đất chung gồm: đất rừng, sông suối cùng tất cả các sản vật trên
rừng, dưới sông, suối đó, đường đi; đất riêng là đất đã được gia đình khai phá
thành nương, ruộng. Trong mỗi làng thường có hàng chục gia đình không cùng

huyết thống sinh sống. Ngoài nhà ở, trong mỗi gia đình còn có kho thóc riêng và
cả làng có một nhà rông chung... Đồng bào làm kho thóc riêng tách khỏi nhà ở là
để tránh chuột phá hoại. Kho thóc thường được dựng cao từ 2 - 3m cách mặt đất
và có giải pháp chống chuột leo theo cột, bò lên sàn kho ăn thóc. Con chuột
không thể leo ngược dưới mặt sàn nhà. Tận dụng điểm yếu này của chuột đồng
bào ốp sát tre vào cột, không để khe hở cho chu ột chui lên và dưới mặt sàn được
bưng kín. Ngày nay đồng bào lấy tôn ốp vào đoạn cột sát sàn kho lả bảo đảm
chuột không lên được kho thóc nữa.
Việc đầu tiên quan trọng để dựng làng là phải chọn địa điểm. Nơi được chọn
dựng làng thường là có đất rộng, có nguồn nước thuận tiện cho sản xuất và sinh
hoạt. Điều được chú ý liên quan đến chọn đất dựng làng là thế phòng thủ của đất
để khi xuất hiện giặc giã, cướp bóc có lối tiến, thoái dễ dàng. Với nhiều dân tộc ở
Tây Nguyên nói chung và dân tộc Ba Na nói riêng, việc chọn đất dựng làng luôn
kèm theo yểu tố tâm linh: chờ báo ứng của thần linh được điềm tốt mới dựng
làng. Khi làng không còn đủ điều kiện để ở: đất bạc màu, thiếu đất sản xuất, vi
phạm luật tục, vi phạm thần linh... thì đồng bào tổ chức dời làng. Việc di dời làng
được thực hiện theo nguyên tắc là không dời nhà, chỉ mang theo của cải, lương
thực, gia súc. Đến nơi ở mới cả làng dựng nhà rông, cúng thần làng (thổ công),
làm lễ treo trống và treo hòn đá thiêng ở đầu nhà rông. Tiếp đó đồng bào giúp
nhau làm nhà ở, kho thóc.
Trong xã hội truyền thống của dân tộc Ba Na, làng là một đơn vị xã hội, cho nên
cần có cơ chế quản lý, có người đứng đầu làng để điều hành công việc. Người
đứng đầu làng là già làng - trưởng bản - người có tuổi cao, có uy tín trong dân
làng, có kinh nghiệm sản xuất giỏi, có đạo đức chuẩn mực, thông thạo phong tục
tập quán dân tộc, có lòng thương người. Già làng - trưởng bản được dân làng suy
tôn, song cũng có thể là cha truyền con nổi. Công cụ để điều hành làng là luật tục.
Luật tục được hình thành từ lâu đời, được dân làng coi là chuẩn mực, mọi người
phải tuân theo. Luật tục không chỉ quy định những; điều cần làm đúng, mà còn
quy định chể tài xử lý. Ai vi phạm luật tục sẽ bị xử phạt nghiêm khắc. Người
đứng ra xử phạt chính là già làng - trưởng bản


N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 7 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

Dân tộc Ba Na có tục kết nghĩa giữa hai hoặc nhiều làng với nhau. Hai làng cư trú
gần nhau, có thể kết nghĩa với nhau để bảo vệ nhau, giúp nhau đánh giặc khi
chúng đến cướp phá.
Dân tộc Ba Na có người con dũng cảm Đinh Núp - anh hùng lực lượng vũ trang
đã tập hợp bà con cùng rào làng chiến đấu đánh thắng thực dân Pháp.

3.2. Nhà ở
Nhà ở của dân tộc Ba Na nói riêng
và đa số các dân tộc Tây Nguyên nói
chung là nhà sàn. Kiểu nhà sàn ở đây
nhỏ và thấp so với nhà sàn của các
dân tộc miền núi phía Bắc. Sàn nhà
chỉ cách mặt đất khoảng 0.8 - 1 m,
trâu bò không ở gầm sàn, người
không đi lại dưới gầm sàn được.
Gầm sàn thường được sử dụng để
chứa củi đun. Nhìn đông củi dưới
sầm sàn người ta đánh giá con gái
chủ nhà đó không chỉ chăm chỉ làm việc, mà còn nền nêp, biêt làm ăn. Nguyên vật liệu
lảm nhà là gỗ, tre (lồ ô) cỏ gianh. Đây toàn là nguyên liệu tại chỗ, sẵn có ở trong rừng.
Gỗ dùng làm cột nhà, tre dùng làm vách nhà và sàn nhà, cỏ gianh dùng để lợp nhà. Việc
chọn đất, chọn cây gỗ làm cột nhà, dựng nhà cần có một số thủ tục tâm linh: bẩm báo
thần linh và cầu xin thần linh phù hộ cho gia đình được sinh sống yên ổn trên mảnh đất
đó.


Mỗi ngôi nhà là nơi ở của một gia đình. Gia đình của dân tộc Ba Na là gia đình nhỏ, được
tổ chức theo chế độ phụ hệ, phụ quyền. Trong gia đình con cái sinh ra được tính theo
dòng cha, cha có quyền cao nhất, quyết định mọi việc đồng thời cũng là người chịu trách
nhiệm về cuộc sống kinh tế của gia đình. Người cha đại diện cho gia đình quyết định việc
sản xuất, giao thiệp với dân làng, với khách buôn. Người thừa kể tài sản là các con trai và
cũng chính con trai là người đại diện cho gia đình ứng xử với họ hàng nội ngoại cùng
việc chăm sóc phần tâm linh của gia đình. Trong gia đình dân tộc Ba Na, mọi tài sản
trong gia đình đều là của chung, mọi người cùng lao động và cùng hưởng thụ. Ở gia đình
dân tộc Ba Na người già và trẻ em là những đối tượng được mọi người tôn trọng, được
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 8 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

chăm sóc chu đáo: chỉ làm các việc nhẹ nhàng, được gia đình dành cho miếng ăn ngon,
bô.

Dân tộc Ba Na không có họ, không có tên đệm để chỉ giới tính như người Kinh. Trong
làng không có người trùng tên. Họ rất sợ trở thành trai già, gái già, suốt đời sống cô đơn.
Những người sống cô đơn sau khi chết không được về tổ tiên với bổ, mẹ, họ hàng thân
thuộc nữa mà phải đi ở với thần Cối giã ớt. Người Ba Na còn có tục kết bạn. Nếu hai
người khác làng mà trùng tên nhau một cách ngẫu nhiên thì đồng bào cho là do thần linh
xui.
Dòng họ của dân tộc Ba Na có họ nội và họ ngoại. Họ nội là họ bên cha, họ ngoại là họ
bên mẹ. Họ nội có bổn phận giúp nhau trong đời sống thường ngày và trong cuộc sống
tâm linh; còn họ ngoại lại chú ý đến đời sống tâm linh, đến các nghi lễ liên quan đến cưới
xin, ma chay nhiều hơn.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 9 | 21



TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

3.3. Y phục
Y phục của dân tộc Ba Na do đồng bào tự túc
từ khâu trồng bông dệt vải đến khâu cắt may.
Bộ y phục truyền thống của nam giới thường
có khố, áo, còn bộ y phục của nữ giới bao gồm
váy dài quá đầu gối, áo chui đầu (không xẻ
trước ngực), cài cúc trên vai. Mầu nền y phục
là mầu chàm. Hoa văn trên váy, áo, khố chủ
yếu là hoa văn dệt bằng chỉ đỏ, do đó mô típ
hoa văn là những đường chỉ đỏ thẳng nằm
ngang trên váy, áo phụ nữ. Nhìn từ góc độ
công việc, đầu tư thì giờ thì chị em Ba Na
không mất nhiều thì giờ, công sức cho việc
Y Phục dân tộc Ba Na, Bình Định, 1970
thực hiện hoa văn trên y phục mà chủ yếu mất
công cài chỉ màu đỏ vào khung cửi cho đúng vị trí khi dệt vải.

Trương Thị Hải Vân (SBD 59, dân tộc Ba Na),
thí sinh Hoa Hậu Các Dân Tộc Việt Nam năm
2011

Trương Thị Hải Vân (SBD 59, dân tộc Ba
Na) Cuộc thị Hoa Hậu các dân tộc năm
2011

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 10 | 21



TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

3.4. Trang sức
Trang sức của dân tộc Ba Na có khuyên tai, vòng tay, vòng chân. Khuyên tai là đồ trang
sức được chị em phụ nữ yêu thích. Khuyên tai to, nặng, khi đeo kéo tai xệ xuống, cảm
giác tai to ra, được đồng bào coi đó là đẹp. Trong truyền thống đồng bào Ba Na còn có
tục cà răng - cưa răng cửa hàm trên cụt ngang bằng lợi và nhuộm răng đen. Việc cưa
răng, nhuộm răng đen vừa là thẩm mỹ, vừa là tín ngưỡng tô tem giáo.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 11 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

3.5. Ẩm thực
Ẩm thực của dân tộc Ba Na có nhiều nét chung
với các dân tộc Tây Nguyên. Đồng bào thích ăn
cơm tẻ, thức ăn thường là rau xanh. Trong các
dịp lễ tiết, lễ hội, lúc nào cũng có thịt lợn, gà,
trâu. Món ăn được đồng bào ưa thích là món
thịt trâu băm nhỏ trộn muối, ớt, nhồi trong ổng
lồ ô (nứa) để vài ba ngày sau, đem ra ăn với
cơm. Món canh được sử dụng nhiều là canh lá
Mâm cơm
giảnbào
dị của
Ba Na.
sắn non. Canh còn được nấu từ nhiều loại rau rừng khác nhau.

Đồng
Ba người
Na uống
rượu cần. Cách uống rượu cần của họ cũng như
nhiều dân tộc ở Tây Nguyên khác là mỗi ché
rượu chỉ để một cần và uổng từng người một,
quay vòng tròn theo vị trí chỗ ngồi trong cuộc
vui. Mồi người đến lượt uổng, tay cầm cần và
miệng kể chuyện vui cười. Càng kể được nhiều
chuyện hài hước mới, gây được nhiều tiếng cười
vui, càng được khen giỏi, có duyên uống rượu
cần.
Nấu cơm lam từ thứ gạo ngon nhất, gạo kon

3.6. Phương tiện vận chuyển
Cư dân miền núi nói chung và người dân tộc Ba Na
nói riêng chọn cách vận chuyển hàng bàng cách dùng
chiếc gùi đeo trên lưng. Một số dân tộc ở Tây Nguyên
còn dùng voi để thồ hàng, kéo gỗ. Chiếc gùi được đan
bằng nan lồ ô (tre). Gùi có nhiều loại to nhỏ khác
nhau, loại to dùng cho người lớn, loại nhỏ dùng cho
trẻ nhỏ. Người đi làm, ra khỏi cửa lúc nào cũng đeo
chiếc gùi sau lưng. Tính hợp lý của chiếc gùi là thích
hợp với việc đi lại nơi miền núi có nhiều cây hoang
dại có thể thu hái về làm rau ăn được. Khi đeo gùi đôi
tay được giải phóng, tiện cho việc nhặt rau cỏ, hoa quả
trên rừng rồi bỏ vào gùi ở trên lưng mang vê nhà sử
dụng. Chiếc gùi gắn với cuộc sống thường ngày của
con người, cho nên ngoài giá trị sử dụng nó còn giá trị


Chiếc Gùi

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 12 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

thẫm mỹ làm đẹp cho chủ nhân. Chính vì vậy, đồng bào đan gùi thông dụng và đan cả gùi
nghệ thuật với những hoa văn đẹp, đan gùi có các con “cóc” như trên ba lô vải của các
chiến sĩ quân giải phóng.
Dân tộc Ba Na sử dụng voi để giúp người vận chuyển những hàng nặng như gồ, hoặc vào
vụ mùa thu hoạch dùng voi chuyển thóc từ trên nương về nhà. Việc sử dụng voi không
mang tính phổ biến, vì nuôi voi tốn kém và mất nhiều công sức.
3.7. Ngôn ngữ
/>Tiếng nói: là kết quả sáng tạo và là phát minh quan trọng nhất của mỗi dân tộc. Ngôn ngữ
mỗi dân tộc do chính dân tộc đó tự sáng tạo, tự phát minh ra. Mỗi dân tộc có cách sáng
tạo và phát minh riêng. Cho nên tiếng nói được các nhà khoa học đánh giá là tiêu chí
quan trọng nhât để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Tiếng nói của dân tộc Ba Na là tiếng nói của trình độ phát triển kinh tế - xã hội nông
nghiệp. Do vậy bảng từ vựng của-tiếng Ba Na giàu những thuật ngữ phản ánh môi trường
tự nhiên núi rừng và môi trường xã hội tự câp tự túc. Do có lượng dân số đông và trình
độ phát triển kinh tế khá nổi trội ở bắc Tây Nguyên, cho nên tiếng Ba Na đang có xu
hướng được một số dân tộc khác có dân số ít sử dụng trong giao tiếp tại quê hương (tỉnh
Kon Tum). Hòa đồng vào sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước, và cơ chế thị trường,
sự hội nhập của dân tộc Ba Na vào đất nước về mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội ngày
càng sâu rộng, do đó trong tiếng nói của dân tộc Ba Na xuất hiện ngày càng nhiều thuật
ngữ tiếng Kinh (tiếng Việt) hiện đại. Những thuật ngữ mới này, liên quan đến cơ chế
quản lý xã hội, đến ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất và đời sống.
Tiếng Việt đã và đang trở thành một bộ phận của tiếng Ba Na hiện nay và trong tương lai.
Chữ viết: Cho đển khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, dân tộc Ba Na chưa có chữ

viết riêng. Sau khi xâm lược Tây Nguyên, thực dân Pháp đã xây dựng bộ chữ viết cho
một số dân tộc, trong đó có bộ chữ cho dân tộc Ba Na. Bộ chữ Ba Na được xây dựng trên
cơ sở của chữ Pháp (sử dụng chữ cái H câm và dấu ‘ (phẩy). Trong thời kỳ chiến tranh
chống để quốc Mỹ, nhà nước ta đã tiến hành xây dựng chữ viết cho một số dân tộc trong
đó có dân tộc Ba Na. Bộ chữ này cũng là bộ chữ Latinh và xây dựng trên cơ sở bộ chữ
tiếng Việt. Nó đang được sử dụng rộng rãi trong giáo dục, trên các phương tiện thông tin
đại chúng và phát huy tác dụng trong đời sống xã hội của dân tộc Ba Na.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 13 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

3.8. Tín ngưỡng tôn giáo
Dân tộc Ba Na quan niệm “vạn vật hữu linh”, tức là mọi vật như: sông, núi, cây cỏ, đất,
đá đều có linh hồn - thần linh. Các loại thần linh được gọi một tên chung là Yàng. Có
nhiều Yàng khác nhau như: Yàng núi, Yàng sông, Yàng bến nước, Yàng lúa, Yàng ngô...
Đồng bào Ba Na rất sùng bái các Yàng đó và mồi khi có việc như gieo hạt giống vụ mùa,
thu hoạch vụ lúa... họ đều tổ chức cúng Yàng, cầu xin sự phù hộ, che chở, giúp đỡ của
Yàng.
Dân tộc Ba Na quan niệm con người có ba hồn. Ba hồn này sống trong con người và chi
phối cuộc sống của con người. Ba hồn đó ngụ ở chỏm tóc, ở ngực và ở thân thể. Cùng với
sự xâm lược của thực dân Pháp, cuối thế kỷ XIX, người Pháp đã tiến hành xây dựng nhà
thờ gỗ ở tỉnh Kon Tum và truyền bá đạo Thiên chúa trong đồng bào Ba Na, song nhìn
chung việc truyền đạo ở đây không mấy kết quả..
Một số vị Thần (Yàng) trong tín ngưỡng người Ba Na
Với quan niệm vạn vật hữu linh, nên từ xa xưa người Ba Na tin rằng họ sống giữa
một thế giới có thần linh. Tất cả mọi việc liên quan đời sống hàng ngày đều được người
Ba Na cho rằng đang có thần cai quản, trông nom.Những lực lượng thiên nhiên và siêu
nhiên này đã tác động vào mọi mặt đời sống tâm linh của họ, được họ chia thành hai bậc

khác nhau (Thượng đẳng thần và Hạ đẳng thần) và làm lễ chiêm bái hàng năm.
Thượng đẳng thần: Là những đấng tạo lập ra trời, đất muôn loài và trông nom núi
sông, nghề nghiệp làm ăn của con người, được gọi một cách tôn kính như: Yàng Bok, Ză
(thần ông, thần bà):Bok Kơi Dơi (Đấng tạo hóa): Người Ba Na tin rằng trước khi có vũ
trụ, đã có ba vị thần là bok Kơi Dơi, ză Kon Keh và bok Glaih. Chính họ là những vị thần
đã tạo ra vũ trụ và coi giữ sự sống cho con người. Trong đó bok Kơi Dơi là vị thần có
quyền lực cao nhất, đã tạo ra mặt trời và các vì tinh tú như trăng, sao. Bok Kơi Dơi ngày
ngày ngự trên chốn mây xanh, không mấy khi hiện hình cho dân chúng thấy, chỉ truyền
lệnh cho các vị thần khác coi sóc việt nhân gian. Người Ba Na hay ví thần như vị vua và
các thần khác như bầy tôi. Trong các cuộc lễ, tên thần chỉ được nhắc thầm ở ngay phần
đầu bài cúng chứ không được đọc rõ thành tên như các vị thần khác vì sợ gọi tên vua là
xúc phạm, họ nghĩ cứ để các quan chứng giám rồi sẽ tâu lên. Họ tưởng tượng bok Kơi
Dơi như một ông già râu tóc bạc phơ, thường chống gậy đi khắp thế gian để điều khiển
vạn vật.Ză Kon Keh: Là một vị nữ thần và là vợ của bok Kơi Dơi. Theo người Ba Na thì
ză Kon Keh là người đã tạo ra trời và đất. Trong lúc chiêm bao có khi họ thấy Thần hiện
hình là một bà già ăn bận rách rưới, dơ bẩn hay xuống các buôn làng để xem việc ăn ở,
đối xử trong cộng đồng. Cũng như chồng, trong các cuộc lễ, người Ba Na không dám gọi
thẳng tên vì theo họ gọi như vậy là không tôn trọng thần …
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 14 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

Bok Glaih (Thần sấm sét): Trên thiên
đình, Bok Glaih là vị quan đứng đầu và
theo mệnh lệnh của Đấng tạo hóa kiểm
soát công việc ở trần gian. Thần ngủ suốt
trong mùa khô, đến mùa mưa đến Thần
thức dậy. Lúc đó mới bắt đầu đi xem xét
khắp muôn nơi, ai ăn ở đúng đạo lý,

không phạm vào đều cấm kị của làng thì
được thần ủng hộ, ban cho nhiều may
mắn. Trái lại, ai ra ý coi thường đạo lý
và phạm vào điều kị húy thì sẽ bị Thần
dùng sét đánh chết. Cho nên trong các vị
thần, người Ba Na rất kinh sợ khi nhắc
đến bok Glaih và trong các cuộc lễ, họ
không bao giờ quên khấn tên. Thần sấm
sét có khi hiện hình là một con dê to lớn, có khi hiện hình là người già với hai tay đầy
lông lá.Ză Pom: Thần là con của bok Kơi Dơi vàză Kon Keh. Sau khi sinh ra, Thần được
ở lại trên thiên đình làm thần, còn chị em thì xuống trần gian làm người. Ză Pom là vị
thần giàu lòng vị tha, thường hay cứu giúp những người nghèo khổ, khốn cùng cho nên
Thần được nhiều người yêu mến. Khi lễ tế người Ba Na thường cầu khấn đến tên bà.
Yàng Xơri (Thần lúa): Cũng có tên là Yàng
Đai, là vị thần coi giữ lúa gạo và bếp núc.
Thường ở trên nương rẫy, trong lẫm lúa và
trong nồi cơm. Người Ba Na rất quý thần lúa
và cũng mong thần thương mình vì có thần
mới có lúa gạo để ăn. Trong suốt mùa nương
rẫy, họ làm rất nhiều lễ để dâng thần. Thần
Xơri thường xuất hiện trong hình hài như
những đứa con nít, lúc thì trai, khi thì gái có
mụn ghẻ đầy mình. Nếu trong giấc mơ mà
thấy hình ảnh như vậy là điềm được mùa, còn
nếu thấy một đứa trẻ trắng muốt thì là điềm
xấu (lúa sẽ gặp hạn hay gió bão mà bị lép
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 15 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần


đi).Yàng Đak (Thần nước): Có nhiều thần nước. Vị thần lớn hơn cả là Yàng Kơnang Grai
(hình rồng). Dưới vị thần này còn có rất nhiều vị thần khác, mỗi người cai quản riêng một
con suối, sông hay hồ. Có hai vị thần thường được người Ba Na nhắc đến nhiều nhất và
hay thấy họ ở trong nước hoặc khi nằm mơ đó là Yàng Nhăk (hình rắn) và Yàng Tơlung
huk (hình cối). Nhưng khi lễ cúng họ khấn một tên chung là Yàng Đak chứ không kêu tên
riêng của từng thần.Yàng Kong (Thần núi): Các vị sơn thần có rất đông. Mỗi nơi có thần
riêng gồm một vị lớn và nhiều vị nhỏ như Yàng Đak . Người Ba Na hay gọi thần núi
bằng các tên như: Mơnang Brai, kong Ngut, kong Hareng…Hạ đẳng thần: Là các vị thần
thường ẩn trong một vật thể cụ thể nào đó trên mặt đất. Chức năng và phạm vi quyền
phép của thần thường hẹp hơn: Thường chỉ về một phương diện hoặc một khía cạnh nào
đó của cuộc sống, của cộng đồng hoặc một giai đoạn nào đó của cuộc sống con người. Vì
vậy chỉ có ai kết thân với vị thần nào thì mới khấn họ phù hộ khi có lễ …

Yàng Xatok (Thần ghè): Trong các
loại đồ dùng thì người Ba Na xem Ghè
là vật linh có thần trú ngụ. Loại ghè cổ
này thường có xuất xứ từ người Khơ
me hay người Việt làm ra, có màu đỏ
như da mía có bốn hoặc tám tai. Ghè
Xatok không dùng đựng rượu trong
các đám cưới hay đám tang mà chỉ
dùng trong các việc tế thần. Thường là
những gia đình giàu có hoặc những gia
đình thường thấy hình ảnh của chiếc
ghè cứ tái hiện trong giấc mơ nhiều
lần như một điềm báo và trong giấc
mơ ấy có kèm với hình ảnh của một
người con trai hoặc gái hoặc cả trai lẫn
gái thì họ quyết tâm mua bằng được

chiếc ghè quý này dù có phải trả rất nhiều trâu bò hay đất đai và xem Ghè như một vị
thần riêng của dòng họ mình.Bok Klah (Ông cọp): Người Ba Na cũng kêu cọp bằng ông
như người Kinh và cho cọp là vật linh thiêng có thể bắt chước được tiếng các loài vật
thậm chí cả tiếng người, đôi khi hiện hình thành người… vì lẽ đó họ tin rằng có một vị
thần cọp.Yàng Roih (Thần voi): Voi là con vật to lớn, khôn ngoan. Người Ba Na tin rằng
có thần voi, Thần thường đánh những kẻ đến cướp làng, bảo vệ làng bằng cặp ngà của
mình. Vì vậy ngày nay chúng ta dễ bắt gặp cặp ngà voi được đặt trước nhà rông hay trong
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 16 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

trong khu nhà mồ để chống lại những kẻ xâm phạm hay những cái xấu xa.Yàng long
(Thần cây): Có những cây như cây Da, cây Sung, cây Sao…là những cây to lớn và người
Ba Na tin là có thần trú ngụ nên khi làm lễ cúng, họ cũng hay gọi Yàng Long về dự
lễ.Các Thần (Yàng)…chiếm một số rất đông, xuất hiện rất nhiều trong đời sống tâm linh
của người Ba Na từ xa xưa. Khi những khả năng trong thực tế bị hạn chế thì họ đã khẳng
định quyết tâm chinh phục của mình thông qua trí tưởng tượng phong phú và bằng những
biện pháp cụ thể, khái niệm thần linh hay các lực lượng siêu nhiên ra đời. Cách giải thích
này đã đáp ứng nhu cầu hiểu biết, thể hiện quan niệm của người Ba Na về vũ trụ quan,
nhân sinh quan và qua đó biểu hiện khát vọng chinh phục và chế ngự tự nhiên của người
Ba Na từ xưa đến nay.
3.9. Lễ hội
Ở Tây Nguyên nói chung và dân tộc Ba
Na nói riêng, có hai lễ hội lớn mang tính
cộng đồng cao. Đó là lễ đâm trâu cúng
Yàng và lễ bỏ mả. Cúng Yàng là việc làm
mang tính tâm linh. Cúng Yàng thường
có nhiều lễ vật khác nhau, người ta có thể
mổ gà cúng Yàng, có thê mô lợn để cúng

Yàng. Nhưng mổ gà, hoặc mổ lợn cúng
Yàng thường tổ chức cúng ở gia đình,
không làm ở làng cho nên ít người để ý
mô tả. Còn đâm trâu cúng Yàng thì tiến
hành ở làng nên được nhiều người

Lễ hội đâm trâu

quan tâm, đến tham dự. Lễ hội đâm trâu cúng Yàng được thực hiện ở trước nhà rông của
làng. Giữa bãi rộng trước nhà rông người ta dựng một cột bằng cây bông gạo (bông gòn),
cột được trang trí dẹp với ý nghĩa để Yàng đi lại. Buộc con trâu vào cột đó dân làng múa
xoang, đánh cồng chiêng đi vòng quanh con trâu, rồi bất thình lình, một người đàn ông
trai tráng khỏe mạnh cầm giáo đâm thẳng vào tim con trâu. Người đâm trâu giỏi phải là
người đâm một nhát, con trâu gục ngay và quay đầu về phía nhà rông. Theo truyền thống,
đâm trâu thường được thực hiện nhân dịp mừng lễ chiến thắng hoặc nhiều năm bị bệnh
dịch mất mùa, nhưng ngày này đôi khi đón cán bộ cấp cao về thăm cơ sở, làng, đông bào
cũng tô chức đâm trâu đón mừng. Sau khi đâm trâu, thịt trâu được tổ chức ăn chung một
bữa tại nhà rông. Thịt còn lại đem chia cho dân làng.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 17 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

3.10.
Tục lệ cưới xin
Dân tộc Ba Na cũng như các dân tộc khác ở nước ta thực hiện hôn nhân một vợ, một
chồng và ngoại hôn dòng tộc, sau hôn nhân cư trú bên chồng, hoặc cư trú luân phiên bên
chồng rồi bên vợ, mỗi bên vài ba tháng. Theo tục lệ cổ truyền, trai gái Ba Na đến tuổi dậy
thì, còn phải cà răng, căng tai nữa mới được công nhận là người lớn, được yêu nhau và

được xây dựng gia đình. Ngày nay tục lệ này không được tuổi trẻ ưa chuộng nừa. Việc tổ
chức đám cưới do hai bên gia đình thỏa thuận qua ông mối và quyết định đôi trai gái sẽ
về cư trú bên nào trước sau ngày cưới. Cũng theo tục lệ dân tộc Ba Na , bên nhà trai hoặc
bên nhà gái đều có thể chủ động đi hỏi vợ cho con trai hay hỏi chồng cho con gái. Bên
nào đi hỏi, bên đó chịu mọi chi phí cho đám cưới.

Tục mời trầu trong lễ cưới của người dân tộc Ba Na ( ảnh: sưu tầm )
Ở xã An Phú (Pleiku), việc tổ chức cưới theo truyền thống cần có 6 ghè rượu, 6 con gà.
số gà và rượu này được sử dụng như sau: 1 ghè rượu, 1 con gà cho ông già làng; 1 ghè
rượu, 1 con gà cho ông mối; 1 ghè rượu, 1 con gà cho cha mẹ 2 gia đình; 1 ghè rượu, 1
con gà cho anh chị em 2 gia đình; 1 ghè rượu, 1 con gà cho họ hàng xa gần; 1 ghè rượu, 1
con gà cho những người giúp việc. Trong lễ cưới, chủ nhà nấu một nồi cơm nhỏ, nắm
cơm thành 2 nam to bằng nắm tay và 2 đùi gà. Tất cả đặt trên mâm đế ở giữa nhà. Ông
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 18 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

mối mời đôi vợ chồng trẻ ngồi vào mâm Ông mối đưa cơm và đùi gà cho từng người.
Trước khi ăn, 2 vợ chồng đổi cơm và đùi gà cho nhau. Và phải ăn cho hết. Tiệc cưới
xong, khách làng xa được quà mang về cho người nhà.
Dân tộc Ba Na có tục lệ hôn nhân anh em chồng và hôn nhân chị em vợ. Sau lễ bỏ mả
cho chồng (hoặc vợ) quá cố, người goá làm một ghè rượu, một con gà, mời họ hàng bên
có người chết đến, người goá ném miếng thịt gà và rưới một tí rượu xuống sàn rồi tự
khẩn, bây giờ hai ta đã bỏ nhau, tao muốn đi kiếm chồng (vợ) khác, tao cho mày gà rượu
đây, mày đừng giận tao. Khấn xong, người goá câm chiếc cần rượu và hỏi, ai thương tôi
thì ra bẻ cái cần này. Nếu không ai thương thì người goá bồi thường cho anh em (chị em)
bên nhà chồng mỗi người một lưỡi cuốc, rồi đi lấy chồng khác.

3.11.

Tập quán sinh đẻ và nuôi con
Dân tộc Ba Na không sinh con ở nhà, mà sinh con ở trong lán nhỏ được dựng lên ở rừng
dành riêng cho sản phụ. Bởi theo quan niệm của đồng bào, nếu có một giọt máu rơi ra
trong nhà là nhà trở thành ô uế, là xúc phạm thần linh cai quản nhà, là phải dọn đồ đạc
trong nhà đi nơi khác dựng nhà ở. Sản phụ nuôi con nhỏ ở rừng một tháng mới được cha
đình đón mẹ và con về nhà. Con lớn lên sau một tháng đồng bào làm lễ “thổi tai” - thổi
hồn vào cho bé. Sau lễ thổi tai, bé mới có linh hồn. Bé dần lớn lên trong sự thương yêu,
chăm sóc của bố mẹ và của cả gia đình.
3.12.
Tập quán tang ma
Dân tộc Ba Na quan niệm người ta có xác và hồn. Đây cũng là quan niệm của nhiều dân
tộc trên thế giới. Khi người ta chết là xác bị chết, còn hồn vẫn tiếp tục tồn tại, tiếp tục
“sống”. Do đó, đồng bào tiến hành chia của cho người chết mọi đồ dùng hàng ngày: gùi,
cuốc, xà gạc, trang phục. Những của cải này để ở nhà mồ. Hàng ngày đồng bào chăm sóc
nhà mồ, mang cơm ra nhà mồ cho người quá cố ăn. Khoảng một năm sau khi mất, đồng
bào làm lễ bở mả - tiễn hồn người chết về trời để đầu thai kiếp khác.
3.13.
Văn nghệ dân gian.
Sông trong môi trường thiên nhiên hùng vĩ, cuộc sổng rất thơ mộng, nhưng cũng rất khó
khăn, con người luôn phải tìm cách vượt khó khăn đê vươn lên. Do vậy, dân tộc Ba Na
nói riêng và các dân tộc Tây Nguyên nói chung thường kể nhiều chuyện thần thoại nói về
tinh thần thượng võ, về những tấm gương vượt khó vươn lên. Hẳn đày cũng là một hình
thức nhắc nhở động viên con cháu hãy gắng vươn lên trong cuộc sống, chiến thắng mọi
trở ngại gian nguy để giành lấy cuộc sống ấm no hạnh phúc. Các dân tộc Tây Nguyên nói
chung và dân tộc Ba Na nói riêng có cách kể chuyện ở nhà rông rất hào hùng. Nghệ nhân
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 19 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần


- già làng khi kê chuyện thường có trang trí (cài lông chim lên mũ trên đầu), kèm theo
các động tác diễn xuất khá “chuyên nghiệp”. Văn vần được dân tộc Ba Na sử dụng để thơ
hóa luật tục. Đây là giải pháp hay, bởi một mặt, qua văn chương đồng bào dễ nhớ dễ hiểu
(khi chưa có chừ viết), mặt khác thơ văn hóa luật tục cũng là đặt lên vai ngôn ngữ học,
thúc đẩy ngôn ngữ (bảng từ vựng) phát triển. Dân ca của dân tộc Ba Na có nhiều làn điệu.
Dân ca thường ca ngợi cuộc sống lao động, ca ngợi tinh thần chiến đấu của dân tộc, ca
ngợi tình yêu trai gái. Con trai, con gái thường sử dụng làn điệu dân ca để tỏ tình với
nhau trong các dịp lễ hội. Dân ca Ba Na cũng như dân ca nhiều dân tộc Tây Nguyên
thường có giai điệu và tiết tấu “bốc lửa”. Hội hoạ của dân tộc Ba Na có thể ít phát triển,
nên các nhà nghiên cứu còn ít biết đến.
Điêu khắc của dân tộc Ba Na nói riêng và các dân tộc Tây Nguyên nói chung rất phát
triển và có nét độc đáo. Điêu khắc độc đáo là tượng nhà mồ. Tượng được đồng bào tạc
bằng gỗ với nhiều mô típ khác nhau, nhưng theo một chủ đề là phản ánh cuộc sống sinh
hoạt thường ngày của con người như: bế con, giã gạo, đánh cồng chiêng, tỏ tình vợ
chồng, phụ nữ bụng mang dạ chửa; hoặc những con khỉ, con chim, con gà.... Theo quan
niệm của đồng bào, các tượng gỗ này có giá trị thay người sống phục vụ cho người nằm
dưới mồ.
Âm nhạc của dân tộc Ba Na
trước hết phải kể đến nhạc cụ.
Nhạc cụ dân tộc Ba Na cũng như
nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên
rất phong phú. Trước hết là các
loại đàn làm bằng cây nứa như:
đàn tơ rưng, đàn klông pút, đàn
kni, đàn khing khung; tiếp đó các
loại nhạc cụ bằng chất liệu đồng
như: cồng, chiêng. Ngoài những
nhạc cụ cho người sử dụng, ở nơi
gió ngàn Tây Nguyên, đồng bào
Ba Na còn làm đàn gió, đàn

nước. Những loại nhạc cụ này có giá trị tạo ra âm thanh nghe vui tai, nhưng đồng thời
cũng có giá trị đuổi muông thú trên rừng, khi chúng có ý định đến các nương lúa phá hại.
Tiếng cồng chiêng tấu lên ở Tây Nguyên không chỉ có tiếng vang xa trong rừng đại ngàn,
mà sau đó tiếng vang vọng lại từ những cánh rừng bạt ngàn với âm thanh huyền bí, thu
hút những tâm hồn mộng mơ. Không gian cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa thế giới năm 2005.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 20 | 21


TỔNG QUAN DÂN TỘC BA NA | Hoàng Trần

Dân tộc Ba Na có những sinh hoạt văn nghệ mang tính cộng đồng. Đó là múa xoang diễn
ra trong các dịp lễ hội, quanh cột đâm trâu cúng Yàng, quanh đống lửa trại; còn khi các
già làng kể chuyện cho con cháu nghe tại các nhà rông, thì các cụ cũng có động tác diễn
xuất mang tính sân khấu với nét mặt thể hiện nội tâm của nhân vật trong truyện.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t | P a g e 21 | 21



×