Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần khoáng sản FECON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.32 KB, 66 trang )

TÓM LƯỢC
Mua bán hàng hóa là một hoạt động đã được hình thành từ lâu đời, nó xuất phát
từ nhu cầu trao đổi để thỏa mãn những mong muốn cá nhân của con người. Và ngày
nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động mua bán hàng hóa càng trở nên
phổ biến và là một trong những hoạt động thương mại chủ yếu của con người.
Trong phạm vi bài khóa luận, em sẽ tập trung đi sâu làm rõ một số vấn đề pháp
lý về hoạt động mua bán hàng hóa, và thực tế áp dụng tại Công ty cổ phần khoáng sản
FECON– địa điểm em chọn để thực tập tốt nghiệp. Bài khóa luận của em gồm có hai
phần chính
Phần một, Tập trung đi vào các vấn đề pháp lý cơ bản của pháp luật về mua bán
hàng hóa.Làm rõ một số vấn đề như hợp đồng mua bán hàng hóa là gì? Nội dung của
hợp đồng mua bán hàng hóa ra sao? Quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
diễn ra như thế nào? Từ việc nêu ra những lý luận cơ bản sẽ là nền tảng để em thực
hiện các phần tiếp theo của bài khóa luận.
Phần hai, Tập trung đi vào phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh
hoạt động mua bán hàng hóa hiện nay và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần khoáng
sản FECON.Từ việc đánh giá tìm ra được những vấn đề còn tồn tại gây ra sự bất cập,
không phù hợp của pháp luật khi áp dụng vào thực tế.Từ đó nêu ra một số kiến nghị để
hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật hiện hành.

i


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập tại Trường đại học Thương Mại nói chung và quý
trình thực hiện Khóa luận tốt nghiệp nói riêng, em đã nhận được sự chỉ báo rất tận tình
từ các thầy cô trong chuyên ngành Luật Thương mại thuộc Khoa Kinh tế - Luật trường
Đại học Thương Mại.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Ban giám hiệu trường Đại học
Thương Mại, các thầy cô trong khoa Kinh tế - Luật đã tận tâm dạy bảo và dìu dắt
chúng em trong suốt bốn năm học vừa qua, giúp chúng em có được những kiến thức


nền tảng vững chắc nhất trước khi bước vào một môi trường mới. Và tạo điều kiện để
chúng em có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn tới cô giáo Nguyễn Thị Nguyệt – bộ môn Luật
chuyên ngành đã rất tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành bài khóa luận. Do thời
gian có hạn và kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài làm của em không khó tránh khỏi
những sai sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô để bài khóa luận
được hoàn chỉnh và giúp em có thể trau dồi được thêm vốn kiến thức về pháp luật
thương mại. Môt lần nữa em xin chân thành cảm ơn!

ii


MỤC LỤC

iii


DANH MỤC VIẾT TẮT

LTM

Luật Thương Mại

BLDS

Bộ Luật dân sự

HĐMBHH

Hợp đồng mua bán hàng hóa


NĐ-CP

Nghị định chính phủ

iv


LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nhắc đến hoạt động kinh doanh thương mại ta không thể không nhắc đến hoạt
động mua bán hàng hóa. Mua bán hàng hóa là hoạt động đặc trưng cơ bản của kinh
doanh thương mại. Hợp đồng mua bán hàng hóa chính là cách thức để hoạt động này
được diễn ra, nó thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên chủ thể trong quan hệ mua
bán. Hợp đồng được đảm bảo thực hiện nhờ vào nhiều yếu tố như sự chấp hành của
các bên đối với các điều khoản đã thỏa thuận hay hợp đồng đó có vi phạm lợi ích của
người khác, lợi ích chung của xã hội hay không. Pháp luật với vai trò là khung định ra
những nguyên tắc cơ bản cho mọi hoạt động trong xã hội, cũng điều chỉnh những vấn
đề liên quan đến hoạt động thiết yếu này.
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới nói chung
cũng như Việt Nam nói riêng, đây là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, tổ chức
kinh doanh phát triển. Tuy nhiên, để bắt kịp với tốc độ phát triển đó thì doanh nghiệp
cần cập nhật hệ thống pháp lý một cách nhanh và chính xác nhất. Bởi đây cũng là một
trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Môi
trường pháp luật có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ nếu doanh
nghiệp tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định có liên quan mà nhà nước ban hành. Hệ
thống pháp luật đã mở ra một sân chơi chung cho các doanh nghiệp lớn – nhỏ, trong
và ngoài nước. Trong môi trường cạnh tranh đầy khốc liệt , doanh nghiệp cần nắm
vững và tuân thủ pháp luật. Điều này một mặt giúp cho doanh nghiệp tự tin phát triển
bản thân doanh nghiệp mình vừa giúp tránh khỏi được những rắc rối mà đối thủ cạnh

tranh gây phiền nhiễu và bảo vệ quyền lợi của chính mình.Tồn tại song song với sự
phát triển mạnh mẽ về kinh tế thì các quy định về hoạt động của doanh nghiệp cũng
ngày càng được hoàn thiện nhằm mục đích tạo môi trường sản xuất kinh doanh lành
mạnh, giúp các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong sự phát triển sự nghiệp của mình.
Bên cạnh đó, với mỗi doanh nghiệp tùy thuộc và loại hình doanh nghiệp, nghành nghề
kinh doanh mà các quy phạm pháp luật điều chỉnh cũng khác nhau.
Kiến thức pháp lý của cán bộ, nhân viên còn hạn chế nên chưa nắm được đầy
đủ quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với công ty.
Công tác quản lý còn nhiều bất cập, các chức năng của từng bộ phận chưa thực
sự cụ thể, rõ ràng. Nhiều khi chồng chéo gây nên chậm chạp trong quá trình xử lý
công việc.
Do trong Công ty không có phòng pháp chế nghiên cứu về pháp luật nên những
vướng mắc, hạn chế của pháp luật liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty chưa được giải đáp. Việc ký kết các hợp đồng có yếu tố nước ngoài còn rất
1


hạn chế về số lượng. Hợp đồng giữa công ty và đối tác còn sơ sài, chưa chặt chẽ, chưa
tính đến hậu quả cũng như phương hướng giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
Việc áp dụng luật pháp trong công ty còn nhiều bất cập, thiếu sót như người sử
dụng lao động áp dụng xử lý người lao động còn tùy tiện và không hợp lý. Về phía
người lao động thì kiến thức hiểu biết về pháp luật chưa cao, ý thức kỷ luật kém dẫn
đến những tổn thất không đáng có cho công ty. Hơn thế nữa các quy định thường
xuyên có sự thay đổi đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự am hiểu pháp luật nếu muốn gặp
rủi ro về pháp lý hay mất cơ hội kinh doanh.
Việc soạn thảo hợp đồng của công ty với đối tác không được chặt chẽ và vẫn có
kẽ hở nên khi có xảy ra tranh chấp với khách hàng là khó tránh khỏi vì vậy công ty
nên tạo cho mình một mẫu hợp đồng sẵn và rà soát lại các nội dung trong hợp đồng để
tránh khỏi những tranh chấp không đang có khi xảy ra mâu thẫn với khác hàng.
Mặc dù, môi trường pháp lý đã tạo điều kiện tốt hơn cho doanh nghiệp nhưng do

pháp luật còn thiếu ổn định khiến doanh nghiệp gặp không ít khó khăn đặc biệt là khi
ký kết hợp đồng. Bên cạnh đó, việc chậm trễ ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết
thi hành pháp luật khiến cho công ty khó khăn khi ký kết, thực hiện cũng như giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
Qua quá trình thực tập tại công ty cổ phần khoáng sản FECON, em nhận thấy
rằng hoạt động mua bán hàng hóa là một trong những lĩnh vực hoạt động phát triển
nhất tại công ty và cũng là lĩnh vực có nhiều những vấn đề pháp lý trong thực tiễn giao
kết và thực hiện các hợp đồng kinh doanh thương mại nói chung và hợp đồng mua bán
hàng hóa nói riêng.việc áp dụng pháp luật về hợp đồng đối với loại hợp đồng này chưa
thật sự đầy đủ và đúng đắn nên đã dẫn đến tranh chấp giữa các bên. Sau một thời gian
tìm hiểu về công ty và tìm hiểu về thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng tại công
ty cùng với kiến thức được trang bị ở nhà trường em nhận thấy rằng hợp đồng là một
công cụ pháp lý không thể thiếu của hoạt động mua bán hàng hóa. Nó giúp các bên
dẫn chiếu đến khi một trong hai bên không thực hiện nghĩa vụ, nhờ đó mà bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Buộc các bên tham gia hoạt động mua bán
hàng hóa phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Vì vậy em đã chọn đề tài: “pháp
luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa- thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần
khoáng sản FECON” để làm bài khóa luận của mình.
2.Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Đến nay đã có rất nhiều những tác giả đã nghiên cứu và đưa ra những nhận định
về những vấn đề pháp lý xoay quanh hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong đó có thể kể
đến các công trình nghiên cứu như:
“ Hợp đồng mua bán hàng hóa từ lý thuyết đến thực tiễn áp dụng tại
2


côngtyTNHH IPC”- Luận văn của Phạm Thị Lan Phương bảo vệ thành công năm
2012 .Luận văn nghiên cứu quá trình phát triển của hợp đồng cũng như các quy định
hiện hành của pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa.
Khóa luận tốt nghiệp của tác giả: Đặng Văn Vũ, khoa luật kinh tế, trường đại

học Kinh Tế Quốc Dân, do TS.Đỗ Kim Hoàng hướng dẫn thực tập. Đề tài của tác giả
là: “thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kí kết và thực hiện hợp đồng
nhập khẩu hàng hóa tại công ty cổ phần vật tư bảo vệ thực vật Hòa Bình”. Trong đề tài
này tác giả nghiên cứu khái quát những vấn đề pháp lý chung về kí kết và thực hiện
hợp đồng nhập khẩu hàng hóa tại công ty cổ phần vật tư bảo vệ thực vật Hòa Bình, để
tìm hiểu những vấn đề thuận lợi và khó khăn, nguyên nhân tồn tại những khó khăn
trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hóa tại công ty
Khóa luận: “Giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty
TNHH Nhất Nước”. Tác giả Mai Thị Thương, lớp luật kinh doanh 48, trường đại học
Kinh Tế Quốc Dân. Tác giả trong tiểu luận này tập trung nghiên cứu một số vấn đề
pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty. Từ đó, tìm ra
những vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm góp phần vào việc hoàn thiện
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa, đồng thời đưa ra một số đề xuất giúp công ty
nâng cao hiệu quả trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
“Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa do lỗi của bên bán” TẠP CHÍ KIỂM SÁT SỐ 5/2005
Đề tài “thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty
cổ phần Thăng Long” -luận văn của Đặng Huy Phong lớp Luật K46 Đại học kinh tế
quốc dân
“pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài-kinh nghiệm so sánh với luật Trung Quốc và những định hướng hoàn thiện
cho pháp luật Việt Nam” luận văn thạc sĩ năm 2012 của Trương Thị Bích.
Luận văn “pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật
thương mại năm 2005.thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH Nhật-Việt ” của Nguyễn
Thị Hậu sinh viên khoa Kinh tế-Luật trường Đại học Thương mại do cô Đỗ Hồng
Quyên hướng dẫn.
Hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần hóa
dầu Petrolimex”-tác giả Vũ Phương Huyền lớp luật kinh doanh 45
Các đề tài nghiên cứu về vấn đề này đã chứng tỏ tầm quan trọng của kí kết
và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên các quy định pháp luật về kí
kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa vẫn còn nhiều bất cập chưa được hoàn

thiện. Vì vậy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về kí kết và thực hiện hợp đồng
3


mua bán hàng hóa là điều tất yếu. Do đó một trong những điểm thành công trong
các đề tài nghiên cứu đó là phát hiện ra được những bất cập còn thiếu sót, những
mặt còn hạn chế. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kí kết
và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Ngày nay, hoạt động thương mại đang diễn ra ngày càng sôi nổi hơn với đa dạng
các hình thức sở hữu, cũng như hình thức kinh doanh của các doanh nghiệp. Đặc biệt
là mua bánhàng hoá, đó là hoạt động chính trong thương mại, là cầu nối giữa sản xuất
và tiêu dùng và không chỉ giới hạn ở phạm vi mỗi quốc gia mà còn mở rộng ra cả các
quốc gia khác nhau trên toàn thế giới
Hợp đồng mua bán hàng hóa là hoạt động mà hầu hết các nhà kinh doanh đều
phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát triển. Song song với đó việc kí kết các
hợp đồng phải tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật mới có thể giúp gắn chặt
các mối quan hệ hợp tác, bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của các bên, đồng thời tăng
cường hiệu quả quản lí kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế.
Với sự ra đời của các đạo luật về vấn đề nêu trên, quy định về pháp luật hợp
đồng hiện nay đã khá đầy đủ và có hệ thống.Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn không thể
tránh khỏi những thiếu sót trong việc thực hiện các chính sách về kí kết cũng như thực
hiện hợp đồng.Vẫn còn đó những vấn đề cần phải bàn luận và đưa ra các giải pháp
nhằm tối đa hóa hiệu quả trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.Bài
khóa luận “Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa-thực tiễn áp dụng
tại Công ty cổ phần khoáng sản FECON” của em dưới đây sẽ trình bày một cách
khái quát về tình hình hệ thống pháp luật hiện hành về vấn đề nêu trên cũng như thực
tiễn đang được áp dụng tại Công ty cổ phần khoáng sản FECON.
Do kiến thức cũng như kinh nghiệm còn hạn hẹn, thời gian nghiên cứu không lâu
nên trong bài khóa luận này em xin phép được trình bày một cách khái quát và cơ bản

nhất các vấn đề được nêu ra. Bài viết sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót.Em mong nhận
được sự phản hồi cũng như ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được nghiên cứu sẽ bao gồm:
Các quy định pháp luật về vấn đề thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Đồng thời đi nghiên cứu những vấn đề về hợp đồng mua bán hàng hóa được nảy
sinh trong thực tế để có thể phản ánh một cách rõ ràng và chính xác nhất những gì đã
làm được và những gì còn tồn tại trong quá trình áp dụng pháp luật hợp đồng vào thưc
tiễn các tình huống xảy ra.
4


4.2 Mục tiêu nghiên cứu
Làm sáng tỏ về mặt lý luận sự cần thiết phải có một hệ thống pháp luật thống
nhất và chặt chẽ để quản lí hoạt đông mua bán và trao đổi hàng hóa trong bối cảnh
nước ta đã gia nhập WTO, sư hội nhập kinh tế đứng trước rất nhiều cơ hội và thánh
thức.
Phản ánh thực trạng tình hình pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa hiện nay ở nước ta. Tìm ra những ưu điểm đồng thời nhìn nhận lại những điểm
còn hạn chế trong hệ thống pháp luật hiện hành.
Nêu lên thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động mua bán hàng hóa của
công ty cổ phần khoáng sản FECON
Những thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp trong quá trình áp dụng pháp
luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Từ đó đề xuất những giải pháp để giải
quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Bài khóa luận tập trung nghiên cứu những lí luận cơ bản và các quy định hiện
hành về hợp đồng mua bán hàng hóa trong các văn bản pháp luật Việt Nam như: Luật
Thương Mại 2005, Luật Dân sự 2005…

Không gian: Thực tế áp dụng vấn đề trên tại Công ty cổ phần khoáng sản
FECON trong những năm vừa qua
Với việc giới hạn phạm vi nghiên cứu trên sẽ ta giúp dễ dàng hơn trong việc xác
định vấn đề nghiên cứu đồng thời chỉ rõ đề tài, tập trung nghiên cứu và phân tích nhằm
đưa ra những nhận định khách quan, phân tích, đánh giá để tìm ra những giải pháp
giúp hoàn thiện pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu khóa luận chủ yếu dựa vào phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh để nghiên
cứu.Trong quá trình nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn thông qua
điều tra, khảo sát,… từ đó đánh giá bản chất của hiện tượng.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Chủ yếu là nghiên cứu các văn bản Quy phạm
pháp luật trong mua bán hàng hóa như: Luật Thương mại 2005, Luật Dân sự 2005.
Phương pháp so sánh, đối chiếu thông tin: xem xét tính tương thích của các quy
định về pháp luật về mua bán hàng hóa ơ Việt Nam với các quy định trong các điều
ước quốc tế mà Việt Nam tham gia
Phương pháp phân tích tình huống và lựa chọn giải pháp: phân tích, đánh giá
những tình huống phát sinh trong thực tiễn và đưa ra một số kiến nghị, đề xuất liên

5


quan tới quy định pháp luật về mua bán hàng hóa nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề
nêu trên.
Phương pháp thu thập số liệu, thống kê, phân tích, đối chiếu: làm sáng tỏ thực
trạng áp dụng pháp luật về mua bán hàng hóa tại Việt Nam hiện nay. Việc thu thập số
liệu được sử dụng chủ yếu, các nguồn dữ liệu được thu thập từ các tạp chí nghiên cứu,
báo cáo.
Dù là sử dụng phương pháp nào để xây dựng các nội dung của đề tài thì các
phương pháp nghiên cứu vẫn được thực hiện trên nền tảng của triết học và logic như:

chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước và dựa trên các văn bản pháp luật
hiên hành như Luật Thương Mại 2005, Luật Dân sư 2005, Công Ước Viên 1980...
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu khóa luận tốt nghiệp trên bao gồm 3 phần
chính:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh việc thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.

CHƯƠNG I
6


NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VẤN ĐỀ THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1 Một số khái niệm cơ bản về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1 Khái niệm mua bán hàng hóa
Hàng hoá là tài sản có thể trao đổi, mua, bán trên thị trường, có khả năng thỏa
mãn nhu cầu của con người, bao gồm các loại động sản và bất động sản.
Theo Từ điển Việt Nam: Hàng hóa là một trong những phạm trù cơ bản của
kinh tế chính trị. Theo nghĩa hẹp, hàng hóa là vật chất tồn tại có hình dạng xác định
trong không gian và có thể trao đổi, mua bán được. Theo nghĩa rộng, hàng hóa là tất cả
những gì có thể trao đổi, mua bán được.
Theo Luật thương mại 2005, hàng hóa được định nghĩa “bao gồm tất cả các loại
động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; các vật gắn liền với đất đai”
(khoản 2 điều 3 Luật thương mại 2005). Hàng hóa là đối tượng mua bán phải không

thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh theo quy định của Nhà nước (Nghị định
59/2006/NĐ- CP ngày 12/06/2006). Nếu hàng hóa đó thuộc danh mục hạn chế kinh
doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì phải tuân theo đầy đủ các quy định của pháp
luật về mua bán các loại hàng đó.
Theo kinh tế chính trị Mac-Lenin:
Trong kinh tế chính trị Mac-Lenin, hàng hóa cũng được định nghĩa là sản phẩm của
lao động thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể là hữu hình như sắt thép, quyển
sách hay ở dạng vô hình như sức lao động. Các Mác định nghĩa hàng hóa trước hết là
đồ vật mang hình dạng có khả năng thỏa mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất
của nó. Để đồ vật trở thành hàng hóa cần phải có: tính ích dụng đối với người dùng;giá
trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động; sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ
khan hiếm
Trước hết ta cần hiểu hàng hóa là sản phẩm của lao động để thỏa mãi nhu cầu
nào đó của con người thông qua mua ban và trao đổi. Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình
như: sắt, thép, quần áo, đồ ăn; cũng có thể ở dạng vô hình như: các loại hình dịch vụ,
giao thông vận tải... Nhưng dù ở hình thức nào đi nữa thì hàng hóa đều phải đảm bảo
các thuộc tính đó là phải đảm bảo có giá trị và có giá trị sử dụng.
Dưới góc độ Triết học, mua bán hàng hóa là hoạt động đã được diễn ra từ rất lâu.
Việc trao đổi các sản phẩm do tự mình tạo ra đã xuất hiện cùng với sự ra đời của sản
xuất hàng hoá (nhưng lúc đầu chỉ mang tính giản, thô sơ theo công thức hàng-hàng (HH) nghĩa là hàng hoá chỉ được thực hiện dưới hình thức trao đổi hiện vật. Đến khi tiền
tệ làm phương tiện lưu thông xuất hiện công thức của trao đổi đó là hàng-tiền-hàng
7


(H-T-H) và đó chính là quá trình lưu thông hàng hoá.Vậy lưu thông hàng hoá gồm hai
giai đoạn là giai đoạn Hàng-Tiền (H-T) và giai đoạn Tiền-Hàng (T-H).trong giai đoạn
hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị, đó chính là việc bán
hàng. Thực chất bán hàng là sự chuyển hoá hình thái giá trị của hàng hoá từ hàng sang
tiền (H-T) nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng về một giá trị sử dụng nhất định, là
khâu cuối cùng có tính chất quyết định của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.

(Theo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lenin)
Dưới góc độ Kinh tế thương mại, theo Khoản 8 điều 3 L TM 2005: “Mua bán
hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán và nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”. Ta có thể
hiểu mua bán hàng hóa là sự đầu tư tiền của, công sức của một cá nhân hay một tổ
chức vàoviệc trao đổi hàng hóa để kiếm lời. Đó là hoạt động cốt lõi để doanh nghiệp
có thể duy trì và phát triển. Hoạt động này không những tạo ra dòng tiền luân chuyển
thường xuyên cho doanh nghiệp mà còn là cơ sở để doanh nghiệp có thể đảm bảo bộ
máy hoạt động được diễn ra tục nhờ nguồn doanh thu mà việc mua bán hàng hóa mang
lại, đồng mở ra các cơ hội kinh doanh mới với các bạn hàng mới.Về cơ bản hoạt động
mua bán hàng hóa được diễn ra dưới hai hình thức chủ yếu đó là mua bán hàng hóa
trong nước và mua bán hàng hóa quốc tế.
Trong bài nghiên cứu này em sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu vào hoạt động mua
bán hàng hóa dưới góc độ kinh tế thương mại, được điều chỉnh bởi hệ thống các văn
bản pháp luật Thương mại hiện hành.
Đặc điểm của hoạt động mua bán hàng hóa
Thứ nhất,chủ thể của hành vi mua bán hàng hóa là bất cứ cá nhâ, tổ chức, đơn vị
kinh doanh nào có nhu cầu về hàng hóa. Mỗi cá nhân, tổ chức đều có quyền thực hiện
hành vi mua bán hàng hóa với cá nhân, tổ chức nào khác trong khuôn khổ năng lực
pháp lý và năng lực hành vi của họ không phân biệt về địa lý hay thành phần kinh tế.
Hoạt động mua bán hàng hóa luôn được hình thành bởi tối thiểu hai bên tham gia là
bên mua và bên bán.Bên bán là chủ sở hữu ban đầu của hàng hóa, bên mua là bên
mong muốn và có nhu cầu sở hữu hàng hóa.Trong hoat động mua bán hàng hóa cũng
có thể xuất hiện bên thứ ba là trung gian giữa bên mua và bên bán. Trung gian này có
thể là bên cung cấp kho hàng, bên vận chuyển hoặc nhà phân phối của bên bán…
Hàng hóa sẽ được chuyển giao từ bên bán sang bên mua sau khi có sự thỏa thuận và
bên mua trao cho bên bán một lượng giá trị tương đương với giá trị của hàng hóa đó.
Theo quy định của LTM, hoạt động mua bán hàng hóa phải phát sinh giữa hai
bên là thương nhân với nhau hoặc ít nhất một bên là thương nhân. Như vậy chủ thể

8


của hoạt động mua bán hàng hóa là thương nhân, cá nhân, tổ chức hoạt động có liên
quan đến thương mại hoặc cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên không phải đăng kí kinh doanh. Trong quan hệ mua bán hàng hóa ở nước ta
hiện nay ít nhất một bên phải là thương nhân có nghĩa là các cá nhân, tổ chức phải có
đầy đủ các điều kiện của một thương nhân còn bên kia có thể là thương nhân hoặc
không phải là thương nhân nhưng phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy
định của pháp luật.
Thứ hai, đối tượng của quan hệ mua bán hàng hóa: Đối tượng trong hoạt động
mua bán hàng hóa luôn phải đảm bảo hai điều kiện đó là giá trị và giá trị sử dụng.
Theo quy định của Luật Thương mại hàng hóa được quy định tại khoản 2điều 3 LTM
2005 bao gồm: “ Tất cả các loại động sản, kể cả là hình thành trong tương lai; những
vật gắn liền với đất đai”. Theo quy định của LTM 2005 thì hàng hóa đươc hiểu ở
nghĩa khá hẹp, nó chỉ bao gồm vật chất ở dưới dạng nhất định và được pháp luật quy
định cụ thể.
Phân loại mua bán hàng hóa
Mua bán hàng hóa trong nướclà quá trình mua bán trao đổi hàng hóa không có
sự dịch chuyển qua biên giới quốc gia hoặc vào khu vực hải quan riêng biệt có quy chế
riêng như khu chế xuất hoặc khu ngoại quan.
Mua bán hàng hóa quốc tế, được thực hiện dưới các hình thức:
Xuất khẩu: Xuất khẩu hàng hóa làviệc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực
hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Nhập khẩu: Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt
Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Tạm nhập, tái xuất: Tạm nhập, tái xuất hàng hóa là việc hàng hóa đựơc đưa từ
nước ngoài hoặc từ những khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là

khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật vào Việt Nam, có làm thủ tục nhập
khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hóa đó ra khỏi Việt Nam.
Tạm xuất, tái nhập: Tạm xuất, tái nhập hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra
nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi
Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hóa đó vào Việt Nam.
Chuyển khẩu: Chuyển khẩu hàng hóa là việc mua hàng hóa từ một nước, vùng
lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm
thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
9


Trong phạm vi bài nghiên cứu này sẽ chỉ đi sâu vào hoạt động mua bán hàng hóa
trong nước.
1.1.2 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.2.1 Lịch sử của hợp đồng mua bán hàng hóa
Khi xã hội mới hình thành đã xuất hiện khái niệm về phân công lao động. Đó là
sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh
vực sản xuất khác nhau. Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất
hàng hóa. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa
càng mở rộng hơn, đa dạng hơn. Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi
sản phẩm trở thành tất yếu. Khi có phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất
một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định, những nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ
phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc
phải trao đổi với nhau, sự chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm cho năng suất lao
động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản
phẩm.Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất dẫn đến người
này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi,
mua bán.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, xã hội ngày càng văn minh và hiện

đại hơn. Ban đầu, khi việc mua bán trao đổi hàng hóa vẫn còn ở thời kỳ manh nha,
việc hình thành hợp đồng chủ yếu được thực hiện dưới dạng lời nói, dựa sự tin tưởng
với đối phương. Nhưng càng về sau do sự tác động của nhiều yếu tố chính trị và xã
hội…, việc thiết lâp quan hệ mua bán trao đổi khách quan đòi hỏi những bằng chứng,
chứng cớ để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Do đó HĐMBHH bằng
văn bản được hình thành và duy trì cho đến tận ngày nay và trở nên không thể thiếu
trong quá trình thiết lập các quan hệ thương mại. Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp
lý quan trọng và phổ biến để con người thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết
mọi nhu cầu trong đời sống xã hội. Tuy vậy, trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để
tìm ra được một thuật ngữ chính xác, như thuật ngữ “hợp đồng” đang được sử dụng
trong pháp luật nhiều quốc gia ngày nay, là việc không mấy dễ dàng.
Theo Sơ lược pháp luật về hợp đồng của Việt Nam – Hội đồng phối hợp công
tác, phổ biến pháp luật giáo dục trung ương: “ Nhiều luật gia cho rằng thuật ngữ “hợp
đồng” (contractus) được hình thành từ động từ “contrahere” trong tiếng La-tinh, có
nghĩa là “ràng buộc”, và xuất hiện lần đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ V – IV
trước công nguyên (“TCN”) . Ban đầu, người La Mã cũng không có khái niệm chung
“contractus” mà sử dụng các thuật ngữ riêng biệt để chỉ các hợp đồng cụ thể phổ biến
như mua bán (sponsio), vay mượn (mutuum), gửi giữ (depositum), ủy thác
10


(mandatum)… Mãi đến thời của luật gia La-be-ôn (thế kỷ 1 sau công nguyên), người
La Mã mới chính thức sử dụng thuật ngữ “contractus” trong luật, và quan hệ hợp đồng
được pháp luật công nhận và bảo vệ dưới thời Justinnian . Sau này, pháp luật các nước
phương Tây đã kế thừa và phát triển quan niệm pháp lý từ thời La Mã và đã sử dụng
chính thức thuật ngữ “hợp đồng”, mà trong tiếng Anh được viết là “contract”, và trong
tiếng Pháp là “contrat”.
Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng
để chỉ về hợp đồng như: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ước, tờ
ưng thuận, chấp thuận…Trong cổ luật, dựa vào các cứ liệu lịch sử còn lại cho đến

ngày nay, thuật ngữ “văn tự” hay “văn khế” , hay “mua”, “bán”, “cho”, “cầm” đã được
sử dụng khá sớm, trong Bộ Quốc triều Hình luật. Sau này, thuật ngữ “khế ước” mới
được sử dụng chính thức trong Sắc lệnh ngày 21/7/1925 (được sửa đổi bởi Sắc lệnh
ngày 23/11/1926 và Sắc lệnh ngày 06/9/1927) ở Nam phần thuộc Pháp, trong Bộ Dân
luật Bắc 1931, và trong Bộ Dân luật Trung 1936 – 1939. Thuật ngữ “khế ước” cũng
được sử dụng trong Sắc lệnh 97/SL của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Hồ
Chủ tịch ký ban hành ngày 22/5/1950 (Điều 13). Ngoài ra, thuật ngữ “khế ước”cũng
được sử dụng trong Bộ Dân luật 1972 của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam
nước ta trước 30/4/1975 (Điều 653). Không chỉ có vậy, trong Bộ Dân luật Bắc 1931,
Bộ Dân luật Trung 1936 - 1939 và Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 còn sử dụng thuật ngữ
“hiệp ước”, trongđó nhà làm luật xem “khế ước” là một “hiệp ước” hoặc đồng nhất
giữa “khế ước” với “hiệp ước” .
Các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước ta không còn sử dụng thuật ngữ
“khế ước” hay “hiệp ước” như trước đây mà sử dụng các thuật ngữ có tính “chức
năng”, “công cụ”như hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng thương mại. Đây
là điểm cá biệt bởi trong pháp luật của nhiều nước, người ta chỉ sử dụng thuật ngữ
“hợp đồng” nói chung, chứ không sử dụng các thuật ngữ HĐDS, HĐTM, HĐLĐ…
một cách cụ thể như pháp luật Việt Nam. Ngoài việc chọn “hợp đồng” làm thuật ngữ
pháp lý chính thức trong các văn bản pháp luật, các luật gia cũng quan tâm tới việc
làm rõ nội hàm của khái niệm “hợp đồng”.Một chuyên gia đã nhận xét, hợp đồng
“dường như là một trong những hiện tượng có thể nhận thức được rất dễ dàng nhưng
thật khó khăn để có thể đưa ra được một định nghĩa về nó ”.
Luật Thương mại năm 2005, mặc dù không đưa ra khái niệm về HĐTM mà chỉ
có các quy định áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ, hợp
đồng dịch vụ khuyến mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo khuyến mại…Tuy nhiên đặc
trưng dễ nhận thấy trong các quy định về HĐTM trong LTM là những quy định này

11



cũng gần giống những quy định áp dụng trong các hợp đồng kinh tế (theo PLHĐKT),
HĐDS (theo BLDS). Bao gồm các đặc điểm:
1. Có sự thỏa thuận giữa các chủ thể với nhau.
2. Nhằm thực hiện các hoạt động thương mại.
3. Làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng.
Nói tóm lại, dù được quy định trong các văn bản pháp lý khác nhau, nhưng ở góc
độ khái quát nhất, hợp đồng mua bán hàng hóa vẫn được xem là sự thỏa thuận về trao
đổi giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong
quan hệ thương mại. Các chủ thể tham gia hợp đồng cùng các quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng đều được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh.”
1.1.2.2 Định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa
Quan hệ mua bán hàng hóa đươc thực hiện dựa trên việc xác lập hợp đồng mua
bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất pháp lý chung là hợp đồng, là
sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong mua bán.
Dù trong Luật Thương mai không định nghĩa thế nào là hợp đồng mua bán hàng hóa
xong có thể xác định bản chất pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa được dựa trên
cơ sở là hợp đồng Dân sự về tài sản. Do đó ta có thể thể hiểu hợp đồng mua bán hàng
hóa là sự thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ mua bán theo quy định của LTM
để thực hiện hoạt động trên.
Theo BLDS 2005,hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa
vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Hàng hóa được hiểu là động sản, kể cả động
sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn liền với đất. Như vậy, hàng hóa thuộc tài
sản và có phạm vi hẹp hơn tài sản. Từ đó cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa trong
thương mại một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Điểm phân biệt giữa hợp
đồng mua bán hàng hóa trong thương mại và hợp đồng mua bán tài sản khác là: đối
tượng hàng hóa, và mục đích sinh lời.
Căn cứ vào yếu tố chủ thể, đối tượng, nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp
mua bán hàng hóa được chia thành hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và hợp
đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài ( hợp đồngmua bán hàng hóa quốc tế).

Về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nó không được định nghĩa trong LTM 2005,
nhưng qua quy định tại Điều 758 BLDS 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài,
có thể suy ra rằng một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi
có một trong các yếu tố sau:
Căn cứ vào yếu tố chủ thể, HĐ được giao kết bởi các bên không cùng quốc tịch.

12


Căn cứ vào yếu tố đối tượng, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng đang tồn tại ở
nước ngoài.
Căn cứ vào nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp đồng được giao kết ở nước
ngoài và có thể được thực hiện ở nước mình hay nước thứ ba.
Điều cần chú ý ở HĐ mua bán hàng hóa quốc tế là các bên tham gia giao kết hợp
đồng sẽ rất dễ gặp phải các rủi ro đặc thù như xung đột pháp luật, do quá trình vận
chuyển, thanh toán, thực thi cam kết hợp đồng. Vì vậy, các bên cần thỏa thuận và soạn
thảo ra một bản hợp đồng chi tiết.Khoản 2 Điều 27 LTM quy định rằng HĐ mua bán
hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một hợp đồng có tính chất đặc thù, bản chất của
nó là giao một tài sản và đổi lại một số tiền có giá trị tương ứng. Nếu không có đặc
trưng ấy thì hợp đồng sẽ không thể trở thành một hợp đồng mua bán hàng hóa.Mua
bán hàng hóa là một hợp đồng song vụ, nó phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên
tham gia, cụ thể ở đây là bên mua và bên bán.Đó là một hợp đồng chuyển giao quyền
sở hữu tài sản có đền bù, khác với hợp đồng tặng cho vì hợp đồng tặng cho là một hợp
đồng chuyển giao quyền sở hữu không có đền bù. Cùng với đó, hợp đồng mua bán
hàng hóa còn phải là một hợp đồng ưng thuận, chỉ đi đến kết quả cuối cùng là hoạt
động chuyển giao quyền sở hữu tài sản khi đạt được sự thỏa thuận của các bên về
những quyền và nghĩa vụ cơ bản được ghi trong nội dung chủ yếu của hợp đồng
Theo nguồn Trung tâm học liệu ĐH Cần Thơ :“ Trong một số trường hợp ngoại
lệ, đối với một số hơp đồng mua bán có đối tượng là những tài sản có giá trị lớn và

phải đăng ký quyền sở hữu, luật Việt Nam hiện hành có những quy định riêng về hình
thức giao kết và trong điều kiện của những trường hợp đó mua bán được coi là một
hợp đồng trọng thức”
Có thể thấy rằng hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng của hoạt động mua bán tài
sản.Một hợp đồng mua bán có thể thỏa thuận về hoạt động mua bán ở hiện tại hoặc
hoạt động mua bán có thể có ở một thời điểm nào đó trong tương lai.Vào bất cứ thời
điểm nào, một người mua bằng tiền hoặc bằng một phương tiện thanh toán hàng hóa
khác và nhận quyền sở hữu hàng hóa từ người khác thì sẽ hình thành nên quan hệ hợp
đồng mua bán hàng hóa. Căn cứ vào các yếu tố: chủ thể, đối tượng, thời gian, địa điểm
sẽ được phân chia thành hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.

13


1.1.2.3. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Chủ thể
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương
nhân. Theo quy định tại Khoản 1- Điều 6 LTM 2005: “ Thương nhân bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách đôc lập và
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” . Thương nhân trong chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa có thể là người Việt Nam hoăc người nước ngoài ( trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế). Ngoài chủ thể là thương nhân ra, các cá nhân, tổ chức
không phải là thương nhân cũng được tham gia và là chủ thể hợp đồng mua bán hàng
hóa.
Hình thức của hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể thực hiện bằng bất cứ cách thức nào mà hai
bên cảm thấy thuận tiện và hợp lí nhất để dẫn đến sự thỏa thuận và mua bán hàng hóa.
Hợp đồng có thẻ được thể hiện bằng lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể giữa
các bên. Trong một số trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải thưc hiện

hành vi giao kết dưới hình thức văn bản. Trong LTM 2005 cũng đã quy định rõ điều
này“ Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoăc bằng
hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định
phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”. Có thể kể đến hơp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đó là hợp đồng bắt buộc phải đươc thực hiện dưới
dạng văn bản. Theo khoản 15- điều 3 và khoản 2 –điều 27 LTM 2005 thì hợp đồng
mua bán hàng hóa bắt buộc phải được thực hiện dưới dạng văn bản hoặc bằng hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương như: điện báo, TELEX, FAX, thông điệp dữ
liệu…
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Nếu hiểu theo nghĩa
thông thường hàng hóa là những sản phẩm lao động do con người tạo ra nhằm mục
đích thỏa mãu nhu cầu của con người. Nhưng theo quy định của pháp luật Việt Nam
tại khoản 2- điều 3 LTM 2005:
“ Hàng hóa bao gồm:
Tất cả các động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai
Những vật gắn liền với đất đai.”
Như vậy, có thể thấy đối tượng hàng hóa mà pháp luật Việt Nam quy định bao
gồm: các động sản được lưu thông trên thị trường hoặc bất động sản có thể kể đến
như: nhà cửa, đất đai, ruộng vườn…Các động sản hoặc bất động sản có thể là đã hình
thành hoăc sẽ hình thành trong tương lai đều được coi là hàng hóa.Khái niệm này tuy
14


đã khắc phục được một số những bất cập trong quy định về hàng hóa của LTM 1997
khi quy định hàng hóa bao gồm: máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,
hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dưới hình
thức cho thuê hoăc mua bán nhưng vẫn là khá hẹp so với định nghĩa chung về hàng
hóa, đôi khi làm hạn chế đi các đối tượng hàng hóa được phép lưu thông trên thị
trường.

Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện quyền và nghĩa vụ các bên
trong quan hệ mua bán hàng hóa, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng
hóa và trả tiền cho bên bán. Hành vi mua bán của các bên trong hợp đồng mua bán
hàng hóa là hành vi có tính chất thương mại và nhằm mục đích sinh lời.
Hợp đồng mua bán hàng hóa mang đặc điểm của hợp đồng mua bán tài sản đó là
sự chuyển giao quyền sử dụng, quyền sở hữu và quyền định đoạt.Khác với hợp đồng
cho thuê tài sản chỉ chuyển giao quyền sử dụng chứ không chuyển giao quyền sở hữu
và quyền định đoạt.Quyền sở hữu và quyền định đoạt vẫn thuộc về người có tài sản
đem đi cho thuê.
Đồng thời hợp đồng mua bán hàng hóa cũng khác với hợp đồng tặng cho tài sản.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng song vụ, mang tính đền bù. Giá của hàng
hóa luôn được xác định cụ thể . Việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa luôn kèm theo
yêu cầu đền bù tương ứng với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận, qua đó thể hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán, bên bán có nghĩa vụ giao hàng,
chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền; bên mua có nghĩa vụ nhận
hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Mục đích thông thường của các bên là lợi
nhuận.Trong khi đó ở hợp đồng tặng cho tài sản, bên tặng cho tài sản giao tài sản và
giao quyền sở hữu tài sản cho bên được tặng cho mà không cần thiết lập bất cứ một
yêu cầu đền bù nào.
Việc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng mua bán hướng các bên tập trung
vào thỏa thuận các nội dung quan trọng của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi để thực
hiện và phòng ngừa các tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Một hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường phải chứa đựng sự thỏa thuận về đối
tượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm nhận giao
hàng.
Trong quan hệ mua bán hàng hóa, các bên không chỉ bị ràng buộc bởi những
điều khoản đã thỏa thuận với nhau mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của
pháp luật, tức là những điều khoản pháp luật có quy định nhưng các bên không thỏa

15


thuận trong hợp đồng.Và các quy định được các bên quy định trong hợp đồng không
được trái với pháp luật hiện hành đang điều chỉnh.
1.1.2.4 Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nước ta hiện nay đang trong thời kì chuyển đổi sang kinh tế thị trường, nhiều
hoạt động thương mại mới bắt đầu phát sinh. Đặc biêt khi chúng ta trở thành thành
viên của WTO, cơ hội buôn bán và giao thương với nước ngoài ngày càng được mở
rộng, cũng chính vì lý do đó, hoạt động mua bán và trao đổi hàng hóa trở nên phổ biến
dưới nhiều hình thức đa dang hơn. Các hợp đồng mua bán hàng hóa ngày càng nhiều
và có vai trò quan trọng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là phương tiện pháp lí tạo điều kiện cho các bên
thương nhân trao đổi hàng hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất kinh doanh. Các hoạt
động mua bán trao đổi hàng hóa đều phải thực hiện dưới những quy định pháp lý của
pháp luật ban hành nhằm đảm bảo một cách công bằng nhất giữa quyền và nghĩa vụ
các bên tham gia, hạn chế tối đa những mâu thuẫn, tranh chấp có thể xảy ra trong quá
trình thực hiện hợp đồng. Trong nền kinh tế nhiều thành phần như hiện nay, giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa phản ảnh mối quan hệ giữa các đơn vị kinh tế thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau.Từ đó tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khá nhau
cùng nhau hợp tác, tồn tại và phát triển, góp phần phát triển nền văn minh kinh tế và
nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự giằng buộc giữa các bên khi tham gia vào
hoạt động thương mại nói chung và hoạt động mua bán hàng hóa nói riêng. Việc tạo
hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ buộc các bên tham gia phải có trách nhiệm đối với mỗi
hành vi, lời nói của mình, nếu vi phạm một trong các nội dung được nêu ra trong hợp
đồng các bên sẽ bị xử lý theo những chế tài được quy định của pháp luật hiện hành do
khi đó đã thiết lập mối quan hệ giữa các bên với nhau về nhiều vấn đề như: Quyền tài
sản, chi phí, quyền lợi, nghĩa vụ…các bên buộc phải có nghĩa vụ và trách nhiệm với
đối phương trong suốt quá quá trình thực hiện hợp đồng.

Hợp đồng mua bán hàng hóa là căn cứ để giải quyết những tranh chấp có thể
phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa. Khi hai bên
đã cùng thỏa thuận để đi đến ký kết hợp đồng, tức là đã có sự thống nhất ý chí giữa
các bên dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự do và tự nguyện trong khuôn khổ pháp luât
cho phép. Hợp đồng sau khi ký kế được in làm hai bản, mỗi bên giữ một bản. Nếu
trong quá trình thực hiệncác giao dịch nhằm thõa mãn nhu cầu các bên, trường hợp
xảy ra tranh chấp, hợp đồng mua bán hàng hóa chính là căn cứ quan trọng và chủ yếu
để đối chiếu tránh nhiệm, nghĩa vụ cũng như quyền lợi của các bên tham gia, đảm bảo

16


tối đa sự công bằng giữa các bên. Đồng thời là căn cứ xác định những chế tài xử phạt
đối với bên vi phạm.
Tóm lại, hợp đồng mua bán hàng hóa là một công cụ giúp cho quá trình mua bán
trao đổi hàng hóa được diễn ra một cách thuận lợi và dễ dàng, là căn cứ giúp cho các
bên tham gia có thể nhận biết rõ được vai trò của mình trong quá trình thực hiện hợp
đồng.
Sau khi hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết và đáp ứng đầy đủ các điều
kiện pháp luật quy định thì hợp đồng phải được thực hiện và các điều khoản của hợp
đồng có hiệu lực bắt buộc đối với các bên.
Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá là việc bên bán và bên mua tiến hành các
nghĩa vụ mà mỗi bên tham gia hợp đồng phải thực hiện nhằm đáp ứng các quyền
tương ứng
1.2 Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa nói
chung và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh
tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để

trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hóa không
phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán,
tức để thỏa mãn nhu cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường nào thì các quy luật kinh tế của sản xuất và lưu
thông hàng hóa đều được phản ánh và tác động một cách khách quan thông qua cơ chế
thị trường. Cơ chế thị trường chính là một tổ chức kinh tế, trong đó người sản xuất và
người tiêu dung chịu sự tác động chi phối lẫn nhau của nền kinh tế thị trường.Thông
qua các hoạt động trao đổi mua bán, thị trường có vai trò to lớn đối với sự phát triển
của nền kinh tế. Thị trường cung cấp thông tin cần thiết cho nhà kinh doanh và tạo yếu
tố cạnh tranh làm động lực cho sự phát triển sản xuất, giảm chi phí, hạ giá thành, nâng
cao chất lượng sản phẩm. Một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường
là tự do trao đổi các sản phẩm hàng hóa giữa người mua và người bán. Người bán bao
giờ cũng muốn bán giá cao, người mua muôn mua giá thấp. Như vậy, hợp đồng về bản
chất là sự thỏa thuận, thống nhất ý chị giữa các bên tham gia ký kết hợp đồng theo
nguyên tắc tư do, tự nguyện và bình đẳng, không trái pháp luật.
Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp
lý là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của
hợp đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa
17


vụ trong quan hệ mua bán hàng hóa. Quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập bởi
hợp đồng giữa các bên và quy định của pháp luật. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản
chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Để đảm bảo lợi ích của cả người bán
và người mua việc xác lập những quy tắc chung trong quá trình mua bán ký kết hợp
đồng, thực hiện hợp đồng là yếu tố rất quan trọng. Do vậy việc thiết lập quy định về
hợp đồng mua bán trở thành yếu tố tiên quyết nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế được
phát triển ổn định và bền vững.
1.2.2 Nội dung pháp luậtđiều chỉnh về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa

1.2.2.1 Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng là tất cả những gì mà các bên thoả thuận và pháp luật
quy định đối với một hợp đồng. Một HĐMBHH sẽ có giá trị pháp lực khi thoả mãn tối
thiểu những điều kiện về nội dung mà pháp luật quy định. Khi thiếu một trong những
nội dung đó thì hợp đồng không thể phát sinh hiệu lực. Trong thực tế, hậu quả xấu đã
xảy ra xuất phát từ điểm các bên trong hợp đồng không quy định rõ ràng hoặc đầy đủ
những nội dung của hợp đồng dẫn tới có tranh chấp xảy ra các bên sẽ không có chứng
cứ hoặc chứng cứ không rõ ràng và những thiệt hại không cần thiết có thể xảy ra đối
với tất cả các bên và không thể lường trước được.
LTM năm 2005 đã không quy định về nội dung HĐMBHH. Trên cơ sở việc xác
lập mối quan hệ với BLDS, khi xem xét vấn đề nội dung của HĐMBHH chúng ta có
thể dựa trên các quy định của BLDS, Theo đó trong HĐMBHH, các bên có thể thoả
thuận về những nội dung sau đây:
 Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không
được làm.
 Số lượng, chất lượng.
 Giá, phương thức thanh toán.
 Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng.
 Quyền, nghĩa vụ của các bên.
 Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
 Phạt vi phạm hợp đồng.
 Các nội dung khác.
1.2.2.2 Thực hiện các điều khoản
Thực hiện nội dung về đối tượng hợp đồng, số lượng, chất lượng hàng hóa.
Điều khoản về đối tượng là điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, công ty rất lưu ý đến điều khoản này, thực hiện
giao hàng đầy đủ số lượng, trọng lượng hàng hóa theo đơn vị đo lường mà hai bên đã
18



thỏa thuận. Trong hầu hết các hợp đồng mua bán hàng hóa mà công ty ký kết, khi thực
hiện điều khoản này, nếu bên nhận hàng kiểm tra thấy chất lượng hàng không phù hợp
với hợp đồng thì yêu cầu bên kia giaohàng đúng chất lượngđồng thời bồi thường thiệt
hại nếu có.Trường hợp giao hàng không đúng số lượng thì bên mua nhận và chỉ thanh
toán theo số hàng đã nhận và yêu cầu giao tiếp hàng thiếu.Còn nếu sản phẩm có lỗi (dù
là bên mua nhận thấy trước lúc nhận hàng hay sau) thì công ty vẫn nhận lại những
hàng hóa đó để sửa chữa cho bên mua, nhằm giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài và tạo uy
tín trong kinh doanh.
Thực hiện nội dung thời gian, địa điểm giao nhận hàng hóa.
Đối với hầu hết hợp đồng mua hàng hóa của công ty, thì địa điểm nhận hàng đều
quy định tại kho của công ty. Còn đối với hợp đồng bán hàng hóa thì địa điểm giao
hàng tại kho bãi của bên mua đối với hợp đồng có số lượng lớn và địa điểm giao hàng
là kho bãi của công ty đối với hợp đồng có số lượng ít.Thực hiện nội dung về thời
điểm giao nhận hàng thì tùy theo thỏa thuận trong từng hợp đồng cụ thể giữa công ty
với bạn hàng. Tuy nhiên, điều khoản này chủ yếu là thực hiện theo quy định trong
Luật Thương mại 2005:Nếu hai bên thỏa thuận thời gian giao hàng một cách cụ thể
trong hợp đồng thì phải giao hàng đúng thời điểm đó.Nếu bên bán giao hàng trước thời
hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hàng hoặc không nhận hàng.Nếu bên
bán giao hàng sau thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền:Không nhận sản phẩm,
phạt vi phạm nếu có thỏa thuận và bồi thường thiệt hại như không thực hiện hợp đồng.
Hoặc nhận sản phẩm, phạt vi phạm nếu có thỏa thuận và đòi bồi thường thiệt hại;trong
hợp đồng bán hàng hóa, nếu công ty giao hàng đúng như thời hạn mà bên mua không
nhận hàng thì công ty lưu kho sản phẩm và có quyền yêu cầu bên mua trả chi phí bảo
quản, lưu kho.
Thực hiện nội dung về giá cả, phương thức thanh toán.
Giá cả do bên bán đưa ra và bên mua xem xét để đi đến thỏa thuận giao kết hợp
đồng. Giá cả được công ty tính trên cơ sở giá thành sản xuất sản phẩm và giá của hàng
hóa cùng loại trên thị trường. So với các mặt hàng cùng loại trên thị trường thì các sản
phẩm của công ty kinh doanh đều là hàng có chất lượng cao do vậy công ty có lợi thế
cao và có lượng khách hàng khá lớn.

Thanh toán được coi như là khâu kết thúc thực hiện một hợp đồng mua bán.
Phương thức thanh toán thường đã được các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Đại đa số
hợp đồng mua bán hàng hóa trong công ty đều dùng phương thức thanh toán bằng tiền
mặt hoặc chuyển khoản. Để đảm bảo thực hiện hợp đồng,công ty và khách hàng
thường thỏa thuận thanh toán trước khoảng 30% giá trị hợp đồng, nhưng chỉ áp dụng
đối với khách hàng mới hoặc hợp đồng có giá trị lớn. Còn phần lớn, trong hợp đồng
19


đều quy định bên mua thanh toán 100% giá trị hàng khi bên bán thực hiện thực việc
giao hàng cho bên mua cùng hóa đơn tài chính hợp lệ.Trong thực tế thì có thể khi đã
nhận hàng rồi nhưng bên mua vẫn chưa thanh toán hết tiền cho bên bán. Theo quy
định của pháp luật, trong trường hợp đó bên bán có quyền lấy tiền lãi với thời gian
chậm thanh toán đó, tuy nhiên, để giữ mối làm ăn lâu dài, công ty thường không lấy lãi
mà chỉ nhắc nhở để yêu cầu bên mua thanh toán.
1.2.2.3 Quyền của bên bán:
Theo Điều 306 Luật thương mại, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên bán có
quyền nhận tiền hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng. Khi bên mua chậm thanh toán
thì bên bán có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá
hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm
trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Đồng thời,
nếu bên bán chậm nhận được hoặc không nhận được tiền bán hàng do lỗi của bên mua
thì bên bán có quyền ngừng giao hàng hoặc yêu cầu bên mua bồi thường thiệt hại,
ngoài ra bên bán còn có thể áp dụng các hình thức chế tài khác như: buộc thực hiện
hợp đồng, phạt vi phạm, hủy bỏ hợp đồng.
1.2.2.4 Quyền của bên mua
Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng song vụ điển hình, trong đó, quyền của
bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Do đó, quyền của bên mua
chính là những điều khoản mà bên bán có nghĩa vụ thực hiện như đã đề cập ở phần
nghĩa vụ của bên bán. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 51 Luật thương mại thì bên

mua có quyền ngừng thanh toán tiền hàng trong các trường hợp:
Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối;
Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có
quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết;
Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp
đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục sự không
phù hợp đó.
1.2.2.5 Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng
Việc xác lập và thực hiện các hợp đồng trước hết là dựa vào sự tự giác của các
bên nhưng trong thực tế, không phải bất cứ ai khi tham gia giao dịch đều có thiện chí
trong việc thực hiện hợp đồng một cách nghiêm chỉnh. Do vậy trong hợp đồng thường
có điều khoản thỏa thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng để đảm bảo độ tin
cậy cho các bên đồng thời giúp các bên có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ của hợp
đồng. Theo Điều 318 BLDS, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao
gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp.
20


Tuy nhiên, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, không áp dụng biện pháp bảo đảm bằng
ký cược hay biện pháp bảo đảm bằng tín chấp. Bởi vì ký cược là biện pháp để bảo đảm
trả lại tài sản thuê trong hợp đồng cho thuê tài sản, còn tín chấp là biện pháp mà do Tổ
chức chính trị xã hội đứng ra bảo đảm cho hộ gia đình nghèo vay tiền tại Ngân hàng
hoặc Tổ chức tín dụng.
Cầm cố tài sản
Theo quy định tại Điều 326 BLDS năm 2005 thì cầm cố tài sản là việc trao động
sản thuộc quyền sở hữu của mình cho phía bên kia trong quan hệ hợp đồng, để giữ gìn
làm tin và bảo đảm tài sản trong trường hợp vi phạm hợp đồng đã được ký kết. Việc
cầm cố phải được lập thành văn bản riêng, có xác nhận của cơ quan công chứng hay
cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trong trường hợp mà không có cơ quan
công chứng). Người thực hiện việc giữ vật bị cầm cố phải bảo đảm giữ nguyên giá trị

của vật đó, không được chuyển dịch sở hữu vật cầm cố cho người khác trong thời gian
văn bản cầm cố có hiệu lực.
Thế chấp tài sản
Thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình bảo
đảm tài sản cho việc thực hiện hợp đồng đã ký kết.Tài sản có thể là động sản, bất động
sản hay giá trị tài sản khác. Hình thức thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản hay
ghi trong hợp đồng chính, phải có xác nhận của cơ quan công chứng hoặc cơ quan có
thẩm quyền đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn văn bản thế chấp có hiệu lực người
thế chấp tài sản có nghĩa vụ phải bảo đảm giữ nguyên giá trị của tài sản thế chấp;
không được chuyển dịch sở hữu hay tự động chuyển giao tài sản đó cho người khác
trong thời gian văn bản thế chấp đó có hiệu lực. Bên cạnh đó, nếu bên nhận thế chấp
giữ giấy tờ về tài sản thế chấp thì sẽ phải trả lại giấy tờ về tài sản thế chấp đó cho bên
thế chấp khi chấm dứt thế chấp.
Đặt cọc
Đặt cọc là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, được định
nghĩa tại Điều 358 BLDS năm 2005 ‘Ðặtcọc là việc một bên giao cho bên kia một
khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt
cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự”. Khi
tiến hành đặt cọc thì phải lập thành văn bản ghi rõ các vấn đề như đối tượng, giá trị
bằng tiền hay tài sản đặt cọc, thời hạn đặt cọc trong văn bản. Trong trường hợp, hợp
đồng dân sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc
hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết,
thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận
đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài
21


×