Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Sơ cấp cứu cho trẻ em lứa tuổi mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.15 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
- Trẻ em là lứa tuổi hiếu động và rất nghịch ngợm. Chính vì thế, hằng năm có
hơn một triệu trẻ phải nhập viện vì những tai nạn trong nhà trường và đặc biệt
là trường mầm non. Nhưng rất ít các bậc phụ huynh và giáo viên có kĩ năng
cũng như kiến thức về sơ cấp cứu kịp thời cho trẻ khi trẻ gặp những tai nạn
ngoài ý muốn. Đề tài “Sơ cấp cứu cơ bản cho trẻ nhà trẻ ở trường Mầm Non”
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sơ cấp cứu cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ.
- Sơ cấp cứu là một vấn đề luôn được xã hội quan tâm_ “ Sơ cấp cứu cứu sống
mạng người”. Nói theo tầm hẹp hơn, sơ cấp cứu luôn là mối quan tâm đặc biệt
đối với các bậc phụ huynh và nhất là giáo viên mầm non.
- Là một giáo viên mầm non, kiến thức sơ cấp cứu là rất quan trọng. Người có kĩ
năng sơ cấp cứu là người có thể bảo vệ tính mạng trẻ mọi lúc, mọi nơi, giúp trẻ
phát triển toàn diện. Người không có kĩ năng sơ cấp cứu thì chắc chắn sẽ
không thể nào bảo vệ được tính mạng trẻ trong những trường hợp nguy cấp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sơ cấp cứu không phải là một đề tài mới, đã có nhiều người nghiên cứu nhưng
hầu hết là xoay quanh vấn đề nghiên cứu trên.
- Tạp chí Sức khỏe & cuộc sống _ “Các cách sơ cấp cứu cho trẻ em” ( Sưu tầm
Daily Mail).
- Cẩm nang sức khỏe _ “Sơ cấp cứu cho trẻ, bố mẹ cần biết”.
- Suckhoenet.com_ “Sơ cấp cứu cho trẻ nhỏ”.
- Đề tài NCKH cấp Khoa, trường ĐHSP Vinh “ Một số biện pháp chăm sóc đảm
bảo an toàn cho trẻ và phong chống dịch bệnh hiệu quả trường Mầm Non”.
3. Mục đích nghiên cứu”
- “Thảm họa có thể tấn công mọi lúc, mọi nơi và ảnh hưởng đến mọi người”. Từ
việc nghiên cứu “sơ cấp cứu cơ bản cho trẻ nhà trẻ ở trường Mầm Non” để
chúng ta thấy rõ tầm quan trọng của việc sơ cấp cứu cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ.
Hiểu rõ hơn các kiến thức cơ bản về sơ cấp cứu cho trẻ, hoàn thiện kĩ năng. Từ
đó, chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ một cách có khoa học.


- Đi sâu vào nghiên cứu đề tài này để tạo một nền tảng kiến thức vững chắc cho
các giáo viên và các bậc phụ huynh trong việc tìm hiểu các cách sơ cấp cứu
cho trẻ, nhất là trẻ lứa tuổi nhà trẻ. Bên cạnh đó, nâng cao kiến thức và sự hiểu
biết của bản thân , góp phần cho việc học tập và nuôi dạy trẻ trong tương lai.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu


- Đề tài “ Sơ cấp cứu cơ bản cho trẻ nhà trẻ ở trường Mầm Non” sẽ đi vào tìm
hiểu trước hết là những vấn đề , những kiến thức sơ đẳng và cơ bản nhất ề sơ
cấp cứu, đặc biệt là sơ cấp cứu cho trẻ nhỏ. Để từ đó, làm cơ sở lí luận cho việc
đi sâu vào tìm hiểu thực trạng kĩ năng về sơ cấp cứu cho trẻ nhà trẻ của phụ
huynh và nhất là giáo viên mầm non.
- Kĩ năng sơ cấp cứu của giáo viên mầm non sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe,
thể lực của trẻ nhỏ. Chính vì thế việc tìm hiểu thực trạng kĩ năng về sơ cấp cứu
cho trẻ nhà trẻ của giáo viên là rất cần thiết. Tìm hiểu thực trạng kĩ năng sơ cấp
cứu của giáo viên mầm non hiện nay để đưa ra đề xuất, biện pháp nâng cao
hiệu quả kĩ năng sơ cấp cứu của giáo viên mầm non.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, đối tượng nghiên cứu là sơ cấp cứu cơ bản cho trẻ nhà trẻ tại
trường mầm non.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về sơ cấp cứu cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ sẽ nghiên cứu ở phạm
vi kĩ năng về sơ cấp cứu cho người và chỉ tìm hiểu ở khía cạnh là giáo viên
mầm non.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: Thu thập các tài liệu lý thuyết có
liên quan đến sơ cấp cứu. Để từ đó, phân tích, chọn lọc và sắp xếp các tài liệu
đó cho phù hợp với hướng đi của đề tài.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Từ việc tìm hiểu lý thuyết về sơ cấp cứu
của ngành y học để từ đó, làm cơ sở triển khai đề tài “Sơ cấp cứu cơ bản cho
trẻ nhà trẻ ở trường Mầm Non”
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát nhận xét: Tìm hiểu kĩ năng sơ cấp cứu ở các trường
mầm non. Từ đó, rút ra nhận xét và thực trạng về sơ cấp cứu của các giáo viên
mầm non hiện nay.
- Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm: Từ việc tìm hiểu thực trạng kĩ
năng về sơ cấp cứu cho trẻ, đưa ra những nhận xét, đánh giá từ đó, tiếp thu
những cái hay, đề xuất những điều còn thiếu.
7. Cấu trúc đề tài
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Khái quát về sơ cấp cứu
1.2. Thực trạng chung về việc sơ cấp cứu ở trường Mầm Non


Chương 2: Kĩ năng sơ cấp cứu cơ bản của giáo viên cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ ở
trường Mầm Non
2.1. Sự cần thiết của việc sơ cấp cứu ở trường cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ
2.2. Những tai nạn thường gặp ở trẻ
2.3. Biểu hiện, cách sơ cấp cứu những tai nạn thường gặp ở trẻ nhà trẻ
2.4. Biện pháp nâng cao kĩ năng sơ cấp cứu trẻ nhà trẻ cho giáo viên mầm non
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.
-

-


-

Khái quát về sơ cấp cứu
1.1.1. Sơ cấp cứu là gì ?
Sơ cấp cứu là những trợ giúp hay chữa trị ngay lúc ban đầu cho nạn nhân bị
bất cứ chấn thương, sự cố hay bị một căn bệnh đột ngột nào đó trước khi có xe
cấp cứu, bác sĩ, hoặc người có chuyên môn đến chữa trị.
Việc sơ cấp cứu đó là vô cùng cần thiết bởi vì thời gian chờ đợi bác sĩ hay
những người cấp cứu đến có thể làm nạn nhân lâm vào tình trạng nguy hiểm
hay không thể cứu được nữa cho dù được đưa đến bệnh viện.
Công tác sơ cấp cứu kịp thời và đúng cách tại nơi xảy ra tai nạn có vai trò rất
quan trọng trong việc cứu sống nạn nhân và phòng tránh được những tổn
thương, chấn thương thứ phát cho họ. Vì vậy sơ cấp cứu tại cộng đồng là một
trong những trọng tâm ưu tiên trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ của Hội Chữ
thập đỏ Việt Nam
Tính mạng trẻ khi xảy ra tai nạn có thể đo từng phút từng giây. Nói một cách
khác đó là những lúc mà sự trợ giúp kịp thời của giáo viên mầm non có thể cứu
sống được một đứa trẻ. Thực tế đã xảy ra những sự việc hết sức đau lòng và
đáng tiếc, không đáng xảy ra nếu giáo viên mầm non có kiến thức về sơ cấp
cứu.
1.1.2. Mục đích của việc sơ cấp cứu
Việc sơ cấp cứu kịp thời cho nạn nhân sẽ đảm bảo được tính mạng của họ. Hay
nói cách khác, việc giáo viên sơ cấp cứu cho trẻ khi xảy ra những tai nạn nguy
hiểm sec đảm bảo được tính mạng cho trẻ ngay lúc đó.
Việc sơ cấp cứu kịp thời của giáo viên cũng sẽ làm hạn chế tối đa ảnh hưởng
của tai nạn đến trẻ nhỏ.


- Giúp trẻ hồi phục, thoát khỏi tình trạng nguy kịch nếu giáo viên có kĩ năng sơ

cấp cứu đúng cách.
1.1.3. Yêu cầu về người sơ cấp cứu
- Có kiến thức và kĩ năng sơ cấp cứu là một trong những yêu cầu hàng đầu đối
với mỗi người sơ cấp cứu. Giáo viên mầm non phải có kiến thức, kĩ năng sơ
cấp cứu thì lúc đó mới sơ cấp cứu cho trẻ được.
- Bên cạnh đó, phải là người có chuyên môn, trình độ và được huấn luyện tốt.
Phải được huấn luyện, đào tạo thông qua các lớp học kĩ năng sơ cấp cứu, thì
lúc đó, mọi người nói chung và giáo viên mầm non nói riêng mới có thể sơ cấp
cứu được.
1.2. Thực trạng chung về việc sơ cấp cứu ở trường Mầm Non
Theo thống kê cho thấy,“Cứ mỗi 5 giây, có người nào đó trên thế giới
chết do hậu quả của chấn thương”. Nguy hiểm luôn rình rập xung quanh
chúng ta, đặc biệt là trẻ nhỏ_lứa tuổi hiếu động và nghịch ngợm nhất. Hiện
nay, ở các trường Mầm Non thường xảy ra các tai nạn ở trẻ, nhất là trẻ nhà trẻ.
Những tai nạn xảy ra trong trường mầm non, điểm trông giữ trẻ khiến các
cháu tử vong như điện giật, ngã trong nhà vệ sinh hay bị tủ đựng đồ đè… là hồi
chuông cảnh báo sự an toàn của trẻ tại các trường Mầm Non đang ở tình trạng
báo động.
- Điển hình, ngày 12/07/2014, cháu bé Dương Thị Băng Trâm (3 tuổi) bị tấm
liếp giường đổ xuống đè lên người, bị chấn thương vùng đầu, phổi tại Trường,
không được sơ cấp cứu và rồi tử vong trên đường đi cấp cứu tại Trung tâm Y
tế huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Theo cơ quan chức năng cho biết, khoảng 9h
khi bé Trâm đang chơi ở trong phòng học của Trường Mầm non Tư thục 8/3
thì bị tấm liếp giường dựng sát cửa phòng đổ xuống đè lên người gây chấn
thương vùng đầu, phổi. Bé Trâm được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm Y tế huyện
Phú Thiện trong tình trạng ngưng tim, ngưng thở, môi tím và có nhiều vết xây
xát vùng ngực và bác sỹ xác định là cháu đã chết trước đó.( Nguồn:
baolaodong.net)
- Ngày 1/3/2012, bé Võ Long Nhật (14 tháng tuổi) lớp Nhỡ, trường Mầm non
Xuân Giang, Nghi Xuân, Hà Tĩnh bị bất tỉnh và không may tử vong. Cụ thể,

vào khoảng 13h45 phút, hết giờ ngủ trưa, cô giáo đánh thức các bé dậy nhưng
không thấy bé Nhật dậy cùng các bạn. Đến gần thì giáo viên này phát hiện bé
Nhật đã bất tỉnh, có chất dịch nôn ở miệng và gối. Ngay lập tức, bé Võ Long
Nhật được đưa đến Bệnh viện Đa khoa huyện Nghi Xuân cấp cứu nhưng các
bác sỹ xác định cháu đã tử vong trước khi đưa đến viện.
Trả lời báo chí, bác sỹ Nguyễn Hữu Thắng - trưởng khoa khám bệnh, Bệnh
viện Đa khoa Nghi Xuân cho biết: “Khi cháu Nhật được các giáo viên đưa đến


phòng cấp cứu thì đã ở trong tình trạng toàn thân tím ngắt, tim ngừng đập, phổi
không còn thở, đồng tử giãn cực đại, ở mũ len cháu đội có chất dịch nôn. Và
không thể xác định được nguyên nhân tử vong của cháu”.( Nguồn: VnExpress)
Tai nạn tại trường Mầm Non xảy ra thường xuyên, và một trong những
nguyên nhân khiến các cháu dẫn đến tử vong là do không được phát hiện kịp
thời và sơ cấp cứu từ giáo viên Mầm Non.
Những dẫn chứng trên cho thấy, trình độ và kiến thức của giáo viên Mầm
Non trong việc xử lí những tình huống cấp bách, sơ cấp cứu cho trẻ còn yếu,
chưa có hiệu quả. Các trường Mầm Non nâng cao chất lượng dạy học nhưng
chưa đề cao việc đào tạo, tập huấn cho giáo viên về sơ cấp cứu cho trẻ.
Chương 2
KĨ NĂNG SƠ CẤP CỨU CƠ BẢN CỦA GIÁO VIÊN CHO TRẺ LỨA TUỔI
NHÀ TRẺ Ở TRƯỜNG MẦM NON
2.1. Sự cần thiết của việc sơ cấp cứu ở trường cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ
Nói đến tai nạn của trẻ ở trường mầm non thì có đến hàng trăm ngàn lý do
nhưng xét cho cùng thì người lớn vẫn phải là những người chịu trách nhiệm chính
trong mỗi sự việc. Bởi, như chúng ta đã biết, trẻ đi mẫu giáo còn đang trong quá
trình hoàn thiện ý thức cũng như hành vi của mình.
Trẻ em _lứa tuổi nhà trẻ, là lứa tuổi hiếu động và thích nghịch “dại”, trẻ
không hiểu được đâu là an toàn và đâu là nguy hiểm cả. Chính vì thế, lứa tuổi này
rất cần đến sự giám sát của người lớn. Tại trường Mầm Non, sự giám sát của cô

giáo là vô cùng quan trọng đối với trẻ nhỏ. Và việc có kinh nghiệm trong việc sơ
cấp cứu cho trẻ nhà trẻ là vô cùng cần thiết đối với mỗi giáo viên mầm non. Trẻ
sẽ được bảo vệ cả về thể chất lẫn tinh thần. Tính mạng trẻ có thể bị cướp đi bất cứ
lúc nào nên trang bị kiến thức sơ cấp cứu cho mối giáo viên mầm non sẽ làm
ngăn chặn mối nguy hiểm về tính mạng cho trẻ nhỏ. Giúp trẻ an toàn để được
chơi và học trong một môi trường giáo dục lành mạnh.
2.2. Những tai nạn thường gặp ở trẻ
Theo nhóm nghiên cứu Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tìm hiểu, với những
trường hợp trẻ trên 1 tuổi tử vong, 25% là do bệnh, 75% còn lại là do tai nạn.
Khi khảo sát với giáo viên ở trường mầm non, kết quả cho thấy 86,5% tai nạn
thường gặp là do té ngã; 11,3% do nghẹt, tắc đường thở; 4,5% do vật sắc nhọn; 2,3% do
ngộ độc, ngạt nước...Nguyên nhân chủ yếu khiến trẻ gặp tai nạn là cơ sở vật chất, đồ
chơi, đồ dùng không đảm bảo an toàn, hiểu biết của giáo viên về các nguyên nhân, cách


phòng tránh, sơ cấp cứu trẻ còn thiếu và do tỉ lệ trẻ đông, khả năng quan sát, kiểm soát
của giáo viên bị hạn chế.
Trong nửa đầu năm nay, hàng loạt vụ tai nạn xảy ra đối với trẻ mầm non ngay trong
trường học - môi trường ngỡ là an toàn nhất. Dưới đây là một số tai nạn thường gặp nhất
ở trẻ nhà trẻ khi đến trường.
2.2.1. Hóc, nghẹn do dị vật
Hầu như bất cứ bậc phụ huynh, giáo viên mầm non nào cũng đã từng trải qua cảm
giác thót tim khi con nuốt phải dị vật, bị hóc, nghẹn ở cổ họng. Cách xử lý tình huống khi
đó chỉ có thể được thực hiện trong vài phút ngăn ngủi nhưng nếu không biết làm hoặc
làm không đúng cách, cha mẹ có thể đẩy con vào tình trạng nguy hiểm tính mạng.
Trẻ trong độ tuổi 1-3 rất có khả năng rơi vào các tình huống nguy hiểm này. Rủi ro
có thể đến từ bất cứ “sát thủ vô hình nào”: tiền xu, kẹp tóc, đinh bấm, cúc áo, miếng
gioăng cao su, đậu, lạc, nho, thạch…Hay đơn giản chỉ là một mẫu xương nhỏ trong chén
cháo cũng đã là sự nguy hiểm đối với trẻ.
Hóc, nghẹn do dị vật xảy ra ở trẻ nhỏ phần nhiều là do sơ suất của giáo viên và phụ

huynh trong việc chăm sóc, giám sát trẻ.
2.2.2. Sốt cao, co giật
Sốt là một phản ứng của cơ thể đối với tác nhân gây sốt, cũng là triệu chứng thường
gặp ở trẻ nhà trẻ, khi nhiệt độ cơ thể lên đến 37oC (cặp nhiệt ở nách) và 37,5oC (nếu cặp
nhiệt độ ở hậu môn) thì trẻ được xem là đang bị sốt. Sốt có rất nhiều triệu chứng, thường
gặp nhất là do nhiễm trùng tai, mũi, họng, nguyên nhân có thể là do vi trùng hay siêu vi
trùng. Sốt được phân 2 loại, sốt cấp tính chỉ dưới 7 ngày, thường sốt cao đột ngột và gặp
nhiều ở trẻ nhũ nhi. Những trẻ bị sốt cao khó hạ hay bị sốt kéo dài trên 7 ngày thì được
coi là sốt phức tạp, có thể là 1 triệu chứng của bệnh nào đó. Cũng có thể phân sốt ra
thành nhiều bậc như trẻ được xem là sốt nhẹ khi nhiệt độ dưới 38o5, sốt cao khi nhiệt độ
trên 39oC và được coi là sốt ác tính khi nhiệt độ trên 42oC.
Sốt cao, co giật là bệnh lý thường gặp ở trẻ nhà trẻ. Bệnh nếu không được phát hiện
và điều trị sớm sẽ rất nguy hiểm có thể đe dọa đến tính mạng của trẻ.
Sốt cao, co giật thường gặp ở các bé trong độ tuổi 1 - 3 tuổi. Ở các bé gái tuổi càng
nhỏ nguy cơ bị sốt cao, co giật cao hơn các bé trai cùng độ tuổi. Cơn co giật xảy ra khi trẻ
bị sốt ở nhiệt độ từ 39,2 độ C, khoảng 25% xảy ra khi nhiệt độ của bé là 40,2 độ C.
Những em bé ở độ tuổi 6-18 tháng tuổi, sốt co giật diễn ra khi nhiệt độ trên 40 độ C.


Thông thường ở trẻ, co giật nửa người sau đó tự khỏi hoặc nếu không điều trị kịp thời
có thể gây liệt nửa người. Ở những trẻ do sốt cao động kinh, thường biến chứng thành liệt
cứng hoặc động kinh cục bộ vận động.
2.2.3. Chảy máu cam, chảy nhiều máu
Chảy máu cam là bệnh lý phổ biến ở trẻ nhà trẻ. Khi thấy máu đỏ tươi đột ngột chảy
ra từ hốc mũi.
Hơn 90% các trường hợp chảy máu mũi có nguyên nhân là những tổn thương màng
mạch ở vách ngăn mũi.Thường gặp nhất là tình huống do trẻ tò mò, hiếu kỳ khi chơi với
các bộ phận nhỏ của đồ chơi, trẻ vô ý cho vào mũi rồi quên bẵng đi hoặc giấu diếm vì sợ
để người lớn biết sẽ la rầy và chảy máu cam là điều không thể tránh khỏi.
Độ ẩm trong phòng của trẻ làm cho không khí khô dẫn đến các màng nhầy của vách

ngăn mũi mất tính đàn hồi và sức co giãn. Khi đó, chỉ cần trẻ chà xát mũi hay hắt hơi thì
cũng đủ để gây máu cam.
Trong mùa hè, trẻ bị nóng trong người làm cho các mạch máu, cấu trúc trong mũi bị
vỡ, gây ngứa ngáy. Trẻ có tật ngoáy mũi, vô tình làm vỡ mạch máu.
Viêm mũi mãn tính, một bệnh truyền nhiễm gây ra sự mở rộng của các động mạch và
tĩnh mạch dẫn đến sự bất thường của hệ thống mạch máu trong khoang mũi cũng là
nguyên nhân khiến trẻ dễ bị chảy máu mũi.
Một số nguyên nhân khác liên quan đến tình trạng chảy máu cam ở trẻ như: sự thiếu
hụt vitamin C, các bệnh lý di truyền liên quan đến thay đổi trong cấu trúc của thành mạch
máu, tình trạng viêm mạch máu… Những bất thường này làm tăng tính thấm thành mạch
dẫn đến chảy máu.

2.2.4. Bị côn trùng đốt, động vật cắn


Trẻ nhà trẻ bị côn trùng, động vật cắn/chích là một trong những tai nạn phổ biến
nhất ở trường Mầm Non. Côn trùng cắn, đốt là một vấn đề không nên xem nhẹ đặc biệt
với các đối tượng có hệ miễn dịch yếu như trẻ em.Trường hợp các phản ứng do bị côn
trùng đốt có thể dấn tới nhiều biến chứng nguy hiểm.
Những con côn trùng bé nhỏ nhưng nó gây khá nhiều phiền phức cho trẻ nhỏ. Mỗi
khi chúng cắn là để lại những ngứa ngáy khó chịu, đôi khi những là vết thương nhỏ lâu
ngày mới khỏi, hay nặng nhất là chúng có thể khiến trẻ tử vong nhanh chóng khi không
xử lý kịp thời.
Ở trường mầm non rất hiếm khi thấy động vật có thể gây nguy hiểm cho trẻ như
chó, mèo...Nhưng đôi khi chúng xuất hiện và lảng vảng quanh sân trường, nếu không có
sự giám sát của giáo viên, để trẻ tiếp xúc với chúng ít nhiều cũng gây nên nguy hiểm cho
trẻ, nhất là trẻ nhà trẻ_ lứa tuổi không lường trước được nguy hiểm.
2.2.5. Chấn thương đầu, dập móng tay/chân, gãy tay/chân
Trẻ nhà trẻ đang ở lứa tuổi hiếu động, thích nô đùa chạy nhảy, dễ bị vấp ngã và hay
bị đập đầu vào các vật cứng, hay xuống đất hoặc nguy hiểm hơn là vào các vật sắc nhọn,

gây chấn thương ở đầu. Với lứa tuổi còn non nớt, một chấn thương ở đầu sau ngã, đập
mạnh đầu xuống đất hay bị xoay giật mạnh vào đầu... có thể gây biến chứng sọ não nặng
nề, cần được đặc biệt quan tâm theo dõi và điều trị kịp thời.
Trong số các chấn thương mà trẻ nhà trẻ hay gặp phải, dập ngón tay/ngón chân là
dạng khá phổ biến, do bé vô tình dập cửa vào ngón tay hoặc bị các vật nặng như cuốn
sách, đồ gỗ, đồ chơi lớn ở phòng học… rơi xuống bàn chân.
Gãy tay/chân rất ít gặp ở các bé nhà trẻ vì xương của các bé chưa cứng hẳn, mềm
nên có khuynh hướng bị bẻ cong hơn là gãy. Dạng gãy xương thường gặp nhất ở trẻ nhà
trẻ là dạng gãy cành tươi, là kiểu gãy mà xương bị đứt ra ở một chỗ và bị uốn cong chứ
không đứt lìa ra.
2.2.6. Ngộ độc thực phẩm ( Ăn nhầm thức ăn, uống nhầm thuốc/hóa chất)
Thời tiết mùa hè nóng nực rất dễ làm cho thực phẩm bị ôi thiu, nhiễm khuẩn,
nhiễm vi sinh vật gây bệnh (như vi trùng roi, phẩy khuẩn tả…). Trong khi đó, bộ máy
tiêu hóa của trẻ nhà trẻ còn chưa phát triển hoàn thiện nên khi tiếp nhận những thực phẩm
ôi thiu, nhiễm khuẩn… trẻ rất dễ bị ngộ độc. Hơn nữa, trẻ ở lứa tuổi này chưa có ý thức
về vệ sinh an toàn thực phẩm... nên dễ bị ngộ độc thực phẩm hơn bất cứ lứa tuổi nào.


Đặc biệt, ngộ độc thực phẩm do hóa chất như ăn thức ăn chứa nhiều hàn the,
formol, thuốc trừ sâu, màu thực phẩm sẽ ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe của trẻ, nhất là
trẻ nhà trẻ. Trẻ có thể mắc các bệnh mãn tính, thậm chí gây ung thư hoặc biến đổi gien.
Trường hợp trẻ bị ngộ độc nặng, xử trí không kịp thời có thể dẫn đến tử vong.
2.2.7. Bỏng do nước/ vật nóng
Hiện nay, tình trạng trẻ bị bỏng tại các trường Mầm Non đang ở mức cảnh báo. Trẻ
ấu nhi là lứa tuổi cần sự giám sát của người lớn. Đa số các vụ tai nạn bỏng ở trẻ hiện nay,
phần nhiều là do sự thờ ơ , lơ là của giáo viên mầm non.
Trẻ nhà trẻ là lứa tuổi hiếu động, nghịch ngợm, tò mò lại chưa ý thức được sự nguy
hiểm nên càng có nguy cơ bị bỏng. Và trong số trẻ đang nằm viện vì bỏng nhiệt, nước sôi
chủ yếu là trẻ dưới 3 tuổi
Nước canh nóng, nước đun sôi … đổ vào người gây bỏng. Hay do trong quá trình

đun nấu vô ý chạm vào lửa khiến bị bỏng hoặc trẻ nhỏ nghịch lửa nên bị bỏng. Hoặc bị
bỏng khi gặp đám cháy lớn, nghịch dại với lửa. Đó là những nguyên nhân điển hình
khiến trẻ bị bỏng. Và nếu không được phát hiện và sơ cứu kịp thời thì tính mạng của trẻ
sẽ gặp nguy hiểm.
2.2.8. Bong gân
Bong gân là tổn thương ở các dây chằng quanh khớp do ngã hay chấn thương ở bé.
Các khớp thường bị bong gân là khớp gối, khớp vai, khớp cổ tay, khớp cổ chân.
Thông thường, các bé trên dưới 1 tuổi là lứa tuổi chập chững biết đi, nhưng không
gian phòng học cũng như do sự sắp xếp các dụng cụ trong phòng và sự đông đúc của các
bạn cùng lứa sẽ khiến trẻ di chuyển một cách khó khăn. Việc té ngã, va vào vật cứng
khiến trẻ bị bong gân là tai nạn khá phổ biến của trẻ nhà trẻ tại trường Mầm Non.
2.2.9. Điện giật, nạt nước
Điện giật rất nguy hiểm vì thường gây tử vong tức thì. Người bị điện giật không
thể tự rút tay hoặc bứt cơ thể khỏi nơi chạm vào điện nên nếu không được cấp cứu kịp
thời, tỷ lệ tử vong là rất cao. Trẻ ấu nhi rất hiếu động và tò mò. Trong khi chơi đùa chúng
rất hay sờ vào các thiết bị sử dụng điện như tủ lạnh, nồi cơm, quạt... Điều này rất nguy
hiểm nếu như nguồn điện bị hở khiến trẻ bị điện giật.


Có thể do nhiều nguyên nhân khiến trẻ bị điện giật, ngạt nước như: dây điện hở, bé
thọc tay vào ổ cắm. Các thiết bị điện không an toàn, bé chạm tay ướt vào các dụng cụ
điện. Ao, hồ, sông cạnh trường không được rào chắn. Dụng cụ chứa nước đặt ở vị trí
không an toàn...
Rơi xuống ao hồ hay bị điện giật là nguy cơ rất dễ gặp phải ở trẻ. Nếu chẳng may
bé bị rơi vào trường hợp này thì trước tiên gióa viên không nên quá hoảng sợ mà phải
thật sự bình tĩnh để tiến hành nhanh chóng và kịp thời thực hiện các bước sơ cứu cho bé
trong lúc đợi người tới giúp hay chờ xe cứu thương.
2.2.10. Các vật sắc nhọn đâm
Tai nạn gây ra bởi các vật sắc nhọn là một loại hình thương tích rất thường gặp ở trẻ
em, xảy ra với mọi lứa tuổi nhất là trẻ nhà trẻ, mọi nơi, mọi lúc. Thương tích do vật sắc

nhọn có thể gây ra nhiều hậu quả với các mức độ khác nhau, từ nhẹ (xây xát ngoài da,
phần mềm…) đến nặng ảnh hưởng nghiêm trọng tới chức năng (nhiễm trùng, hoại tử
chi…), thậm chí rất nặng gây nguy hiểm đến tính mạng của trẻ.
Trẻ nhà trẻ thiếu hiểu biết, hiếu kỳ. Giáo viên thiếu quan tâm, thiếu kiến thức. Có
thể là nguyên nhân chủ yếu khiến trẻ nhà trẻ bị các vật sắc nhọn đâm.
2.3. Biểu hiện_cách sơ cấp cứu những tai nạn thường gặp ở trẻ nhà trẻ
Đối với trẻ nhà trẻ, môi trường xung quanh luôn ẩn chứa nhiều hiểm họa. Để đảm
bảo an toàn cho trẻ,giáo viên mầm non đã cố gắng hạn chế tối đa cho trẻ tiếp xúc với các
thứ nguy hiểm. Tuy nhiên, trẻ ở lứa tuổi hiếu động thì dù có lập rào chắn cũng không
tránh được tình huống đáng tiếc xảy ra. Do đó, nắm rõ một số cách sơ cứu cho trẻ khi gặp
phải tai nạn là kiến thức cần thiết đối với tất cả các giáo viên mầm non. Dưới đây là
những cách sơ cứu các tai nạn phổ biến thường gặp ở trẻ nhỏ mà mỗi giáo viên mầm non
cần phải nắm rõ trong lòng bàn tay.
2.3.1. Hóc, nghẹn do dị vật
2.3.1.1. Biểu hiện
- Hóc, nghẹn do dị vật ở cấp độ nhẹ sẽ có biểu hiện như: nôn, nuốt nghẹn, nuốt đau và
gần như không ăn uống được gì
- Ở cấp độ nặng hơn sẽ có biểu hiện: tím tái, khó thở, giáo viên nên tiến hành sơ cứu cho
trẻ trước khi đưa trẻ tới bênh viện.


2.3.1.2. Cách sơ cứu
Cách 1: Dùng ngón tay trỏ cho vào trong cổ họng của trẻ, nhấn lưỡi để gây nôn nếu vật đã rơi
quá sâu
Cách 2: Giáo viên ngồi trên lưng ghế, một chân vắt lên chân kia, để trẻ nằm úp mặt, đầu gối
chạm vào dạ dày trẻ, tiến hành vỗ lưng cho trẻ từ dưới lên, khoảng 100 lần/phút.

Cách 3: Nếu trẻ tầm 3 tuổi, có thể tự đứng vững, hãy đứng phía sau lưng trẻ, vòng hai tay ra
trước ôm lấy ngực trẻ. Tay phải nắm lại, tay trái nắm lấy tay phải, hai ngón tay cái chạm vào dạ
dày trẻ, ấn mạnh, nhanh để dị vật bắn ra ngoài.


Cách 4: Nếu trẻ dưới 1 tuổi, có thể trực tiếp cầm hai chân trẻ hướng xuống đất, nắm tay rỗng vỗ
vào lưng để dị vật bắn ra ngoài.


Thời gian tự sơ cứu trên nên trong khoảng 3 phút. Nếu 3 phút sơ cứu không hiệu quả, giáo viên
nên nhanh chóng đưa trẻ đến bệnh viện hoặc cơ sở y tế gần nhất
2.3.2. Sốt cao, co giật
2.3.2.1 Biểu hiện
- Trẻ bị sốt có biểu hiện: Nhiệt độ cơ thể trẻ tăng cao, cơ thể trẻ nóng khiến trẻ khó chịu, mệt
mỏi, lừ đừ , có khi mê sản.
- Ở mức độ sốt cao dẫn đến co giật , trẻ sẽ có những biểu hiện như:
Co giật nhẹ cơn co giật thường kéo dài 15 phút, trẻ không có dấu hiệu thần kinh cục bộ và cơn
co giật chỉ diễn ra một lần. Ở thể nhẹ bệnh thường tự khỏi, 90% ca không để lại bất cứ di chứng
nào.
Co giật nặng kéo dài trên 15 phút, vận động cục bộ ở não, dẫn đến làm liệt todd (liệt sau cơn co
giật). Ở thể nặng, trẻ thường bị trên 1 cơn co giật trong vòng 24 giờ. Khi bị sốt cao co giật nặng,
hệ thần kinh của trẻ sẽ bị tổn thương, có 7% ca bị sốt cao co giật phức tạp bị suy giảm thần kinh,
dẫn đến bị động kinh.

2.3.2.2. Cách sơ cứu
Bước 1: Khi trẻ bị sốt cao, co giật, giáo viên nhanh chóng đặt trẻ nằm ở nơi bằng phẳng,
tạo không khí thông thoáng, nới quần áo của trẻ rộng ra, đặc biệt là vùng cổ hoặc có thể
cởi hết quần áo của trẻ. Khi trẻ bị sốt hãy chườm nóng cho bé
Bước 2: Sau đó dùng khăn sạch nhúng vào nước ấm, vắt sạch nước và lau khắp người trẻ,
đặc biệt vùng bẹn, nách, cổ trẻ và trán, lau đi lau lại liên tục cho đến khi trẻ hết cơn co
giật thì dừng lại.


Bước 3: Khi bị sốt cao, co giật trẻ không thể uống được thuốc hạ sốt nên phải nhanh

chóng đặt thuốc hạ sốt bằng đường hậu môn, đối với trẻ dưới 2 tuổi dùng viên viên
paracetamol 80mg, trẻ lớn dùng viên 150mg.
Bước 4: Khi trẻ hết cơn co giật, giáo viên nên cho trẻ nằm nghiêng sang một bên, đầu kê
gối ở vị trí an toàn, hơi ngửa để tránh dịch hậu môn vào phổi gậy nguy hiểm đến tính
mạng trẻ.
Bước 5: Nhanh chóng đưa trẻ đi cấp cứu để được điều trị sớm phòng tránh cơn co giật tái
phát.
Ngoài ra, khi trẻ mới bị sốt nên cho trẻ uống thật nhiều nước, hoặc chất điện giải bù
nước, cởi bớt quần áo trên người bé, nới rộng quần áo, đặt trẻ nằm ở nơi thông thoáng
mát. Không được mặc quá nhiều quần áo hoặc ủ ấm trẻ quá kín.
- Cặp nhiệt độ để theo dõi thân nhiệt của trẻ thường xuyên
- Chườm nóng và lau người cho trẻ bằng nước ấm, cho trẻ uống thuốc hạ sốt khi nhiệt độ
trên 39 độ C
2.3.3. Chảy máu cam, chảy nhiều máu
2.3.3.1. Biểu hiện
Chảy máu cam, chảy nhiều máu rất dễ để nhận biết, chảy máu mũi hay bất kì chỗ nào
trên cơ thể trẻ.
2.3.3.2. Cách sơ cứu
- Xác định bên chảy máu bằng cách lau sạch cửa mũi trước 2 bên, cho trẻ cúi người về
phía trước để xác định bên chảy máu.
- Cầm máu đúng cách cho trẻ qua động tác rất đơn giản là dùng ngón tay trỏ đè cánh
mũi vào vách ngăn trong khoảng 5 - 10 phút là máu sẽ ngừng chảy, sau đó giáo viên cho
trẻ nằm nghỉ. Tuyệt đối không cho trẻ nuốt máu vào bụng. Nếu máu chảy xuống họng
bạn nên cho trẻ nằm nghiêng và nói trẻ dùng lưỡi đẩy máu ra mỗi 2 - 4 phút để theo dõi
lượng máu mất.
-

Giáo viên cần động viên và an ủi trẻ để trẻ không bị hoảng sợ khi nhìn thấy máu.

-


Cần đưa trẻ đến bệnh viện khi gặp một trong những tình huống sau:

• Máu vẫn tiếp tục chảy sau khi đã làm các bước trên.







-

Trẻ bị chảy máu mũi nhiều lần trong thời gian ngắn.
Bị hoa mắt, choáng váng.
Tim đập nhanh, khó thở.
Trẻ nôn ra máu.
Sốt cao liên tục từ 2 - 3 ngày hoặc phát ban.

Những điều nên tránh khi trẻ chảy máu cam:

• Không bắt trẻ ngửa đầu hoặc nằm xuống ngay khi bị chảy máu cam.
• Không cho trẻ hỷ mũi mạnh trong vài giờ đầu.
• Không cho trẻ cho ngón tay vào ngoáy mũi.
2.3.4. Bị côn trùng đốt, bị động vật cắn
2.3.4.1. Biểu hiện
Khi bị côn trùng cắn, đốt; có trẻ chỉ bị ngứa, sưng tấy nhẹ và tự khỏi; một số trẻ có
cơ địa mẫn cảm thì nơi bị côn trùng cắn đốt có thể sưng đỏ và phù nề, đôi khi xuất hiện
mụn nước, bóng nước gây đau do cơ thể phản ứng lại các dị nguyên từ vết cắn, ngòi, lông
của côn trùng. Tùy vào loại côn trùng và cơ địa trẻ mà các thương tổn trên da của mỗi trẻ

sẽ khác nhau

• Kiến, ruồi, muỗi nhỏ, rệp cắn: làm da phồng đỏ, hơi sưng, cảm giác ngứa châm
chích. Riêng vết cắn của kiến lửa có thể có thêm triệu chứng sưng phù và xuất
hiện mụn, gây nhức nhối.
• Ong đốt: gây nhức, khó chịu vì trong vòi ong thường có nọc độc. Trường hợp
nặng có thể bị nôn ói, tim đập nhanh, khó thở, toàn thân bị phù nề, tụt huyết áp
gây nguy hiểm đến tính mạng trẻ.
• Bọ, ve cắn: sốt kéo dài, kèm theo triệu chứng nổi mẩn đỏ khắp người.
• Nhện cắn: phồng da, sưng đỏ và nhức; có thể gây sốt, chóng mặt.
2.3.4.2. Cách sơ cứu
Do trẻ còn nhỏ, chưa ý thức được việc tự chăm sóc bản thân. Theo phản xạ tự
nhiên, cảm giác ngứa, rát khó chịu sẽ khiến trẻ gãi lên các vết cắn, đốt. Giáo viên cần
chú ý dù cho vết cắn, đốt nặng hay nhẹ cũng tuyệt đối không cho trẻ gãi vì sẽ khiến da
trầy xước, độc tố có thể phát tán rộng sẽ gây khó khăn hơn cho việc điều trị. Tùy theo
vết cắn, đốt sẽ có cách điều trị cho trẻ khác nhau.


• Trường hợp nhẹ (sưng đỏ, và ngứa tại vết cắn): rửa sạch vết thương với xà phòng
diệt khuẩn, sau đó bôi thuốc trị côn trùng cắn nhằm làm giảm sưng đỏ và giảm cảm
giác đau, ngứa cho trẻ.
• Trường hợp trung bình (sưng đỏ lan rộng kèm theo cảm giác ngứa rát, thường gặp
khi bị ong đốt), mẹ nên làm theo các bước sau:
 Dùng nhíp hoặc đầu ngón tay nhẹ nhàng lấy ngòi độc ra, tránh tác động
mạnh để nọc độc không lan rộng.
 Rửa sạch vùng da với xà phòng diệt khuẩn và nước. Trường hợp đau nhức,
có thể làm lạnh vùng da bằng cách chườm lạnh với đá.
 Thoa thuốc bôi có chứa chất chống ngứa như Crotamiton & I-menthol và
kháng viêm như Prednisolone Valerate Acetate.
• Trường hợp nặng: nếu bé xuất hiện các triệu chứng sau mẹ cần đưa bé đến ngay

các cơ sở y tế gần nhất:
 Thở khò khè hoặc khó thở.
 Nôn (trớ).
 Nổi ban, xuất hiện chấm đỏ ở một số vùng khác nhau trên cơ thể.
 Nhịp tim đập nhanh.
 Ngủ li bì, có dấu hiệu bị số
2.3.5. Chấn thương đầu, dập ngón tay/chân, gãy tay/chân
2.3.5.1. Biểu hiện
- Chấn thương đầu:
Chấn thương đầu ở mức độ nhẹ (u đầu): Thường thì trẻ sẽ khóc to khi bị chấn thương đầu
ở mức độ nhẹ. Vùng đầu bị va đập vào vật cứng có thể sẽ bị sưng lên, đổ lừ hoặc chợt
nhẹ ở da.
Chấn thương đầu ở mức độ nặng: Sau khi tra bị chấn thương sẽ có một số biểu hiện như
đau đầu tăng dần; nôn ói nhiều lần và nôn dễ dàng (nôn vọt); lừ đừ, ngủ gà ngủ gật, dần
dần bất tỉnh, lơ mơ, gọi hỏi đáp ứng kém dần; chảy dịch ở mũi, lỗ tai, chảy máu mũi hay
có bầm tím tụ máu quanh quầng mắt; yếu liệt nửa người hay không đi đứng được, không
nói được; đồng tử (con ngươi ở mắt) giãn nở ở một bên mắt...
- Dập đầu ngón tay/chân:
Đầu ngón tay/chân đỏ, sưng và bầm tím, có trường hợp sẽ thâm đen ở móng tay/chân
khiến trẻ đau nhức, khó chịu.

- Gãy tay/chân:


Trẻ di chuyển khó khăn. Đau trầm trọng ở vùng bị chấn thương. Sưng và sau đó
bị thâm tím. Cử động khó khăn ở những vùng bị chấn thương. Phần đoạn bị chấn
thương có trạng thái méo mó, dị dạng.
2.3.5.2. Cách sơ cứu
-


Chấn thương đầu:

Giáo viên cần bình tĩnh, chú ý quan sát tư thế trẻ sau khi bị tai nạn để xác định rõ chỗ
va đập chấn thương trên cơ thể trẻ. Nhẹ nhàng bế trẻ lên giường nằm nghỉ, tránh giận dữ
quát mắng trẻ.
Cần quan sát kỹ một số triệu chứng ban đầu ở trẻ nếu có như: Trẻ có bị bất tỉnh
không? Có nôn ói không? Nếu có thì nôn như thế nào, nôn vọt hay chỉ oẹ ra nước miếng?
Chất nôn có cái gì? Chảy máu ở đầu, mắt, mũi...? Có gãy xương như tay, chân...?
Nếu có các biểu hiện chấn thương đầu ở cấp độ nặng thì đó là báo hiệu tình trạng chấn
thương sọ não nặng dần, có khối máu tụ trong não, cần khẩn trương đưa trẻ đi bệnh viện,
bác sĩ sẽ can thiệp sớm bằng ngoại khoa, càng can thiệp sớm thì việc phục hồi càng khả
quan.

- Dập đầu ngón tay/chân:
 Nâng cao vùng bị tổn thương để giảm đau và phù nề:
Đây là việc quan trọng nhất cần làm trong vòng 48 giờ đầu. Ngay sau khi phát hiện trẻ
bị dập ngón tay/ngón chân, hãy đặt trẻ ngồi ở tư thế thuận tiện, trên ghế. Dùng chăn hoặc
gối kê cao bàn tay hoặc bàn chân bị thương của trẻ. Những giờ sau đó, thường xuyên cho
trẻ ngồi hoặc nằm ở tư thế bàn tay/bàn chân bị thương cao hơn tầm trái tim.

 Chườm đá
Dùng túi nylon đựng đá lạnh chườm lên vùng tổn thương. Bọc túi đá lạnh trong một
chiếc khăn bông mỏng. Giữ túi chườm trên vùng tổn thương trong vòng 20 phút.

 Giảm đau
Dập ngón tay/ngón chân khiến trẻ hết sức đau đớn. Đó là do khu vực này tập trung rất
nhiều đầu mút dây thần kinh và các cơ quan cảm thụ. Cho trẻ uống thuốc giảm đau, thuốc
không những giúp trẻ bớt đau mà còn làm giảm tình trạng viêm.

 Kiểm tra dấu hiệu gãy xương

 Kiểm tra tổn thương móng tay


Móng tay có thể bị bầm dập, gãy, bong hoặc có tụ máu dưới móng. Nếu móng bị
bong một phần, hãy bôi kem kháng sinh rồi băng lại để móng không vô tình bị bóc tiếp
ra. Nếu khối máu tụ lớn thì cần đưa trẻ đến trung tâm y tế.
Đưa trẻ đến bệnh viện nếu: Trẻ sốt hơn 30 độ C, có biểu hiện nhiễm trùng: sưng,
nóng, đỏ hoặc xuất hiện mủ, chảy dịch ở vùng tổn thương. Đau và sưng ngày càng gia
tăng (trẻ nhỏ chưa biết nói có thể khóc nằng nặc, không thể dỗ).

- Gãy tay/chân:
Giữ cho trẻ bất động trong khi chờ xe đến và không nên cho trẻ ăn uống gì. Có thể
giữ cho chấn thương không nặng thêm, bằng cách cố định các khớp trên và dưới chỗ gãy.
Buộc băng đeo tay

 Đặt băng đeo vào vị trí: Giúp trẻ đặt cánh tay ngang qua ngực, giáo viên hãy
đặt băng đeo giữa cánh tay và ngực của trẻ. Nên dùng băng hình tam giác hoặc
hình vuông hay có thể gấp một miếng vải theo đường chéo để làm băng. Kéo
một góc qua cổ đến bên vai của cánh tay kia.
 Buộc băng: Kéo phần dưới của băng lên qua cánh tay bị thương và buộc góc
dưới của tam giác vào góc đang để trên vai của cánh tay kia. Nhét phần vải
thừa vào bên trong nút.
 Siết chặt góc băng: Dùng kim băng, gài chặt phần thừa của băng vào chỗ cùi
chỏ. Nếu không có kim băng, nhét phần vải thừa vào trong băng. Bàn tay của
trẻ để thò ra ngoài.
Bó nẹp chân
 Tự tạo một nẹp chân: Đặt trẻ nằm xuống và đặt nẹp giữa 2 chân. Có thể dùng
một tờ báo, chăn hoặc một chiếc gối nhỏ để làm nẹp.
 Buộc nẹp chân: Dùng loại băng lớn nhất để buộc chân bị gãy vào bên chân
lành ở đầu gối, bắp chân và mắt cá chân. Tất cả các nút buộc phải nằm ở phần

chân không bị thương.
Nếu bạn nghi ngờ rằng trẻ bị gãy cột sống hoặc cổ, có thể ảnh hưởng đến tuỷ sống
nằm trong các đốt sống thì điều quan trọng là đừng di chuyển trẻ trong thời gian chờ cấp
cứu. Nếu bị chấn thương tuỷ sống, trẻ sẽ cảm thấy nóng, đau nhức hoặc mất cảm giác ở
chân tay.
2.3.6. Ngộ độc thực phẩm ( ăn nhầm thức ăn, uống nhầm thuốc/hóa chất)
2.3.6.1. Biểu hiện
Dấu hiệu của trẻ khi bị ngộ độc thực phẩm: chóng mặt, nôn mửa, tiêu chảy, sốt, đau
quặn vùng bụng,…Triệu chứng này có thể kéo dài tới 2 ngày. Vi khuẩn trong thực phẩm
sẽ nhân đôi số lượng trong 20 phút/ lần với nhiệt độ bình thường.
2.3.6.2. Cách sơ cứu


- Ngộ độc thức ăn:
Khẩn trương gây nôn cho trẻ, nôn càng nhiều càng tốt để tống hết thức ăn ra ngoài.
Có thể gây nôn bằng cách uống đầy nước rồi móc họng, ngoáy vào họng để gây nôn.
Tuy nhiên, khi sơ cứu bằng gây nôn cho trẻ, giáo viên phải lưu ý móc họng trẻ cho
khéo, tránh làm xây xát họng trẻ. Phải để trẻ nằm đầu thấp, nghiêng đầu sang một bên
rồi móc họng để trẻ nôn thức ăn ra. Không để trẻ nằm ngửa và nôn, có thể gây sặc rất
nguy hiểm. Trong quá trình gây nôn, phải luôn phải khăn để lau chùi. Móc sạch thức ăn
trẻ nôn ra rồi dùng khăn mềm lau sạch miệng trẻ.
Hết sức chú ý những lúc trẻ bị nôn và cả lúc đang ngủ: Ở nhiều em bé đang ngủ
thiếp đi vì quá mệt cũng bị nôn vọt, và nôn trong tư thế nằm như vậy rất nguy hiểm, có
thể bị sặc lên mũi, xuống phổi. Khi nôn bị sặc lên mũi, giáo viên phải nhanh chóng hút
mũi trẻ nếu không trẻ sẽ bị sặc, khó thở và có thể dẫn đến tử vong.
Đưa trẻ đến trung tâm y tế gần nhất để được chữa trị kịp thời.
- Uống nhầm thuốc/ hóa chất:
 Khi trẻ uống nhầm axít, xăng dầu, chất tẩy rửa:
Với các hóa chất bay hơi, dung dịch tẩy rửa gây ăn mòn mạnh như: Axit, bazơ hoặc
xăng dầu… giáo viên không được gây nôn cho trẻ. Nếu gây nôn, khi hóa chất được đưa

ra ngoài cũng là lúc hơi hóa chất có cơ hội tràn vào khí quản lần nữa làm tăng mức độ
ngộ độc, gây bỏng thực quản. Trẻ dễ bị viêm phổi là do hơi của các hóa chất này xâm
nhập đường hô hấp.
Trước khi tới viện, có thể cho trẻ uống vài ngụm nước lọc nếu hóa chất gây bỏng rát
trong cổ họng. Cho trẻ uống từ từ nhằm tránh sặc nước khiến tình hình nghiêm trọng
hơn.

 Khi uống nhầm thuốc diệt cỏ:
Cần nhanh chóng gây nôn cho trẻ càng sớm càng tốt. Trong vòng 1 giờ đầu uống
nước và gây nôn bằng cách móc họng chotrẻ. Nếu có thể, nên cho trẻ uống siro ipeca 1015ml.
Sau khi trẻ nôn, giáo viên có thể cho trẻ uống một trong các thuốc sau làm giảm
hấp phụ chất độc vào cơ thể: Than hoạt tính 1g/kg/lần pha nước cho trẻ uống; hoặc uống
đất sét hấp phụ rất tốt paraquat. Sau đó khẩn trương đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất.

 Nếu ngộ độc do uống nhầm thuốc:
Khi biết trẻ bị ngộ độc thuốc, giáo viên cần giữ trẻ ở tư thế ngồi hoặc đứng để các
chất trong dạ dày không trào lên thực quản. Không đặt trẻ ở tư thế nằm. Nếu đang còn
tỉnh, bất kể là đã uống nhầm loại gì cũng cần nhanh chóng gây nôn bằng cách móc họng.
Đồng thời, cho trẻ uống nhiều nước ấm rồi lại tiếp tục móc họng gây nôn nhằm rửa sạch


dạ dày, giải độc ra khỏi cơ thể, giảm bớt tác hại của thuốc hay hóa chất. Trong trường
hợp trẻ hôn mê, co giật thì không nên gây nôn.
Sau sơ cứu ban đầu cần nhanh chóng đưa trẻ tới bệnh viện ngay để được các bác sĩ
tiếp tục cấp cứu, giải độc. Mang theo vỏ loại thuốc hoặc chai hóa chất mà trẻ đã uống
nhầm để các bác sĩ có hướng xử lý kịp thời và chính xác.
2.3.7. Bỏng do nước/ vật nóng
2.3.7.1. Biểu hiện
- Trẻ bị bỏng ở mức độ nhẹ thường có biểu hiện: vùng bị bỏng đỏ mẫn lên, đau rát,
có thể bị mọng nước ở vùng vết thương bị bỏng.

- Ở mức độ nặng thường có biểu hiện: trầy sướt phần da bên ngoài,rướm máu, nguy
hiểm đến tính mạng của trẻ.
2.3.7.2. Cách sơ cứu
- Khi trẻ bị bỏng nhẹ, giáo viên nên làm mát vết bỏng, tránh cho da khỏi bị rộp bằng
cách mở vòi nước cho chảy chầm chậm lên vết bỏng khoảng 15 - 20 phút. Nước sạch
vừa có tác dụng giảm nhiệt, giảm đau, giảm phù nề, viêm nhiễm, giảm độ sâu của vết
thương. Không dùng nước lạnh, nước đá (trong tủ lạnh) để làm mát da cho trẻ.
- Cắt bỏ toàn bộ phần áo quần che phủ vết bỏng, rồi lại dội thêm nước mát lên vết
thương. Chú ý không cởi bỏ quần áo để tránh gây lột da vùng bỏng. Cũng không lộn áo
qua đầu trẻ vì bạn có thể làm bé bị bỏng ở mặt.
- Che phủ vùng bỏng bằng gạc vô khuẩn. Nếu không có gạc có thể dùng vải sạch.
- Trong trường hợp trẻ bị bỏng ở mắt, miệng hay bộ phận sinh dục, phải ngay lập
tức đưa con đến cơ sở y tế gần nhất dù trẻ chỉ bị bỏng nhẹ. Nếu vết bỏng rộng hơn 1 bàn
tay, bị phồng giộp hay kéo theo sốt, mẹ cũng nên xử trí tương tự.
- Không bôi các chất như nước mắm, giấm, mỡ, kem đánh răng, bùn non lên vết
bỏng sẽ làm vết bỏng nhiễm trùng nặng.
2.3.8. Bong gân
2.3.8.1. Biểu hiện
- Bé bị đau nhức do dây chằng đứt. Chỗ bị thương có thể bầm tím, sưng. Bé không vận
động được vì đau.
- Bé nhũ nhi ít khi bị bong gân vì các khớp xương còn mềm. Bé lớn hơn mới hay gặp phải
tình trạng này
2.3.8.2. Cách sơ cứu
- Nếu bé bị đau, không đi hay cử động được, giáo viên cần đưa bé đi khám ngay. Giáo viên
có thể chườm một miếng gạc lạnh để giảm sưng cho bé.


- Bác sĩ sẽ khám và chụp X-quang cho bé để xác định mức độ bong gân hay trật khớp. Từ
đó, bác sĩ sẽ băng bó và xử lý chỗ bị thương cho bé.
Những sai lầm cần tránh:

- Giáo viên cần tránh tự ý dùng các cách trị bong gân cho bé như xoa mật gấu, rượu; xoa
cao vào nơi bị đau cho bé. Đây là sai lầm nghiêm trọng vì bôi các chất nóng làm bé bị
chảy máu mạnh hơn. Nếu xoa vào dây chằng còn có nguy cơ làm bé bị teo cơ, cứng
khớp về sau. Trường hợp này, cần chườm lạnh cho bé.
- Giáo viên không nên để bé tự ý vận động khi chưa được điều trị khỏi hẳn vì có thể gây
đau dây chằng mạn.
2.3.9. Điện giật, ngạt nước
Cách sơ cứu khi trẻ bị điện giật
- Hãy cắt ngay nguồn điện nếu có thể. Nếu không hãy tìm cách lấy nguồn điện ra khỏi
người bé. Để làm điều này, giáo viên phải đứng trên vật liệu cách điện khô, như quyển
danh bạ điện thoại, và dùng thứ gì đó bằng vật liệu không dẫn điện như: nhựa, gỗ, vải
khô để tách bé và nguồn điện.

- Kiểm tra hơi thở của bé, để bé nằm nghiêng qua một bên, co một đầu gối lên, hạ đầu bé
xuống để bé không nuốt phải nước dãi chảy ra. Đỡ cổ bằng một cái gối. Với trẻ sơ sinh,
bế trong tay, đỡ đầu và hướng mặt xuống để tránh bị nghẹn. Tư thế này giúp bé thở dễ
dàng hơn và không bị nghẹn.

- Nếu thấy trẻ bất tỉnh, cần kiểm tra nhịp thở, mạch đập và tiến hành cấp cứu thổi ngạt ấn
tim khi có ngưng thở ngưng tim vì ngoài tổn thương bỏng điện tại chỗ, dòng điện còn có
thể đi qua tim phổi gây ngừng tim ngừng thở. Khi thấy trẻ ngừng thở ngừng tim phải
tiến hành hà hơi thổi ngạt – ép tim ngoài lồng ngực. Sau đó, nhanh chóng đưa bé đến
ngay cơ sở y tế.
Cách sơ cứu trẻ bị ngạt nước
Bước 1: Kiểm tra xem trẻ còn tỉnh và còn thở nữa hay không.
- Nếu trẻ bị ho, bị sặc hay nôn mửa, có nghĩa là cháu còn thở được. Trong trường hợp
có chấn thương nào ở cổ, lưng, giáo viên hãy bế bé một cách nhẹ nhàng và cẩn thận,
đừng xoay, vặn xương sống của trẻ.
- Nếu trẻ không thở: Giáo viên đừng mất quá nhiều thời gian vào việc rút nước ra
khỏi 2 buồng phổi của trẻ. Hãy móc sạch những mảnh vụn như bùn hay rong rêu ra khỏi

miệng cháu và làm hô hấp nhân tạo.
Bước 2: Hô hấp nhân tạo
Với em bé


-

- Đặt bé nằm ngửa trên một mặt phẳng cứng. Bảo đảm khí quản vẫn còn thông, bằng
cách nâng cằm bé lên và ngửa đầu bé ra sau một chút.
Nếu lồng ngực bé không nhô lên, chắc hẳn là có vật đã làm bé tắt khí quản, hãy chữa
trị nghẹt thở cho bé bằng phương pháp làm thông khí quản như trên. Nếu lồng ngực em
bé nhô lên, hãy rời miệng khỏi mặt em bé và để cho lồng ngực bé xẹp xuống. Hà hơi lại
2 lần nhanh, nhẹ, rồi kiểm tra nhịp đập tim em bé.
- Áp sát môi vào miệng và mũi em bé, hà hơi ra nhẹ nhàng vào phổi bé cho đến khi
nào thấy lồng ngực của bé nhô lên.
- Hãy rời miệng khỏi mặt em bé và để cho lồng ngực bé xẹp xuống.
Với trẻ lớn hơn
- Đặt trẻ nằm ngửa trên một mặt phẳng cứng. Dùng hai ngón tay nâng cằm cháu lên
và ngả đầu cháu ra phía sau. Lấy hết những vật cản trong miệng ra.
Nếu lồng ngực trẻ không nhô lên, chắc hẳn có vật gì làm tắc khí quản. Nếu lồng ngực
nhô lên, giáo viên hãy rời miệng khỏi mặt cháu bé và để lồng ngực bé xẹp xuống. Hà hơi
lại 2 lần nhanh và nhẹ, rồi kiểm tra nhịp đập tim của bé.
- Bịt mũi cháu lại. Áp sát môi lên miệng cháu, hà hơi vào phổi cháu cho đến khi thấy
lồng ngực của cháu nhô lên. Nếu cháu còn quá nhỏ, hãy áp môi lên miệng và mũi cháu
giống như đối với một em bé.
- Rời miệng ra khỏi mặt bé và để cho lồng ngực xẹp xuống. Vẫn bịt mũi cháu.
Bước 3: Gọi xe cấp cứu và tiếp tục làm hô hấp nhân tạo cho đến khi xe cấp cứu đến
hoặc cho đến khi cháu bắt đầu thở lại được.
Bước 4: Nếu cháu thở nhưng bất tỉnh, giáo viên hãy đặt cháu trong tư thế hồi phục để
nước có thể thoát ra khỏi miệng và phổi.

2.3.10. Các vật sắc nhọn đâm
Cách sơ cứu cho trẻ khi bị các vật sắc nhọn đâm
Trước tiên hãy rửa sạch và sát trùng vết thương cho bé bằng oxy già hoặc nước muối,
và băng cố định dị vật tại chỗ bằng khăn xô đủ chặt để cầm máu.
Nếu vết thương rất sâu và chảy nhiều máu, sau khi sơ cứu phải đưa ngay trẻ đến cơ sở
y tế gần nhất.
Khi các vật gây thương tích có dính bùn đất, hoặc gỉ sét có thể gây uốn ván và các
nhiễm trùng nặng khác, nên nói phụ huynh đưa đưa bé đi tiêm phòng
Khi thấy bé gặp phải tai nạn này, giáo viên tuyệt đối không tìm mọi cách để lấy vật sắc
nhọn đã cắm sâu ra khỏi vết thương.
Nếu vết thương ở ngay mạch máu thì nên ấn vào đường đi của mạch máu ở phía trên
vết thương, đồng thời băng ép đủ chặt để cầm máu.
Nắm rõ những cách sơ cứu cho trẻ tại trường Mầm Non là điều kiện kiên quyết để
giáo viên có thể giúp bé phần nào thoát khỏi những nguy hiểm. Do đó, để đảm bảo an


toàn cho con thì giáo viên hãy cố gắng nắm kĩ các cách sơ cấp cứu và chữa trị cho trẻ
khi trẻ xảy ra tai nạn. Giúp trẻ phát triển toàn diện trong một môi trường an toàn.
2.4. Biện pháp nâng cao kĩ năng sơ cấp cứu trẻ nhà trẻ cho giáo viên mầm non
Đối với trẻ dưới 3 tuổi: Ở lứa tuổi này các cơ quan trong cơ thể trẻ phát triển chưa
hoàn thiện. Trẻ tập bò, tập đi lại, tò mò muốn tìm hiểu xung quanh, chưa biết tự bảo vệ
mình do đó trẻ thường bị các Tai nạn thường gặp như: dị vật đường thở do sặc bột, sặc
thức ăn. Bị dị vật lỗ mũi, lỗ tai... do tự nhét hột đỗ, hột lạc. Bỏng, nhất là bỏng nước
sôi. Ngã xuống nước, điện giật....Nhưng trình độ đào tạo, thâm niên công tác của giáo
viên có ảnh hưởng đến sự hiểu biết về các nguyên nhân và phòng tránh TNTT cho trẻ.
Chính vì thế cần có biện pháp để nâng cao kĩ năng sơ cấp cứu trẻ nhà trẻ cho giáo viên
mầm non hiện nay.

- Định hướng được tầm quan trọng của việc sơ cấp cứu trẻ nhà trẻ cho giáo viên


-

mầm non. Để từ đó, giúp trẻ đảm bảo an toàn trong những tai nạn thường xảy
ra ở trường mầm non. Đó cũng được coi là bổn phận và trách nhiệm của mỗi
giáo viên khi đảm nhận vai trò là người mẹ thứ hai của trẻ nhỏ.
- Mở các lớp huấn luyện kĩ năng so cấp cứu để đào tạo, nâng cao trình độ sơ cấp
cứu cho mối giáo viên mầm non.
Để bảo đảm cho việc nuôi dạy trẻ tốt, ngoài việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ đầy đủ
dinh dưỡng, phòng tránh và xử trí tốt các bệnh thông thường cho trẻ thì việc phòng
tránh tai nạn cho trẻ cũng rất quan trọng, vì có thể để lại những hậu quả rất thương
tâm, di chứng suốt đời.
Chính vì thế, phong chống các tai nạn cho trẻ nhỏ cũng là một điều hết sức cần thiết.
Tổ chức, phối hợp các lực lượng tăng cường nghiên cứu biên soạn và phổ biến các tài
liệu hướng dẫn, tài liệu tham khảo cho giáo viên về đảm bảo an toàn phòng tránh tai
nạn cho trẻ trong trường mầm non.
Phổ biến, cập nhật thường xuyên cho các cấp quản lý và giáo viên các văn bản, chỉ thị
của nhà nước và của ngành giáo dục về phòng tránh tai nạn cho trẻ và các biện pháp
thực hiện văn bản đó.
Tổ chức, phối hợp các lực lượng tăng cường nghiên cứu biên soạn và phổ biến các tài
liệu hướng dẫn, tài liệu tham khảo cho giáo viên về đảm bảo an toàn phòng tránh tai
nạn cho trẻ trong trường mầm non.
Phổ biến, cập nhật thường xuyên cho các cấp quản lý và giáo viên các văn bản, chỉ thị
của nhà nước và của ngành giáo dục về phòng tránh tai nạn cho trẻ và các biện pháp
thực hiện văn bản đó.


- Có sự kiểm tra, đánh giá các trường thường xuyên để có kế hoạch khắc phục những
-

hạn chế về cơ sở vật chất cũng như kiến thức thực hành của giáo viên về phòng tránh

tai nạn cho trẻ.
Có kế hoạch từng bước tăng tỷ lệ các trường mầm non đạt chuẩn.
Kiểm tra định kỳ CSVC để có kế hoạch tu bổ, nâng cấp.
Đảm bảo vệ sinh, phòng tránh ngộ độc, dịch bệnh trong nhà trường.
Phối hợp với y tế địa phương tập huấn cho giáo viên về kiến thức và kỹ năng phòng và
xử lý ban đầu một số tai nạn thường gặp ở trẻ.
Tuyên truyền và phối hợp với gia đình trong phòng tránh tai nạn cho trẻ.
PHẦN KẾT LUẬN
Trong quá trình nuôi dạy trẻ, giáo viên mầm non thường gặp những lúc trẻ
ốm đau hoặc bị tai nạn bất ngờ xảy ra ở lớp học cũng như tại trường Mầm Non. Câu
hỏi đặt ra là: Tình trạng trẻ như thế nào đòi hỏi phải có sự can thiệp nhanh chóng kịp
thời? Phải làm gì để giúp trẻ trong những trường hợp khẩn cấp? Cần sơ cứu cho trẻ
như thế nào trong kho chờ bác sĩ tới cấp cứu?
Sơ cấp cứu cho trẻ phải được thực hiện khi xuất hiên một số triệu chứng
bệnh lý như:sốt cao,nôn,co giật,rối loạn nhịp thở....
Sơ cứu ban đầu cho trẻ cũng phải thực hiện ngay lập tức trong trường hợp
trẻ bị chảy máu,trật khớp,gãy chân tay,bị điện giật,bị dị vật rơi vào đường thở.... Tùy
từng trường hợp cụ thể sẽ có cách sơ cứu khác nhau:
o Loại bỏ những tác nhân gây ra chấn thương (dòng điện,nhiệt độ cao,thấp,..)
o Khắc phục tình trạng nguy hiểm có hại chi sức khỏe của bé (chảy máu,ngạt
thở,..)
o Sơ cứu tại chỗ cho trẻ (đặt nẹp chỗ chân tay bị gãy,băng bó vết thương...).
o Gọi "cấp cứu" hay tìm cách đưa trẻ bị ốm,bị thương đến cơ sở y tế gần
nhất.
Trong trường hợp có vài người tham gia công tác sơ cứu ban đầu thì tốt
nhất nên có sự phân công công việc rõ ràng để được hiệu quả tối ưu,ví dụ như người
thì gọi điện cấp cứu,người thì chuẩn bị phương tiện vân chuyển trẻ đến cơ sở y tế khi
cần thiết,còn lại một số người sẽ sơ cấp cứu cho trẻ. Cần phải lưu ý rằng, không được
để trẻ bị ốm hay bị tai nạn ở một mình,phải hết sức bình tĩnh,nhẹ nhàng,thể hiện sự
quan tâm hết mực,đồng thời động viên trẻ tạo cho trẻ niềm tin mau chóng khỏe bệnh.

Việc đảm bảo tình trạng luôn luôn khỏe mạnh và an toàn cho trẻ sẽ là cơ sở
và điều kiện để phát triển trẻ cả về thể chất lẫn tinh thần.
Đề tài “ Sơ cấp cứu cơ bản cho trẻ nhà trẻ tại trường Mầm Non” sẽ là kiến
thức bổ ích cho các giáo viên mầm non tương lai, chuẩn bị hành trang bước vào
nghề. Qua đề tài, chúng ta sẽ nâng cao hiểu biết của mình về sơ cấp cứu cho trẻ nhỏ,


từ đó kịp thời ứng phó cho các tình huống không may xảy ra trong chặng đường
giảng dạy sau này, cũng như trong đời sống hằng ngày.



×