Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Báo cáo thảo luận môn sở văn hóa Việt Nam: Lễ hội Đền Hùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 41 trang )

Cơ sở văn hóa Việt Nam
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2016
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 02 LẦN 2





Thời gian: 15 giờ, ngày 20 tháng 04 năm 2016
Địa điểm: sân thư viện
Số lượng thành viên tham gia: 10 thành viên
Nội dung buổi họp: Cả nhóm xem xét lại và chỉnh sửa bài thảo luận, làm slide,

tóm tắt bài thuyết trình và tiến hành thuyết trình thử.
 Buổi họp kết thúc vào lúc 17 giờ cùng ngày. Nhóm tự đánh giá kết quả và tìm
hiểu các thông tin liên quan đến bài thảo luận.

Thư ký (ký)

Nhóm 02

Nhóm trưởng (ký)


Cơ sở văn hóa Việt Nam
BẢNG ĐÁNH GIÁ THẢO LUẬN NHÓM 02
STT

Họ và tên



Điểm

Ký tên

1. Phạm Thị Hiệp
2. Đỗ Thị Hoạt
3. Trần Thị Khánh

Hòa
4. Đặng Thị Hương

5. Nguyễn Thị

Hương
6. Nguyễn Thị
Hương
7. Nguyễn Thị Mai
Hồng
8. Hoàng Khánh
Huyền
9. Lê Thị Thanh
Huyền
10. Vũ Thị Thu
Hương

Thư ký (ký)

MỤC LỤC


Nhóm 02

Nhóm trưởng (ký)


Cơ sở văn hóa Việt Nam
MỤC LỤC

Nhóm 02


Cơ sở văn hóa Việt Nam
LỜI CẢM ƠN!
Chúng em xin chân thành cảm ơn tới thầy đã hướng dẫn giúp chúng em qua từng
buổi học trên lớp và hướng dẫn làm bài thảo luận. Nhờ có sự chỉ dẫn của thầy mà
chúng em mới hoàn thiện được. Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn thầy!
Bài thảo luận được thực hiện trong khoảng thời gian 2 tuần, kiến thức của chúng
em còn hạn chế và nhiều bỡ ngỡ. Do vậy, không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em
rất mong nhận được những đóng góp ý kiến quý báu của thầy và các bạn để chúng em
được hoàn thiện bài thảo luận hơn!
Nhóm 02

Nhóm 02

4


Cơ sở văn hóa Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Đền Hùng và lễ hội Đền Hùng là một di sản văn hóa mang tính bản sắc của dân tộc

Việt. Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là
biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Từ bao đời nay, mỗi người dân
Việt Nam luôn nhớ về ngày giỗ Tổ qua câu ca được truyền tụng:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp nơi truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non mình ngàn năm.”
Giỗ Tổ tức giỗ vua Hùng - vị vua Tổ của người Việt, người có công sáng lập nhà
nước Văn Lang và mở ra thời đại Hùng Vương trong lịch sử Việt Nam (từ khoảng thế
kỷ VII trước Công nguyên (TCN) đến thế kỷ III sau Công nguyên (SCN), cũng là nhà
nước hình thành sớm nhất ở khu vực Đông Nam Á cổ đại. Như vậy, từ Văn Lang đến
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - đất nước Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch
sử. Văn hóa Việt Nam vì thế cũng không kém phần đặc sắc. Không phải tự nhiên mà
một nhà nghiên cứu ngoại quốc nhận định: Việt Nam là một dân tộc có bản sắc văn
hóa rất riêng. Và Văn Lang chính là cội nguồn lịch sử, cội nguồn văn hóa dân
tộc Việt Nam. Giỗ Tổ Hùng Vương - từ rất lâu đã trở thành ngày Giỗ trọng đại của cả
dân tộc; đã in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời
nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đất Cội nguồn - xã Hy
Cương – Việt Trì - Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc
Việt Nam. Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một gốc gác tổ tiên một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nửa theo
cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc, nghĩa đồng bào
và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Hai chữ đồng bào là khởi nguồn của
yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam.
Lễ hội Đền Hùng ngày càng có vai trò quan trọng và có tác động lớn đến đời sống
người dân. Đời sống hiện đại, nhu cầu về tâm linh của người dân càng cao. Lịch sử
như một dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao biến động thăng trầm,
trong tâm thức của cả dân tộc, lễ hội Đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi
con cháu phụng thờ công đức Tổ tiên. Do vậy việc tìm hiểu tác động của lễ hội Đền
Hùng trong đời sống người dân sẽ giúp chúng ta định vị được di sản trong lòng con


Nhóm 02

5


Cơ sở văn hóa Việt Nam
người và xã hội đương đại. Từ đó các cơ quan quản lý sẽ có những chính sách và biện
pháp để bảo tồn văn hóa phi vật thể này cho thế hệ trẻ sau này.
Trên cơ sở làm rõ mối quan hệ giữa lễ hội và tín ngưỡng, vai trò của lễ hội đối với
bảo tồn di sản trong giai đoạn hiện nay, đề tài nhằm phân tích, đánh giá thực trạng việc
bảo tồn phát huy di sản văn hoá lễ hội để phát triển kinh tế, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm phát huy các giá trị của lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ góp phần phát triển đời
sống tín ngưỡng và phát triển kinh tế xã hội.
-

Đề tài góp phần đánh giá thực trạng của công tác bảo tồn và phát huy di sản lễ

-

hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nhằm mục tiêu phát triển kinh tế.
Làm rõ hơn những giá trị của các di sản văn hoá lễ hội Đền Hùng đối với tín

-

ngưỡng của nhân dân.
Đề xuất các giải pháp về việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá lễ hội để phát
triển du lịch góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.

Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành,bảo tồn,sản sinh văn
hóa,truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hóa.Trong

các làng xã nghèo nàn ấy,ngôi đình mái chùa ngôi đền và những lễ hội chính là tâm
điểm của cái nôi văn hóa đó.Không có làng xã Việt Nam thì cũng không có văn hóa
Việt Nam.Điều này càng cực kì quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp
hóa,hiện đại hóa và toàn cầu hóa hiện nay,khi mà sự nghiệp bảo tồn,làm giàu và phát
huy văn hóa truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết,thì làng xã và lễ
hội Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn,làm giàu và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc. Chính vì vậy nhóm em tìm hiểu “Lễ hội Đền Hùng để thấy rõ ý
nghĩa của lế hội đời sống tâm linh và kinh tế xã hội. Từ đó đưa ra 1 số giải pháp cho
các cơ quan quản lý đã và sẽ phải làm gì để bảo tồn văn hóa phi vật thể này.”
Bài thảo luận này không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định, vậy chúng em
kính mong các thầy cô đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn chỉnh hơn!

Nhóm 02

6


Cơ sở văn hóa Việt Nam
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm lễ hội và lễ hội truyền thống

Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là hệ
thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần
linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản
thân họ chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ
thuaật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.
Lễ hội là hoạt động tập thể và thường có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
Con người xưa kia rất tin vào trời đất, thần linh. Các lễ hội cổ truyền phản ảnh hiện
tượng đó. Tôn giáo rất có ảnh hưởng tới lễ hội. Tôn giáo thông qua lễ hội đê phô
trương thanh thế, lễ hội nhờ có tôn giáo đề thần linh hóa những thứ trần tục. Nhưng

trải qua thời gian, trong nhiều lễ hội, tính tôn giáo dần giảm bớt và chỉ còn mang
nặng tính văn hóa.
Theo thống kê 2013, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039
lễ hội dân gian (chiếm 88.36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4.16%), 544 lễ hội tôn
giáo (chiếm 6.28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ
hội khác (chiếm 0,5%).
-

Lễ hội truyền thống: Lễ hội truyền thống ở Việt Nam thường diễn ra vào
mùa Xuân và số ít vào mùa Thu là hai mùa đẹp nhất trong năm, đồng
thời cũng là lúc nhà nông có thời gian nhàn rỗi. Trong số các lễ hội Việt
Nam thì phải kể đến những lễ hội chi phối hầu hết các gia đình trên mọi
miền tổ quốc, đó là Tết Nguyên Đán, Lễ Vu Lan và tết Trung Thu. Gần
đây một số lễ hội được nhà nước và nhân dân quan tâm như: Lễ hội đền
Hùng, Lễ hội đền Trần, Giáng Sinh, Phật đản.v.v. Một số lễ hội lớn ảnh
hưởng cả một vùng rộng lớn, tiêu biểu như: hội Gióng (xứ Kinh Bắc), lễ
hội đền Hùng (Xứ Đoài), lễ hội chùa Bái Đính, lễ hội đền Trần, phủ Dày,
(xứ Sơn Nam), lễ hội Yên Tử, lễ hội bà chúa Xứ (An Giang), Lễ hội

-

pháo hoa Quốc tế Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng) ...
Mối quan hệ giữa ‘’lễ’’ và ‘’ hội’’ :
 Lễ trong lễ hội là 1 hệ thống các hành vi, động tác mang tính chất
tâm linh, nghi thức nhằm biểu hiện lòng tôn kính, tạ ơn cầu xin thần
linh phù hộ và bảo trợ cho cuộc sống của con người.

Nhóm 02

7



Cơ sở văn hóa Việt Nam
 Hội: cuộc vui được tổ chức chung cho đông đảo người tham dự theo

phong tục hay nhân dịp đặc biệt, đem lại lợi ích tinh thần cho các
thành viên trong cộng đồng và có nhiều trò vui
 Lễ và hội là 1 tổng thể thống nhất, không thể chia tách. Lễ là nội
dung, hội là hình thức. Lễ là phần Đạo, hội là phần đời. Lễ là cộng
mệnh, hội là cộng cảm. Hội gắn liền với Lễ và chịu sự quy định nhất
-

định của Lễ.
Phân loại lễ hội:
 Khác với các di tích Việt Nam đã được kiểm kê và phân cấp theo quy
định, các lễ hội ở Việt Nam chưa được quy định phân cấp bài bản. Có
những lễ hội bị biến tướng, trần tục hoá, mở hội tràn lan… nhiều ý kiến
đề xuất việc kiểm kê các lễ hội trên toàn quốc để tiến tới phân cấp lễ hội
theo các cấp: lễ hội cấp quốc gia, lễ hội cấp tỉnh, lễ hội cấp huyện và lễ
hội cấp làng. Theo bà Lê Thị Minh Lý - Phó Cục trưởng Cục Di sản Văn
hoá, điểm yếu trong việc quản lý lễ hội hiện nay đó là chưa có cơ sở dữ
liệu khoa học và quan điểm tiếp cận đúng. Không nên đánh đồng giữa lễ
hội và festival.
 Tùy vào từng thời điểm, vào chủ thể mà lễ hội hiện nay được tổ chức ở

nhiều cấp khác nhau. Ví dụ như lễ hội đền Hùng được tổ chức ở quy mô
quốc gia 5 năm/ lần. Những năm số lẻ thì lại được tổ chức ở quy mô cấp
tỉnh. Các lễ hội thường được tổ chức ở quy mô cấp tỉnh như hội Lim, lễ
hội Lam Kinh (Thanh Hóa), lễ hội đền Trần (Nam Định) ... Các lễ hội ở
quy mô cấp huyện tiêu biểu như lễ hội đền Nguyễn Công Trứ ở Kim Sơn

(Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình). Các lễ hội diễn ra ở đình Làng là lễ
-

hội cấp nhỏ nhất, chỉ với quy mô làng, xã.
Thời gian địa điểm tổ chức:
 Lễ hội ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và
mùa thu. Hai khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân
tiết trời ấm áp, mùa thu tiết trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ
hội. Hai yếu tố cơ bản tạo nên sự thoải mái, vui vẻ cho người đi dự hội.

Nhóm 02

8


Cơ sở văn hóa Việt Nam
2. Đặc điểm lễ hội truyền thống Việt Nam
a.
Tính thiêng

Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được một lý do mang tính
"thiêng" nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị tử thương, ngã xuống mảnh đất
ấy, lập tức được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người anh hùng bỗng dưng
hiển thánh, bay về trời. Cũng có khi đó chỉ là một bờ sông, nơi có một xác người
chết đuối, đang trôi bỗng nhiên dừng lại, không trôi nữa; dân vớt lên, chôn cất, thờ
phụng... Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành nhằm ngày sinh, ngày mất của một
người có công với làng với nước, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác (có người chữa
bệnh, có người dạy nghề, có người đào mương, có người trị thủy, có người đánh
giặc...). Song, những người đó bao giờ cũng được "thiêng hóa" và đã trở thành
"Thần thánh" trong tâm trí của người dân.

Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, không chỉ có thể
phù hộ cho họ trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm: chữa bệnh, làm
nghề, sản xuất, đánh giặc... mà còn có thể giúp họ vượt qua những khó khăn đa
dạng hơn, phức tạp hơn của đời sống.
Chính tính "Thiêng" ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong
những thời điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ
đến.
b.

Tính "cộng đồng"

Lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự nguyện
của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn. Bởi thế mới có
lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nước.
c.

Tính địa phương

Lễ hội được sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất nhất định. Bởi thế lễ
hội ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phương của lễ hội chính là
điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp ứng
những nhu cầu tinh thần và văn hóa của nhân dân, không chỉ ở nội dung lễ hội mà
còn ở phong cách của lễ hội nữa. Phong cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở trang phục,
kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng cúng...
d.

Tính cung đình

Đa phần các nhân vật được suy tôn thành Thần linh trong các lễ hội của người
Việt, là các người đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xưa. Bởi thế những nghi


Nhóm 02

9


Cơ sở văn hóa Việt Nam
thức diễn ra trong lễ hội, từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu... đều mô phỏng sinh
hoạt cung đình. Sự mô phỏng đó thể hiện ở cách bài trí, trang phục, động tác đi
lại... Điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng hơn, lộng lẫy hơn. Mặt khác lễ
nghi cung đình cũng làm cho người tham gia cảm thấy được nâng lên một vị trí
khác với ngày thường, đáp ứng tâm lý, những khao khát nguyện vọng của người
dân.
e.

Tính đương đại

Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch sử,
cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trò chơi mới, những cách bài
trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như rađio, cassete, video, tăng âm,
micro... đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội được thuận lợi hơn,
đáp ứng nhu cầu mới. Tuy vậy, những sự tiếp thu này đều phải dần dần qua sự sàng
lọc tự nguyện của nhân dân, được cộng đồng chấp nhận, không thể là một sự lắp
ghép tùy tiện, vô lý...
f.

Nghệ thuật diễn xướng

Có thể nói rằng, toàn bộ lễ hội là một sân khấu đặc biệt. Tại sân khấu này, có ba
nhân vật chính. Một nhân vật là ông Thầy cúng (Thầy Đồng đền ở Đền, Ông chủ tế

ở đình...) người có khả năng thông qua các Thần linh, sự nhập vai của các Thần
linh (các hiện tượng lên đồng). Nhân vật thứ hai là quần chúng nhân dân, những tín
đồ của tôn giáo hay tín ngưỡng, những người đã có sẵn những cảm xúc tôn giáo, tín
ngưỡng nhạy bén, sẵn sàng tham gia, nhập cuộc vào cuộc trình diễn này. Nhân vật
thứ ba tuy không xuất hiện trên sân khấu, nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong
Lễ hội, chính nhân vật này tạo ra cảm hứng xuyên suốt cuộc Lễ hội, là động lực
của Lễ hội. Đó là các Thần linh, đối tượng thờ cúng của các Lễ hội.
Trong các lễ Hầu đồng, lên đồng là một nghi thức đặc biệt. Trong đó, người lên
đồng được các Thần linh "nhập" vào. Khi đó, những người lên đồng không còn giữ
nguyên bản thân, mà trở thành những nhân vật Thần linh được quy định là phù hợp
với họ (hợp "căn"). Người lên đồng múa, hát và nói năng hệt như tính cách các vị
thần nhập vào họ, theo quan niệm dân gian. Người nhập vai vào vai cô bé Thượng
Ngàn, nhí nhảnh, ưa làm dáng, hát theo những làn điệu miền núi. Người nhập vai
ông Hoàng Bảy, một võ tướng có nét mặt oai vệ, có giọng nói cương nghị, múa
kiếm. Còn Ông Hoàng Mười, một ông quan lớn, hào hoa phong nhã, đĩnh đạc,

Nhóm 02

10


Cơ sở văn hóa Việt Nam
giọng nói sang sảng, thường mang theo bầu rượu túi thơ và múa với cây hèo thúc
ngựa...
g.

Nghệ thuật tạo hình và trang trí

Nghệ thuật tạo hình và trang trí tồn tại trong Lễ hội như một yếu tố tất yếu. Cờ
hội với năm sắc ngũ hành - năm màu tương ứng với năm yếu tố cơ bản của vũ trụ

theo quan niệm triết học cổ sơ, đặt cạnh nhau rất tương phản, gây sự chú ý. Các
loại kiệu sơn son thếp vàng lộng lẫy, chạm trổ tinh vi. Tượng gỗ với cách tạo hình
dân gian và truyền thống. Và, trong ngày hội làng, các đội tế với cách ăn mặc đặc
biệt, đã gây ấn tượng đối với người dự hội. Thực ra, trang phục của đội tế, từ chủ tế
đến các thành viên của đội, là sự mô phỏng sắc phục của quan lại khi lâm triều. Đó
cũng là yếu tố tâm lý hấp dẫn đối với những người trong đội tế. Dường như trong
trang phục đó, họ cảm thấy một vinh dự đặc biệt dành cho họ và họ được đứng ở
một vị trí khác hẳn ngày thường. Ở các Đền phủ, nghệ thuật trang trí đặc biệt được
coi trọng. Màu sắc và các đồ trang sức của người lên đồng chính là yếu tố quan
trọng để phân biệt các giá đồng. Nếu Cô Bé Thượng Ngàn chỉ dùng trang phục sắc
xanh (miền núi) với các loại trang sức như vòng bạc, hoa tai thường được đồng bào
các dân tộc thiểu số ưa dùng thì Ông Hoàng Mười, một vị quan văn hào hoa, phong
nhã, lại ăn mặc kiểu quan văn... Cách bài trí Điện thờ cũng đặc biệt. Khác với chùa
chiền thường trang trí giản dị, gợi cảnh thú nhàn, xa lánh thế tục, các đền phủ ưa
trang hoàng lộng lẫy, rực rỡ gần với cảnh lộng lẫy của các cung điện thế tục. Trong
điện thờ, các vị Thánh được thờ ở một vị trí riêng, vừa phù hợp với thứ bậc của họ
trong hệ thống Thần linh của Đạo Mẫu, vừa phù hợp với tính cách của các vị theo
quan niệm truyền thống.
h.

Nghệ thuật âm nhạc, ca hát và múa

Trong lễ hội có diễn ca, trống chiêng và múa. Có thể suy đoán, các điệu múa cờ,
múa chiêng, múa trống.
Âm nhạc, ca hát và múa không chỉ xuất hiện ở phần hội. Ngay ở phần lễ, các
loại nghệ thuật biểu diễn này đã có mặt như một yếu tố không thể thiếu được, và ở
một số lễ hội, các loại hình nghệ thuật này đã chiếm vai trò chủ đạo. Chẳng hạn, ở
huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, có một loại sinh hoạt ca hát đã trở thành ngày hội
làng. Đó là hội Dô, với loại hát Dô độc đáo. Với các quy định chặt chẽ về lề lối
sinh hoạt, hát Dô là một hình thức hát thờ, hát nghi lễ được tổ chức khá quy củ với


Nhóm 02

11


Cơ sở văn hóa Việt Nam
các làn điệu, bài bản phong phú. Loại hình hát nghi lễ còn khá phổ biến trên khắp
địa bàn vùng đồng bằng Bắc Bộ.
3. Giá trị của lễ hội truyền thống

Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nhưng lễ hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn phát triển mạnh mẽ. Phải
chăng, lễ hội cổ truyền vẫn thu hút và lôi cuốn con người trong xã hội hiện đại?
Nói cách khác, lễ hội cổ truyền vẫn đáp ứng nhu cầu của con người không chỉ
trong xã hội cổ truyền mà cả trong xã hội hiên đại. Có được điều đó là do lễ hội cổ
truyền hội tụ được những giá trị sau:


Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng. Lễ hội nào cũng là

của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, có thể đó là cộng đồng làng
xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa,
hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội đền Hùng-quốc tế) đến cộng đồng
nhỏ hẹp hơn, như gia tộc họ hàng…Chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh
của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự kết nối cộng đồng. Mỗi cộng đồng
hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như gắn kết trên
cùng một lãnh thổ, gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế, gắn kết bởi
nhu cầu và sự đồng cảm trong các hoạt đông sáng tạo và hưởng thụ văn hóa…
Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiên đại, con người ngày càng khẳng định “ cá

nhân”, “cá tính”của mình thì không vì thế cái cộng đồng bị phá vỡ mà nó chỉ
biến đổi các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng đồng,
có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên
giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố kết cộng đồng ấy.

Giá trị hướng về cội nguồn: Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về
nguồn. Đó là cội nguồn tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là
một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cồng đồng như dân tộc, đất nước, làng xóm, tổ
tiên, nguồn cội văn hóa… Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức
của con người Việt Nam “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”.
Chính vì thế lễ hội bao giờ cũng gắn với hành hương du lịch. Ngày nay trong
thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hóa toàn cầu hóa, con người bừng
tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường, với lịch
sử xa xưa, với truyền thống văn hóa dân tộc độc đáo đang bị mai một. Chính
trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có

Nhóm 02

12


Cơ sở văn hóa Việt Nam
nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình, hòa mình vào môi
trường thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng đồng và
bản sắc văn hóa của mình trong cái chung của văn hóa nhân loại. Chính nền văn
hóa truyền thống, trong đó có lẽ lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp
ứng nhu cầu bức xúc ấy.

Giá trị cân bằng đời sống tâm linh: Bên cạnh đời sống vật chất đời sống
tinh thần tư tưởng còn hiện hữu trong đời sống tâm linh. Đó là đời sống của con

người hướng về cái cao cả thiêng liêng-chân thiện mỹ-cái mà con người ngưỡng
mộ, ước vọng tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn
giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên không phải tất cả đời
sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng. Chính tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ lễ
hội góp phần làm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người, đó là
“cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống trần tục, hiện hữu.
Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường
như được “chương trình hóa” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và
đơn điệu, ồn ào trật trội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy
có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh một
đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi mở xô bồ… tất cả những cái
đó hạn chế khả năng hòa đồn g của con người, làm thui chột những khả năng
sáng tạo văn hóa mang tính đại chúng. Một đời sống như vậy không có “thời
điểm mạnh”, “cuộc sống thứ 2”, không có sự “bùng cháy” và “thăng hoa”. Trở
về với văn hóa dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được
tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hóa dân tộc, tận hưởng
những giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả
“chân thiện mỹ”, được sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng
đồng, con người có thể phô bày tất cả những gì là tinh túy đẹp đẽ nhất của bản
thân thông qua các cuộc thi tài, qua các hình thức diễn nghệ thuật,cách thức ăn
mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thường … Tất cả đó là trạng thái thăng hoa
từ đời sống hiện thực vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã
thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng
với cái trần tục của đời sống hiện thực.

Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa: Lễ hội là một hình thức sinh
hoạt tín ngưỡngvăn hóa cộng đồng của nhân dân ở nông thôn cũng như ở đô thị.

Nhóm 02


13


Cơ sở văn hóa Việt Nam
Trong các lễ hội đó nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện
các sinh hoạt văn hóa cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hóa và tâm linh,
do vậy lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc.
Đặc biệt trong “thời điểm mạnh” của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hòa
trong không khí linh thiêng, hứng khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá nhân
ngày thường dường như được xóa nhòa, con người cùng sáng tạo và hưởng thụ
những giá trị văn hóa của mình. Điều này có phần nào đối lập với đời sống
thường nhật của những xã hội phát triển, khi mà phân công lao động xã hội đã
được chuyên môn hóa, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của con người đã
phần nào tách biệt. Đấy là chưa kể trong xã hội nhất định một lớp người có đặc
quyền có tham vọng “cướp đoạt” các sáng tạo văn hóa cộng đồng để phục vụ
cho lợi ích riêng của mình. Đến những nhu cầu giao tiếp với thần linh của con
người cũng tập trung vào một lớp người có “khả năng đặc biệt”. Như vậy con
người, đứng từ góc độ quảng đại quần chúng, không còn thực sự là chủ thể của
quá trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa một cách bình đẳng như xưa.
Xu hướng đó phần nào xói mòn tinh thần nhân bản của văn hóa, làm tha hóa
chính bản thân con người. Do vậy con người trong xã hội hiện đại, cùng với xu
hướng dân chủ hóa về kinh tế xã hội thì cũng diễn ra quá trình dân chủ hóa về
văn hóa. Chính nền văn hóa truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là môi
trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị
văn hóa ấy.


Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa: Lễ hội không chỉ là tấm gương

phản chiếu nền văn hóa dân tộc mà còn là môi trường bảo tồn làm giàu và phát

huy nền văn hóa dân tộc ấy. Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc
nào cũng là ngày hội mà trong chu kì một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn
vất vả, lo âu để rồi “xuân thu nhị kì” “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”,
cuộc sống thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiến trống chiêng, người người tụ
hội nơi đình chùa mở hội. Nơi đó con người hóa thân thành văn hóa, văn hóa
làm biến đổi con người, “một bảo tàng sống” về văn hóa dân tộc được hồi sinh,
sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tự hỏi nếu như không có
nghi lễ và hội hè thì làm sao các làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan…, các
điệu múa xanh tiền, múa rồng múa lân…; các hình thức sân khấu chèo, rối

Nhóm 02

14


Cơ sở văn hóa Việt Nam
nước, cải lương…; các trò chơi trõ diễn: đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh
vật sẽ ra đời và duy trì như thế nào trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn năm qua.
Và như vậy thì dân tộc và văn hóa dân tộc sẽ đi đâu, về đâu, sẽ còn mất ra sao?
4.
Chức năng và vai trò của lễ hội truyền thống
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt cộng đồng được tổ chức theo phương pháp
cảnh diễn hóa (sân khấu hóa) với nhiều nội dung, hình thức phong phú nhằm vừa
tôn vinh những giá trị thiêng liêng, vừa thỏa mãn các nhu cầu văn hóa tinh thần của
con người và góp phần thắt chặt các quan hệ xã hội. Là một hình thức sinh hoạt văn
hóa tổng hợp, lễ hội được cấu thành bởi hai yếu tố lễ và hội, tương ứng với các
mặt: tinh thần, tôn giáo tín ngưỡng, linh thiêng là yếu tố lễ; vật chất, văn hóa-nghệ
thuật, đời thường là yếu tố hội, cả hai yếu tố gắn bó, hòa quyện với nhau không thể
bỏ đi một yếu tố nào mà không làm mất đi bản thân nó. Lễ và hội hướng con người
tới “cái thiêng” và gắn bó con người lại với nhau, có sức hấp dẫn lôi cuốn các tầng

lớp xã hội, trở thành một nhu cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thế kỷ.
Thứ nhất, lễ hội truyền thống thực hiện chức năng liên kết cộng đồng, dù dưới
hình thức nào lễ hội truyền thống vẫn là một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân, là
“cuộc vui chơi đông người” được tổ chức sau thời gian lao động, sản xuất hay nhân
dịp kỷ niệm một sự kiện xã hội quan trọng liên quan đến sự tồn tại của một cộng
đồng hoặc để quần chúng tìm đến một cái gì đó. Người đi hội không cảm thấy
mình là người ngoài cuộc, chính điều đó đã đem lại niềm an ủi, sự xúc động thật sự
và là nguồn động viên sâu sắc cho những thân phận nhỏ bé ngày thường trong xã
hội phong kiến xa xưa.
Thứ hai, lễ hội truyền thống có chức năng phản ánh, bảo lưu và truyền bá các
giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện ở sự ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống
đã qua (như lễ hội Đền Hùng, lễ hội Gióng…).
Thứ ba, lễ hội truyền thống còn thể hiện chức năng đáp ứng nhu cầu đời sống
tinh thần, tâm linh, giải quyết những khát khao, những ước mơ của cộng đồng các
dân tộc ở địa phương … Thông qua đó, lễ hội truyền thống tạo cho con người niềm
lạc quan yêu đời, yêu chân lý, trọng cái thiện và làm cho tâm hồn, nhân cách mỗi
con người như được sưởi ấm tình nhân đạo, nhân văn để rồi thẩm thấu vào cuộc
sống đời thường, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh về giao lưu,
làm cho đời sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.

Nhóm 02

15


Cơ sở văn hóa Việt Nam
Thứ tư, chức năng hưởng thụ và giải trí là chức năng cuối cùng của lễ hội
truyền thống. Đến với lễ hội truyền thống ngoài sự “hòa nhập” hết mình trong các
hoạt động của lễ hội, được “hóa thân” đóng một vai trong hội hay “nhập thân” vào
một trò chơi, tất cả mọi người đều được hưởng những lễ vật mà mình dâng cúng,

đều được tham gia vào các hoạt động vui chơi, giải trí trong quá trình tổ chức hoạt
động lễ hội. Trong lễ hội truyền thống, người dân không chỉ hưởng thụ mà còn là
người sáng tạo văn hóa, là chủ nhân thực sự trong đời sống văn hóa của chính bản
thân mình.
Hiện nay do phát huy tốt vai trò, chức năng nêu trên, các lễ hội truyền thống đã
tiếp tục thu hút được hàng vạn, thậm chí hàng chục vạn quần chúng nhân dân tham
gia, tạo nên một không khí náo nhiệt, hào hứng giữa đời sống lao động sản xuất của
nhân dân. Chiều sâu của tinh thần lễ hội truyền thống là bảo lưu cội nguồn, là thứ
vũ khí tư tưởng rất sắc bén cho mọi thời đại của mỗi dân tộc. Do đó, thực hiện tốt
các chức năng của lễ hội truyền thống là góp phần giáo dục truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc, làm lành mạnh, phong phú đời sống tinh thần của xã hội và
cũng để nhằm góp phần “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc” đề ra trong Nghị quyết lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII).
CHƯƠNG 2: GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG -LỄ HỘI ĐỀN HÙNG 10 – 3 ÂM LỊCH –
PHÚ THỌ
1. Nội Dung của lễ hội.
a. Lịch sử hình thành.

Lễ hội Đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương, là một lễ hội lớn mang tầm
vóc quốc gia ở Việt Nam, tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các
vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc .
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Câu ca dao đậm đà tình nghĩa ấy đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Hàng ngàn năm nay, Đền Hùng - nơi cội nguồn của dân

Nhóm 02


16


Cơ sở văn hóa Việt Nam
tộc, của đất nước luôn là biểu tượng tôn kính, linh nghiêm quy tụ và gắn bó với dân
tộc Việt Nam.
Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là Thủy Tổ
người Việt, cha mẹ của các Vua Hùng. Lễ hội diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3
âm lịch tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Từ xa xưa, lễ hội Đền Hùng đã có vị thế
đặc biệt trong tâm thức của người Việt Nam. Bản ngọc phả viết thời Trần, năm
1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng
dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng: “...Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý,
nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong
ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào
việc cúng tế vẫn không thay đổi...” Như vậy, có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về
trước các triều đại đều quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông
nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ ngày 10 tháng 3 âm lịch.
Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng, miễn đóng sưu, miễn đi phu đi
lính. Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 2 (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê
Trung Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày mùng Mười tháng Ba âm lịch hàng năm làm
ngày Quốc tế (Quốc lễ, Quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do
Tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940)
cũng đang đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, xác nhận: “Trước đây, ngày Quốc tế
lấy vào mùa thu làm định kỳ. Đến năm Khải Định thứ hai (dương lịch là năm
1917), Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có công văn xin bộ Lễ ấn định ngày
mồng Mười tháng Ba hằng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ tổ Hùng
Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày giỗ (11 tháng Ba) do dân sở tại làm lễ”.
Kể từ đây, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng 3 âm lịch hàng năm được chính
thức hóa bằng luật pháp. Sau cách mạng tháng Tám (1945) Đảng, Nhà nước ta rất

quan tâm tới Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà
nước đều về thăm viếng.
Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức “uống nước nhớ
nguồn”, ngay sau cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh của
Chủ Tịch nước số 22/SL - CTN ngày 18 tháng 2 năm 1946 cho công chức nghỉ
ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm để tham gia tổ chức các hoạt động Giỗ Tổ Hùng
Vương - hướng về cội nguồn dân tộc. Trong ngày Giỗ Tổ năm Bính Tuất (1946) -

Nhóm 02

17


Cơ sở văn hóa Việt Nam
năm đầu tiên của Chính phủ mới được thành lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền
Chủ tịch nước đã dâng 1 tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam và 1 thanh gươm quý nhằm
cáo với Tổ tiên về đất nước bị xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái
dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 2 lần về thăm Đền Hùng
(19/9/1954 và 19/8/1962). Tại đây Người đã có câu nói bất hủ: “Các Vua Hùng đã
có công dựng nước - Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Người còn nhắc:
“Phải chú ý bảo vệ, trồng thêm hoa, thêm cây cối để Đền Hùng ngày càng trang
nghiêm và đẹp đẽ, thành công viên lịch sử cho con cháu sau này đến tham quan”.
“Năm 1995, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã được Ban Bí thư ghi trong thông báo là
ngày lễ lớn trong năm. Ngành Văn hóa thông tin - thể thao phối hợp với các ngành
chức năng đã tổ chức lễ hội trong thời gian 10 ngày (từ 1/3 đến 10/3 âm lịch).
Tại Nghị định số 82/2001/NĐ-CP ngày 06/11/2001 về Nghi lễ Nhà nước, trong
đó có nội dung quy định cụ thể về quy mô tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương, cụ thể như
sau: - “Năm chẵn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “0”; Bộ Văn hoá Thông tin và Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức Lễ hội; mời đại diện lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và các đoàn thể dự Lễ dâng hương. - “Năm tròn” là số năm kỷ niệm có chữ số
cuối cùng là “5”; Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời đại diện lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể dự Lễ dâng hương. “Năm lẻ” là số năm kỷ niệm có các
chữ số cuối cùng còn lại. Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời lãnh
đạo Bộ Văn hoá - Thông tin dự lễ dâng hương và tổ chức các hoạt động trong lễ
hội. Ngày 02/4/2007, Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê
chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Luật Lao động cho người lao động được nghỉ
làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch). Kể từ
đây, ngày 10/3 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày lễ lớn - QUỐC LỄ mang ý
nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc. Trong ngày này, nhân dân cả nước có điều kiện để
tham gia vào các hoạt động văn hóa thể hiện lòng thành kính tri ân các Vua Hùng
đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân đã vì dân giữ nước.
Lễ hội đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương là một lễ hội lớn mang tầm vóc
quốc gia ở Việt Nam, tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua

Nhóm 02

18


Cơ sở văn hóa Việt Nam
Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc. Lễ hội diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm
lịch, tuy nhiên, lễ hội thực chất đã diễn ra từ hàng tuần trước đó với những phong
tục như đâm đuống (đánh trống đồng) của dân tộcMường, hành hương tưởng niệm
các vua Hùng, và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và dâng
hương trên đền Thượng. Lễ hội đền Hùng hiện được Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nâng lên thành giỗ quốc Tổ tổ chức lớn vào những năm chẵn.
Lễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam, và có một đặc
thù riêng là: Phần lễ nặng hơn phần hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng về tổ

tiên, cội nguồn với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Ẩm hà tư nguyên - Uống
nước nhớ nguồn).
b. Nội dung lễ hội:

Phần Lễ sẽ được tổ chức trang nghiêm, trọng thể và có sự tham gia tổ chức của
cộng đồng 41 làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ. Từ ngàn
xưa, trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát
bửu, lọng che cùng chiêng trống
Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới". "Xưa kia, việc cúng Tổ
(cử hành) vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về
làm giỗ trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch) ... Đến thời nhà Nguyễn
định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có
quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng
vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch)
Những năm hội chính thì phần lễ gồm: Tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ
của dân. Có 41 làng được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những
cuộc hành lễ thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp
vàng, chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ
với sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng,
trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Đám rước kiệu với màu sắc sặc sỡ của bạt
ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần
lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đám rước như một
con rồng uốn lượn trên những bậc đá dưới những tán lá cây để tới đỉnh núi Thiêng.
Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi
người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ

Nhóm 02

19



Cơ sở văn hóa Việt Nam
những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm
đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những
gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương.
Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đã trở
thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói
sáng của một nền văn hóa.
Từ trong ý thức tâm linh cả dân tộc luôn hướng về:
"Nước mở Văn Lang xưa
Dòng vua đầu viết sử
Mười tám đời nối nhau
Ba sông đẹp như vẽ Mộ cũ ở lưng đồi.
Đền thờ trên sườn núi Muôn dân đến phụng thờ
Khói hương còn mãi mãi"
Trong đó, Lễ giỗ Tổ Lạc Long Quân, Lễ dâng hương Tổ mẫu Âu Cơ vào ngày
27-3 (6-3 âm lịch) và Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng vào ngày 31-3 (103 âm lịch)

Sau phần lễ là đến phần hội. Ở lễ hội đền Hùng năm nào cũng tổ chức cuộc
thi kiệu của các làng xung quanh. Với sự xuất hiện của các đám rước linh đình mà
không khí lễ hội trở nên tưng bừng náo nhiệt hơn. Các cỗ kiệu của các làng phải tập
trung trước vài ngày thì mới kịp cuộc thi. Nếu như cỗ kiệu nào đoạt giải nhất của kỳ
thi năm nay, thì đến kỳ hội sang năm được thay mặt các cỗ kiệu còn lại, rước lên đền
Thượng để triều đình cử hành quốc lễ. Vì vậy, cỗ kiệu nào đoạt giải nhất thì đó là niềm

Nhóm 02

20



Cơ sở văn hóa Việt Nam
tự hào và vinh dự lớn lao của dân làng ấy. Bởi họ cho rằng, đã được các vua Hùng
cùng các vị thần linh phù hộ cho nhiều may mắn, nhân khang, vật thịnh... Tuy nhiên,
để có được đám rước các cỗ kiệu đẹp lộng lẫy phải chuẩn bị rất công phu và chu đáo
từ trước. Những khó khăn vất vả của dân làng đã thôi thúc họ vượt qua được để đến
với cái linh thiêng cao thượng và hướng về Tổ tiên giống nòi. Đó là đời sống tâm linh
của dân chúng, được biểu hiện rõ nét qua một hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng
dân gian cổ truyền mang tính cộng cảm với cộng mệnh sâu sắc. Sinh hoạt văn hóa dân
gian này đã thành nhu cầu không thể thiếu được đối với các cộng đồng làng xã cư trú
quanh đền Hùng.

Mỗi một đám rước kiệu có 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Chúng đều được sơn son
thiếp vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Sự bày biện trang trí trên cỗ kiệu cũng rất khéo léo
và đẹp mắt. Cỗ kiệu đi đầu bày hương hoa, đèn nhang, trầu cau, chóe nước và bầu
rượu. Cỗ kiệu thứ 2 có đặt hương án, bài vị của Thánh, có lọng và quạt cho với nhiều
sắc màu trang hoàng tôn nghiêm. Cỗ thứ 3 rước bánh chưng và bánh dày, 1 cái thủ lợn
luộc để nguyên, đi sau 3 cỗ kiệu này là các vị quan chức và bô lão trong làng. Các vị
chức sắc thì mặc áo thụng theo kiểu các bá quan triều đình, còn các cụ bô lão cũng
mặc áo thụng đỏ, hoặc mặc quần trắng, áo the, đầu đội khăn xếp. Trong hội đền Hùng,
nhân ngày giỗ Tổ có tiến hành nghi lễ hát thờ (tục gọi là hát Xoan). Đây là một lễ thức
rất quan trọng và độc đáo. Dân gian truyền rằng hát Xoan xưa kia gọi là hát Xuân và
điệu múa hát Xoan có từ thời Hùng Vương và được lưu truyền rộng rãi trong dân cư
của các làng xã quanh vùng. Điệu múa hát Xoan này được nhiều người ưa thích, đặc
biệt là bà Lan Xuân, vợ của vua Lý Thần Tông. Bà đã cảm nhận được âm hưởng dân
ca đặc biệt và độc đáo của nó, nên bà đã cho sưu tầm và cải biên thành điệu hát thờ tại
một số đền, đình làng thờ các vua Hùng.

Nhóm 02

21



Cơ sở văn hóa Việt Nam
Mở đầu, ông trùm phường Xoan Kim Đức - phường nổi tiếng - cùng chủ tế
đứng trước hương án hát chúc bằng bài khấn nguyện. Sau đó là một kép trẻ đeo trống
nhỏ trước ngực ra làm trò giáo trống, giáo pháo. Tiếp theo, bốn cô đao ra hát thơ
nhang và dâng hương bằng giọng hát lề lối. Rồi đến những bài ca ngợi thánh thần kết
thúc phần nghi lễ của Xoan.
Ở đền Hạ có hát ca trù (gọi là hát nhà tơ, hát ả đào) Đây cũng là loại hát thờ
trước cửa đinh, mừng dâng thành trong dịp hội làng, do phường hát Do Nghĩa trình
diễn.
Ngoài sân đền Hạ, ở nơi thoáng đãng có đu tiên. Mỗi bàn đu có hai cô tiên (cô
gái Mường trẻ mặc đẹp) ngồi. Đu quay được là do các cô luân phiên lấy chân đạp đất.
Đu tiên là trò chơi đẹp mắt, nhịp nhàng của phụ nữ. Xung quanh khu vực dưới chân
núi Hùng là các trò diễn và trò chơi dân gian cổ truyền, diễn ra rất sôi động, được
nhiều người tham dự như trò chơi ném côn, chơi đu, đầu vật, chọi gà ,... Những trò
đánh cờ người và tổ tôm điếm được các cụ cao niên tâm đắc. Còn các đám trai gái tụm
năm, tụm ba trên các đồi đó trổ tài hát ví, hát trống quân hoặc hát đối đáp giao
duyên…Tối đến có tổ chức hát chèo, hát tuồng ở các bãi rộng ngay cửa đền Hạ hoặc
đền Giếng…
Lễ hội Đền Hùng là phong tục đẹp trong truyền thống của người dân đất Việt.
Và từ rất lâu đời trong tâm thức dân gian, vùng đất Tổ đã trở thành "Thánh địa linh
thiêng” của cả nước, nơi phát nguyên nguồn gốc dân tộc. Trải qua bao thời đại lịch sử
tuy có lúc thịnh, lúc suy nhưng lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức. Điều này đã thể
hiện rõ bản lĩnh phi thường và nền văn hiến rực rỡ, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Người dân hành hương về đất Tổ không hề có sự phân biệt tôn giáo, chỉ cần là người
Việt Nam thì trong tâm khảm họ đều có quyền tự hào là con cháu muôn đời của vua
Hùng. Bởi vậy, hễ ai là người Việt Nam nếu có sẵn tâm thành và lòng ham muốn hành
hương về đất Tổ thì tự mình có thể thực hiện ước nguyện chính đáng đó một cách dễ
dàng và thuận tiện.

Hội đền Hùng hay giỗ tổ Hùng Vương là ngày hội quần tụ, ca ngợi sự hưng
thịnh của nòi giống, là biểu tượng của tinh thần cộng đồng. Người đến hội mang theo
lòng ngưỡng mộ sâu đậm về quê cha đất tổ, một tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm thức
người Việt Nam cho dù họ sống ở bất cứ phương trời nào.
2. Ý nghĩa của lễ hội Đền Hùng

Nhóm 02

22


Cơ sở văn hóa Việt Nam
Lễ hội Đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương, là một lễ hội lớn mang tầm vóc
quốc gia ở Việt Nam, tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua
Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc.
a. Đối với kinh tế

Nhà nước và nhân dân ta từ đời Lê đến đời Nguyễn luôn luôn quan tâm đến
việc tu sửa, tôn tạo Khu Di tích Lịch sử Đền Hùng và tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương và
lễ hội Đền Hùng vào dịp mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm. Ngoài việc miễn thuế
cho dân Hy Cương để dùng tiền thuế vào việc đèn nhang, sắm lễ vật thờ cúng, nhà
nước Phong kiến Việt Nam còn chú ý đến việc tổ chức giỗ Tổ và lễ hội Đền Hùng
hàng năm. Nhất là khi nhà Nguyễn lên trị vì đất nước (thế kỷ XVIII) năm Minh mạng
thứ 4 (1823) đã cho xây Miếu Lịch Đai Đế Vương mở địa phận xã Phú Xuân về phía
Nam kinh thành (nay là xóm Lịch Đợi, phường Phường Đúc, thành phố Huế). Miếu
thờ các vị minh quân tiêu biểu và những danh tiếng của Việt Nam – Trung Hoa, trong
đó có thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương. Các vua nhà Nguyễn
theo thông lệ cứ 5 năm (vào những năm chẵn 5, chẵn 10), Nhà nước đứng ra tổ chức lễ
hội giỗ Tổ, những năm lẻ do địa phương đăng cai tổ chức. Diễn trường trung tâm của
lễ hội là núi Hùng và xung quanh dưới chân núi Hùng. Tới năm Khải Định thứ hai

(1917), quan tuần phủ Lê Trung Ngọc trình bộ Lễ ấn định ngày Quốc lễ vào ngày
mùng 10 tháng 3 âm lịch (trước ngày huý của Vua Hùng một ngày), ngày 11 tháng 3
âm lịch để dân sở tại làm lễ. Thời gian tổ chức lễ hội thường bắt đầu từ ngày mùng 8
đến ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch.
-Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng, mà tìm vào những dòng
lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển từng đến
thăm viếng Đền Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng và các di
tích trên Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc
của chúng ta. Nhiều dòng lưu bút thừa nhận. "Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch
sử Việt Nam... Đền Hùng là một di tích vô giá của nhân dân Việt Nam. Đây là biểu
tượng của tổ tiên dân tộc Việt Nam - một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ
nước hàng nghìn năm".
Cùng với hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương, như mọi năm thì lần đầu tiên chương trình
"Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam năm 2007" được kết hợp và được coi là
cơ hội để quảng bá du lịch.

Nhóm 02

23


Cơ sở văn hóa Việt Nam
Cũng chính sự đa dạng và sắc thái văn hóa tộc người ấy sẽ có vai trò không nhỏ
trong việc phát triển kinh tế nếu biết biến lễ hội này thành các sản phẩm văn hóa để có
thể thu được lợi nhuận, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế của địa phương và
đất nước. Điều này thể hiện rõ nhất ở các sản phẩm du lịch văn hóa đang là một hoạt
động đắt khách nhất của ngành du lịch trên khắp thế giới.
Lễ hội đền Hùng cũng là cơ hội để nâng cao và cải thiện đời sống của người
dân địa phương. Nhà nước chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cải thiện tu bổ
khu di tích,….mang lại một cuộc sống tốt hơn cho người dân. Họ có thể nâng cao thu

nhập của mình nhờ vào lễ hội này.
Gắn lễ hội với quảng bá du lịch
Cùng với việc bảo vệ, gìn giữ các lễ hội truyền thống của mình, mục tiêu của
chương trình về nguồn lần này được tỉnh Phú Thọ nhắm đến là gắn các hoạt động lễ
hội với quảng bá, giới thiệu sản phẩm du lịch. Việc quảng bá du lịch sẽ gắn với nhân
dân, du lịch sinh thái, du lịch nhà vườn. Bên cạnh đó sẽ phối kết hợp với các tỉnh lân
cận để hình thành các tour du lịch, đặc biệt nhấn mạnh đến lợi thế của Phú Thọ là du
lịch tâm linh. Từ trước đến nay, khách tham quan đến với Phú Thọ là để tham gia Lễ
hội Đền Hùng với ý nghĩa là hướng về cội nguồn, chứ chưa thực chất là đến để du lịch,
thư giãn nghỉ ngơi. Phú Thọ chưa có những sản phẩm truyền thống mang đặc trưng
của vùng đất Tổ, cơ sở vật chất phục vụ khách du lịch vẫn còn thiếu...
b. Đối với xã hội

Lễ hội diễn ra trong 5 ngày, từ ngày mùng 6 - 10/3 âm lịch (tức là từ ngày 1216/4/2016), trong phạm vi Khu di tích lịch sử Đền Hùng, thành phố Việt Trì và các xã,
phường vùng ven Đền Hùng; các di tích thờ Hùng Vương và các danh nhân, danh
tướng thời Hùng Vương trên địa bàn toàn tỉnh, trong đó các hoạt động chính chủ yếu
diễn ra là ở Khu di tích lịch sử Đền Hùng và thành phố Việt Trì (Phú Thọ).
Ngoài các nghi lễ truyền thống, Lễ hội Đền Hùng năm 2016 còn có nhiều hoạt
động văn hóa, nghệ thuật đặc sắc, nhằm giới thiệu, quảng bá giá trị các di sản phi vật
thể đã được UNESCO vinh danh.
Với mong muốn khơi dậy những giá trị cội nguồn, sức mạnh của tình đoàn kết
của người dân Việt Nam, điểm nhấn quan trọng xuyên suốt trong Lễ hội Đền Hùng
chính là việc tôn vinh các giá trị văn hóa thời đại Hùng Vương. Một chương trình nghệ
thuật đặc sắc với chủ đề “Về miền quê di sản” diễn ra tại Quảng trường Hùng Vương,

Nhóm 02

24



Cơ sở văn hóa Việt Nam
thành phố Việt Trì, đã giới thiệu, quảng bá hình ảnh, thiên nhiên, đất nước, con người
và bản sắc văn hóa của tỉnh Phú Thọ - miền đất có 2 di sản văn hóa phi vật thể được
UNESCO vinh danh, đó là “Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” và “Hát
Xoan Phú Thọ”. Liên hoan hát xoan thanh thiếu nhi lần thứ nhất năm 2014, một trong
những hoạt động văn hóa mở đầu cho các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền
Hùng năm 2014, với sự tham gia của trên 40 diễn viên từ 6 - 18 tuổi, đến từ 4 phường
xoan gốc ở thành phố Việt Trì là: An Thái, Kim Đức, Phù Đức và Thét. Liên hoan
nhằm tôn vinh các di sản văn hóa đặc sắc của đất Tổ, giáo dục tình yêu nước, nhớ ơn
Vua Hùng đã có công dựng nước…
Vùng đất của những lễ hội
Điểm nhấn của chương trình "Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam
2007" sẽ được mở đầu bằng lễ hội "Những tháng lễ hội về miền đất Tổ Hùng Vương,
bắt đầu bằng Lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ (ngày 6-7 tháng Giêng năm Đinh Hợi), kết thúc
bằng Lễ hội Đền Hùng (ngày 10 tháng 3 năm Đinh Hợi).
Trong "Những tháng lễ hội về miền đất Tổ Hùng Vương", ở các huyện, thành
thị sẽ diễn ra các lễ hội truyền thống tiêu biểu như: Hội phết Hiền Quan (Tam Nông),
Hội Trò Trám (xã Tứ Xã, Lâm Thao), Lễ hội rước voi Đào Xá (Thanh Thủy), Lễ hội
đình làng Thổ Khối, đình Cả xã Phương Xá (Cẩm Khê), Hội làng Hùng Lô (Phù
Ninh), Lễ hội dân tộc Cao Lan (xã Ngọc Quan, Đoan Hùng) ...
Trước ngày diễn ra khai mạc, nhiều hoạt động như: Hội chợ hàng thủ công mỹ
nghệ truyền thống Việt Nam; Triển lãm mỹ thuật dân gian truyền thống vùng đất Tổ;
Hội báo xuân đất Tổ và các loại hình dân ca truyền thống như: hát xoan, hát ghẹo, ca
trù, chèo cổ... sẽ được tổ chức; trên địa bàn các xã, phường có các trò chơi dân gian:
Rước kiệu, múa lân, sư tử, thi giã bánh dày... Chương trình được kéo dài tới hai tháng.
Không gian lễ hội là không gian mở. Phần lễ và phần hội không chỉ diễn ra ở thành
phố trung tâm Việt Trì mà được "phân bổ" xuống tận huyện, xã với nhiều trò chơi dân
gian truyền thống mang bản sắc riêng của từng địa phương. Vì thế, không chỉ khách
tham quan được thưởng thức mà chính người dân vừa là chủ nhân vừa là người trực
tiếp tham gia vào lễ hội.

Việc tổ chức liên hoan cũng góp phần thực hiện cam kết chương trình hành
động của tỉnh Phú Thọ với tổ chức UNESCO về bảo tồn và phát huy giá trị hát xoan,
từng bước đưa hát xoan Phú Thọ ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp và trở thành di

Nhóm 02

25


×