Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Luận văn cao học Xuất khẩu lao động của tỉnh bắc kạn giai đoạn 2000 – 2010 thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.58 KB, 107 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập, nhu
cầu về việc làm của người lao động Việt Nam không những đang tăng lên về
số lượng mà còn đòi hỏi tương đối đa dạng về chủng loại công việc cũng
như mức độ thu nhập. Trước đòi hỏi đó, việc đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (xuất khẩu lao động - XKLĐ) là một
hoạt động cần thiết.
Những năm gần đây, xuất khẩu lao động đã trở thành một hoạt động
kinh tế - xã hội quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta.
Xuất khẩu lao động Việt Nam đã góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội
bức xúc. Tuy nhiên, đây cũng đang là một trong những hoạt động bộc lộ
nhiều khiếm khuyết, sơ hở, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và đang đứng
trước những thách thức mới.
Với sức ép nội tại về việc làm, nguyện vọng của người lao động và lợi
ích quốc gia, đòi hỏi phải được đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả, kể cả số
lượng lẫn chất lượng của chương trình xuất khẩu lao động, hiện tại cũng như
trong những năm tới nhằm đưa lĩnh vực xuất khẩu lao động tương xứng với
vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu lao động được Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định là
một trong những lĩnh vực kinh tế đối ngoại quan trọng, một bộ phận của
chính sách giải quyết việc làm được Quốc hội đưa vào chỉ tiêu kế hoạch
hàng năm. Việc mở rộng thị trường xuất khẩu lao động là hướng phát triển
kinh tế phù hợp với lộ trình hội nhập mở cửa, góp phần giải quyết việc làm
cho người lao động trong nước. Xuất khẩu lao động đã góp phần xóa đói
giảm nghèo và thu thêm ngoại tệ (xấp xỉ 1.6 tỷ USD/năm) cho gần nửa triệu
lao động, bao gồm cả lao động kỹ thuật và lao động giản đơn hiện đang ở 40



2

nước và vùng lãnh thổ. Trong những năm qua xuất khẩu lao động đã gia tăng
mạnh và đã góp phần tích cực vào chiến lược giải quyết việc làm, tăng thu
nhập, tạo sự ổn định và phát triển đất nước.
Bắc Kạn là một tỉnh nghèo nằm ở miền núi phía Bắc. Phần đông dân
số của tỉnh làm nghề nông với thu nhập thấp, vẫn còn mang nặng tính tự cấp
tự túc, tự sản tự tiêu. Sản phẩm nông nghiệp chưa thực sự mang tính hàng
hóa. Người nông dân làm nông nghiệp nhằm phục vụ nhu cầu của họ là
chính, khi có sản phẩm thừa họ mới mang ra trao đổi trên thị trường. Có một
bộ phận thanh niên địa phương do điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn
nên có thể chỉ học hết bậc trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông. Do hạn
chế về trình độ nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm,
tạo thêm thu nhập cho gia đình. Vì vậy, xuất khẩu lao động chính là một
trong những giải pháp hiệu quả góp phần giải quyết việc làm, tăng thêm thu
nhập cho người dân Bắc Kạn.
Trong những năm qua, các cấp, các ngành, các địa phương của tỉnh đã
có nhiều cố gắng trong công tác xuất khẩu lao động, mỗi năm đã đưa được
trên 500 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, góp phần quan trọng
vào việc phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, từng bước giảm tỷ lệ
hộ nghèo trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, công tác xuất khẩu lao động của tỉnh thời gian qua còn có
những hạn chế nhất định, kết quả thực hiện hàng năm chưa đạt chỉ tiêu so
với kế hoạch đề ra. Nguyên nhân chủ yếu là do một số địa phương chưa thực
sự quan tâm triển khai, tuyên truyền và có giải pháp tích cực trong công tác
xuất khẩu lao động; chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị, doanh
nghiệp đến tư vấn, tuyển chọn lao động, cá biệt có địa phương còn biểu hiện
gây phiền hà trong việc xác nhận hồ sơ của người lao động đi xuất khẩu.



3

Vì những lý do trên nên tác giả chọn vấn đề: “Xuất khẩu lao động
của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2000 – 2010” làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, từ năm 1990 trở lại đây có thể kể đến một số các công trình
tiêu biểu viết về xuất khẩu lao động như:
- “Xuất khẩu lao động của một số nước Đông Nam Á kinh nghiệm và
bài học” - tác giả Nguyễn Thị Hồng Bích, xuất bản năm 2007 - viện khoa
học xã hội vùng Nam Bộ, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Cuốn sách khẳng định rằng trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay,
xuất khẩu lao động ở các nước Đông Nam Á đang ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong sự phát triển của nhiều quốc gia. Xuất khẩu lao động vừa là
phương tiện thu hút ngoại tệ thông qua tiền gửi của người lao động làm việc
ở nước ngoài, vừa là cơ hội tăng việc làm cho người dân, giảm bớt nạn thất
nghiệp ở trong nước. Xuất khẩu lao động được coi là một trong những chiến
lược phát triển của nhiều quốc gia Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Dựa
trên kết quả nghiên cứu tình hình xuất khẩu lao động, cuốn sách đã cho thấy
quá trình tiến hành xuất khẩu lao động ở các quốc gia Đông Nam Á đều gặp
phải những vấn đề tương tự trong các khâu: Phát triển và tiếp thị thị trường
lao động ngoại quốc; Bảo vệ công dân di cư trong quá trình tuyển chọn và
sử dụng lao động; Chính sách và khung pháp lý; Cơ cấu và cơ chế quản lý
lao động di cư; Đào tạo và định hướng trước khi xuất khẩu; Quản lý tiền gửi
của người lao động; Các chương trình tái hội nhập và Hợp tác liên quốc gia
thông qua các hiệp định song phương với các nước nhập khẩu nguồn lao
động; Các cơ chế hợp tác khu vực và hội đàm đa phương…. Từ đó có thể rút


4


ra nhiều bài học kinh nghiệm chung cho các nước trong khu vực Đông Nam
Á.
- “Cẩm nang pháp luật về xuất khẩu lao động ” của tác giả Hoàng Lê,
NXB Lao động Xã hội. Quyển sách cung cấp những thông tin cho người đọc
những tin tức chung nhất về các quy trình tuyển chọn người đi lao động ở
nước ngoài như thế nào, điều kiện đi làm việc ở nước ngoài, hồ sơ cho người
đi lao động ở nước ngoài cần những gì, trình tự thủ tục đăng ký hợp đồng
đối với người lao động có hợp đồng. Và một số những thông tin về các
doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở một số thị trường như:
Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc.
- “Giáo trình luật lao động cơ bản”, tác giả Thạc sỹ Diệp Thành
Nguyên - Giảng viên đại học Cần Thơ - xuất bản năm 1994, tái bản năm
2002. Cuốn sách cung cấp cho bạn đọc những lý luận chung nhất về lao
động- tiền lương, bảo hiểm xã hội, tuyển dụng lao động, xuất khẩu lao động,

Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về vấn đề XKLĐ đáng
lưu ý, như: Nguyễn Lương Trào (1993): Mở rộng và nâng cao hiệu quả việc
đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài - Luận án tiến sĩ kinh tế;
Cao Văn Sâm (1994): Hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế xuất khẩu lao
động - Luận án tiến sĩ kinh tế; Trần Văn Hằng (1995): Các giải pháp nhằm
đổi mới quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động trong giai đoạn 1995-2010
- Luận án tiến sĩ kinh tế; Nguyễn Đình Thiện (2000): Một số vấn đề về xuất
khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Luận văn thạc sĩ
kinh tế chính trị; Nguyễn Văn Tiến (2002): Đổi mới cơ chế quản lý nhà
nước về xuất khẩu lao động - thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sĩ
quản lý kinh tế; Nguyễn Phúc Khanh (2004): Xuất khẩu lao động với
chương trình quốc gia về việc làm - Thực trạng và giải pháp - Đề tài khoa



5

học cấp Bộ. Ngoài ra còn có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở,
các bài nghiên cứu đăng trên nhiều tạp chí viết về vấn đề này.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ
- Mục tiêu nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về xuất khẩu lao
động của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2000 – 2010 để tìm ra những tồn tại,
nguyên nhân và đưa ra giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao
động.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về xuất
khẩu lao động; phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu lao động của Bắc
Kạn; đưa ra phương hướng, khuyến nghị giải pháp…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề tạo việc làm cho người lao
động tại tỉnh Bắc Kạn thông qua hoạt động xuất khẩu lao động trong giai
đoạn 2000 – 2010. Luận văn chọn tỉnh Bắc Kạn làm địa bàn nghiên cứu chủ
yếu, ngoài ra còn một số vùng, khu vực và địa phương khác nhằm bổ trợ
một cách có hiệu quả cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kết hợp với một số phương
pháp khác như thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp một cách logíc, có
kế thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu khoa học
trước đây để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
6. Cái mới của luận văn
Làm rõ được thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc
Kạn giai đoạn 2000 – 2010; tìm ra được một số nguyên nhân của thành công
và hạn chế trong hoạt động xuất khẩu lao động tại tỉnh Bắc Kạn; đưa ra được



6

một số giải pháp nhằm thúc đẩy công tác xuất khẩu lao động hoạt động có
hiệu quả hơn trong những năm tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách kinh tế - xã hội, nhất là đối với những người làm công tác
XKLĐ và các độc giả quan tâm.
Chính quyền địa phương (Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Kạn, Sở Lao động
– Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Kạn…) có thể sử dụng luận văn này như
một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc đưa ra những chiến lược, chính sách
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động nói riêng và thúc đẩy tăng trưởng,
phát triển kinh tế của tỉnh nói chung.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
từ viết tắt, bảng biểu, nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề về lý luận và tóm lược về chính sách, thực
tiễn về xuất khẩu lao động.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn
2000 – 2010.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao
động của tỉnh Bắc Kạn.


7

CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ TÓM LƯỢC VỀ CHÍNH SÁCH,
THỰC TIỄN XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA
VIỆT NAM

1.1. Một số vấn đề lý luận về lao động và xuất khẩu lao động
1.1.1. Khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người, thông qua hoạt động
đó con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến chúng thành những vật có
ích nhằm phục vụ mục đích nào đó của con người. Hoạt động lao động có 3
đặc trưng cơ bản:
- Xét về tính chất, hoạt động lao động phải có mục đích (có ý thức) của
con người.
- Xét về mục đích, hoạt động lao động phải tạo ra sản phẩm nhằm thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người.
- Xét về nội dung, hoạt động lao động phải là sự tác động vào tự nhiên
làm biến đổi tự nhiên và xã hội nhằm tạo ra của cải vật chất và tinh thần
phục vụ lợi ích của con người.
1.1.1.2. Sức lao động
Sức lao động là phạm trù chỉ khả năng lao động của con người, là tổng
hợp thể lực và trí lực của con người được con người vận dụng trong quá
trình lao động. Theo C.Mác thì sức lao động hay năng lực lao động là toàn
bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một
con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng khi sản xuất ra một
giá trị sử dụng nào đó.
Sức lao động của con người được thể hiện:


8

- Khả năng về thể chất (thể lực): chỉ rõ khả năng làm việc chân tay,
được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu như chiều cao, cân nặng, thị lực, thính
lực…
- Khả năng về tinh thần (trí lực): chỉ rõ khả năng làm việc trí tuệ, được

biểu hiện thông qua các chỉ tiêu về trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn,
kinh nghiệm công tác…
Sức lao động là điều kiện đầu tiên cần thiết trong quá trình lao động xã
hội. Trên thị trường lao động, sức lao động được coi là hàng hoá. Đây là
hàng hoá đặc biệt vì bản thân con người có tư duy, tự làm chủ, nói cách khác
con người là chủ thể lao động. Thông qua thị trường lao động, sức lao động
được xác định giá cả.
1.1.1.3. Nguồn lao động
Nguồn lao động được hiểu là một bộ phận dân cư bao gồm những
người trong độ tuổi lao động (không kể những người mất khả năng lao động)
và những người ngoài độ tuổi lao động thực tế có tham gia lao động.
Cần phân biệt nguồn lao động với dân số trong độ tuổi lao động. Cả
hai thuật ngữ trên đều giới hạn độ tuổi lao động theo luật định của mỗi nước,
nhưng nguồn lao động chỉ bao gồm những người có khả năng lao động trong
khi dân số trong độ tuổi lao động còn bao gồm dân số trong độ tuổi lao động
nhưng không có khả năng lao động như tàn tật, mất sức lao động bẩm sinh
hoặc do các nguyên nhân: chiến tranh, tai nạn giao thông, tai nạn lao động…
Việc quy định độ tuổi lao động ở các nước khác nhau là khác nhau. Căn
cứ để xác định độ tuổi lao động:
- Sức khoẻ của người dân
- Giới tính
- Trình độ phát triển kinh tế, xã hội…


9

Ở Việt Nam, căn cứ vào Điều 6 của Bộ Luật lao động nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi và bổ sung năm 2002 “Người lao
động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp
đồng lao động” và Điều 145 “Người lao động được hưởng chế độ hưu trí

hàng tháng khi có đủ điều kiện về tuổi đời và thời gian đã đóng bảo hiểm xã
hội như sau: nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi…” Căn cứ vào đó, độ tuổi lao
động của người Việt Nam như sau:
- Nam từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi.
- Nữ từ đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi.
1.1.1.4. Việc làm, thất nghiệp và tạo việc làm
- Việc làm: Theo điều 13 Bộ luật lao động: “Mọi hoạt động tạo ra thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Trên thực tế việc làm nêu trên được thể hiện dưới 3 hình thức:
+ Một là, làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho
công việc đó.
+ Hai là, làm công việc để thu lợi cho bản thân mà bản thân lại có
quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu (một phần hay toàn bộ) tư liệu sản xuất để
tiến hành công việc đó.
+ Ba là, làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả
thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản
xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc 1 thành
viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý.
- Thất nghiệp là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không
tìm được việc làm. Các học thuyết kinh tế học giải thích thất nghiệp theo các
cách khác nhau. Kinh tế học Keynes nhấn mạnh rằng nhu cầu yếu sẽ dẫn đến
cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân (thất nghiệp chu kỳ). Một số khác chỉ
rằng các vấn đề về cơ cấu ảnh hưởng thị trường lao động (thất nghiệp cơ


10

cấu). Kinh tế học cổ điển và tân cổ điển có xu hướng lý giải áp lực thị
trường đến từ bên ngoài, như mức lương tối thiểu, thuế, các quy định hạn
chế thuê mướn người lao động (thất nghiệp thông thường). Có ý kiến lại cho

rằng thất nghiệp chủ yếu là sự lựa chọn tự nguyện. Chủ nghĩa Mác giải thích
theo hướng thất nghiệp là thực tế giúp duy trì lợi nhuận doanh nghiệp và chủ
nghĩa tư bản. Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo những cách khác
nhau, góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng thất nghiệp. [1]
- Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản
xuất; số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội
cần thiết khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động.
Như vậy, muốn tạo việc làm cần 3 yếu tố cơ bản: tư liệu sản xuất, sức
lao động và các điều kiện KTXH khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao
động. Ba yếu tố này lại chịu tác động của nhiều yếu tố khác.
1.1.1.5. Thị trường lao động (TTLĐ)
Thị trường lao động, xét về mặt thuật ngữ là không hợp lý. Tuy nhiên
trên thực tế vẫn sử dụng thuật ngữ này mà không dùng thuật ngữ thị trường
sức lao động, nhưng cần hiểu đây là viết tắt của thị trường sức lao động.
Nghị quyết Đại hội X của Ban chấp hành Đảng cộng sản Việt Nam cũng
thống nhất dùng thuật ngữ thị trường lao động.
“Thị trường lao động là tập hợp các hoạt động nhằm trao đổi, mua bán hàng
hoá sức lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động, qua đó giá
cả, điều kiện và quan hệ hợp đồng lao động được xác định”.[8]
Trên thị trường lao động, mối quan hệ được thiết lập giữa một bên là
người lao động và một bên là người sử dụng lao động. Qua đó, quan hệ cung
- cầu về lao động ảnh hưởng tới tiền công lao động và ngược lại, mức tiền
công lao động cũng ảnh hưởng tới cung - cầu lao động. Khi cung và cầu lao
động gặp nhau và hoạt động mua bán hay thuê mướn sức lao động diễn ra


11

trong phạm vi biên giới một quốc gia, đó được gọi là thị trường lao động nội
địa; nếu diễn ra ở ngoài biên giới quốc gia một nước thì gọi là thị trường lao

động quốc tế. Đứng từ góc độ của Việt Nam là nước xuất khẩu lao động
(XKLĐ), thì thị trường nhập khẩu lao động (NKLĐ) được hiểu theo nghĩa
chung nhất, là một bộ phận của thị trường lao động quốc tế mà nó được hình
thành từ tổng cầu lao động nước ngoài trên thị trường trong nước và tổng
cung mà thị trường lao động quốc tế đáp ứng. Hoạt động XKLĐ trên thị
trường lao động quốc tế được thực hiện chủ yếu dựa vào quan hệ cung - cầu
lao động, chịu tác động và chịu sự điều tiết của các quy luật thị trường. Bên
cung lao động (hay thị trường XKLĐ) tính toán giá cả lao động, tìm nguồn
lao động có chất lượng, đào tạo huấn luyện lao động… để nhằm mục đích
cuối cùng là xuất khẩu được nhiều lao động. Mặt khác, bên cầu lao động (thị
trường NKLĐ) phải tính toán kỹ hiệu quả của việc NKLĐ, từ đó xác định
chặt chẽ số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động hợp lý để tiến hành NKLĐ.
Thị trường lao động là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường
trong nền kinh tế thị trường phát triển. Ở đó diễn ra quá trình thoả thuận,
trao đổi, thuê mướn lao động giữa hai bên, bên sử dụng và bên cho thuê lao
động. Sự vận hành của TTLĐ phụ thuộc vào cung- cầu lao động; giá cả sức
lao động và mức độ cạnh tranh (ở thị trường lao động mức độ cạnh tranh chủ
yếu phụ thuộc vào trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng của người lao
động)…
Thị trường lao động bao gồm 2 loại:
- Thị trường lao động trong nước:
Thị trường lao động trong nước là một thị trường lao động nhưng trong
phạm vi biên giới của một quốc gia.
- Thị trường lao động quốc tế :


12

Thị trường lao động quốc tế là thị trường lao động trong đó lao động
di chuyển giữa các nước thông qua các Hiệp đinh giữa các quốc gia trên thế

giới.
Thị trường lao động thế giới cũng chịu tác động của cung cầu lao động,
giá cả sức lao động và sự cạnh tranh. Nhưng phạm vi hoạt động của thị
trường lao động quốc tế lớn hơn và mang tính cạnh tranh giữa các quốc gia.
1.1.1.6. Xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một hình thức di cư lao động quốc tế, là trường
hợp có sự di chuyển giữa lao động và người lao động từ nước này sang nước
khác để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt lao động của nước tiếp nhận và mang lợi
ích cho cả hai bên. XKLĐ là một hình thức đặc thù của XK nói chung –hàng
hoá đem XK là sức lao động của con người.
XKLĐ không phải là một hiện tượng mới mẻ mà đã có từ lâu trong
lịch sử như một tất yếu khách quan bắt nguồn từ sự chênh lệch về trình độ
phát triển giữa các quốc gia, sự khác nhau về nhu cầu và khả năng nguồn lao
động, sự chênh lệch về mức tăng dân số tự nhiên. Theo đánh giá của tổ chức
Di dân quốc tế (IOM), hiện nay có trên 55 nước được xếp vào loại các nước
XKLĐ lớn tức là có trên 2% lực lượng lao động đạt trên 1% tổng sản phẩm
quốc dân. Các nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển lẫn các nước kém
phát triển đều tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động. Các nước phát
triển, xuất khẩu lao động có trình độ, kỹ thuật cao. Các nước kém phát triển
xuất khẩu lao động dư thừa, trình độ tay nghề thấp nhằm giải quyết việc làm,
cải thiện điều kiện sống cho gia đình người lao động. Xuất khẩu lao động
đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
XKLĐ ra đời do sự mất cân đối về nguồn lao động giữa các nước.
Thông thường các quốc gia XKLĐ đều là những quốc gia đang phát triển,
dân số đông, thiếu việc làm trong nước hoặc có thu nhập thấp, nền kinh tế và


13

sản xuất trong nước không đáp ứng đủ chỗ việc làm cho người lao động.

Trong khi đó có những nước thiếu nguồn nhân lực để khai thác phát triển
sản xuất. Để giải quyết tình trạng mất cân đối trên thì XKLĐ là yếu tố khách
quan nhằm khắc phục sự mất cân đối về nguồn lao động giữa các quốc gia.
Tuy nhiên di cư lao động cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong
các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hoá - xã hội đối với cả nước xuất lẫn
nước nhập khẩu lao động. Như nạn chảy máu chất xám, buôn lậu, di cư trái
phép và buôn bán người qua biên giới…
Về lý thuyết, xuất khẩu lao động thường xảy ra chủ yếu khi ở nước
xuất khẩu thiếu việc làm. Đây là nguyên nhân chính làm phát sinh hoạt động
xuất khẩu lao động. Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng nữa là do kì vọng
của người lao động vào thu nhập khi đi xuất khẩu. Họ không thiếu việc làm,
ở địa phương họ vẫn có công việc nhưng với mức thu nhập thấp, họ không
đủ đảm bảo cuộc sống. Vì vậy, họ chọn đi làm việc ở nước ngoài để có mức
thu nhập cao hơn.
1.1.2. Đặc điểm của xuất khẩu lao động
1.1.2.1. XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại đặc thù
Điều này thể hiện rõ nét ở chỗ, XKLĐ là hoạt động vừa có tính kinh
tế lại vừa có tính xã hội sâu sắc.
a) XKLĐ là một hoạt động kinh tế
Tính kinh tế thể hiện ở việc nước XKLĐ được hưởng lợi rất nhiều từ
những dòng tiền chuyển về của người lao động ở nước ngoài, ở việc tăng thu
ngân sách nhà nước và ở một số lợi ích khác. Ở nhiều nước trên thế giới,
thông qua giải quyết việc làm cho một phần lực lượng lao động đang ngày
càng tăng lên ở nước họ, XKLĐ đã là một giải pháp quan trọng để thu hút
ngoại tệ bằng hình thức chuyền tiền về nước của người lao động. Những lợi


14

ích này là động lực khiến nước XKLĐ phải chiếm lĩnh được thị trường lao

động ở nước ngoài và việc này có thể đạt được hay không còn tuỳ thuộc vào
cung - cầu lao động trên thị trường thế giới. Các nước XKLĐ và NKLĐ phải
tính toán kỹ xem lợi ích và mất mát từ hoạt động kể trên và đưa ra quyết
định đúng đắn. Như vậy, việc quản lý Nhà nước, sự điều chỉnh pháp luật liên
quan tới XKLĐ luôn luôn bám sát đặc điểm này, làm sao để mục tiêu kinh tế
luôn là mục tiêu số một.
b) XKLĐ là một hoạt động mang tính xã hội
XKLĐ có tính xã hội vì sức lao động là hàng hoá đặc biệt, nó không
thể tách rời chủ thể là người lao động. Vì vậy mọi chính sách pháp luật hay
hợp đồng lao động trong lĩnh vực này phải kết hợp với chính sách xã hội:
đảm bảo người lao động xuất khẩu phải được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội,
chế độ y tế, hoạt động công đoàn, nghỉ phép, nghỉ các ngày lễ Tết, đảm bảo
người lao động ở nước ngoài được lao động như cam kết trong hợp đồng lao
động… Bên cạnh đó, chủ thể lao động có khả năng tư duy và có khả năng tự
làm chủ bản thân. Vì vậy, ở tầm vĩ mô, trong các hiệp định và hợp đồng ký
kết bên cạnh những điều khoản, điều mục thông thường, còn phải có những
điều khoản đề cập đến đời sống chính trị, tinh thần, văn hoá, sinh hoạt của
người lao động như vấn đề thăm viếng của các thân nhân, vấn đề đào tạo để
nâng cao tay nghề, các sinh hoạt văn hoá, tinh thần tập thể, các ngày lễ hội…
1.1.2.2. XKLĐ là một hoạt động xuất khẩu dịch vụ
XKLĐ là hoạt động xuất khẩu dịch vụ đặc thù, khác hẳn với xuất
khẩu hàng hoá thông thường vì sức lao động không thể tách rời với chủ thể
lao động.
i) Tính chất vô hình, không thể chia cắt


15

Đặc điểm của dịch vụ thông thường là không hiện hữu, không tồn tại
dưới dạng vật thể, không thể sờ mó, tiếp xúc hay nhìn thấy được khi quyết

định sử dụng. Và trong hoạt động kinh doanh các loại hình dịch vụ, quá trình
cung cấp dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Cũng giống như
vậy, trong hoạt động XKLĐ, yếu tố vô hình chính là hàng hóa sức lao động.
Quá trình người thuê lao động sử dụng lao động và quá trình người lao động
đem sức lao động phục vụ sản xuất theo thỏa thuận diễn ra song song. Do
vậy, hoạt động XKLĐ được coi là hoạt động xuất khẩu dịch vụ.
Lĩnh vực XKLĐ có điểm đặc biệt là hoạt động XKLĐ kéo dài từ khi
đưa người lao động ra nước ngoài, giúp họ hoà nhập với môi trường làm
việc ở nước nhận lao động, với các hoạt động đào tạo nghề cũng như văn
hoá phong tục, lối sống, luật pháp... của nước họ đến lao động cho tới khi họ
trở về nước. Các bên liên quan đến hoạt động XKLĐ có quyền lợi và nghĩa
vụ trong suốt thời hạn của hợp đồng, thậm chí đối với doanh nghiệp, thời
hạn thực hiện nghĩa vụ còn dài hơn thời hạn hiệu lực của hợp đồng vì họ
phải thực hiện công việc trước khi đưa người lao động ra nước ngoài làm
việc và giải quyết những công việc sau khi người lao động kết thúc thời hạn
hợp đồng làm việc ở nước ngoài. Như vậy, khác với hoạt động mua bán
hàng hoá thông thường, các bên liên quan trong XKLĐ phải thường xuyên
có những hành động để thực hiện nghĩa vụ quy định trong hợp đồng hoặc cả
trong trường hợp không quy định trong hợp đồng nhưng có liên quan đến
quyền lợi của người lao động, người sử dụng lao động.
ii) XKLĐ là một hoạt động không mang tính xác định
Dịch vụ có tính không đồng nhất, không xác định bởi các dịch vụ phụ
thuộc vào người cung cấp. Giống như vậy, chất lượng của hàng hoá sức lao
động không có tính đồng nhất vì nó được phản ánh dựa vào tay nghề, sự


16

sáng tạo cũng như sự dẻo dai, bền bỉ trong lao động của người lao động.
Trong khi các loại hàng hóa thông thường khác thường được chuẩn hóa ở

mức cao, có thể đem so sánh với nhau thì hàng hóa sức lao động hoàn toàn
không giống nhau. Mỗi người lao động là một tập hợp của các năng lực bẩm
sinh cộng với các kỹ năng chuyên biệt tiếp thu được từ giáo dục và đào tạo,
mỗi người lao động đều có những đặc điểm riêng về khả năng, trình độ, tuổi
tác, nguồn gốc, giới tính… Chính vì thế, sức lao động do những người này
đem ra trao đổi trên thị trường lao động khác nhau, không đồng nhất.
1.1.2.3. Giá xuất khẩu của sức lao động
Điểm khác biệt giữa việc xuất khẩu hàng hoá sức lao động với hàng
hoá thông thường còn thể hiện ở việc tính giá xuất khẩu của hàng hoá sức
lao động.
Giá trị hàng hoá sức lao động bao gồm ba bộ phận:
+ Thứ nhất là giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất
sức lao động của bản thân người lao động.
+ Thứ hai là giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để người lao động
có thể nuôi dưỡng gia đình họ.
+ Thứ ba là chi phí đào tạo nghề nghiệp, chi phí để thỏa mãn các nhu
cầu văn hoá tinh thần của người lao động.
Như vậy, khi tính giá xuất khẩu sức lao động phải tính đúng và tính
đủ các yếu tố hình thành giá trị hàng hoá sức lao động, đặc biệt là phải tính
trong điều kiện thị trường cụ thể bởi mỗi thị trường có chi phí và điều kiện
sinh hoạt khác nhau. Việc tính giá xuất khẩu sức lao động có vai trò rất lớn
trong việc quyết định tính cạnh tranh của các thị trường lao động.
1.1.2.4. Hoạt động XKLĐ phải đảm bảo lợi ích ba bên


17

Đối tượng tham gia hoạt động XKLĐ gồm có Nhà nước, tổ chức
XKLĐ và người lao động. Vì vậy, hoạt động XKLĐ có đặc thù rất riêng là
phải đảm bảo sự hài hòa về lợi ích của cả ba bên tham gia.

- Thứ nhất là lợi ích của Nhà nước, thể hiện ở các khoản ngoại tệ mà
người lao động gửi về và các khoản thuế mà họ phải nộp.
- Thứ hai là lợi ích của các tổ chức XKLĐ, chủ yếu là các khoản thu
từ các loại phí giải quyết việc làm ở nước ngoài.
- Thứ ba là lợi ích của người lao động, đó là các khoản thu nhập,
thường cao hơn so với thu nhập khi họ làm việc trong nước.
Về mặt lý luận thì hoạt động XKLĐ đảm bảo lợi ích ba bên nhưng
trên thực tế vẫn còn có nhiều trường hợp các bên xâm phạm đến lợi ích của
nhau: Có nhiều trường hợp các tổ chức XKLĐ có quyền đưa người lao động
và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài vì chạy theo lợi ích của mình mà rất
dễ vi phạm quy định của Nhà nước, nhất là việc thu các loại phí dịch vụ.
Ngược lại, cũng có trường hợp vì chạy theo thu nhập cao mà người lao
động rất dễ vi phạm những hợp đồng đã ký kết như hiện tượng làm thêm
bên ngoài đơn vị đã ký hợp đồng, hoặc bỏ hợp đồng ra làm việc bên
ngoài… Chính vì vậy, các chế độ chính sách Nhà nước đưa ra cần phải
đảm bảo hài hoà lợi ích trực tiếp của các bên, đặc biệt phải thật chú ý đến
lợi ích trực tiếp của người lao động và các chuyên gia.
1.1.2.5. Hoạt động XKLĐ là hoạt động có thời hạn
Có thể nói XKLĐ là sự di chuyển quốc tế về sức lao động có kế hoạch
và có thời hạn. Chính vì vậy, Nhà nước và các doanh nghiệp XKLĐ cần có
chế độ ưu đãi, khuyến khích và hỗ trợ, giúp người lao động có sự ổn định về
tinh thần cũng như vật chất sau khi hết thời hạn lao động ở nước ngoài và trở
về nước. Chính sách đối với người lao động sau khi về nước như đảm bảo


18

việc làm cho người lao động, khuyến khích bằng những ưu đãi để họ bỏ vốn
đầu tư phát triển sản xuất…
Mặt khác, những lao động đã qua đào tạo và làm việc ở nước ngoài có

thể được khuyến khích tái XKLĐ. Tuy nhiên, để thực hiện tái XKLĐ, không
phải chỉ tính đến hiệu quả kinh tế như đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị
trường NKLĐ với mức lương cao, Nhà nước không mất thời gian và chi phí
đào tạo, mà còn cần phải tính đến hiệu quả xã hội như các chính sách, chế độ
xã hội trong việc tạo việc làm và phân phối thu nhập.
1.1.2.6. Hoạt động XKLĐ diễn ra trong môi trường cạnh tranh ngày càng
gay gắt
Hiện nay thị trường lao động quốc tế là một thị trường cạnh tranh tự
do và được phân cách bằng biên giới giữa các quốc gia. Đó là một thị trường
mà sự hợp tác giữa các nước là một đòi hỏi bắt buộc; đồng thời sự cạnh
tranh lại là một yếu tố không thể thiếu. Sự cạnh tranh trong thị trường lao
động thế giới hiện nay vừa là sự cạnh tranh giữa các quốc gia, vừa là sự cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trong một quốc gia. Họ
cạnh tranh bằng cách cung cấp nguồn lao động rẻ, có chất lượng và cả
những chế độ ưu đãi đối với người lao động trước, trong và sau khi hoàn
thành hợp đồng XKLĐ. Chiến lược XKLĐ đúng đắn của một quốc gia là
tiền đề quan trọng để vươn ra cạnh tranh với các quốc gia khác.
1.1.3. Vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội
1.1.3.1. Đối với kinh tế
- XKLĐ góp phần tạo thêm nguồn thu ngoại tệ cho đất nước


19

Trong những năm qua, thu nhập của lực lượng lao động Việt Nam tại
các nước khác đã chuyển về cho đất nước một số lượng ngoại tệ đáng kể.
Năm 1998, với khoảng 250.000 lao động Việt Nam ở nước ngoài đã chuyển
về nước khoảng 547 triệu USD (chưa kể số tiền do 20 vạn lao động hợp tác
và đi theo các hình thức khác đang ở lại và làm việc tại các nước gửi về, ước

tính khoảng 1 tỷ USD/năm). Năm 1999, lao động nước ngoài đã chuyển về
nước khoảng 1 tỷ USD. Năm 2000, khoảng 1,25 tỷ USD, năm 2001 là 1,3 tỷ
USD. Năm 2004, cả nước đã có gần 68.000 lao động ra nước ngoài làm việc
(chỉ tiêu năm là 60.000) và chuyển về nước 1,65 tỷ USD. Tính tới tháng
12/2008, có khoảng 500 nghìn lao động Việt Nam làm việc ở trên 40 nước
và vùng lãnh thổ với 30 nhóm ngành nghề khác nhau, hàng năm gửi về nước
khoảng 1,6 - 2 tỷ USD (riêng từ thị trường Hàn Quốc với gần 50 nghìn lao
động gửi về khoảng 700 triệu USD/năm; Nhật Bản là hơn 300 triệu USD).
- XKLĐ mang lại thu nhập cao cho người lao động so với thu nhập
trong nước (với cùng trình độ, tay nghề, cùng thời gian làm việc,…)
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập hàng tháng cao
hơn từ 6 đến 10 lần mức thu nhập của người có việc làm trong nước. Tính
bình quân mỗi lao động, sau khi trừ đi các khoản nghĩa vụ như thuế thu
nhập, lệ phí, bảo hiểm…cũng tích luỹ được từ 3.000USD - 6.000USD/năm.
Hiện nay thu nhập bình quân một lao động Việt Nam tại Đài Loan khoảng
300 USD/tháng, Hàn Quốc 500 USD/tháng, Nhật Bản 300 - 500 USD/tháng,
trong lúc đó mức thu nhập bình quân một lao động có việc làm tại Việt Nam
chỉ 617.340 đồng/tháng (tương đương 40 USD/tháng).
Thu nhập và kinh nghiệm thu được đã góp phần đáng kể không những
cải thiện đời sống của người lao động đi làm việc ở nước ngoài mà cùng với
là một bộ phận dân cư gắn với họ được tăng lên đáng kể. Người lao động trở


20

về nước có vốn, có kiến thức tự lập doanh nghiệp, thu hút thêm lao động,
tăng thu nhập, cải thiện đời sống.
- XKLĐ góp phần giảm đầu tư trong nước để tạo chỗ làm việc mới
cho người lao động
Đầu tư tạo ra chỗ làm việc mới bao gồm đầu tư xây dựng nhà xưởng,

mua sắm máy móc, nguyên vật liệu, đầu tư công nghệ, chi phí quản lý, chi
phí lưu thông… và chi phí đào tạo nghề. Theo tính toán, nếu đầu tư để có
một chỗ làm việc mới cho người có tay nghề cao trong ngành công nghiệp
nặng nhọc trong nước phải tốn khoảng 100 triệu đồng, cho người có tay
nghề trung bình phải đầu tư khoảng 30 - 50 triệu đồng, hoặc để tạo một chỗ
làm việc cho lao động giản đơn trong ngành tiểu thủ công nghiệp cũng cần
đầu tư khoảng 10 - 15 triệu đồng. Với số lượng lao động hiện nay đang làm
việc ở nước ngoài khoảng 500.000 người, đầu tư tạo việc làm trong nước
giảm được khoảng 3.000 tỷ đồng.
- Nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động
Những lao động xuất khẩu sang các nước được tiếp cận và làm việc với
những yêu cầu về kiến thức, công nghệ của các nước nhập khẩu lao động, bản
thân người lao động cũng phải học tập để đáp ứng nhu cầu của công việc. Vì
vậy, xuất khẩu lao động đã tạo điều kiện cho nguồn nhân lực được đào tạo,
rèn luyện tố chất nếp sống công nghiệp đây chính là cơ chế bắt buộc người
lao động phải nâng cao được trình độ, tay nghề và nó cũng trở thành tài sản
quý giá của họ khi quay trở về nước.
1.1.3.2. Đối với xã hội
Thực hiện tốt công tác XKLĐ sẽ giảm được tệ nạn xã hội do thất
nghiệp gây ra, tạo một hướng lao động tích cực cho người lao động, học tập
được phong cách lao động mới do tổ chức lao động nước ngoài trang bị, học


21

tập được những nét văn hoá mới ở nơi đến lao động… Cụ thể, vai trò xã hội
của hoạt động XKLĐ thể hiện ở một số điểm sau:
- XKLĐ góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp trong nước
Đây là hiệu quả xã hội to lớn nhất của hoạt động XKLĐ, có ý nghĩa
sâu sắc với tình trạng xã hội ở nước ta. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào,

tính đến năm 2007, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 55,38 triệu
người, là lợi thế lớn về nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, đồng thời cũng tạo nên sức ép lớn về nhu cầu việc làm của hơn 1
triệu lao động bước vào độ tuổi mỗi năm. Kinh nghiệm từ một số nước trên
thế giới cho thấy, XKLĐ là một giải pháp khắc phục tình trạng thất nghiệp
đạt hiệu quả cao. Số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
trong thời gian gần đây tăng đều hàng năm. Từ năm 2006 đến năm 2010,
bình quân mỗi năm Việt Nam đưa được khoảng 83.000 lao động ra nước
ngoài làm việc, chiếm khoảng 5% số lao động được giải quyết việc làm.
Năm 2008, cả nước có khoảng 85.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Trong đó, có 18 doanh nghiệp đưa được trên 1.000 lao động/doanh nghiệp.
Bảng 1.1: Số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài từ 1991 đến 2010
Đơn vị: Người
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999

Số lượng lao động đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài
1.022
810
3.960
9.230

10.050
12.660
18.470
12.240
21.810


22

2000
31.500
2001
37.000
2002
46.120
2003
74.694
2004
67.447
2005
70.500
2006
78.855
2007
85.020
2008
85.000
2009
75.000
2010

85.546
Nguồn: - Cục quản lý lao động ngoài nước
- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
Số liệu bảng trên cho thấy, số lượng lao động Việt Nam xuất khẩu từ
năm 1991 tới năm 2010 tăng lên qua các năm, góp phần quan trọng trong
việc giải quyết việc làm, giảm thiểu tình trạng dư thừa lao động, thất nghiệp
trong nước một cách đáng kể.
- Hoạt động XKLĐ góp phần tăng cường giao lưu văn hóa và hiểu biết
lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.
XKLĐ giúp mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế, quan hệ giữa
nước cung ứng lao động và nước tiếp nhận lao động trở nên gắn bó hơn,
hiểu nhau hơn. Bản thân từng người lao động thông qua hoạt động của mình
ở nước ngoài góp phần “ngoại giao nhân dân”, góp phần tăng cường quan hệ
hợp tác kinh tế - văn hoá, khoa học kĩ thuật giữa Việt Nam và các nước. Mối
quan hệ hợp tác và phát triển trước hết và cơ bản là hàng chục vạn lao động
Việt Nam đang ngày đêm cùng với nước sở tại tích cực làm việc tạo ra nhiều
thành tựu quý giá. Về phía Việt Nam, hoạt động XKLĐ giúp giải quyết việc
làm cho người lao động, đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề…, cũng qua
đây có dịp tìm hiểu phong tục tập quán, con người, giao lưu văn hoá với


23

nhiều quốc gia trên thế giới, phát triển mối quan hệ giao hữu giữa các quốc
gia.
1.2. Kinh nghiệm về xuất khẩu lao động của một số nước và một số
địa phương
1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước
1.2.1.1. Philippin
Trong số các nước xuất khẩu lao động ở Đông Nam Á, Philippin là

nước có truyền thống xuất khẩu lao động lâu năm nhất và cũng là nước
XKLĐ lớn nhất trong khu vực. Khoảng hơn 8 triệu lao dộng Philippin đang
làm việc ở nước ngoài hàng năm gửi về quê hương số tiền trị giá khoảng
11,8 tỷ USD, đóng một vai trò quan trọng cho nền kinh tế Philippin. Công
nhân hải ngoại người Philippin tản ra khắp thế giới sang cả các nước phát
triển và các nước đang phát triển trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Phạm vi nghề nghiệp mà họ tham gia cũng đa dạng hơn nhiều so với công
nhân các nước khác, bao gồm khu vực giải trí, văn phòng, bán hang, giao
thông, nghề làm rừng, nghề cá bên cạnh những lĩnh vực lao động ngoại quốc
truyền thống (giúp việc nhà, xây dựng, công nghiệp…). Điều đó có thể do
trình độ học vấn tương đối cao hơn và sự thông thạo tiếng Anh của họ so với
lao động XK của một số quốc gia khác. Thị trường XKLĐ: Philippin có một
thị trường XKLĐ rộng lớn. Lao động Philippin có mặt tại hơn 160 nước trên
thế giới, làm việc đông nhất là ở các quốc gia ở khu vực Châu Á và vùng
Trung Đông. Ở khu vực Đông các thị trường nhận nhiều lao động Philippin
nhiều nhất là Hồng Kông, kế đến là Đài Loan, Nhật Bản và Brunei. Còn tại
thị trường Châu Âu, lao động Philippin được sử dụng nhiều nhất tại Ý, sau
đó là Anh.
Philippin có lẽ là nước duy nhất trong khu vực giải quyết việc XKLĐ
một cách có hệ thống. Ngay từ những năm 1970, Chính phủ Philippin đã lập


24

ra các cơ quan chuyên trách với nhiệm vụ vạch ra các chiến lược XKLĐ có
hiệu quả cao, tổ chức và quản lý hoạt động XKLĐ, xây dựng một hệ thống
chính sách liên quan đến lĩnh vực này. Năm 1982, Cục Việc làm ngoài nước
(POEA) được thành lập với nhiệm vụ hoạch định chiến lược cho việc XKLĐ
và quy định việc chuyển tiền về nước bảo vệ quyền lợi của người lao động
đi XKLĐ. Chính sách này đựoc sự hỗ trợ của các tổ chức phi Chính phủ như

tổ chức Kaibigan (Liên đoàn những người bạn của công nhân hải ngoại) góp
phần cung cấp những dịch vụ giúp đỡ người lao động di dân tại trong và
ngoài nước. Điều đáng chú ý trong chính sách XKLĐ của Philippin là:
- Việc XKLĐ của Philippin do Chính phủ quản lý và giúp đỡ. Nhà
nước chỉ khuyến khích việc đi lao động có thời hạn và không khuyến khích
việc định cư ở nước ngoài. Chính phủ Philippin tìm cách tiếp cận, mở cửa
những thị trường để XKLĐ bằng con đường chính thức và cố gắng ngăn
chặn công dân nước mình di cư lao động bằng những con đường bất hợp
pháp. Để đi lao động nước ngoài, công dân Philippin phải được một cơ quan
nhà nước hay một đại lý tư nhân hợp pháp tuyển dụng hoặc họ phải có hợp
động lao động “độc lập” được Cục Việc làm ngoài nước xét duyệt. Chính
phủ ngăn cấm công nhân ở lại nước ngoài làm việc quá thời hạn visa nhập
cảnh cho phép. Việc làm này nhằm bảo vệ uy tín chất lượng cao cho
“thương hiệu” lao động di dân Philippin.
- Về mạng lưới quản lý lao động ở nước ngoài, hiện Philipin có gần 80
văn phòng đại diện tại các nước. Thông thường mỗi văn phòng quản lý có
một Tuỳ viên lao động phụ trách. Ngoài ra Philippin còn có Cục Phúc lợi lao
động di cư thuộc Bộ Lao động và việc làm quản lý một quỹ rất lớn do chủ sử
dụng và người lao động đóng góp nhằm mục đích hỗ trợ cho người lao động
ở ngoài nước cung như gia đinh họ ở trong nước khi gặp khó khăn.


25

- Chính phủ đã chuyển phần lớn trách nhiệm trong việc tuyển dụng
người lao động đi ra nước ngoài cho các cơ sở tuyển dụng tư nhân. Tuy
nhiên, Chính phủ vẫn duy trì vai trò kiểm soát nhằm bảo vệ người lao động
ở nước ngoài không bị bóc lột đồng thời ngăn chặn tình trạng tuyển dụng bất
hợp pháp trong nước. Các tổ chức tuyển dụng LĐXK tư nhân phải chịu sự
kiểm soát chặt chẽ của Chính quyền. Chính phủ Philippin còn cố gắng thu

hút sự phối hợp của nhiều nước trong công việc bảo vệ LĐXK chẳng hạn
như hợp tác các nước XKLĐ khác ở Châu Á như Bangladesh, Ấn Độ,
Inđônêxia, Thái Lan, Srilanka để lập ra một tổ chức nhằm giảm chi phí
XKLĐ và bảo vệ quyền lợi của LĐXK.
- Chính phủ khuyến khích người lao động gửi tiền về vì khoản tiền này
là nguồn ngoại tệ quan trọng của đất nước. Nhằm thực hiện điều này, Chính
phủ phát hành một loại thẻ chứng minh cho người lao động có đăng ký ở
nước ngoài. Loại thẻ này cũng đồng thời là thẻ Visa cho những tài khoản tiết
kiệm bằng đồng peso hay đôla của các ngân hàng. Với thẻ Visa này, người
lao động có thể chuyển tiền về nước một cách dễ dàng.
1.2.1.2. Inđônêxia
Inđônêxia là nước có dân số lớn nhất trong khu vực nhưng lại chậm
chân hơn so với các nước láng giềng khi bước vào thị trường lao động quốc
tế. Mặc dù trước năm 1980 đã có những luồng di cư bất hợp pháp đến
Malaysia và một vài nơi khác, nhưng phỉ đến giữa những năm 1980 Chính
phủ Inđônêxia mới nhận thức được tầm quan trọng của XKLĐ trong việc
giải quyết nạn thất nghiệp và thu ngoại tệ cho đất nước và mới bắt đầu tham
gia vào quá trình XKLĐ. Không giống như công nhân Philippin, đa số công
nhân Inđônêxia ở nước ngoài có học vấn thấp hoặc không chính quy, làm
việc trong các nghề thấp kém, cần nhiều sức lao động ở các nước Đông Á


×