Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tổng quan dân tộc Bố Y (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 13 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y
Mục Lục:
1.

Vài Nét về Dân Tộc Bố Y ..............................................................................................................2

2.

Kinh Tế Truyền Thống .................................................................................................................2

3.

2.1.

Trồng Trọt ...........................................................................................................................2

2.2.

Chăn Nuôi ...........................................................................................................................4

2.3.

Khai thác tự nhiên ...............................................................................................................5

2.4.

Ngành nghề thủ công...........................................................................................................5

2.5.



Trao đổi mua bán ................................................................................................................6

Văn hoá truyền thống .................................................................................................................6
3.1.

Làng ....................................................................................................................................6

3.2.

Nhà ở..................................................................................................................................7

3.3.

Y phục.................................................................................................................................7

3.4.

Trang Sức ............................................................................................................................8

3.5.

Ẩm thực ..............................................................................................................................8

3.6.

Phương tiện vận chuyển......................................................................................................9

3.7.


Ngôn ngữ ............................................................................................................................9

3.8.

Tín ngưỡng tôn giáo .......................................................................................................... 10

3.9.

Tục lệ cưới xin................................................................................................................... 10

3.10.

Tập quán sinh đẻ và nuôi con ......................................................................................... 11

3.11.

Tập quán tang ma .......................................................................................................... 12

3.12.

Văn Học – Nghệ Thuật ................................................................................................... 12

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 13


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

1. Vài Nét về Dân Tộc Bố Y
Dân số : 2.273 người (2009)
Ngôn Ngữ: ngôn ngữ Thái, nhóm ngôn ngữ Tày Nùng (nhóm Thái phía đông)

Tên gọi khác: Chủng Chá, Trọng Gia, Tu Dí, Tu
Dìn hay Pu Nà
Nhóm địa phương: Chúng Chá, Trọng Gia, Tu
Dí, Tu Dìn, Pàu Y, Pàu Nả, Pàu Thỉn
Địa Bàn Cư Trú :Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái,
Tuyên Quang

Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Bố Y ở Việt Nam có dân số
2.273 người, cư trú tại 14 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Bố Y cư trú tập
trung tại các tỉnh: Lào Cai (1.398 người, chiếm 61,5% tổng số người Bố Y tại
Việt Nam), Hà Giang (808 người, chiếm 35,5% tổng số người Bố Y tại Việt
Nam), Yên Bái (19 người), Tuyên Quang (18 người)

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1.Trồng Trọt
Dân tộc Bố Y là cư dân làm ruộng nước. Song từ sau khi di cư vào Việt Nam, họ
sống chủ yếu bàng nghề nương rẫy. Ở những nơi có đất tương đối bằng phẳng và
sẵn nguồn nước, đồng bào làm thêm ruộng bậc thang. Người Bố Y có t ập quán
cày ải đất ruộng trước Tết. Sau đó tháo nước vào ngâm cho đất ngấm kỹ, rồi mới
bừa. Ruộng được tiếp tục ngâm nước cho đến khi chuẩn bị cấy thì bừa lần nữa.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 13


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

Lúa nước- cây trồng chủ lực của người Bố Y (Ảnh: sưu tầm)

Cư trú trên núi cao, khí hậu lạnh, cho nên dân tộc Bố Y chỉ gieo trồng được một

vụ /năm. Lịch thời vụ của đồng bào vừa được tính theo ngày tháng âm lịch, vừa
kết hợp nhìn cây cỏ hoang dại trên vùng đất mà họ cư trú, đâm ch ồi, nẩy lộc.
Hàng năm, sau khi ăn tết (âm lịch), tháng giêng đang mùa khô, cây cỏ tự nhiên
còn đang “ngủ”, đồng bào dọn rẫy, đốt cỏ trên rẫy chuẩn bị sẵn sàng làm nương.
Tháng hai, tháng ba khi những cây gạo nở hoa đỏ rực chứng tỏ khí trời đã chuyển
đổi, thời tiết ấm lên từng ngày, đồng bào trồng ngô, gieo mạ. Tháng năm (âm
lịch) là chính vụ cấy, đồng bào tiến hành cấy lúa. Suốt thời gian từ khi gieo trồng,
cấy cho đển khi thu hoạch có rất nhiều việc phải làm: làm cỏ, bón phân cho cây
ngô cây lúa; trông giữ lúa, ngô khỏi bị muông thú phá hại. Tháng 6 thu hoạch
ngô, tháng 9 thu hoạch lúa. Đến giữa tháng 10, mọi thứ gieo trồng đã được thu
hoạch hết. Một mùa lạnh bắt đầu, trên nương ngô, ruộng lúa các loại cây cỏ lụi
dần vào trong lòng đất để trốn mùa đông lạnh giá, chờ mùa xuân đến. Dân tộc Bố
Y làm lều nhỏ ngay đầu bờ ruộng để thờ thần nông.
Ngoài cây lương thực chính, đồng bào còn trồng các cây lượng thực phụ. Cây
lương thực phụ có khoai, sắn, dong riềng. Những cây lương thực phụ cũng được
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 13


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

trồng vào mùa hè - thu. Cây sắn trồng trên nương riêng, cây khoai lang thường
trồng xen canh dưới gốc cây ngô, còn cây dong riềng trồng ở ven bờ nương ngô,
nương lúa.
Đồng bào trồng nhiều loại cây rau xanh theo mùa thời tiết trong vườn của gia
đình. Mùa xuân hè trồng các loại bầu bí, đậu đỏ, mướp; mùa thu đông thường
trồng su hào, bắp cải, các loại cây gia vị như hành, tỏi, ớt, rau thơm.

2.2.Chăn Nuôi
Dân tộc Bố Y chăn nuôi nhiều gia súc, gia cầm và thả cá trong ao. Mồi gia đình
đều nuôi một vài con trâu (bò) để cày bừa, một con ngựa để vận chuyện và đi lại

và nuôi lợn, gà, vịt, cá. Phương thức chăn gia súc là chăn thả. Ban ngày thả trâu
(bò) lên rừng ăn cỏ, chiều tối lùa trâu (bò) về chuồng. Vào mùa đông cây cỏ tự
nhiên khô héo, lụi hêt, trên rừng không còn cỏ tươi cho trâu (bò) ăn, cho nên
đồng bào Bố Y, sau mùa thu hoạch lúa thường thu rơm về nhà tích luỹ dựng thành
cây rơm dành cho trâu trong những ngày đông giá rét.

Người Bố Y chăm sóc trâu (Ảnh : sưu tầm)

Hàng năm, đến mùa cá đẻ trứng, đồng bào ra sông vớt trứng cá về ngâm trong
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 13


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

một vũng nước nhỏ trong vườn. Trứng nở ra cá con, sau khoảng một tháng cá con
lớn, đủ sức khỏe, mới đem thả vào ruộng lúa. Đồng bào Bô Y nuôi cá ở ruộng lúa
là một hoạt động không chỉ mang lại nguồn thực phẩm cho gia đình, mà còn có
tác dụng khác là khi con cá sục bùn tìm thức ăn nó làm hạn chế bớt cỏ dại mọc ở
ruộng. Với nền kinh tế tự túc, tự cấp, nghề chăn nuôi gia súc và nuôi cá cung cấp
đủ thịt, cá dùng vào những dịp hiếu, hỷ, cúng bái, lễ tết và tuần tiết trong năm.
2.3.Khai thác tự nhiên
Sống ở vùng núi cao, rừng cung cấp cho đồng bào nhiều nguồn lợi: g ỗ, lâm sản.
Đồng bào khai thác gỗ trên rừng về làm nhà, rào vườn, nương, làm công cụ sản
xuât, làm dược liệu. Đồng bào cỏ kinh nghiệm khai thác gỗ rừng về làm nhà. Việc
chặt cây làm nhà nên tiến hành vào thu hay mùa đông, tức là mùa khô, vì mùa thu
khí hậu khô, cây không phát triển, thân cây ngậm ít nước, cho nên ít bị m ối mọt.
Nguồn lâm sân trong rừng thường được đồng bào thu hái về d ùng làm sa nhân, ú
táu, hoàng tinh, tam thất, nam hương, mộc nhĩ, mật ong măng tươi và nhiều loại
rau rừng khác.
Trên rừng có nhiều loài muông thú: có thú dữ như: hổ, báo, thú quý hiểm và

những thú nhỏ như: hươu, nai, cầy, cáo, nhím, v.v... Đồng bào Bố Y hay săn thú
nhỏ với mục đích bảo vệ mùa màng, đồng thời lấy thịt ăn, cải thiện đời sống.
2.4.Ngành nghề thủ công
Trước kia, ngành nghề thủ công của dân tộc Bố Y khá phát triển, nhiều người Bố
y làm đồ gốm, đồ đá, chạm bạc,
mộc, rèn, dệt vải. Ngày nay, họ
tập trung vào việc sản xuất lương
thực và chăn nuôi gia súc, gia
cầm cho nên nghề thủ công bị bỏ
rơi. Riêng nghề dệt vẫn được chị
Nghề dệt vẫn được lưu giữ như một
nét đẹp văn hóa của dân tộc Bố Y

(Ảnh: sưu tầm)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 13


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

em phụ nữ quan tâm trong lúc nông nhàn, nhưng nói chung là không còn phát
triển nữa.
2.5.Trao đổi mua bán
Sinh sống ở vùng núi cao gần biên giới Việt - Trung, việc trao đổi, buôn bán ở
đồng bào Bố Y ít phát triển và có nét riêng là có quan hệ buôn bán chủ yếu ở ch ợ
đường biên, đường xá đi lại trắc trở, cư dân thưa thớt, đời sông kinh tế khó khăn.
Việc mua bán ở các chợ thường diễn ra theo phiên, 5 ngày/phiên hoặc vào ngày
chủ nhật, ở các chợ này hàng hóa nghèo nàn, chỉ có các hàng nông sản, lâm sản.
Không có những ông chủ buôn bán lớn với các cửa hàng, cửa hiệu lớn. Là chợ
đường biên, cho nên người họp chợ có cả người Việt Nam và có cả người Trung

Quốc. Ở chợ đường biên này thông thường họ dùng tiếng Mông làm phương tiện
giao tiếp chung cho cậ người Việt và người Trung. Đồng bào Bố Y đi chợ chủ yếu
mua kim, chỉ thêu, vải hoa, dầu thắp, muối ăn, nồi, xoong... Vải hoa là vải công
nghiệp do Trung Quốc sản xuất.

3. Văn hoá truyền thống
3.1.Làng
Làng của dân tộc Bố Y được dựng ở sườn
núi, chân núi, gần ruộng, cần nương,
đồng thời gần nguồn nước tiện cho sản
xuất: trồng trọt, chăn nuôi và đời sống.
Mồi làng có độ chục gia đình. Họ chủ
yếu là những người hàng xóm với nhau,
chứ không phải là người cùng dòng tộc.
Trong làng dân tộc Bố Y thường cư trú
xen kẽ với dân tộc khác như dân tộc
Nùng, dân tộc Mông. Đất đai thuộc phạm vi của làng chỉ được truyền miệng,
nhưng được xác định rõ ràng trong tâm thức của từng người dân mà không cần
văn bản pháp lý. Dân trong làng có sự ràng buộc chung về tâm linh. Đó là miếu
thờ sơn thần ở đầu bản. Sơn thần bảo vệ rừng núi, sông suối và vật nuôi, cây

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 13


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

trồng của cả làng. Vì vậy không phân biệt dòng họ hay dân tộc, mọi gia đình
trong làng đều có nghĩa vụ tham gia cúng bái trong miếu làng.
Cũng như nhiều dân tộc khác ở nước ta, đơn vị xã hội của dân tộc Bố Y là làng.
Quản lý xã hội thực chất là quản lý làng. Cơ chế quản lý làng được sắp xếp theo

tập quán gỗm có người chủ làng (người đứng đầu một dòng họ lớn nhất làng),
thầy cúng có uy tín nhất làng và công cụ quản lý là phong tục, tập quán (luật tục).
Thông thường người chủ làng xử lý tranh chấp, hòa giải các việc đời thường; còn
thầy cúng hay được mời tham vấn những việc liên quan đến tâm linh. Thầy cúng
còn hành nghề cúng bái khi dân làng có nhu cầu , đến nhà thầy cúng mời.
3.2.Nhà ở
Dân tộc Bố Y ở nhà đất. Ngôi nhà
phổ biến là nhà có cấu trúc ba gian,
có hai mái lợp bằng cỏ gianh hoặc
ngói, xung quanh trình tường. Phía
trước nhà có một hàng hiên. Có một
số nhà có hiên bốn mặt. Tuy là nhà
nền đất, nhưng nhà nào cũng làm xép
lưng. Trên gác xép này là nơi để ngũ
cốc, đồng thời là nơi ngủ của con trai
lớn chưa lấy vợ. Bộ khung nhà được dựng bàng gỗ, mái
bàng tre, nứa. Nét đặc trưng của việc bố trí bên trong nhà
ở là trên bàn thờ lớn đặt ba bát hương với cách thức thờ
của từng bát hương khác nhau. Thổ công của nhà ở được
thờ ngay gầm bàn thờ lớn. Bố trí chỗ trong nhà cũng có
nét khác, chủ nhà ngủ ở gian giữa, phụ nữ ngủ hai gian
bên cạnh. Con trai chưa vợ ngủ ở trên gác xép.
3.3.Y phục
Y phục phụ nữ Bố Y trước đây là chiếc váy rộng, xoè
tương tự như váy dân tộc Mông cùng cư trú trong vùng;
chiếc áo ngắn, khi mặc bỏ gấu áo vào bên trong cạp váy.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 13


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN


Bộ y phục của người Bổ Y ngoài váy và áo còn có chiếc xiêm đê che phần ngực. Xiêm
dài đủ trùm qua phần cạp váy. Khoảng vài chục năm trở lại đây, chị em phụ nữ dân tộc
Bố Y mặc như chị em dân tộc Nùng: áo 5 thân, cô viền, xẻ dưới cổ, mở chéo sang nách
bên phải, chiều dài đủ trùm mông; quần rộng ống, nhưng chiếc xiêm vẫn được giữ lại.
Vải dùng làm váy, áo, xiêm chủ yếu là vải sản xuât công nghiệp của Trung Quốc. Phụ nữ
Bố Y để đầu trần, vấn tóc ngược lên đỉnh đầu hoặc dùng khăn hẹp (khoảng 30cm), dài
(khoảng 200cm), màu chàm, khi đội tạo thành hình chừ “nhân” trên trán.
3.4.Trang Sức
Trang sức của dân tộc Bố Y gôm dây chuyền, vòng cổ,
khuyên tai, vòng tay. Chất liệu để làm đồ trang sức chủ yếu
là bạc. Đồ trang sức chỉ được sử dụng trong các dịp lễ tết,
cưới xin, hội hè, chợ hội đầu năm. Thường ngày ít khi
dùng đồ trang sức.

3.5.Ẩm thực
Dân tộc Bố Y ăn cơm, rau, trong các dịp lễ tiết, cúng bái
hoặc ăn cơm thịt, cá. Thịt ăn phổ biến là thịt lợn, gà. Đồng
bào thích ăn rau xào với mỡ lợn hơn ăn rau luộc. Do chịu ảnh hưởng của Khổng giáo,
trong bữa ăn, con dâu không được ngỗi cùng mâm với bố chồng; em dâu không dược
ngỗi cùng mâm với anh chồng. Trong trường hợp chỉ có hai người là con dâu và bố
chồng ở nhà, thì đến bữa ăn con dâu vẫn phải
dọn mâm riêng cho từng người ăn.
Dân tộc Bố Y uống rượu. Trong tiệc cỗ bàn, dân
tộc Bố Y thường cầm chén rượu chao qua hai
vai trước khi mời nhau uổng. Động tác chao
chén rượu qua vai được coi là để xua đuổi ma tà,
đảm bảo an toàn trong suốt tiệc vui.
Rau xào mỡ (Ảnh: sưu tầm)
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 13



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

3.6.Phương tiện vận chuyển
Để vận chuyển lương thực khi vào vụ
mùa đồng bào Bố Y dùng gùi như các
dân tộc sinh sống ở vùng núi cao khác;
đồng thời dùng ngựa thồ. Ngựa thồ cho
năng suất cao, giảm bớt được công lao
động cho người
Chiếc gùi cũng được đan bằng nan tre.
Mỗi người trong gia đình thường có vài
ba chiếc gùi để sử dụng hàng ngày.
3.7.Ngôn ngữ
Tiếng nói của dân tộc Bố Y thuộc hệ
ngôn ngữ Thái, nhóm ngôn ngừ Tày Nùng. Ngoài tiếng mẹ đẻ, trong giao
tiếp hàng ngày với dân tộc khác họ
dùng tiếng Nùng, tiếng Mông, tiếng
Hoa hoặc tiếng Kinh (Việt). Như vậy
người Bố Y bình thường biết thêm
vài ba tiếng nói của dân tộc khác,
ngoài tiếng mẹ đẻ. Hiện tượng một
dân tộc nói nhiều thứ tiếng dân tộc
khác cũng thường gặp ở nhiều dân
tộc thiểu số khác ở nước ta. Ngày nay cùng với sự phát triển giáo dục, con em dân tộc Bố
Y đi học nhiều, thế hệ trẻ nhiều người nói tiếng Kinh (Việt) thông thạo.
Dân tộc Bố Y chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình, Trước đây, các thầy cúng của dân
tộc Bố Y vẫn dùng chữ Hán để ghi chép những bài cúng, viết bài vị, gia phả, lá số... Ngày
nay chỉ còn vài người làm nghề thầy cúng còn biết loại chữ này.


N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 13


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

3.8.Tín ngưỡng tôn giáo
Dân tộc Bố Y quan niệm vạn vật hữu linh, tất cả rừng rú, núi non, sông suối, cây cỏ,
người... đều có hồn. Người Bố Y cũng quan niệm con người có xác và hồn. Người ta có
36 mình phán (phương mệnh, linh hồn), hồn có khả năng biến hóa khôn lường. Dân tộc
Bố Y thờ tổ tiên, trên bàn thờ có ba bát hương, bát đặt ở giữa to hơn đê thờ tổ tiên, hai bát
nhỏ hai bên thờ trời và thờ ông táo. Bàn thờ Thổ công của gia đình được đặt ngay dưới
bàn thờ tổ tiên. Đồng bào chịu ảnh hưởng của tam giáo (Phật, Khổng, Lão). Tư tưởng của
tam giáo thể hiện ở niềm tin vào thế giới bên kia, tin con người có số phận do trời định
sẵn... và các quan niệm khác chi phối các hoạt động cưới xin, ma chay và quan niệm ứng
xử ở hiền gặp lành.
Như nhiều dân tộc khác chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa cổ đại, dân tộc Bố Y tổ
chức ăn tết theo thời tiết: tết năm mới âm lịch, rằm tháng giêng, ngày cuối tháng giêng
(đắp nọi), thanh minh (ngày 3 - 3), đoan ngọ (ngày 5 - 5), ngày vu lan (ngày 15-7), tết
cơm mới (ngày 15-8). Trong dịp lễ tết luôn luôn có thịt gà, thịt lợn, xôi, bánh và rượu.
3.9.Tục lệ cưới xin
Hôn nhân của người Bố Y là hôn nhân ngoại hôn dòng họ, người cùng dòng máu không
được lấy nhau. Hôn nhân một vợ, một chồng bền vừng. Trường hợp lấy nhau lâu mà
không có con, người chồng muốn lấy thêm vợ lẽ cũng phải bàn bạc với vợ cả, được vợ cả
nhất trí, rồi vợ cả đi hỏi cho. Sau hôn nhân, theo tục lệ người vợ phải sang cư trú bên nhà
chồng.
Theo truyền thống, trong tục lệ hôn nhân của dân tộc Bố Y thường tiến hành theo một số
nghi thức. Gia đình có con trai lớn, bố mẹ tổ chức đi hỏi vợ cho con trai. Bố mẹ chàng
trai nhắm được cô gái ưng ý, phù hợp với con trai mình, thì nhờ hai bà trong làng, có tư
cách đứng đắn, làm mối. Hai người mối sang nhà gái, bày tỏ nguyện vọng của nhà trai.

Nếu nhà gái đồng ý thì cho hai mối mượn lá sô của cô gái mang về cho nhà trai. Nhà trai
nhờ bà mối so tuôi. Xưa kia, khi nhà gái nhận lời, họ còn gửi người mối đem tặng nhà
trai một chục trứng gà nhuộm đỏ, để tở lòng yêu mến của mình đổi với chàng rể tương
lai. Ngày nay tục lệ này không còn nữa. Trường hợp chàng trai và cô gái hợp tuổi nhau,
nhà trai lại nhờ hai người đàn ông có uy tín trong làng, mang theo lễ vật gỗm một chai
rượu, một cân đường, một con gà, đến nhà gái trả lá số và xin “giá ăn hỏi”. Trong những
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 13


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

năm gần đây, “giá ăn hỏi” thường được thỏa thuận là: một đôi gà, 7 đôi bánh giầy, 14
kilô gạo tẻ, 15 chai rượu trắng và 30 kilô thịt lợn. Lễ “ăn hỏi” được hai ông già thay mặt
nhà trai cùng bốn thanh niên mang lễ vật trên đến nhà gái.. Sau lễ “ăn hỏi”, đôi trai gái
được coi là vợ chồng chưa cưới, không ai được nhòm ngó đến họ nữa.
Lễ cưới được tổ chức trong hai ngày: ngày trước cưới ở nhà gái và ngày sau cưới ở nhà
trai. Cưới ở nhà gái ngày trước, ngày hôm sau nhà trai đón dâu vê. Đồ sính lễ nhà trai
mang đến nhà gái vào trước ngày đón dâu, gôm: 1 đôi gà, 7 đôi bánh giầy, 40 kilô gạo tẻ,
40 lít rượu trắng, 40 ki lô thịt lợn, 1 bộ nữ phục gỗm: quần, áo, khăn, xiêm, giày vải và 1
bộ trang sức bằng bạc: 1 đôi khuyên, 1 đôi vòng cô, 1 đôi vòng tay. Bộ nữ phục cùng bộ
đồ trang sức đựng trong chiếc rương màu đỏ và đưa về nhà chồng trong ngày đưa dâu.
Đoàn đón dâu thường có tám đến chục người, phần lớn là người ít tuổi. Trong đoàn đón
dâu, cần có hai đôi còn son trẻ, hai đôi đã có vợ, chồng. Họ là anh, chị, em, bầu bạn thân
thiết của chú rể. Nét đặc trưng của tục đón dâu là chú rể không bao giờ đi đón dâu. Em
gái chàng rể dắt theo một con ngựa hồng đẹp mã để chị dâu cưỡi lúc về nhà chồng. Em
gái chàng rể là người dắt ngựa cho chị dâu. Nhà gái có đoàn đưa dâu, số lượng người và
thành phần tương tự như đoàn nhà trai đến đón dâu.
Lúc về nhà chồng, cô dâu mang theo một chiếc kéo, một con gà mái con. Con gà được
thả vào rừng ở giữa đường; còn chiếc kéo mang theo về nhà chồng với ý nghĩa là đồ nữ
công, về đến nhà chồng, đôi tân hôn quỳ trước bàn thờ tổ tiên, quay lạy bốn phương và tổ

tiên, rồi vào trong phòng. Tiếp đó đôi tân hôn được hai bên trai và gái, hướng dẫn đi mời
rượu cô, chú, bác trong họ. Đáp lại nghi lễ này, những người được mời rượu, tùy tâm,
tặng cho cô dâu, chú rể một số tiền để gây vốn làm ăn. Trước kia, sau lễ cưới độ hai, ba
ngày, cô dâu về ở nhà bố mẹ đẻ là chính, thinh thoảng mới về nhà chồng vài ba ngày.
Đến khi có bầu gần đến ngày đẻ mới về ở hẳn bên nhà chồng, chờ ngày đẻ.
3.10.

Tập quán sinh đẻ và nuôi con

Xưa kia phụ nữ dân tộc Bố Y có tập quán đẻ ngỗi, rốn đứa trẻ được cắt bằng mảnh nứa
hơ qua lửa. Nhau đứa trẻ được chôn ngay gầm giường ngủ của mẹ. Sau ba ngày đồng bào
cúng bà mụ và đặt tên tục cho cháu. Trường hợp đứa trẻ quấy quả, ít ăn, ít ngủ hay khóc,
đồng bào cho rằng do vía của cháu không có chổ “dựa”. Trong trường hợp này, mẹ bé
tìm cho bé một bố nuôi, với niềm tin, bố nuôi sẽ là chỗ dựa cho vía cháu và cháu sẽ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 13


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

ngoan hay ăn chóng lớn. Khoảng 2-3 tuổi, bố mẹ đặt tên chính thức cho cháu. Sau khi
sinh con, vị thể của người con dâu (vợ) trong gia đình được xác định cao hơn. Sau khi đẻ,
phụ nữ Bố Y, phải kiêng kỵ một tháng, hết tháng kiêng mới được ra ngoài nhà, tiếp xúc
với dân làng, với cộng đồng
Dân tộc Bố Y là dân tộc nông nghiệp, nên nuôi dạy con cái chủ yếu là dạy lao động để có
thể biết làm ăn và sống được với nghề nông. Việc nuôi dạy con cái được tiến hành theo
phương thức “truyền khẩu thực hành”. Cha dạy con trai đi cày theo cách cầm tay chỉ
việc, mẹ dạy con gái dệt vải may vá quần áo cũng vừa nói vừa chỉ bảo con gái làm. Với
phương thức giáo dục như vậy, khi lớn lên con trai Bố Y ai cũng biết cày ruộng, con gái
ai cũng biết dệt vải, may vá, thêu thùa, đảm bảo tự túc được cuộc sống của mình.
3.11.


Tập quán tang ma

Dân tộc Bố Y quan niệm cuộc sống của con người có xác và có hồn. Khi sống hồn nhập
vào xác, còn khi chết, hồn lìa xác - xác chết, hồn vẫn sống vô hình xung quanh những
người thân ruột thịt. Làm nghi lễ tang ma là để bày tỏ tình cảm của người sống đối với
người chết trước khi đưa người chết đi chôn. Một số dân tộc sinh sống ở biên giới Việt Trung, trong đó có dân tộc Bố Y, người ốm yếu sắp chết thường được đưa về chăm sóc
trong nhà, rồi chêt trong nhà, khâm liệm ở trong nhà. Trường hợp chết ở ngoài nhà như
chết đuối, chết do tai nạn trên rừng,... thì quan tài phải đặt ở ngoài nhà (ở sân). Tang lễ
thường diễn ra một ngày, một đêm và thầy cúng đưa linh hồn người chết về quê hương
cũ. Trước khi đưa quan tài ra đồng, người ta bắn chỉ thiên bốn phát súng với mục đích để
trừ tà. Khi khiêng quan tài đi chôn lúc nào đằng chân cũng đi trước. Dọc đường khiêng
quan tài đi ra huyệt, người Bố Y có tục dừng chân theo tập quán. Nếu vợ (hoặc chồng)
người quá cố còn sống thì dừng chân ba lần. Trường hợp không còn ai nữa, thì dừng chân
bốn lần. Người để tang chít khăn trắng. Để tang thường là ba năm, nhưng chỉ cúng một
giỗ đầu. Trong thời gian để tang con trai không được uống rượu, con gái không được
mang đồ trang sức. Hết tang, bỏ khăn trẳng, con trai, con gái mới được lấy chồng, lấy vợ.
3.12.

Văn Học – Nghệ Thuật

Văn học của người Bố Y là văn học truyền miệng trong cộng đồng. Khi đến tụ cư tại Việt
Nam, người Bố Y đã mang theo một phần vốn quý văn hóa của dân tộc mình, nhưng do
dân số ít, lại sớm tiếp xúc và hòa nhập với nhiều dân tộc cùng cư trú trong vùng (Nùng,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 13


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC BỐ Y | HOÀNG TRẦN

Mông, Hoa) vốn di sản văn học của dân tộc Bố Y đã hòa vào vốn văn học của cư dân

cùng chung sống trong vùng. Những lời ca, tiếng hát, điệu kèn, những câu ca dao, tục
ngữ, thành ngữ, những câu đố, giải đố, những truyện kế dân gian... tất cả đã chuyển hóa
thành văn học chung của các dân tộc trong vùng.
Nghệ thuật hội hoạ, điêu khắc trong dân tộc Bố Y ít phát triển, ít gây ấn tượng, không thu
hút với các nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc.

Thanh La- một loại nhạc cụ của dân tộc Bố Y
(Ảnh: sưu tầm )

Nhạc cụ của dân tộc Bổ Y đáng chú ý là chiếc kèn, chiếc trống và thanh la. Kèn được
dùng trong đám cưới, thanh la và trổng dùng trong đám ma.
Y học dân gian của dân tộc Bố Y khá phát triển. Đồng bào hái các cây, lá rừng về chữa
các bệnh thường gặp như cảm cúm, gai cào rách da, răn, rết cắn...

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 13



×