TÓM LƯỢC
Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ là một tổ chức hoạt động kinh doanh các sản
phẩm công nghệ thông tin, máy móc công nghệ cao như: thiết bị an ninh mạng, khóa
két an toàn...; Buôn bán xuất nhập khẩu nông, lâm sản…; sản xuất và xuất khẩu các
loại tinh dầu, hương liệu thiên nhiên. Qua gần 16 năm hoạt động và phát triển, công ty
Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ đã và đang không ngừng xây dựng và nâng cao vị thế
của mình trên thị trường cũng như xây dựng niềm tin trong lòng khách hàng trong và
ngoài nước.
Do tính chất kinh doanh, các hợp đồng thương mại được thực hiện một cách thường
xuyên giữa Công ty và các đối tác, khách hàng trong và ngoài nước là điều tất yếu.
Cũng chính vì thế mà việc tìm hiểu, nắm bắt và cập nhật các quy định của pháp luật
điều chỉnh hợp đồng thương mại nói chung đóng vai trò quan trọng để công ty có thể
ký kết và thực hiện thành công các hợp đồng trong và ngoài nước. Việc thực hiện hoạt
động kinh doanh đúng theo quy định của pháp luật là tiền đề cơ bản để Công ty phát
triển bền lâu. Nhận thức được vấn đề này, trong quá trình thực tập tôi đã tập trung
nghiên cứu và tìm hiểu về một trong những chế tài quan trọng khi có hành vi vi phạm
hợp đồng – chế tài bồi thường thiệt hại. Đây là chế tài quan trọng mà khi hành vi vi
phạm hợp đồng xảy ra, nó được áp dụng để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên. Do đó tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại và thực tiễn áp dụng tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ.” Nội
dung của khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
Chương này tập trung đưa ra các khái niệm cơ bản liên quan đến hợp đồng thương
mại, các chế tài thương mại cũng như bản chất, vai trò, ý nghĩa của chế tài bồi thường
thiệt hại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại và thực tiễn áp dụng tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ.
Chương này tập trung đi sâu phân tích các quy định của pháp luật về chế tài bồi
thường thiệt hại và thực tiễn áp dụng quy định về chế tài này trong việc thỏa thuận, ký
kết và thực hiện hợp đồng ở Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ. Từ đó có những
đánh giá khái quát về thực trạng áp dụng vấn đề áp dụng pháp luật trong doanh nghiệp,
những ưu điểm cũng như những điểm bất cập trong vấn để quy định cũng như áp dụng
pháp luât về bồi thường thiệt hại.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả áp dụng các quy định của
pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
1
Chương này tập trung vào việc thể hiện quan điểm hoàn thiện pháp luật về bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại bằng việc đưa ra một số kiến nghị xuất
phát từ cả hai phía: nhà nước và doanh nghiệp.
2
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian thực tập tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ, kết hợp với
những kiến thức đã học ở trường cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban lãnh đạo cũng
như toàn thể nhân viên trong công ty, đặc biệt là Phòng Kinh doanh và Phòng Nhân sự
đã giúp tôi có cái nhìn sâu hơn về toàn bộ công tác soạn thảo, đàm phán, thỏa thuận,
ký kết và thực hiện hợp đồng kinh doanh thương mại.
Cùng với quá trình thực tập và sự tìm hiểu, nghiên cứu bản thân tôi đã nhận thấy
những thuận lợi và khó khăn của công ty trong việc áp dụng các quy định của pháp
luật nói chung và Luật Thương mại nói riêng. Đặc biệt qua phân tích thực trạng thực
hiện hợp đồng kinh doanh thương mại của công ty, tôi đặc biệt lưu ý đến những điều
khoản liên quan đến chế tài áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng, trong đó nổi bật
nhất là chế tài bồi thường thiệt hại. Vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài khóa luận:
“Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại và thực tiễn áp dụng
tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ.”
Vì thời gian thực tập chưa nhiều, và bản thân tôi tự nhận thấy kiến thức cũng như
kỹ năng còn nhiều hạn chế nên bài luận còn nhiều thiếu sót. Tuy nhiên với sự hướng
dẫn tận tình của Giảng viên - Thạc sĩ Nguyễn Thị Nguyệt, tôi đã có thể hoàn thành tốt
đề tài nghiên cứu của mình. Do đó tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các
giảng viên trong khoa Kinh tế - Luật để đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin gửi lời đến Ban Giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ, toàn thể
các thầy cô giáo chuyên ngành Luật Kinh tế, và đặc biệt là Giảng viên Nguyễn Thị
Nguyệt – người đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp này, cùng các
cán bộ nhân viên, phòng ban của công ty lời cảm ơn trân trọng nhất!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
3
MỤC LỤC
4
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận
Hòa cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, trong những năm gần
đây Việt Nam đã và đang nỗ lực thực hiện công cuộc xây dựng, cải cách và hoàn thiện
pháp luật sao cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên có thể
thẳng thắn nhìn nhận rằng trình độ xây dựng pháp luật của Việt Nam còn nhiều hạn
chế, đặc biệt là trong khả năng dự liệu tình huống để đưa ra quy định cho phù hợp.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất hàng hóa độc
lập, chịu trách nhiệm cho toàn bộ quá trình sản xuất và kinh doanh hàng hóa. Dưới sự
tác động và chi phối của các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trường,
các đơn vị kinh tế do đó mà phải tự hạch toán kinh doanh để tồn tại và phát triển. Phục
vụ thiết yếu cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cơ bản ban đầu là sự
đầu tư về cơ sở vật chất, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và các dịch vụ thông qua
các hợp đồng mua bán và hợp đồng dịch vụ. Bên cạnh đó là các hợp đồng về hợp tác
mua bán các sản phẩm kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp
với tổ chức kinh tế khác và giữa doanh nghiệp với khách hàng trong - ngoài nước. Khi
hợp đồng đã được ký kết và có hiệu lực pháp luật, các bên trong hợp đồng có nghĩa vụ
thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng cũng như các nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng. Khi một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ phát sinh
từ hợp đồng gây thiệt hại cho bên đối tác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại. Bồi thường thiệt hại là một chế tài pháp luật phổ biến đã có từ rất lâu trong hệ
thống pháp luật của nước ta cũng như của các nước trên thế giới. Tuy nhiên không vì lí
do đó mà việc nghiên cứu đề tài này giảm đi tính thời sự của nó. Nguyên nhân chính là
do các quy định về bồi thương thiệt hại trong hợp đồng thương mại còn nhiều điểm
gây bàn cãi. Việc nghiên cứu để hiểu rõ bản chất của chế tài này nhằm góp phần hoàn
thiện hơn các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các
chủ thể trong kinh doanh là việc vô cùng cần thiết. Chính vì lí do đó, tôi đã chon đề
tài: “Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại và thực tiễn áp
dụng tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ” làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp Cử
nhân Luật của mình. Với đề tài này tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần công sức vào
công tác nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Nói đến hợp đồng thương mại không thể không nói đến các điều khoản cơ bản về
bồi thường thiệt hại. Đây là sự thỏa thuận của các bên trong giao dịch dân sự, kinh
5
doanh thương mại và đồng thời cũng là chế định của pháp luật. Chế tài bồi thường
thiệt hại tồn tại tuy đã lâu những cũng còn nhiều điểm gây tranh cãi mà doanh nghiệp
mà những người làm công tác pháp lý nói chung còn cần phải đi sâu nghiên cứu, trao
đổi và làm rõ.
Chính vì vậy việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng thương mại là một trong những đề tài khá quan trọng hiện nay. Theo
nghiên cứu của tôi, có khá nhiều bài viết trên các trang báo điện tử, các bài luận, tiểu
luận hay một số công trình nghiên cứu về vấn đề này cũng như các vấn đề khác liên
liên quan mật thiết đến bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại, có thể kể đến
như:
1. “Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng kinh doanh thương mại của doanh nghiệp” Nguồn: Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội – Công ty Luật Minh Khuê.
Nói đến hợp đồng kinh doanh thương mại, không thể không nói đến điều khoản cơ
bản về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Đây là sự thỏa thuận của các bên trong
giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại, đồng thời, cũng là các chế định của pháp
luật; nó tồn tại đã lâu nhưng cũng còn nhiều bất cập mà doanh nghiệp và những người
làm công tác pháp lý nói chung và luật sư nói riêng còn một số điểm phải trao đổi làm
rõ.
Bài viết đã chỉ ra được cơ sở lý luận về hợp đồng kinh doanh, thương mại và quy
định của pháp luật về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Ngoài ra bài viết còn đưa
ra các vấn đề về thực tiễn đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng. Qua đó đưa ra các
ý kiến trao đổi, tập trung vào các chế tài thường được thỏa thuận trong hợp đồng gắn
với việc liên hệ đến các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam với thực tiễn và
thông lệ phổ biến trên thế giới.
2. Khóa luận: “Chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại” – Sinh
viên Trường Đại học Luật Hà Nội.
Khóa luận đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung nhất về bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật
về bồi thường thiệt hại, nêu ra những tồn tại, bất cập của những quy định này, trên cơ
sở đó kiến nghị, sửa đổi một số quy định của Luật Thương mại về bồi thường thiệt hại
do phạm hợp đồng thương mại.
3. Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Những vấn đề về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam” – Khúc Thị Trang Nhung, Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đề tài đã nghiên cứu về vấn đề miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng một cách toàn diện, có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện các
quy định của pháp luật kinh doanh, hợp đồng kinh doanh và thương mại, miễn trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong giai đoạn vừa qua. So sánh một
số điểm tương đồng và khác biệt giữa miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Việt
6
Nam so với các quy định của các nước khác trên thế giới cũng như Công ước Viên về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Phân tích, luận giải các quy định về vấn đề miễn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đồng thời phân tích các điểm
bất cập của các quy định này trong tình hình hiện nay. Đưa ra một số giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng, cụ thể cần sửa đổi những điều khoản nào của các văn bản pháp luật có
liên quan.
Những bài viết trên đã nêu ra được một cách khái quát quy định của pháp luật Việt
Nam về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại cũng như một vài vấn
đề liên quan mật thiết với chế tài này. Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề cần thảo luận
chưa được đề cập đến một cách sâu sắc và chi tiết. Vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề
tài: “Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại và thực tiễn áp
dụng tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ” có ý nghĩa thiết thực đối với các
doanh nghiệp nói riêng, nền kinh tế Việt Nam nói chung và của hệ thống pháp luật
Việt Nam.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Chế tài bồi thường thiệt hại đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo
quyền lợi và nghĩa vụ của các bên chủ thể khi có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra. Để
thấy được tầm quan trọng đó, đề tài tập trung phân tích các quy định của pháp luật về
chế tài bồi thường thiệt hại và thực trạng áp dụng các quy định đó trong doanh nghiệp
Việt Nam nói chung và Công ty Trách Nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ nói riêng. Vì vậy tôi
xin đề xuất hướng đề tài nghiên cứu tốt nghiệp của mình là: “Pháp luật về bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng thương mại và thực tiến áp dụng tại Công ty Trách Nhiệm
Hữu hạn Bắc Mỹ.”
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật Việt Nam về chế
tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lí luận liên quan
đến quy định của pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
và thực tiễn áp dụng tại doanh nghiệp Việt Nam, mà cụ thể là Công ty Trách Nhiệm
Hữu hạn Bắc Mỹ. Thông qua việc phân tích và đánh giá các quy định đó, kết hợp với
thực tế áp dụng chế tài này trong đàm phán, ký kết hợp đồng của công ty trong thời
gian qua để làm sáng tỏ một số vấn đề trong các quy định của pháp luật hiện hành, từ
đó đưa ra được những đánh giá, nhận xét về điểm tích cực cũng như nêu ra một số
điểm bất cập, vướng mắc xuất phát từ cả quy định của pháp luật và bản thân hoạt động
của doanh nghiệp. Thông qua đó có một số kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả áp
dụng các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
7
Để đạt được mục tiêu này, bài nghiên cứu đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Nghiên cứu những vấn đề lí luận về hợp đồng thương mại.
Nghiên cứu và phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chế tài
bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi phạm hợp đồng trong kinh doanh thương mại.
Kết hợp với thực tiễn áp dụng quy định về chế tài này trong ký kết và thực hiện hợp
đồng ở Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ để đánh giá và nhận xét, từ đó đưa ra
những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng thương mại.
Đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần tăng cường hiệu quả áp dụng chế tài bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại, từ đó góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam nói chung và pháp luật thương mại nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu: có rất nhiều chế tài khác nhau điều chỉnh hành vi, hoạt động
của chủ thể hợp đồng khi có hành vi vi phạm xảy ra, kể đến như phạt vi phạm, bồi
thường thiệt hại, buộc thực hiện đúng hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình
chỉ thực hiện hợp đồng hay hủy bỏ hợp đồng 1. Trong đó, một chế tài có tính chất quan
trọng và có điều kiện áp dụng phức tạp nhất, đó chính là chế tài buộc bồi thường thiệt
hại. Điều chỉnh hoạt động kinh doanh thương mại, chế tài này được quy định cụ thể
trong Luật Thương mại 2005 và Luật Dân sự 2005. Tuy là một chế tài độc lập nhưng
bồi thường thiệt hại lại có mối quan hệ mật thiết với các chế tài khác, cũng như vai trò
của nó trong việc đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của các bên chủ thể hợp
đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại. Việc nghiên cứu các vấn đề pháp lí liên
quan đến chế tài này sẽ có nhiều vấn đề cần được đề cập đến. Do vậy, với phạm vi một
đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi sẽ không đi sâu nghiên cứu hết các
văn bản quy phạm điều chỉnh về bồi thường thiệt hại, mà chỉ tập trung nghiên cứu
khung pháp lí xoay quanh hai bộ luật điều chỉnh cụ thể trực tiếp liên quan đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, đó là: Luật Thương mại 2005 và Luật Dân sự
2005, thực trạng áp dụng các quy định vào việc thực hiện hợp đồng thương mại tại
Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ. Từ đó phân tích, đưa ra một số điểm hạn chế
khó khăn trong các quy định của pháp luật và đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện
quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại, tạo ra tiền đề áp dụng dễ dàng và linh hoạt
hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc
Mỹ nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi chủ yếu sử dụng phép liệt kê, so sánh và phân
tích làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra để thực hiện nhiệm vụ
1 Điều 292 Luật Thương mại 2005
8
6.
nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu với nhau,
cụ thể:
Phương pháp liệt kê, tổng hợp: được sử dụng để tổng hợp quy định của pháp luật liên
quan đến chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại. Phương pháp này
giúp người đọc có cái nhìn tổng quát về hệ thống pháp luật điều chỉnh vấn đề nghiên
cứu để có được nhận xét khách quan.
Phương pháp so sánh, phân tích: được sử dụng để phân tích, lí giải các quy định cảu
pháp luật, so sánh, đối chiếu các quy định giữa các văn bản quy phạm khác nhau để rút
ra những nhận xét, giúp cho người đọc hiểu sâu hơn về các quy định của pháp luật.
Phương pháp dẫn chứng, chứng minh: đưa ra các tình huống, ví dụ cụ thể xảy ra trong
ký kết và thực hiện hợp đồng của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ và các công
ty, từ đó chứng để thấy rõ những điểm mạnh và những hạn chế trong quy định của
pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Kết cấu khóa luận gồm có ba chương với nội dung như sau:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại và thực tiễn áp dụng tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bắc Mỹ
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả áp dụng các quy định của
pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
9
Chương 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
1.1.
Khái quát về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
Trong đời sống xã hội, theo quy định của pháp luật mọi công dân có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự cũng như các cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân đều phải chịu
trách nhiệm về hành vi của mình hoặc hành vi của tổ chức mình. Do đó cá nhân, tổ
chức nào gây thiệt hại cho tổ chức hoặc cá nhân khác đều có trách nhiệm phải bồi
thường thiệt hại cho cá nhân đó. Vấn đề này đã được các nhà làm luật coi là một
nguyên tắc và cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật. Xét về nguồn gốc lịch sử, chế tài
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại nói chung ra đời từ rất sớm. Qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi quốc gia đều hình thành những quy định chung về bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại, bên cạnh đó còn có các quy định cụ thể
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng thương mại trong những
trường hợp cụ thể bởi sự đa dạng về chủ thể gây thiệt hại, đối tượng và hoàn cảnh bị
thiệt hại...Tuy nhiên trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại nói riêng đã và đang gây nhiều tranh cãi,
về căn cứ phát sinh, về mức bồi thường...Hơn nữa, các quy định của pháp luật về vấn
đề này chủ yếu dừng lại ở các quy định mang tính chất định tính mà không định lượng
nên gây ra nhiều khó khăn cho quá trình áp dụng của các doanh nghiệp. Do đó, để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh được những tranh chấp xảy ra thì mọi
các nhân, tổ chức nói chung và các cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế nói riêng phải nắm vững các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng thương mại, mà trước hết là khái quát chung: Thế nào là bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng thương mại?
1.1.1. Hợp đồng thương mại
Khi xã hội loài người có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng
hóa thì hợp đồng đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các
quan hệ tài sản. Hợp đồng là sự khái quát một cách toàn diện các hình thức giao lưu
dân sự phong phú của con người, là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ
thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình 2.
Pháp luật về hợp đồng ở nước ta có quá trình phát triển qua từng giai đoạn, phù hợp
với hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội.
Khái niệm về hợp đồng cần phải được xem xét ở nhiều phương diện khác nhau.
Theo phương diện khách quan thì hợp đồng là do các quy phạm pháp luật của Nhà
nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch
chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Theo phương diện chủ quan,
2 Chế định hợp đồng – Wikipedia.org
10
hợp đồng là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm
đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất
định3. Điều 388 Bộ luật Dân sự năm 2005 định nghĩa: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân
sự”. Như vậy các quy định về hợp đồng được áp dụng cho các hợp đồng ở các lĩnh
vực khác nhau như dân sự, lao động, thương mại và đầu tư kinh doanh....Cùng với sự
phát triển chung của xã hội, các thành phần kinh tế ngày một đa dạng và phong phú
làm cho các quan hệ kinh tế cũng thay đổi theo. Hợp đồng thương mại trở thành
phương tiện phục vụ cho mục đích kinh doanh trên nguyên tắc các chủ thể tự nguyện,
bình đẳng với nhau. Một cách khái quát, hợp đồng thương mại chính là hình thức pháp
lý chủ yếu của các quan hệ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Do đó, hợp đồng
thương mại đều là những giao dịch có bản chất dân sự, thiết lập trên cơ sở tự nguyện,
bình đẳng và thỏa thuận của các bên; đều hướng tới lợi ích của mỗi bên và lợi ích
chung khi tham gia giao kết hợp đồng; đều có những vấn đề cơ bản như: giao kết hợp
đồng, nguyên tắc và các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và
xử lý hợp đồng vô hiệu… Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của hoạt
động thương mại nên hợp đồng thương mại có những vấn đề được quy định có tính
chất là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống như: chủ thể,
hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết tranh chấp hợp đồng…
Khoa học pháp lý và pháp luật thực định tại Việt Nam sử dụng nhiều khái niệm
pháp lý để chỉ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh như: hợp đồng kinh doanh, hợp
đồng trong hoạt động kinh doanh, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại…
Tại Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 đã đưa ra khái niệm về hợp đồng
kinh tế như sau: “Hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch
giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ,
nghiên cứu, ứng dụng nghiên cứu khoa học – kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục
đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng
và thực hiện kế hoạch của mình”. Với khái niệm này hợp đồng kinh tế đặc trưng với
ba tiêu chí cơ bản là chủ thể, mục đích, hình thức hợp đồng nên chưa bao quát hết
được các quan hệ hợp đồng trong hoạt động thương mại.
Hiện nay, Luật Thương mại năm 2005 tuy không đưa ra định nghĩa về hợp đồng
thương mại nhưng theo Điều 1: Phạm vi điều chỉnh và Điều 2: Đối tượng điều chỉnh
của Bộ Luật này có thể hiểu “hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các chủ thể
kinh doanh với nhau và với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm
dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam; hoạt
3 Khái quát về hoạt động thương mại – Luật Dương Gia 2015
11
động thương mại ngoài lãnh thổ Việt Nam nếu các bên thỏa thuận áp dụng luật này
hoặc luật nước ngoài, Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định áp
dụng luật này”. Các hoạt động thương mại ở đây được xác định theo Khoản 1 Điều
3 Luật Thương mại năm 2005 “là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác”.
Theo Điều 2 Luật Thương mại 2005, chủ thể trong hợp đồng thương mại bao gồm
thương nhân hoạt động thương mại; các tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan
đến thương mại; các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên
không phải đăng ký kinh doanh. Cũng theo quy định tại Luật Thương mại 2005, hợp
đồng thương mại được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng
hành vi cụ thể. Trường hợp pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải
tuân theo các quy định đó.
1.1.2. Các chế tài trong quan hệ hợp đồng thương mại
Nền kinh tế thị trường ở nước ta dựa trên sự thiết lập nền tảng pháp lí quyền tự do
kinh doanh trong quan hệ thương mại và phương thức hình thành chủ yếu là thông qua
các quan hệ hợp đồng. Các quan hệ hợp đồng trong thương mại cũng vì thế mà trở nên
đa dạng và phức tạp hơn. Hiện tượng vi phạm hợp đồng cũng diễn ra nhiều hơn. Để
giúp đảm bảo cam kết giữa các bên được thực hiện, hoặc đền bù lại những tổn thất đã
gây ra cho bên bị thiệt hại do hành vi của bên vi phạm hợp đồng pháp luật về chế tài
trong thương mại ra đời và ngày càng hoàn thiện hơn.
1.1.2.1.
Khái niệm
Chế tài trong hoạt động thương mại là sự gánh chịu hậu quả bất lợi của bên vi phạm
hợp đồng trong thương mại và được hiểu theo nhiều phạm vi khác nhau. Chế tài là một
đặc trưng cơ bản của pháp luật. Nó là một phương tiện để thi hành quyền hoặc ngăn
cản việc vi phạm quyền hay khắc phục hậu quả của sự vi phạm quyền, cụ thể:
Theo nghĩa rộng, chế tài trong thương mại được hiểu là hình thức chế tài được cơ
quan nhà nước hoặc bên có quyền lợi bị vi phạm áp dụng đối với mọi tổ chức cá nhân
có hành vi vi phạm pháp luật trong thương mại. Khi có hành vi vi phạm pháp luật
trong thương mại thì cơ quan nhà nước hoặc bên có quyền lợi bị vi phạm sẽ có quyền
áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể vi phạm. Phân tích các đặc điểm của
chế tài thương mại theo cách hiểu này thì phạm vi của nó là rất rộng. Các đặc trưng cơ
bản của chế tài theo cách hiểu này bao gồm:
Về phạm vi áp dụng: theo tinh thần chung của Luật Thương mại 2005, mọi hành vi
vi phạm pháp luật thương mại đều bị phát hiện một cách kịp thời và xử lý nghiêm
minh để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia hoạt động thương mại. Theo
đó tất cả các hành vi vi phạm pháp luật đều thuộc phạm vi áp dụng của chế tài. Các
hành vi vi phạm pháp luật thương mại không chỉ bao gồm những hành vi vi phạm chế
12
-
-
-
-
độ quản lí nhà nước trong lĩnh vực thương mại, xâm phạm trật tự quản lí thương mại
của nhà nước mà còn bao gồm các hành vi vi phạm xảy ra trong quá trình các bên ký
kết và thực hiện hợp đồng.
Về chủ thể có quyền ra quyết định áp dụng chế tài: theo từng hành vi vi phạm mà
chủ thể áp dụng chế tài trong thương mại có thể là cơ quan nhà nước có thẩm quyền
như: cơ quan quản lí thị trường, Công an kinh tế, Tòa án...; hay chính bên bị vi phạm
quyền lợi trong hợp đồng giữa các chủ thể.
Về căn cứ chung để áp dụng chế tài bao gồm:
Có hành vi vi phạm: Bao gồm các hành vi thực hiện không đúng hoặc không thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng. Đây là căn cứ cần được đưa ra chững minh trong việc áp
dụng đối với tất cả các hình thức chế tài.
Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra. Căn cứ này bắt buộc phải được viện dẫn khi áp
dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế.
Có lỗi của bên vi phạm, đây là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng đối với tất cả các
loại chế tài.
Về đối tượng bị áp dụng trong chế tài thương mại: đối tượng bị áp dụng trong chế
tài thương mại chủ yếu là thương nhân có hành vi vi phạm pháp luật thương mại. Đó
là các chủ thể thường xuyên được thực hiện các hành vi thương mại, là đối tượng áp
dụng của Luật Thương mại nên tất nhiên phải chịu chế tài trong thương mại khi có các
hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên chế tài cũng được áp dụng đối với một số chủ
thể không phải là thương nhân, ví dụ như chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh trái
phép.
Về hình thức của chế tài: tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp
luật trong thương mại mà có thể áp dụng các hình thức chế tài khác nhau bao gồm: các
chế tài hành chính, chế tài hình sự và các chế tài khác mang tính chất dân sự/hợp đồng.
Về mục đích áp dụng chế tài thương mại: căn cứ vào hình thức chế tài được áp dụng
đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật trong thương mại, việc áp dụng các
chế tài nhằm đảm bảo các mục đích khác nhau:
Thứ nhất, đối với hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm trật tự quản lí hoạt động
thương mại của nhà nước thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng chế tài hành
chính hoặc chế tài hình sự nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, của xã hội và của chính các chủ thể tham gia vào quan hệ này cũng
như các chủ thể khác trong xã hội.
Thứ hai, đối với các hành vi vi phạm quy định về hợp đồng, chế tài nhằm đảm bảo kỷ
luật hợp đồng, ngăn ngừa mọi hành vi vi phạm hợp đồng và trừng phạt bên vi phạm
một cách thích đáng, đảm bởi quyền lợi cho các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng.
Tóm lại, theo cách hiểu này, chỉ cần chủ thể tham gia pháp luật thương mại có hành
vi vi phạm pháp luật thương mại đều đã hình thành căn cứ để áp dụng chế tài. Tuy
13
1.1.2.2.
nhiên nhược điểm của cách hiểu này là khi áp dụng chế tài, việc phân tích và tìm hiểu
các hành vi vi phạm gặp rất nhiều khó khăn khi khó tìm quy phạm điều chỉnh để áp
dụng các hình thức chế tài cụ thể. Nguyên nhân chủ yếu là do pháp luật quy định rất
rộng, rải rác trên nhiều văn bản quy phạm khác nhau.
Tiếp cận khái niệm chế tài theo nghĩa hẹp thì đó là một bộ phận của quy phạm pháp
luật nêu lên những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến để đảm bảo cho pháp luật
được thực hiện nghiêm minh. Các biện pháp tác động nêu ở bộ phận chế tài của quy
phạm pháp luật sẽ được áp dụng đối với chủ thể nào vi phạm pháp luật, không thực
hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp
luật.
Trong quan hệ giữa các thương nhân, pháp luật thương mại ra đời là cần thiết để
duy trì và đảm bảo sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Khi một
hợp đồng thương mại đã được giao kết hợp pháp và phát sinh hiệu lực pháp luật, đồng
nghĩa với việc các bên bị ràng buộc bởi các trách nhiệm pháp lý đối với nhau, quyền
của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Việc vi phạm các nghĩa vụ trong
hợp đồng sẽ dẫn đến hậu quả bên vi phạm phải chịu các hình thức trách nhiệm - chế
tài. Đây là khái niệm chế tài để hiểu theo nghĩa hẹp. Nếu một bên có hành vi vi phạm
hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định do hành vi vi phạm đó
gây ra. Và tất nhiêm hậu quả pháp lý đó mang tính chất bất lợi đối với bên vi phạm
hợp đồng.
Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là một loại chế tài phát sinh trong quá
trình thực hiện hợp đồng thương mại. Pháp luật các nước không đưa ra định nghĩa cụ
thể thế nào là chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại. Pháp luật Việt Nam cũng chỉ
đưa ra khái niệm về vi phạm hợp đồng như sau: theo Khoản 12 Điều 3 Luật Thương
mại năm 2005: “Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không
đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên theo quy
định của Luật này”.
Như vậy, Luật Thương mại năm 2005 tiếp cận khái niệm chế tài do vi phạm hợp
đồng thương mại theo nghĩa hẹp, đó là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của
bên có quyền lợi bị vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng
thương mại, bao gồm các chế tài được quy định tại Điều 292 Luật thương mại năm
2005. Theo đó “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là hình thức chế tài áp dụng
đối với các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các
cam kết theo hợp đồng, theo đó bên có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại phải
gánh chịu một hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra.”
Các loại chế tài thương mại
14
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng thương mại dẫn đến hậu quả bên vi
phạm phải chịu các hình thức chế tài, và các chế tài khi đó gọi là chế tài hợp đồng. Nói
cách khác đó là chế tài được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm các chế tài do vi phạm hợp
đồng trong thương mại mà bên có quyền bị vi phạm được lựa chọn áp dụng hoặc yêu
cầu áp dụng theo quy định của pháp luật. Căn cứ pháp lý để áp dụng chế tài hợp đồng
được quy định từ Điều 292 đến Điều 316 Luật Thương mại 2005. Theo quy định của
pháp luật hiện hành các chế tài trong thương mại bao gồm:
Điều 292 Luật Thương mại 2005: Các loại chế tài trong thương mại:
Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Phạt vi phạm
Buộc bồi thường thiệt hại
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng
Đình chỉ thực hiện hợp đồng
Hủy bỏ hợp đồng
Chế tài thứ nhất: buộc thực hiện đúng hợp đồng: là hình thức chế tài mà theo đó,
bên bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của
bên bị vi phạm. Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005 quy định: “ buộc thực hiện
đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng
hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu
chi phí phát sinh.” Mục đích của việc áp dụng chế tài này nhằm đảm bảo thực hiện
trên thực tế hợp đồng đã giao kết mà một bên vì lợi ích của mình đã trốn tránh không
thực hiện hợp đồng gây ra tổn thất/thiệt hại cho bên còn lại.
Tuy nhiên, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng còn tồn tại một số hạn chế nhất
định, cụ thể: một phần trong định nghĩa về hình thức buộc thực hiện đúng hợp đồng
thể hiện tính không khả thi, cụ thể: việc thực hiện đúng hợp đồng là khó có thể thực
hiện đặc biệt là trường hợp vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn. Ngoài ra, Khoản 2 Điều
299 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm không thực hiện
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên
bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình”.
Quy định như vậy đã làm cho chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trở thành vô giá
trị, bởi vì ngay cả trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài này thì cũng không
chịu bất kì trách nhiệm bổ sung nào mà chỉ chịu các hình thức chế tài như phạt hợp
đồng, bồi thường thiệt hại hoặc tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng. Quy định này
đã biến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thành kẽ hở rất lớn để lợi dụng nhằm trì
hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Chế tài thứ hai: phạt vi phạm hợp đồng. Đây là hình thức chế tài do vi phạm hợp
đồng, theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất
định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận dựa trên các quy định của pháp
luật. Điều 300 Luật Thương mại 2005 quy định : “phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm
15
yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng
có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định tại Điều 294 của
Luật này.” Mặc dù cũng là chế tài tiền tệ giống như chế tài bồi thường thiệt hại nhưng
phạt vi phạm lại có chức năng hoàn toàn khác và chủ yếu nhằm răn đe, trừng phạt. Căn
cứ duy nhất để bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt là do hành vi không
thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Yếu tố lỗi ở đây mang tính
chất suy đoán. Bên cạnh đó mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hpặc tổng
mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng không quá 8%
giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Tuy nhiên đối với cùng một vi phạm hợp
đồng, bên bị vi phạm chỉ được quyền lựa chọn áp dụng một trong hai chế tài là bồi
thường thiệt hại hoặc phạt vi phạm, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Việc áp
dụng đồng thời hai loại chế tài này đối với một vi phạm chỉ xảy ra khi các bên đã có
thỏa thuận trước trong hợp đồng. Một vấn đề đặt ra là mức phạt tối đa 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm có hợp lý không khi bên vi phạm hoàn toàn có thể chấp
nhận mức phạt này để vi phạm hợp đồng vì một mức lợi nhuận cao hơn khi không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng các thỏa thuận trong hợp đồng?
Chế tài thứ ba: bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài nhằm khôi phục, bù đắp
những lợi ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp đồng trong thương mại. Khoản 1
Điều 302 Luật Thương mại 2005 quy định: “bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm
bồi thường những tốn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.”
Chế tài thứ tư: tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong kinh doanh là hình thức chế tài
mà theo đó một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ kinh doanh. Điều 308 Luật
Thương mại 2005 quy định: “trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều
294 của Luật này, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực
hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện
hợp đồng;
2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.”
Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện, hợp đồng vẫn có hiệu lực. Bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại đối với những tổn thất đã xảy ra. Như
vậy, về mặt bản chất, việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu
lực của hợp đồng và hợp đồng đó sẽ tiếp tục được thực hiện trong tương lai khi điều
kiện áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt. Vấn đề đặt ra ở đây là
sau khi áp dụng biện pháp này, thời điểm nào sẽ được coi là chấm dứt việc tạm ngừng
thực hiện hợp đồng? Căn cứ nào để một bên yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng đã bị
tạm ngừng thực hiện? Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện do bên
tạm ngừng tự động thực hiện hay theo yêu cầu của bên có hành vi vi phạm hợp đồng?
16
Tất cả những yếu tố này hiện nay đều chưa được tính đến trong Luật Thương mại, gây
khó khăn cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Chế tài thứ 5: đình chỉ thực hiện hợp đồng. Đây là hình thức chế tài mà theo đó một
bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng kinh doanh. Điều 310 Luật Thương
mại 2005 quy định: “trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của
Luật này, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng;
2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.”
Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm
một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thanh toán hoặc thực hiện
nghĩa vụ đối ứng.
Chế tài thứ sáu: hủy bỏ hợp đồng. Đây là hình thức chế tài mà theo đó một bên
chấm dứt thực hiện nghĩa vụ thực hiện hợp đồng và làm cho hợp đồng không có hiệu
lực từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng được quy định tại Điều 312 Luật Thương
mại 2005. Khi một hợp đồng bị hủy bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là không có hiệu
lực từ thời điểm giao kết. Các bên không phải tiếp tục các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong
hợp đồng, trừ các thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải
quyết tranh chấp. Các bên có quyến đòi lại các lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa
vụ của mình theo hợp đồng.
Ngoài các chế tài được quy định trong Luật Thương mại 2005 kể trên, thực tế còn
có các chế tài khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại
quốc tế.
1.1.3. Chế tài bồi thường thiệt hại
Khi hợp đồng bị vi phạm dưới hình thức không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện
nghĩa vụ không đúng cam kết, bên vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hợp đồng với bên
có quyền. Luật thương mại 2005 quy định sáu hình thức chế tài thương mại, gồm:
Buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại, tạm ngừng
thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng. Trong các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thì
bồi thường thiệt hại là một trong những chế tài phức tạp nhất về các điều kiện áp dụng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một dạng của trách nhiệm pháp lý. Và việc xem
xét trách nhiệm pháp lý phải dựa trên các cơ sở và căn cứ nhất định. Trước hết khi
nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại chúng ta cần phải tìm hiểu về khái
niệm chế tài bồi thường thiệt hại.
1.1.3.1.
Khái niệm và bản chất của chế tài bồi thường thiệt hại
17
Theo từ điển Luật học, bồi thường thiệt hại là việc người có hành vi vi phạm, có lỗi
trong việc gây ra thiệt hại về vật chất, tinh thần phải bồi hoàn cho người thiệt hại nhằm
phục hồi tình trạng tài sản, bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại 4. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần. Trong hoạt động thương mại, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất được hiểu là việc cá nhân, tổ chức vi phạm phải
gánh chịu những hậu quả vật chất bất lợi do hành vi vi phạm củ mình gây ra cho cá
nhân, tổ chức khác. Những tổn thất này phải được tính thành tiền, bao gồm tổn thất về
tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút, chi
phí sửa chữa... Cả trong trường hợp bên có quyền bị vi phạm đã áp dụng các hình thức
trách nhiệm khác thì họ vẫn không đương nhiên mất quyền đòi bồi thường thiệt hại.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, bồi thường thiệt hại được khai thác theo
hướng bồi thường do vi phạm nghĩa vụ, bởi lẽ, hợp đồng là một căn cứ chủ yếu để
phát sinh nghĩa vụ. Với tư các là văn bản luật gốc điều chỉnh các quan hệ tư, do đó,
quy định của Bộ luật dân sự là cơ sở để các văn bản luật khác quy định về chế độ bồi
thường thiệt hại. Theo Điều 302, Khoản 1 Luật Thương mại: “Bồi thường thiệt hại là
việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho
bên bị vi phạm”. Như vậy có thể hiểu, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là
một chế tài dân sự được áp dụng nhằm bù đắp những thiệt hại thực tế mà bên vi phạm
đã gây ra cho bên bị vi phạm. Bản chất của bồi thường thiệt hại là việc bên có quyền
yêu cầu bên vi phạm nghĩa vụ trả một khoản tiền do vi phạm hợp đồng gây ra.
Theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật thương mại và các văn bản có liên quan
khác, chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng cũng có những đặc điểm của
chế tài, cụ thể như sau:
- Chế tài bồi thường thiệt hại là các chế tài hợp đồng phát sinh khi có hành vi vi
phạm hợp đồng trong thương mại. Trong quan hệ hợp đồng, nếu một bên không thực
hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng thì phải gánh
chịu những hậu quả bất lợi mang tính chất tài sản, căn cứ áp dụng là theo sự cam kết
giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
- Chế tài bồi thường thiệt hại là chế tài mang tính chất tài sản. Khi thương nhân thực
hiện hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại, có thể phải gánh chịu những hậu
quả bất lợi mang tính vật chất trong đó có hình thức chế tài bồi thường thiệt hại. Bản
chất của các giao dịch dân sự và thương mại là các quan hệ về tài sản, có tính chất đền
bù ngang giá, trong đó hợp đồng trong thương mại được các bên kí kết chủ yếu là
những hợp đồng mang tính chất đền bù ngang giá, phản ánh mối quan hệ mang tính
chất hàng hóa tiền tệ, nên việc áp dụng các chế tài mang tính tài sản là tất yếu, trừ khi
4 Theo Từ điển Luật học
18
1.1.3.2.
chính bản thân người bị vi phạm trong cùng quan hệ hợp đồng không muốn áp dụng
chế tài hợp đồng đối với bên vi phạm. Hậu quả bất lợi mang tính chất tài sản thể hiện ở
việc bên có hành vi vi phạm phải nộp một khoản tiền phạt hợp đồng, nộp tiền bồi
thường hợp đồng hay những chi phí cần thiết để thực hiện đúng hợp đồng.
- Chủ thể lựa chọn và quyết định hình thức chế tài buộc bồi thường thiệt hại chính
là bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng. Những điều khoản các bên đã cam kết trong
hợp đồng là điều khoản bắt buộc phải được tuân thủ thực hiện, nếu không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng theo các cam kết được thỏa thuận trong hợp đồng thì chủ
thể đó bị coi là có hành vi vi phạm hợp đồng. Lúc này bên bị vi phạm có thể áp dụng
một hoặc một số chế tài theo cam kết trong hợp đồng hay theo quy định của pháp luật.
Khi bên bị vi phạm áp dụng các chế tài trong thương mại trong đó có chế tài buộc bồi
thường thiệt hại, nhưng bên vi phạm không thừa nhận hành vi vi phạm hay không tuân
thủ các biện pháp chế tài đưa ra thì bên bị vi phạm có thể làm đơn khởi kiện yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong khuôn khổ
quy định pháp luật, bên bị vi phạm được toàn quyền quyết định việc yêu cầu bên vi
phạm thực hiện một phần hay toàn bộ trách nhiệm tài sản đối với mình. Giả sử trong
hợp đồng thỏa thuận áp dụng đồng thời hai chế tài là phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại, bên bị vi phạm có thể chỉ áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại mà không áp
dụng biệt pháp phạt vi phạm. Do đó cơ quan có thẩm quyền được bên bị vi phạm yêu
cầu giải quyết tranh chấp phải tôn trọng quyền tự định đoạt của bị đơn.
Như đã nêu trên, việc quy định các chế tài trong thương mại nhằm bảo vệ quyền lợi
của chính các bên trong quan hệ hợp đồng, đảm bảo cam kết giữa các bên được thực
hiện hoặc là sự đền bù lại những tổn thất đã gây ra cho bên bị thiệt hại do hành vi của
bên vi phạm hợp đồng. Qua đó nhằm bó buộc các bên tham gia hợp đồng phải tuân thủ
các quy định của pháp luật và nghĩa vụ phải thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng
nhằm đảm bảo các bên hợp tác bình đẳng và cũng có lợi. Luật Thương mại 2005 quy
định nhiều loại chế tài khác nhau và nhằm đạt được các hiệu quả khác nhau nhưng
không ngoài mục đích tạo ra môi trường pháp lý công bằng, thuận lợi để các chủ thể
tham gia hoạt động kinh doanh hiệu quả, thuận lợi vì mục tiêu phát triển xã hội.
Ý nghĩa, vai trò của chế tài bồi thường thiệt hại trong quan hệ hợp đồng thương mại
Với bản chất của hợp đồng, các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về hình
thức chế tài phù hợp với quy định của pháp luật. Từ các quy định của Luật Thương
mại 2005, các bên có thể thỏa thuận việc áp dụng hay không áp dụng chế tài buộc bồi
thường thiệt hại. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt
vi phạm hợp đồng mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp tiền phạt vi
phạm hợp đồng vừa phải bồi thường thiệt hại.
Như vậy cũng như các chế tài khác, chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại là
điều kiện cần thiết để đảm bảo cho những cam kết của các bên được thực hiện, đặc
19
1.2.
biệt trong nền kinh tế thị trường khi các yếu tố cạnh tranh luôn là động lực cho sự phát
triển của chính các thương nhân kinh doanh trong nền kinh tế. Các cá nhân, tổ chức có
quyền kinh doanh những gì pháp luật không cấm và hợp đồng là công cụ để cá nhân,
tổ chức tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đó, đồng thời cũng là cơ sở pháp
lý để áp dụng chế tài thương mại đối với bên vi phạm.
Với vai trò quan trọng của mình, các quy định về bồi thường thiệt hại trong thương
mại cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung những điểu bất cập, thiếu sót nhằm tăng
cường tính áp dụng cho các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức kinh doanh trong môi
trường cạnh tranh khốc liệt, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Cơ sơ ban hành pháp luật điều chỉnh chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại
Chế tài thương mại là chế định cơ bản của pháp luật thương mại, có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc thực hiện hợp đồng thương mại. Thông qua đó các chủ thể của hợp đồng
thương mại có thể điều tiết hành vi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, tạo
sự ổn định tương đối cho sự phát triển của nền kinh tế, bảo vệ được bên thiện chí, ngay
tình trong các hoạt động thương mại. Các chế tài này ngày càng thể hiện rõ vai trò
quan trọng của nó và được các bên sử dụng như một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ
quyền lợi của mình trong các quan hệ hợp đồng, đặc biệt là chế tài bồi thường thiệt
hại.
Như chúng ta đã biết, thị trường Việt Nam đang tiến trình mở cửa theo cam kết
WTO sẽ xuất hiện nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam,
hợp đồng thương mại trở thành cơ sở pháp lý, là công cụ hữu hiệu cho các doanh
nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước và thâm nhập thị trường nước ngoài.
Tuy nhiên, trong kinh doanh, để đi đến một hợp đồng thương mại là một điều khó, và
để thực hiện hợp đồng thỏa mãn nhu cầu, quyền và nghĩa vụ của các bên thì càng khó
hơn. Khi ký kết hợp đồng các doanh nghiệp không lường trước được hết mọi tình
huống sẽ có thể xảy ra trong tương lai, nguyên nhân dẫn đến việc không hoàn thành
hay không thực hiện những thỏa thuận có thể là khách quan nhưng cũng có thể là chủ
quan dẫn để dẫn đến tranh chấp. Chính vì vậy chế tài bồi thường thiệt hại ra đời và
phát triển như một công cụ hữu hiệu đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên kinh
doanh trong hợp đồng thương mại.
Trong Bộ luật Dân sự 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định là hình
thức trách nhiệm chung và được áp dụng rộng rãi, phổ biến trong mọi trường hợp
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng mà gây thiệt hại. Thậm
chí cả trong trường hợp bên có quyền bị vi phạm đã áp dụng các hình thức trách nhiệm
khác thì họ vẫn không đương nhiên mất quyền đòi bồi thường thiệt hại. Bản chất pháp
lý của bồi thường thiệt hại là chế tài được các bên thỏa thuận hoặc do luật định có tính
20
1.3.
chất dự phòng nhằm khắc phục những thiệt hại xảy ra do có hành vi vi phạm hợp
đồng. Vì có bản chất và mục đích chính như vậy nên bồi thường thiệt hại có thể áp
dụng ngay cả khi không có thỏa thuận và chỉ được áp dụng khi chủ thể yêu cầu bồi
thường chứng minh được thiệt hại thực tế xảy ra, có hành vi vi phạm hợp đồng, hành
vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Nội dung của chế tài bồi thường thiệt hại là bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm
giá trị vật chất bị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra. Do dó về
nguyên tắc bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi
phạm, không giới hạn bởi giá trị hợp đồng. Sự ban hành của nhà nước về các quy định
liên quan đến chế tài bồi thường thiệt hại đã và đang thể hiện rõ tầm quan trọng của nó
trong việc điều chỉnh sự phát triển của các hợp đồng trong doanh nghiệp, bản thân
doanh nghiệp nói riêng mà còn góp phần xây dựng phát triển nền kinh tế nói chung.
Chế tài bồi thường thiệt hại theo quy định của các bộ luật khác trên thế giới
Hình thức trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng không
phải là hình thức riêng có ở Việt Nam mà còn có ở hệ thống pháp luật khác trên thế
giới.
Trong Bộ luật dân sự Pháp, tại Điều 1147 quy định: “A debtor shall be ordered to
pay damages, if there is occasion, either by reason of the non - performance of the
obligation, or by reason of delay in performing, whenever he does not prove that the
non-performance comes from an external cause which may not be ascribed to him,
although there is no bad faith on his part” - người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do
không thực hiện hoặc thực hiện chậm nghĩa vụ.
Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước CISG) cũng dành
Mục II Chương 5 cho chế tài bồi thường thiệt hại. Trong đó Điều 74 Công ước viên
1980: “ tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản
tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự
vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi
bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp
đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà
họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết.”
Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (Bộ nguyên tắc
Unidroit) dành Mục 4 Chương 7 để thống nhất các vấn đề về bồi thường thiệt hại.
Trong đó Điều 7.4.1 của Bộ nguyên tắc Unidroit quy định: “Việc không thực hiên một
nghĩa vụ đem lại cho bên có quyền quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, hoặc chỉ yêu
cầu bồi thường thiệt hại, hoặc đồng thời với những biện pháp khác, ngoại trừ những
trường hợp được miễn trừ được quy định trong Bộ Nguyên tắc UNIDROIT.”
21
Đối với hợp đồng thương mại quốc tế, khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng, một
trong những chế tài được áp dụng phổ biến là bồi thường thiệt hại. Luật Thương mại
Việt Nam 2005 tại Điều 321 đã quy định về hình thức xử lí vi phạm pháp luật về
thương mại như sau: “ 2.Trường hợp hành vi vi phạm gây thiệt hại đến lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại
theo quy định của pháp luật.”
Như vậy Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại
quốc tế năm 2004 đều có các quy định về quyền bồi thường thiệt hại phát sinh ngay cả
khi xảy ra vi phạm bất kỳ một nghĩa vụ nào của hợp đồng. Trong hệ thống pháp luật
hợp đồng Common Law cũng quy định: “mọi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đều là căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.” Tuy nhiên, những quy định trên lại có
những điểm khác biệt trong thuật ngữ, trong cách giải thích và trong thực tế áp dụng.
Trên thế giới, việc sử dụng Bộ nguyên tắc Unidroit để bổ trợ giải thích Công ước
Viên là phổ biến. Tuy nhiên ở Việt Nam, việc sử dụng Bộ nguyên tắc Unidroit và Công
ước Viên như những nguồn tập quán quốc tế để giải thích Luật Thương mại nói chung
và chế tài bồi thường thiệt hại nói riêng là một quan điểm chưa được thừa nhận rộng
rãi5. Theo tư duy phổ biến hiện nay, đối với những vấn đề mà Luật Thương Mại chưa
điều chỉnh thì sẽ áp dụng Bộ luật Dân sự để giải thích. Nhưng điều này chỉ được thừa
nhận áp dụng phổ biến đối với quan hệ thương mại quốc nội. Còn đối với hợp đồng
thương mại quốc tế, điều này có áp dụng không? Và cho dù có áp dụng, chế tài bồi
thường thiệt hại trong Bộ Luật Dân sự cũng không bao quát được hết các vấn đề của
thương mại quốc tế. Trong bối cảnh đó, quy định về chế tài bồi thường thiệt hại trong
Luật Thương mại cần bổ sung thêm một số điểm để đảm bảo tính rõ ràng và tương
thích với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, vì chế tài bồi thường thiệt hại trong Luật
Thương mại Việt Nam trước hết là được áp dụng đối với quan hệ thương mại quốc nội.
Việc điều chỉnh nó theo khuynh hướng áp dụng cho quan hệ thương mại quốc tế như
trên chưa hẳn là xác đáng. Sự lựa chọn hợp lý nhất là khi Luật Thương mại Việt Nam
được áp dụng cho một hợp đồng thương mại quốc tế, nên giải thích áp dụng chế tài bồi
thường thiệt hại này theo hướng điều chỉnh trên và để đảm bảo tính tổng quan, nên
thừa nhận việc áp dụng Công ước Viên là Bộ nguyên tắc Unidroit để bổ trợ giải thích
Luật Thương mại nói chung và chế tài bồi thường thiệt hại nói riêng.
5 “Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế qua Luật Thương mại Việt Nam, Công ước CISG và Bộ
nguyên tắc Unidroit” – Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
22
23
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN BẮC MỸ.
2.1.
Tổng quan các nhân tố ảnh hưởng đến chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại
Nền kinh tế nước ta hiện nay là một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo sự định hướng xã hội chủ
nghĩa. Dưới tác động và chi phối của các quy luật kinh tế khách quan trong nền kinh tế
thị trường, mỗi doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất hàng hóa độc lập. Do đó doanh
nghiệp luôn phải tự hạch toán để đảm bảo sự tồn tại bền vững, kéo theo đó, việc ký kết
các hợp đồng trở thành điều kiện cần để doanh nghiệp hoạt động và phát triển. Khi
hợp đồng đã được ký kết và có hiệu lực pháp luật, doanh nghiệp – các bên có nghĩa vụ
phải thực hiện đúng các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Nếu bên nào không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng , hay nói cách khác là có hành vi vi phạm pháp luật thì
phải chịu trách nhiệm bồi thường. Bồi thường thiệt hại là một chế tài phổ biến đã tồn
tại từ rất lâu cùng với sự phát triển của nền kinh tế.
Trong các chế tài thương mại đối với vi phạm hợp đồng, có thể nói bồi thường thiệt
hại là một trong những chế tài phức tạp nhất bởi các điều kiện áp dụng của nó. Tuy
nhiên cũng như những chế tài khác, chế tài bồi thường thiệt hại chịu tác động của các
yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau, các yếu tố này không chỉ tác động đến bản
chất, nội dung quy định pháp luật mà còn cả về hình thức áp dụng và thực hiện với các
doanh nghiệp.
2.1.1. Các yếu tố khách quan
Các yếu tố khách quan hay còn được hiểu là các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài
doanh nghiệp, bao gồm các yếu tố thuộc nhóm tự nhiên – xã hội; kinh tế - chính trị pháp luật và nhóm các yếu tố thuộc về chủ thể còn lại của hợp đồng. Các yếu tố tự
nhiên – xã hội là một trong những yếu tố có tác động rất lớn tới đối tượng của hợp
đồng cũng như quy trình thực hiện hợp đồng và nội dung của các yếu tố này chủ yếu là
điều kiện ngoại cảnh, như thiên tai, hỏa hoạn, động đất, do tác động của thời tiết, khí
hậu, do phong tục tập quán,văn hóa địa phương…Và tất nhiên, các yếu tố này, tuy có
thể dự báo nhưng không phải lúc nào cũng chuẩn xác và đoán trước. Mặc dù mang
tính chất khách quan, nhưng sự tác động của các yếu tố này đến việc thực hiện hợp
đồng giữa các bên lại không hề nhỏ dù cho đó là tác động trực tiếp hay gián tiếp. Ảnh
hưởng của nó có thể gây tổn thất rất lớn về tài sản, ảnh hưởng đến vấn đề thực hiện
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Do đó, bên cạnh việc quy định về chế tài bồi
thường thiệt hại khi có vi phạm hợp đồng tại Điều 302, 303 Luật Thương mại 2005,
các nhà làm luật đã quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm khi có hành vi vi
24
phạm hợp đồng trong một số trường hợp có sự tác động của yếu tố ngoại cảnh tại Điều
294. Đây là điều khoản tất yếu và có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền và
nghĩa vụ của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng thương mại.
Thứ hai là các yếu tố nhóm chính trị - kinh tế - pháp luật. Cũng như tất cả các quy
phạm pháp luật khác, chế tài bồi thường thiệt hại cũng chịu sự tác động của yếu tố
kinh tế. Sự biến động của nền kinh tế thị trường thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và
ngược lại. Tuy nhiên những biến động nội trong thì trường còn chịu ảnh hưởng của các
yếu tố khách quan khác ngoài doanh nghiệp, từ các nền kinh tế khác trên thế giới cũng
như kết hợp với môi trường chính trị, những quy định của pháp luật cũng theo đó mà
có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Sự phù hợp của pháp luật được thiết lập theo sau
sự phát triển của nền kinh tế, hay nói cách khác, nền kinh tế phát triển kéo theo sự phát
triển của pháp luật. Và tất yếu không thể tránh khỏi, những sự thay đổi của môi trường
kinh tế - chính trị - pháp luật tác động rất lớn đến việc thực hiện hợp đồng của các
doanh nghiệp nói chung và các chủ thể kinh tế nói riêng. Để bảo đảm quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên dưới sự tác động không lường trước đó, việc thiết lập điều khoản
về bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm đã trở thành yếu tố quan trọng trong mỗi hợp
đồng.
2.1.2. Các yếu tố chủ quan
Bên cạnh các yếu tố khách quan luôn tồn tại các yếu tố khách quan song song. Đa
phần các yếu tố chủ quan này đều xuất phát từ bản thân doanh nghiệp. Như thực tế đã
cho thấy, nền kinh tế càng phát triển, các doanh nghiệp kinh doanh hướng đến mục
tiêu lợi nhuận cao. Chính các mục tiêu này đôi khi khiến cho các doanh nghiệp chệch
hướng khỏi quy định của pháp luật vì pháp luật đang trở thành “rào cản tối đa lợi
nhuận” của họ. Có thể coi đây là động cơ doanh nghiệp sẵn sàng vi phạm pháp luật và
lợi dụng những kẻ hở của pháp luật để tạo lợi nhuận bất chính. Ví dụ như khi một
doanh nghiệp vì muốn đạt lợi nhuận cao đã không giao hàng cho đối tác ký hợp đồng,
sẵn sàng vi phạm điều khoản giao hàng đúng thời hạn để giao hàng cho một đối tượng
khác với mức lợi nhuận cao hơn. Do đó trong hợp đồng kinh doanh nói riêng và các
hoạt động kinh tế nói chung, chế tài thương mại đóng vai trò vô cùng quan trọng, nhất
là chế tài bồi thường thiệt hại. Nó không chỉ ràng buộc trách nhiệm của bên vi phạm
mà còn cả bên vi phạm, giúp các bên thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng và được
hưởng trọn vẹn quyền lợi của mình.
2.2.
Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại
Trong lĩnh vực thương mại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại với tư cách là một chế
tài trong thương mại chỉ phát sinh từ hợp đồng thương mại khi một trong các bên có
hành vi vi phạm hợp đồng, tức là sự vi phạm nghĩa vụ và gây thiệt hại cho đối tác. Ở
nhiều nước trên thế giới không có sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng
thương mại. Dù là hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự hay hợp đồng mua bán hàng
25