Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ty CP Đầu tư và phát triển Đô thị Long Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.32 KB, 53 trang )

TÓM LƯỢC
Trước thềm hội nhập của nền kinh tế mới Việt Nam đã và đang thực hiện phát
triển mạnh mẽ mô hình kinh tế hàng hóa, theo đó hầu hết các quan hệ kinh tế được
thực hiện trên thị trường dưới hình thái hàng hóa và dịch vụ, vận động theo cơ chế thị
trường dưới sự quản lí của Nhà nước. Các hoạt động mua bán, trao đổi, chuyển giao
hàng hóa, dịch vụ trong và ngoài nước ngày càng diễn ra sôi nổi làm gia tăng số lượng
và chất lượng giao dịch hợp đồng. Bởi vậy, để thúc đẩy nền kinh tế theo định hướng
cạnh tranh lành mạnh, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các bên đặc biệt là nghĩa vụ
của người bán cần có một môi trường pháp lý ổn định, đảm bảo an toàn pháp lý và lợi
ích của các bên chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng. Xuất phát từ cơ sở lý luận
cũng như quá trình thực tập tại Công ty CP Đầu tư và phát triển Đô thị Long Giang, tôi
đã đúc rút nhiều kiến thức thực tế và có cái nhìn chi tiết hơn về hệ thống các quy phạm
pháp luật về mua bán hàng hóa nói chung và pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người
bán nói riêng trong đề tài khóa luận: “Pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán
trong hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ty CP Đầu tư và
phát triển Đô thị Long Giang”.
Bài khóa luận với nội dung ba chương được tóm lược như sau: Chương 1 là
những lý luận chung về pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa. Chương này đã tiếp cận đến khái niệm, đặc điểm, nội dung cơ bản,
vai trò cũng như các nguồn luật điều chỉnh của hợp đồng mua bán hàng hóa và đặc
biệt chú trọng tìm hiểu nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Từ
những lý luận chung đó mà khóa luận đã có những phân tích sâu sắc về thực trạng
pháp luật và áp dụng thực tiễn tại Chương 2. Qua đó, ở Chương 2 khóa luận đã phần
nào giải đáp những khó khăn, thử thách, có những đánh giá đa chiều về các quy định
hiện hành điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong các hợp đồng mua bán hàng hóa.
Đồng thời, tìm ra những hạn chế trong những quy định pháp luật và thực tiễn tại Công
ty CP Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang. Ở chương 3, bài khóa luận đã đề xuất
các định hướng hoàn thiện pháp luật đồng thời đưa ra các kiến nghị và giải pháp hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa
cho Quý Công ty nói riêng và cho hệ thống pháp luật nhà nước nói chung.
Với những lý luận và phân tich cụ thể hy vọng bài khóa luận sẽ mang lại cái nhìn


tổng quan hơn về hệ thống các quy phạm pháp luật về nghĩa vụ của người bán trong
hợp đồng mua bán hàng hóa cho các doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời có định
hướng xây dựng hành lang pháp lý bền vững và thông thoáng trước ngưỡng cửa hội
nhập kinh tế như hiện nay.
1

1


LỜI CẢM ƠN
Theo định hướng kế hoạch và sự phân công công tác của Khoa Kinh tế Luật,
trường Đại học Thương Mại, em đã hoàn thành tốt việc nghiên cứu và thực hiện khóa
luận với đề tài:“Pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán
hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ty CP Đầu tư và phát triển Đô thị Long
Giang”.
Để có được kết quả như vậy, em xin chân thành cảm ơn Quý thầy, cô bộ môn đã
nhiệt huyết trang bị những kiến thức pháp luật nền tảng để em có những nhận thức
chuyên môn và có cái nhìn tổng quan hệ thống pháp luật nước nhà, qua đó biết vận
dụng linh hoạt vào thực tiễn cũng như quá trình nghiên cứu làm khóa luận của mình.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giáo viên, Th.S Nguyễn Thị Nguyệt –
người đã đồng hành, hỗ trợ và hướng dẫn tận tình em trong thời gian thực hiện khóa
luận.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các phòng Kế toán, phòng
Nhân sự và toàn thể nhân viên tại Quý Công ty CP Đầu tư và Phát triển Đô thị Long
Giang đã cho em cơ hội được làm quen và tiếp cận công việc cũng như luôn sẵn sàng
cung cấp, bổ sung thông tin, số liệu giúp em hoàn thành tốt bài khóa luận.
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, do kinh nghiệm thực tiễn cũng như thời
gian thực tập còn hạn chế nên bài khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong nhận được sự đóng góp của Quý thầy cô trong Khoa để bài khóa luận của em
được hoàn thiện hơn nữa để góp phần tạo tiếng nói trong việc xây dựng và đổi mới cơ

chế pháp luật cho Quý Công ty CP Đầu tư và phát triển Đô thị Long Giang.
Em xin chân thành cảm ơn!

2

2


MỤC LỤC

3

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BĐS

: Bất động sản

CP

: Cổ phần

CISG

: Công ước viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế

DT


: Diện tích

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

TPP

: Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới

4


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua nhiều giai đoạn cải cách kinh tế mạnh mẽ trong hơn hai thập kỷ đổi mới vừa
qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả đáng kể. Việt Nam đã tạo ra được một
môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động. Nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy
động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối
ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển thêm
một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn. Theo đó, tổng sản
phẩm trong nước (GDP) quý I/2016 ước tính tăng 5,46% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,72%, đóng góp 2,33 điểm phần trăm

vào tăng trưởng chung; khu vực dịch vụ tăng 6,13%, đóng góp 2,48 điểm phần trăm;
riêng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 1,23%, làm giảm 0,16 điểm phần
trăm mức tăng trưởng chung. Tăng trưởng quý I năm nay cao hơn mức tăng của quý I
các năm 2012-2014, nhưng có dấu hiệu chững lại so với mức tăng 6,12% của cùng kỳ
năm 2015 [1]. Mặt khác, dòng tiền chảy vào Việt Nam mạnh khiến nhu cầu tiêu dùng,
xây dựng tăng cao, gây bùng nổ thị trường chứng khoán và đặc biệt thị trường BĐS
thời gian gần đây. Năm 2015 ước tính khoảng 18.000 giao dịch BĐS thành công.
Trong đó, 6 tháng đầu năm tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, lượng giao dịch thành
công đều tăng gấp 2,5 lần lượng giao dịch so với cùng kỳ năm 2014[2].
Hiện nay, Việt Nam đang ở trước thềm xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nói chung
và TPP nói riêng, nền kinh tế nước ta đã và đang có dấu hiệu phục hồi tương đối rõ
nét, triển vọng 2016 tiếp tục có tiến bộ, giữ được ổn định kinh tế vĩ mô ngắn hạn.
Cùng với sự lớn mạnh của nền kinh tế trước ngưỡng cửa hội nhập hiện nay thì nhu cầu
trao đổi, mua bán hàng hóa giữa các thương nhân ngày càng gia tăng và ngày càng có
sức lan tỏa mạnh mẽ. Bởi vậy, từ công đoạn thỏa thuận cho đến khi giao kết và tất cả
những vấn đề phát sinh từ các giao dịch mua bán hàng hòa sẽ được kiểm soát tốt nhất
bằng các hợp đồng mua bán đầy đủ, hợp lý và có sự rà soát kỹ lưỡng các quy định của
pháp luật.
Thực tế, trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa còn tồn tại khá
nhiều bất cập. Những quy định về nghĩa vụ của người bán còn chưa rõ ràng dẫn đến
tình trạng lợi dụng, gian lận, khả năng thực hiện của hợp đồng không cao gây thất
1[] Nguồn: Tổng cục thống kê, tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2016.
2[] Nguồn: Trích bài:“báo cáo thị trường bất động sản 6 tháng đầu năm 2015”, ngày 16/7/2015

5


thoát cho doanh nghiệp. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh BĐS, mặc dù đây còn là
lĩnh vực khá non trẻ nhưng có vị trí chiến lược quan trọng đối với nền kinh tế quốc
dân. Theo đó, để hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh doanh BĐS Nhà nước đã xây dựng

và hoàn thiện khung pháp luật về kinh doanh BĐS nhằm hạn chế rủi ro và tăng khả
năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng ngành, trong đó chú trọng những quy
định về nghĩa vụ của người bán trong tất cả các hợp đồng mua bán hàng hóa.
Đồng thời, xuất phát từ thời gian được thực tập tại Công ty CP Đầu tư và Phát
triển Đô thị Long Giang tôi thấy hàng năm Công ty kí kết rất nhiều dự án đấu thầu
trong lĩnh vực BĐS, phát sinh nhiều hợp đồng mua bán nguyên vật liệu xây dựng,
nhiều hợp đồng kí kết mua – bán, chuyển giao dự án…Nhận thức vấn đề pháp luật
trong hợp đồng mua bán hàng hóa là điều tất yếu và để có cái nhìn tổng quan về khung
pháp lí quy định nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa từ góc
nhìn của một doanh nghiệp cụ thể, để có những phân tích, cập nhật rõ nét những biến
chuyển trong hoạt động mua bán trước ngưỡng cửa kinh tế hội nhập, giải đáp những
vấn đề nóng, bức xúc về quyền của người bán em đã mạnh dạn nghiên cứu sâu hơn và
đề xuất những kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật cho Công ty
CP Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan

Những năm qua có nhiều tác phẩm như bài báo, bài tham luận, luận văn,
luận án, chuyên đề đề cập đến pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán
trong hợp đồng mua bán hàng hóa, nghiên cứu về thuộc tính, bất cập trong
những quy định về nghĩa vụ của người bán, thực trạng và đề xuất các kiến nghị
giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật điều chỉnh
ngĩa vụ của người bán nói riêng. Một số tác phẩm đề cập đến đề tài cần được
quan tâm như:
Lại Cẩm Linh (2014), Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt
Nam hiện nay, bài nghiên cứu khoa học, trường Đại học Luật Hà Nội. Bài viết
đã đi sâu phân tích các chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa gồm:
những khái quát chung về hợp đồng, ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, những
lý luận về chế độ thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp. Bài viết cũng có những phân tích
khách quan về thực tiễn pháp luật về hợp đồng mua bán hiện nay và có sự vận

dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, bài nghiên cứu chỉ dừng lại phân tích lý luận mà
chưa đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm hoàn thiện pháp luật, đồng thời cũng
6


chưa nêu được những bất cập pháp luật về nghĩa vụ của người bán trong các hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Nguyễn Như Phát, Lê Thị Thu Thủy (2003), Một số lý luận và thực tiễn về
pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay, NXB Công an nhân dân. Tác phẩm đã
có những nhận xét, bình luận về vấn đề hợp đồng nói chung, nghiên cứu về miễn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng nhưng mới chỉ dừng lại ở
khía cạnh nghiên cứu tổng thể, khái quát, chưa đi sâu vào nghiên cứu tất cả
nghĩa vụ của người bán trong các loại hợp đồng, từ đó chưa đề cập đến thực
trạng pháp luật hiện hành về nghĩa vụ của người bán, đồng thời các phương
hướng hoàn thiện pháp luật chưa có tính mới trước ngưỡng cửa hội nhập nền
kinh tế thị trường của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh nói
riêng.
Đinh Văn Trường (2015), Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng thi công
xây dựng công trình, luận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.
Luận văn đã tập trung nghiên cứu đặc trưng, những vi phạm hợp đồng thi công
xây dựng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, nghiên cứu sâu pháp luật thực định
về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thi công xây dựng công trình và thực tiễn
áp dụng. Tuy nhiên, bài luận văn chưa đi sâu vào những bất cật của pháp luật
cũng như thực trạng thực thi về nghĩa vụ của người bán, đồng thời những giải
pháp và định hướng hoàn thiện pháp luật còn chưa đáp ứng được sự đổi mới
cũng như cơ chế phát triển của nền kinh tế hiện nay.
Các công trình nghiên cứu đã có những thành công nhất định, góp phần làm rõ
thêm vấn đề lý luận và thực tiễn khi áp dụng pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người
bán. Song, bên cạnh đó nhiều đề tài nghiên cứu các tác giả chỉ xem xét những khía
cạnh riêng biệt, mang tính tạm thời như điều kiện áp dụng, tính ưu việt, nguyên tắc,

nội dung…nghĩa vụ của người bán mà chưa phân tích đầy đủ, toàn diện để giải quyết
được căn bản những hạn chế, vướng mắc. Một số công trình nghiên cứu còn chưa bắt
kịp sự sửa đổi, bổ sung mới đây của pháp luật hiện hành. Vì vậy, pháp luật về nghĩa vụ
của người bán cần được quan tâm, nghiên cứu sâu hơn nữa ở thời điểm hiện nay.
Theo đó, việc nghiên cứu pháp luật về nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa là cần thiết. Đề tài này tập trung vào khía cạnh pháp luật về quyền
nghĩa vụ của người bán và tập trung phân tích thực trạng tại doanh nghiệp cụ thể Công ty CP Đô thị và Phát triển Đô thị Long Giang, điều mà doanh nghiệp cần chú
trọng quan tâm không chỉ nhằm bảo về quyền lợi cho mình mà còn cho chính những
7


bạn hàng của họ. Bên cạnh thực trạng pháp luật về nghĩa vụ của người bán trong hợp
đồng mua bán hàng hóa, đề tài còn đưa ra thực tiễn thi hành pháp luật về nghĩa vụ của
người bán, làm rõ những bất cập của pháp luật hiện hành và đưa ra những kiến nghị,
giải pháp cho bất cập đó. Đồng thời qua đó cũng góp phần xây dựng khung pháp lí cho
phía Công ty CP Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Kinh tế Việt Nam đang trên đà đổi mới toàn diện, các mối quan hệ hợp tác kinh
doanh không ngừng gia tăng. Đứng trước ngưỡng cửa hội nhập của nền kinh tế và sự
phát triển của giao lưu mua bán hàng hóa, vấn đề về hợp đồng mua bán hàng hóa ngày
càng trở nên quan trọng. Việc hoàn thiện những quy định về nghĩa vụ của người bán
cần được chú trọng nhằm nâng cao trách nhiệm của người bán cũng như bảo vệ quyền
lợi của người mua khi thực hiện hợp đồng.
Nhận thức được tính cấp thiết của đề tài, có thể thấy việc phân tich và đánh giá các
vấn đề liên quan đến nghĩa vụ của người bán trong các hợp đồng mua bán hàng hóa có
vai trò quan trọng trong việc cân bằng hệ thống pháp luật về mua bán hàng hóa. Đồng
thời, thông qua việc tiếp cận các tài nghiên cứu trước đó cùng với thời gian thực tập tại
Công ty CP Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang và sự hướng dẫn tận tình của
giảng viên Th.S Nguyễn Thị Nguyệt, em đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật điều chỉnh
nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại

Công ty CP Đầu tư và phát triển Đô thị Long Giang”.
Trước hết, đề tài chỉ ra được những khái niệm, đặc điểm, nội dung nền tảng về
nghĩa vụ của người bán, đồng thời đi sâu nghiên cứu những quy định pháp luật hiện
hành, có những phân tích, đánh giá cụ thể hạn chế còn tồn tại trong hệ thống các quy
định pháp luật và thực trạng thực thi nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán
hàng hóa. Đặc biệt, đề tài chú trọng phân tích trong phạm vi doanh nghiệp với lĩnh vực
kinh doanh bất động sản, nghiên cứu nghĩa vụ của người bán và thực tế tại Công ty CP
Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang, Trên tinh thần đó, bài khoá luận đã nêu định
hướng sửa đổi và đề xuất nhiều giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa cho Nhà nước cũng như
cho phía Công ty CP Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu:
Các quy định của pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ty CP Đầu tư và Phát triển Long
Giang .
8


 Mục tiêu nghiên cứu:
-Tìm hiểu những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa, nghĩa vụ của
người bán và pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán
hàng hóa theo hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay đồng thời có sự so sánh, nhìn
nhận với pháp luật và những quy định chung của quốc tế.
- Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật điều
chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa Việt Nam nói chung
và đặc biệt nghiên cứu sâu tại Công ty CP Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang.
- Nêu định hướng, quan điểm, nhóm giải pháp phù hợp nhằm giảm thiểu, khắc
phục những bất cập trong thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật điều
chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty CP Đầu

tư và Phát triển Đô thị Long Giang.
 Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu: Pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ty CP Đầu tư và phát triển Đô thị
Long Giang (bao gồm các vấn đề lý luận, pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán
trong hợp đồng mua bán hàng hóa, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
tại Công ty CP Đầu tư và phát triển Đô thị Long Giang, cùng một số đề xuất kiến nghị,
giải pháp).
Không gian nghiên cứu: Công ty CP Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang nói
riêng cũng như các cơ sở kinh doanh khác, các tổ chức, cá nhân nói chung…đóng vai
trò là người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2013 đến năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập nguồn dữ liệu thứ cấp thông qua các số liệu thống kê hàng tháng từ
phòng kinh doanh và phát triển, phòng marketing, phòng tài chính…của Công ty. Đây
là nguồn thông tin nội bộ được quản lí và cung cấp một cách chính xác nhất giá trị của
từng hợp đồng, những quy định chuẩn mực, rõ ràng qua từng điều khoản, quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng khi Công ty thực hiện giao dịch.
Bên cạnh đó bài nghiên cứu còn sử dụng một số dữ liệu sơ cấp thu thập được bằng
nhiều cách khác nhau như quan sát, điều tra.
 Phương pháp xử lý thông tin

9


Với dữ liệu đã thu thập được, để nghiên cứu khái quát các nội dung về lý luận và
thực tiễn bài nghiên cứu đã vận dụng linh hoạt các phương pháp duy vật lịch sử, biện
chứng, so sánh và phân tích để có sự nhìn nhận trên nhiều phương diện pháp luật. Cụ
thể:

- Phương pháp duy vật lịch sử: Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của hợp
đồng mua bán hàng hóa. Theo đó, nghiên cứu trên phương diện nghĩa vụ của người
mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Phương pháp biện chứng: Nghiên cứu pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
nói chung và những quy định về nghĩa vụ của người bán nói riêng trong sự thay đổi
không ngừng của nó qua những lần sửa đổi, bổ sung của hệ thống pháp luật.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Không chỉ nghiên cứu pháp luật điều chỉnh
nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty CP Đầu tư và
Phát triển Đô thị Long Giang, đề tài còn đối chiếu và so sánh pháp luật điều chỉnh
nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hiện nay với chính nó thời gian
trước lần sửa đổi bổ sung gần đây nhất tại các văn bản pháp luật như Công ước viên
1980, Luật Dân sự hay Luật thương mại. Đồng thời, để có cái nhìn tổng quan về hệ
thống các quy phạm pháp luật, đề tài còn so sánh với một số văn bản pháp luật các
nước Nga, Pháp để có những phân tích khách quan và rút ra những bài học kinh
nghiệm nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam và khung pháp lý chung cho các doanh
nghiệp trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Với những phân tích, đánh giá được đúc kết từ
việc sử dụng các phương pháp trên cùng với những kiến thức đã học đề tài đã đưa ra
những quan điểm, định hướng cá nhân và đề xuất những kiến nghị nhằm xây dựng và
phát triển những quy định về nghĩa vụ của bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa tại
Công ty CP Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang nói riêng và hành lang pháp lí nói
chung.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Đề tài khóa luận bao gồm 3 phần chính: mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó,
kết cấu phần nội dung của bài gồm 3 chương:
Chương 1: Pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán
hàng hóa
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh nghĩa
vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty CP Đầu tư và Phát
triển đô thị Long Giang

10


Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ
của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VÊ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÁN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Những lý luận cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa và nghĩa vụ điều chỉnh
của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1. Những lý luận cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa
Ở Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa được ra đời cùng với sự chuyển đổi của
nền kinh tế. Xuất phát điểm từ một nền kinh tế nhiều thành phần phát triển bình đẳng
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên trong chặng đường xây dựng, thực hiện và phát
triển kế hoạch mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của mình thì các đơn vị kinh tế thuộc
mọi thành phần kinh tế khác nhau đều phải dựa vào các quan hệ hợp đồng mua bán
hàng hóa. Theo đó, hợp đồng mua bán được hình thành rất lâu đời, có vai trò tất yếu
và luôn song hành với bất kì doanh nghiệp nào trên trường kinh doanh trước ngưỡng
cửa hội nhập.
Như C.Mac từng viết: “Tự chúng hàng hóa không thể đi tới thị trường và trao đổi
với nhau được. Muốn cho những vật đó quan hệ với nhau như những hàng hóa thì
người giữ hàng hóa phải đối xử với nhau như những người mà trong ý chí nằm trong
các vật đó, mối quan hệ đó” [3]. Theo đó, mối quan hệ kinh tế giữa những người giữa
hàng hóa được thiết lập trên cơ sở tự do, ý chí giữa các chủ thể trong quan hệ trao đổi
sản phẩm hàng hóa. Dưới sự tác động điều chỉnh của pháp luật thì mối quan hệ trên trở
thành một hợp đồng giao kết hàng hóa. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về hợp đồng.
Theo từ điển Tiếng Việt, hợp đồng là một sự giao dịch mà trong đó các bên tự trao đổi
ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa

vụ nhất định. Theo phương diện kinh tế, hợp đồng thường gắn liền với dự án, trong đó
một bên thỏa thuận với các bên khác thực hiện dự án hay một phần dự án cho mình.
Và cũng giống như dự án, có dự án chính trị xã hội và dự án sản xuất kinh doanh, hợp
đồng có thể là các thỏa ước dân sự về kinh tế (hợp đồng kinh tế) hay xã hội. Theo
phương diện pháp lí, hợp đồng là một cam kết giữa hai hay nhiều bên (pháp nhân), là
3]] Nguồn: Trích giáo trinh kinh tế học chính trị Mac- Lenin

11


sự thỏa thuận giữa các bên trong khuôn khổ pháp luật về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Trong kinh tế chính trị Mac-Lenin, hàng hóa cũng được định nghĩa là sản phẩm
của lao động thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể là hữu hình hay ở dạng vô
hình như sức lao động. Sự thay đổi và phát triển nhận thức đối với đời sống kinh tế
dẫn đến cách hiểu hàng hóa không như các nhà kinh tế cổ điển xác định. Phạm trù
hàng hóa mất đi ranh giới của sự hiển hiện vật lý của vật thể và tiến sát đến gần phạm
trù giá trị. Theo cách tiếp cận của luật học hiện nay, hàng hóa bao gồm tất cả các loại
động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai hoặc những vật gắn liền với đất
đai.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa thì hiện nay trên thế giới có rất nhiều cách
thức định nghĩa và nhiều nguồn tìm hiểu. Theo pháp luật của nước Pháp: “Hợp đồng
mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận theo đó một bên có nghĩa vụ giao một vật và người
kia có nghĩa vụ trả tiền cho vật ấy”. Việc mua bán được hoàn thành khi quyền sở hữu
vật được coi đã chuyển sang cho người mua sau khi đã thỏa thuận về giá cả và vật bán,
mặc dù vật chưa được giao và tiền chưa được trao. Việc mua bán có thể được tiến hành
không kèm theo điều kiện đình chỉ thi hành hoặc điều kiện hủy bỏ [4]. Theo pháp luật
Liên bang Nga quy định: “Bằng hợp đồng mua bán, một bên (bên bán) sẽ thực hiện
quyền chuyển giao quyền sở hữu một vật (hàng hóa) cho bên kia (bên mua), trong khi
đó bên mua sẽ chấp nhậ trả một khoản tiền nhất định (giá) cho hàng hóa đó” [5]. Ở Việt

Nam, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986 đã ra quyết định đổi mới
cơ chế quản lí kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lí cũng yêu cầu
cần được thay đổi. Do đó, ngày 25/9/1989 Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh
hợp đồng Kinh tế bước đầu xây dựng một chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế. Bộ luật
Dân sự 1997 được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 cũng đưa ra những quy định
về hợp đồng dân sự. Luật Thương mại 1997 được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997
cũng quy định về hợp đồng đối với một số hành vi thương mại. Tuy nhiên, sau nhiều
lần bổ sung và thay đổi để phù hợp với cơ chế kinh tế thì ngày 14/6/2005, Bộ luật Dân
sự 2005 được Quốc hội khóa 11 thông qua và có hiệu lực ngày 1/1/2006 thay thế cho
Bộ luật Dân sự năm 1995 và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 được coi là đạo
luật chung, thống nhất trong việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Luật Thương mại năm
1997 cũng được thay đổi và được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực
ngày 1/1/2006 được coi là nguồn luật chính điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong
4[] Nguồn: Từ điều 1582 đến điều 1584, luật Dân sự Pháp
5[] Nguồn: Khoản 1, Điều 454, bộ luật Dân sự Liên Bang Nga

12


lĩnh vực kinh doanh thương mại bao gồm hai phạm trù: hợp đồng mua bán hàng hóa
trong nước và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (gọi là hợp đồng ngoại thương).
Như vậy, theo góc độ kinh tế hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa
các thương nhân (hoặc một bên là thương nhân) về việc thực hiện hoạt động mua
bán hàng hóa nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Theo góc độ pháp lí, mặc dù không
quy định cụ thể hợp đồng mua bán hàng hóa song đây được coi là một dạng cụ thể của
hợp đồng mua bán tài sản được đề cập trong Luật dân sự năm 2005, đó là sự thoả
thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền,
còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.
1.1.1.2. Đặc điểm và vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa



Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa:
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lí
là hợp đồng mua bán hàng hoá, có bản chất chung của hợp đồng dân sự, là sự thoả
thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua
bán. Bởi vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng ưng thuận và có tính sinh lời. Tại
thời điểm các bên thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản thì hợp đồng được coi là đã
giao kết, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ thuộc vào thời điểm bàn giao
hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành động của bên bán nhắm thực
hiện nghĩa vụ của hợp đồng mua bán đã có hiệu lực.
Hai là, hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng song vụ và có tính đền bù. Mỗi
bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều bị ràng buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia,
đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi bên kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình.
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa vụ chính mang tính chất qua lại và
liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên bán phải bàn giao hàng hóa cho bên
mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên bán bên bán khi thực hiện nghĩa
vụ giao hàng hóa cho bên mua thì sẽ nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá
trị hàng hóa theo thỏa thuận dưới dạng khoản tiền thanh toán.
Ba là, về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là sự giao kết, thỏa thuận,
dựa trên cở sở tự nguyện giữa các bên thương nhân hoặc một bên là thương nhân hoặc
giữa các cá nhân, tổ chức khác có hoạt động kinh doanh thương mại. Theo luật
Thương mại năm 2005, thương nhân bao gồm: tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại
các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm.
13


Bốn là, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là tất cả các loại động sản, kể

cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai. Ngoài ra, đối
với hợp đồng mua bán quốc tế thì mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các
hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.
Bởi vậy, đối tượng của hợp đồng là những hàng hoá theo quy định pháp luật của cả
bên mua và bên bán. Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ và điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy
định cụ thể danh mục hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng
hoá kinh doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh hàng hóa đó. Đồng thời,
đối với hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh doanh có điều kiện, việc mua bán
chỉ được thực hiện khi hàng hoá và các bên mua bán hàng hóa đáp ứng đầy đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật.


Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa:
Về phía doanh nghiệp:
Hợp đồng hàng hóa có vai trò cốt lõi trong quá trình hoạch định chiến lược của
doanh nghiệp mình, chi tiết hóa cấc kế hoạch kinh doanh như ngày, tháng, sản lượng,
thời gian, địa điểm giao hàng, định giá, phương thức thanh toán hoặc quy định quyền
và nghĩa vụ của các bên tham gia kí kết. Thông qua việc đàm phán, kí kết hợp đồng
mua bán hàng hóa doanh nghiệp sẽ tìm hiểu được sản phẩm của mình có đáp ứng thị
trường hay không. Qua đó, trong quá trình định giá, doanh nghiệp chủ động cân nhắc
tính toán chênh lệch chi phí và hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh.
Hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập và thực hện đúng pháp luật sẽ là cầu
nối bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia kí kết khi có tranh chấp phát sinh, từ
đó làm giảm cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế rủi ro và tổn thất cho doanh nghiệp
trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh.
Về phía Nhà nước:
Hợp đồng mua bán hàng hóa là công cụ đắc lực giúp Nhà nước điều tiết các quan
hệ xã hội, định hướng các quan hệ phát triển theo trật tự pháp luật nhất là trong nền
kinh tế đang mở cửa như hiện nay càng nhiều quốc gia trên thế giới đang tìm kiếm đầu

tư vào Việt Nam, cũng như các doanh nghiệp trong nước đang bắt tay hợp tác, liên kết
mở rộng thị trường. Bởi vậỵ, hợp đồng mua bán hàng hóa là phương tiện giúp Nhà
nước ổn định tình hình kinh tế vi mô và vĩ mô.
Mặt khác, Nhà nước cũng có thể sử dụng pháp luật nhằm thực hiện các biện pháp
cưỡng chế trực tiếp hoặc gián tiếp vào các quan hệ hợp đồng đó nhằm bảo vệ và cân
bằng lợi ích chính đáng giữa bên mua và bên bán, cũng như lợi ích của cả cộng đồng.
14


1.1.1.3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập trên thiện chí bình đẳng, tự nguyện
giữa các bên nên các quy định của pháp luật cũng khá thông thoáng và linh hoạt, phù
hợp với thực tiễn cuộc sống nói chung cũng như hoạt động thương mại nói riêng. Theo
đó, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được giao kết bằng nhiều hình thức khác nhau.
Bộ luật dân sự 2005 giải thích rằng, hợp đồng mua bán nói chung và hợp đồng mua
bán tài sản nói riêng có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác
lập bằng hành vi cụ thể khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao
kết bởi một hình thức nhất định. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp
luật quy định phải lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký
hoặc xin phép thì phải tuân theo quy định đó.
Trên tinh thần thần đó, Luật thương mại năm 2005 cũng rất linh động khi quy định
về hình thức của hợp đông mua bán trong lĩnh vực thương mại, có thể được thể hiện
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác định bởi một hành vi cụ thể, hoặc tuân theo
quy định của pháp luật.
1.1.1.4. Nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng nói chung là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Nội dung của hợp đồng
mua bán hàng hóa là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ
của bên bán và bên mua trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa. Nếu trước kia
Luật thương mại 1997 quy định hợp đồng mua bán hàng hóa phải có các nội dung chủ

yếu như: tên hàng; số lương; quy cách, chất lượng; giá cả; phương thức thanh toán; địa
điểm và thời hạn giao hàng thì nay Luật thương mại 2005 và Luật dân sự 2005 không
ràng buộc không quy định hợp đồng mua bán hàng hóa phải bao gồm nội dung bắt
buộc trên nhằm tránh sự vô hiệu ngoài mong muốn giữa các bên. Như vậy, các bên có
quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận các nội dung của hợp đồng trên tinh thần của Luật
dân sự 2005 như: Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm
hoặc không được làm; số lượng, chất lượng; giá, phương thức thanh toán; thời hạn, địa
điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do
vi phạm hợp đồng; phạt vi phạm hợp đồng và các nội dung khác[6].
Tuy nhiên, thông thường một hợp đống mua bán hàng hóa thường bao gồm
những nội dung sau:
 Nội dung chủ yếu: bao gồm những điều khoản cần thiết phải có trong hợp đồng nếu
thiếu thì hợp đồng sẽ không được giao kết. Các điều khoản này phụ thuộc vào tính
6[] Nguồn: Điều 402, Luật Dân sự 2005

15


chất của từn hợp đồng quyết định hoặc do pháp luật quyết định. Theo đó, các bên có
thể thỏa thuận các nội dung sau:
-

Ngày, tháng, năm kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa, địa chỉ, số tài khoản ngân hàng
giao dịch của các bên, họ tên người đại diện, người đăng kí kinh doanh.

-

Chủ thể trong quan hệ hợp đồng: Cần xác định rõ các bên tham gia trong hợp đồng
cũng như yếu tố pháp lí cần thiết liên quan như: quốc tịch của các bên, ngành nghề
kinh doanh, trụ sở kinh doanh, địa chỉ giao dịch, mã số thuế của doanh nghiệp…


-

Đối tượng của hợp đồng: Tên gọi của hàng hóa trong điều khoản này, số lượng hàng
hóa, chất lượng của hàng hóa, thời gian, địa điểm giao hàng, giá cả, thời gian và
phương thức thanh toán, bao bì sản phẩm, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, trách
nhiệm đối với sản phẩm.

 Nội dung thường lệ: là điều khoản được đã được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật dù không đề cập vào hợp đồng nhưng các bên tự ngầm hiểu và thực hiện
đúng theo quy định của pháp luật. Các nội dung này bao gồm: trách nhiệm chuyển
giao hàng hóa, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua sau khi giao kết hợp
đồng, cũng như quyền và nghĩa vụ của người mua với hàng hóa của mình và với người
bán, địa điểm giao hàng đối với hàng hóa là bất động sản Các bên mặc nhiên thỏa
thuận, nếu một trong hai bên không thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của mình thì sẽ căn
cứ theo thỏa thuận của hợp đồng để thực hiện phạt vi phạm.
 Nội dung tùy nghi: là những điều khoản đưa vào theo sự thỏa thuận của các bên, tùy
vào khả năng và nhu cầu của các bên nhằm làm cho nội dung của hợp đồng được rõ
ràng, cụ thể hơn. Các bên trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng có thể định giá
hàng hóa, bên bán có quyền đưa ra mức giá sàn, ngược lại bên mua có thể cân nhắc
lựa chọn mức giá và sản phẩm phù hợp với khả năng tài chính của mình. Bên mua
cũng có quyền gia hạn thời gian thanh toán hoặc thực hiện hợp đồng theo từng phần
với bên bán sao cho phù hợp về điều kiện hoàn cảnh thực tế của các chủ thể. Nói cách
khác, các bên có thể lựa chọn cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng sao cho thuận
lợi mà vẫn đảm bảo được quyền yêu cầu của bên còn lại.
1.1.2. Nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua
bán hàng hóa
Trong luật La-tinh, nghĩa vụ được hình dung như một mối liên hệ pháp lý mà theo
đó, một người, người có quyền, có thể đòi hỏi ở một người khác, người có nghĩa vụ,

chuyển giao một quyền, làm một việc hoặc không làm một việc. Nếu xét về mặt xã
hội, nghĩa vụ còn được hiểu là việc một người thực hiện một việc vì lợi ích của người
16


khác, những hành vi đó pháp luật không quy định buộc phải thực hiện (việc thực hiện
này năm ngoài nghĩa vụ thực hiện công việc không có sự uỷ quyền)
Xét về mặt pháp lý quy định: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều
chủ thể (bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao một vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc
giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất
định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (bên có quyền)” [7].
Theo nội dung của những quy định trên, nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa là nghĩa vụ dân sự theo đó chủ thể mang quyền (người mua) có
quyền yêu cầu chủ thể mang nghĩa vụ (người bán) phải chuyển giao một tài sản, thực
hiện một việc hoặc không được thực hiện một việc vì lợi ích của mình hay lợi ích của
người thứ ba, phải bồi thường một thiệt hại về tài sản hoặc nhân thân do có hành vi
gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp pháp của các bên có quyền. Người bán có nghĩa vụ
thực hiện quyền yêu cầu của người mua. Các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể
trong quan hệ nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hoặc theo thoả thuận của các bên
xác lập trong hợp đồng mua bán.
Như vậy, nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa bản chất là
nghĩa vụ dân sự nên nó mang những đặc điểm sau:
Nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện mối quan hệ
ràng buộc giữa người bán và người mua. Hai chủ thể này đã thiết lập một sự gắn kết
khi tham gia vào giao kết hợp đồng mua bán, theo đó người có nghĩa vụ luôn hướng
một mục đích có lợi cho người có quyền.
Nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại quan hệ đối
nhân (quyền đối nhân): Quan hệ đối nhân là quan hệ mà trong đó một bên chủ thể có
quyền đối với một bên xác định, hoặc cả hai bên đều có những quyền và nghĩa vụ nhất
định đối với nhau.

1.1.2.2. Sự cần thiết phải quy định nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa
Ở Việt Nam, từ khi nền kinh tế chuyển đổi từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện
những đường lối đổi mới chính sách kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hoá
đất nước, tiến tới xu hướng toàn cầu hóa. Kinh tế hàng hóa phát triển, giao lưu thị
trường thông thoáng là tiền đề cho việc xây dựng khung pháp lí về lĩnh vực hợp đồng
mua bán hàng hóa.
7]] Nguồn: Điều 280, Luật Dân sự 2005

17


Thực tế cho thấy, công tác thực hiện, kiểm soát quyền và nghĩa vụ trong các hợp
đồng mua bán hàng hóa còn chưa đạt hiệu quả. Nhất là việc thực hiện đúng trách
nhiệm và thực thi nghĩa vụ còn lỏng lẻo khiến hiệu quả kinh tế chưa cao. Vấn đề đặt ra
trước mắt là nâng cao công tác chỉ đạo và tạo hành lang pháp lí vững chắc trong các
hợp đồng mua bán hàng hóa nhất là những quy định về nghĩa vụ của người bán trong
hợp đồng mua bán hàng hóa là điều tất yếu.
Sự ra đời của hệ thống các quy định về nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa là bước ngoặt lớn đánh dấu sự trưởng thành của hệ thống pháp luật
hợp đồng nói chung và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng. Sau nhiều
lần sửa đổi và bổ sung, Luật dân sự năm 2005, Luật thương mại năm 2005 hay Luật
bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 đã chú trọng xây dựng và phát triển mạnh mẽ công
tác thực thi nghĩa vụ của người bán, đề cao vai trò trách nhiệm của người bán trong
hoạt động kinh doanh.
Ngày nay, trước thềm hội nhập yêu cầu sự thống nhất trong những quy định về
nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa để nhằm nâng cao ý thức,
trách nhiệm, đồng thời bảo vệ lợi ích của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng. Xây
dựng những định chế về pháp luật của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ

là bước đệm phát triển khung pháp lí về lĩnh vực hợp đồng, từ đó mở rộng hoạt động
mua bán trong và ngoài nước được thúc đẩy mạnh mẽ và có chiều sâu hơn nữa, dễ
dàng thâm nhập trên trường quốc tế.
1.2. Cơ sở ban hành và pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp
đồng mua bán hàng hóa
1.2.1. Khái niệm và cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán
trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa là
hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa một bên là người bán và
một bên là người mua. Mối quan hệ pháp luật này phát sinh khi cả hai bên đàm phán,
xác lập hợp đồng mua bán.
Xét về phương diện hình thức, pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong
hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật như văn bản
luật, nghị định và nghị quyết của Chính phủ, quyết định và chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ, quyết định, thông tư và chỉ thị của các Bộ… liên quan đến lĩnh vực hợp
đồng mua bán hàng hóa, đặc biệt là những quy định về nghĩa vụ của người bán.
Xét trên phương diện nội dung, pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong
hợp đồng mua bán hàng hóa bao hàm các vấn đề chủ yếu như trách nhiệm của người
18


bán trong việc thông báo, kiểm tra, giao hàng, ấn định thời gian và phương thức thanh
toán cho người mua, chuyển quyền sở hữu hàng hóa …
Như vậy, pháp luật về điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán
hàng hóa là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh
giữa một bên chủ thể là người bán và một bên chủ thể là các tổ chức, cá nhân với vai
trò là người mua, có quyền yêu cầu người bán thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ như đã
thỏa thuận trong hợp đồng. Trong đó quy định pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người
bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành trong lĩnh vực thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và pháp luật

điều chỉnh nghĩa vụ của người bán nói riêng quy định về trách nhiệm giao hàng, kiểm
tra số lượng, chất lượng hàng hóa, các trường hợp chuyển quyền sở hữu hoặc chuyển
rủi ro hàng hóa.
Trên cơ sở Nhà nước coi pháp luật là công cụ quyền lực để thực hiện các biện
pháp cưỡng chế hiệu quả, thì việc ban hành pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người
bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa có vai trò chủ đạo đảm bảo việc thực hiện hợp
đồng theo đúng cam kết các bên. Theo đó, Nhà nước quy định hệ thống các văn bản
pháp luật nhằm điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa
bao gồm:
Công ước Viên năm 1980 (CISG) về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đến nay
đã có hơn 60 nước phê chuẩn trong đó có Việt Nam. Những nguyên tắc của Công ước
cũng có hiệu lực ràng buộc đối với hệ thống pháp luật quốc gia. Đây là nền tảng để
pháp luật quốc gia có thể học hỏi những quy định về giao kết, đàm phán, thanh toán
trong mua bán hàng hóa nói chung cũng như những quy định về nghĩa vụ của người
bán nói riêng. Bên cạnh đó, những hiệp định song phương và đa phương giữa Việt
Nam với các nước Hoa kỳ, Thụy Điển, các nước khu vực Đông Nam Á,...trong các
quan hệ thương mại đã thiết lập nhiều hợp đồng mua bán. Với vai trò là người bán
trong các hợp đồng mua bán, Việt Nam cũng bị chi phối bởi cả pháp luật trong nước
và quốc tế. Việc thực hiện nghĩa vụ của người bán sẽ trở nên phức tạp nếu không có
một khung pháp luật thồng nhất điều chỉnh. Bởi vậy, Công ước viên 1980 hoặc những
hợp đồng mua bán hàng hóa thương mại song phương – đa phương có vai trò quan
trọng để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán.
Ngoài ra, còn có hệ thống các quy phạm pháp luật quốc gia như Luật Dân sự 2005,
Luật thương mại 2005 với tư cách là nguồn luật điều chỉnh các mối quan hệ về hợp
đồng mua bán hàng hóa. Mọi phát sinh trong hợp đồng mua bán hàng hóa trong đó có
quy định về nghĩa vụ của người bán đều được áp dụng nguồn luật chung. Ngoài ra,
19


còn có các văn bản luật chuyên ngành khác như Luật bảo vệ người tiêu dùng 2014,

Luật kinh doanh bất động sản 2014… quy định nghĩa vụ của người bán trong từng lĩnh
vực kinh doanh cụ thể.
Một nguồn luật khác cũng có vai trò cốt lõi quy định nghĩa vụ của người bán trong
hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng mẫu. Hợp đồng này do doanh nghiệp kinh
doanh hoặc do một hiệp hội nghề nghiệp tự soạn thảo một cách độc lập dựa trên quy
chuẩn pháp luật phù hợp với mục đích cũng như thực tiễn kinh doanh của doanh
nghiệp, được các thương nhân thừa nhận và áp dụng.
1.2.2. Nội dung của pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp
đồng mua bán hàng hóa
1.2.2.1. Nghĩa vụ giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng
Những quy định về nghĩa vụ của người bán trong tất cả các hợp đồng mua bán
hàng hóa được quy định rất rõ ràng, chình xác. Đây là nội dung chủ đạo nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích các bên tham gia kí kết hợp đồng. Cụ thể:
 Giao hàng đúng đối tượng
Giao hàng đúng đối tượng là việc người bán có nghĩa vụ giao hàng đúng chủng
loại, đúng tên hàng như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Theo đó, người bán phải có
nghĩa vụ ghi chép tên hàng hóa một cách đầy đủ, rõ ràng, chính xác, có kèm theo tên
thương mại. Nếu đối tượng của việc mua bán gồm nhiều mặt hàng, chủng loại hàng
khác nhau thì phải ghi rõ danh mục của mặt hàng đó. Danh mục các loại mặt hàng này
có thể được coi là phụ lục của hợp đồng
 Giao chứng từ kèm theo hàng hóa
Chứng từ là các văn bản giấy tờ ghi lại nội dung của một sự kiện giao dịch, một
nghiệp vụ phát sinh. Chứng từ hợp lệ là các văn bản ghi lại nội dung giao dịch phát
sinh phải đảm bảo:
Tính pháp lý: ví dụ như các bên tham gia vào giao dịch phải ký xác nhận để nếu có
xảy ra tranh chấp giữa các bên thì đây sẽ là bằng chứng, là cơ sở để phân xử đúng sai
mà các bên không thể chối cãi được .
Đảm bảo tính pháp luật: tuân thủ theo đúng các quy định của Nhà nước, kể cả về
mặt hình thức như hoá đơn giá thị gia tăng.
Đảm bảo tính trung thực: sự kiện ghi lại phải là có thực, rõ ràng, đầy đủ nội dung,

cụ thể, không đa nghĩa.
Giao các chứng từ kèm theo hàng hóa là trách nhiệm của bên bán khi có yếu cầu
của bên mua. Nếu có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao
20


chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong thời hạn, tại địa điểm và bằng
phương thức đã thỏa thuận.
Việc quy định về giao hàng đúng đối tượng và giao chứng từ kèm theo hàng hóa là
một điều tất yếu, bởi hợp đồng mua bán có được thực hiện hay không là phụ thuộc vào
trách nhiệm của người bán, đồng thời nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người
mua. Do đó, những quy định về nghĩa vụ của người bán trong việc giao hàng và chứng
từ liên quan đến hàng hóa nhằm cân bằng quyền lợi và trách nhiệm của các bên khi
tham gia giao kết hợp đồng.
 Giao hàng đúng thời hạn
Thời hạn trong hợp đồng mua bán hàng hóa là mốc thời gian do các bên thỏa
thuận nhằm thực hiện việc chuyển giao hàng hóa, quyền sở hữu cho nhau. Do vậy, bên
bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc
bên bán phải giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng nếu không
có thỏa thuận. Hoặc bên bán có thể giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận khi đó bên
mua có quyền nhận hoặc không nhận hàng nếu các bên không có thoả thuận khác.
 Giao hàng đúng địa điểm
Địa điểm giao hàng là do các bên trong quá trình đàm phán hợp đồng đã thông báo
cho nhau. Nghĩa vụ của người bán là giao hàng đến đúng địa điểm đã thỏa thuận.
Thời gian và địa điểm giao hàng là điều khoản quan trọng của hợp đồng mua bán
hàng hóa vì nó liên quan đến một số quyền và nghĩa vụ của các bên, thời điểm chuyển
quyền sở hữu và rủi ro, liên quan đến giá cả của hàng hóa. Việc quy định địa điểm giao
hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng không những về mặt pháp lý mà còn trong khía
cạnh thương mại, giúp cho các cá nhân, doanh nghiệp hạn chế những rủi ro, tổn thất
trong kinh doanh.

1.2.2.2. Nghĩa vụ kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng
Người bán có nghĩa vụ thống nhất kế hoạch cũng như cách thức kiểm tra chất
lượng của hàng hóa cụ thể, đảm bảo kiểm tra các yếu tố vể quy cách, phẩm chất của
hàng hóa, thời gian, địa điểm và cách thức kiểm tra chất lượng. Thông thường địa
điểm kiểm tra chất lượng của hàng hóa do các bên tự thỏa thuận có tính đến tính chất
của từng loại hàng và điều kiện giao hàng. Hàng hóa có thể kiểm tra toàn bộ hay một
phần theo xác xuất tùy theo tính chất của hàng hóa..
Bên bán phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá mà bên mua
hoặc đại diện của bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hoá không thể

21


phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán đã
biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua.
Thực tế, khâu kiểm tra hàng hóa còn tồn tại nhiều bất cập. Tình trạng gian lận của
bên mua và sự kiểm tra lỏng lẻo của bên bán ngày càng tinh vi và phức tạp. Những
quy định chặt chẽ về việc kiểm tra hàng hóa giúp doanh nghiệp nắm bắt được tình hình
sản xuất, giám sát được chất lượng và số lượng, hạn chế khả năng bị bồi thường thiệt
hại. Mặt khác, công tác kiểm tra này cũng là công cụ đắc lực giúp người mua được bảo
vệ lợi ích của mình, được trả lại hàng bị hư hỏng hoặc được yêu cầu bồi thường thích
đáng. Đây cũng là đòn bẩy nâng cao tinh thần trách nhiệm trong kinh doanh của các
bên tham gia hợp đồng mua bán.
1.2.2.3. Nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu đối với hàng hóa mua bán
Chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa của bên bán cho bên mua là việc bên bán
chuyển quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt hàng hóa cho bên mua. Như vậy, sau khi
được chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa, bên mua sẽ trở thành người chủ thực sự
đối với những hàng hóa đó với đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu như đã nêu. Với
việc xác định quyền sở hữu hàng hóa đã được chuyển giao hay chưa, địa điểm, thời
gian chuyển quyền sở hữu có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tài sản của doanh

nghiệp, giải quyết phá sản và đặc biệt là để xác định trách nhiệm về rủi ro đối với hàng
hóa. Theo đó, bên bán phải đảm bảo về tính hợp pháp của quyền sở hữu và việc quyển
giao quyền sở hữu đối với hàng hóa giao cho bên mua và phải đảm bảo quyền sở hữu
của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi các bên thứ ba.
Trong thực tiễn mua bán hàng hóa, vấn đề chuyển quyền sở hữu hàng hóa là một
vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm. Nó liên quan rất nhiều tới vấn đề xử lý rủi ro về
hư hỏng mất mát hàng hóa, về quyền được bảo đảm thanh toán tiền bán hàng, hoặc
quyền về định đoạt hàng hóa của bên bán khi bên mua lâm vào tình trạng khó khăn về
tài chính hoặc phá sản. Vì vậy, quy định về nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu đối với
hàng hóa mua bán là điều vô cùng quan trọng trong giao kết hợp đồng mua bán, giúp
giải đáp khúc mắc và đảm bảo lợi ích tối đa cho người mua.
1.2.2.4. Nghĩa vụ chịu rủi ro đối với hàng hóa
Bên cạnh nghĩa vụ quan trọng nhất là bàn giao hàng hóa, bên bán còn có một
nghĩa vụ khác, đó là chịu rủi ro đối với hàng hóa (nghĩa vụ bảo hành), tức là trong một
thời hạn nhất định, bên bán phải chịu trách nhiệm về hàng hóa sau khi đã giao hàng
hóa cho bên mua.
Thực tế hiện nay tồn tại rất nhiều bất cập trong việc chịu rủi ro đối với hàng hóa
đã bán, như không cung cấp cho người mua giấy bảo hành trong đó ghi rõ thời gian và
22


điều kiện thực hiện bảo hành; không cung cấp giấy tiếp nhận bảo hành trong đó ghi rõ
thời gian thực hiện bảo hành; không cung cấp cho người tiêu dùng hàng hóa, linh kiện,
phụ kiện tương tự để sử dụng tạm thời hoặc không có hình thức giải quyết khác được
người tiêu dùng chấp nhận trong thời gian thực hiện bảo hành; không đổi hàng hóa,
linh kiện, phụ kiện mới tương tự hoặc thu hồi hàng hóa và trả lại tiền cho người tiêu
dùng trong trường hợp đã thực hiện bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện từ 3 lần trở
lên trong thời hạn bảo hành mà vẫn không khắc phục được lỗi hoặc trong trường hợp
hết thời gian thực hiện bảo hành mà không sửa chữa hoặc không khắc phục được
lỗi….

Vì vậy, ban hành quy định nghĩa vụ của người bán trong việc chịu rủi ro hàng hóa
là điều tất yếu nhằm hạn chế những bất cập, qua đó nâng cao ý thức của người bán,
đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng cho người mua. Nghĩa vụ chịu rủi ro hàng hóa
được quy định rất chi tiết trong Luật thương mại năm 2005, Luật bảo vệ người tiêu
dùng năm 2010.
1.2.2.5.Các nghĩa vụ khác
Bên cạnh các nghĩa vụ cần thiết trên, với vai trò là người bán trong hợp đồng mua
bán hàng hóa thì nghĩa vụ báo giá và nghĩa vụ quy định việc thanh toán với người mua
cũng giữ vai trò quan trọng. Người bán phải có nghĩa vụ báo giá sản phẩm cho bên
mua bởi giá cả là điều khoản gắn liền với các điều khoản đối tượng hợp đồng. Giá
trong hợp đồng thường được xác định dựa trên những căn cứ như đơn giá, điều kiện cơ
sở tính giá, điều khoản bảo lưu về giá hàng hóa…Người bán phải có trách nhiệm ghi
đúng giá bán tránh sự gian lận trong việc nộp thuế của các bên. Đồng thời, người bán
nên ấn định rõ ràng và chặt chẽ hình thức và thời gian thanh toán chặt chẽ cho người
mua nhằm xác định trách nhiệm của các bên trong thời gian thực hiện hợp đồng.
Mặt khác trong quá trình đàm phán về số lượng hàng hóa người bán phải có trách
nhiệm thông báo với người mua thông số, đơn vị đo lường tùy vào tính chất của hàng
hóa, vào tập quán thương mại quốc tế đối với các mặt hàng cụ thể. Theo nguyên tắc,
số lượng của hàng hóa có thể được xác định bởi một số liệu cụ thể hoặc có thể được
quy định trong một giới hạn. Do tính chất của một số loại hàng hóa nên cần phải quy
định tỷ lệ dung sai, như đối với hàng hóa có sự bốc hơi hay có sự thay đổi độ ẩm.
Ngoài ra, bên bán cần phải thỏa thuận với bên mua là có hay không tính trọng lượng
của bao bì và khối lượng của hàng hóa. Sau khi đàm phán kết thúc người bán có nghĩa
vụ giao hàng, chứng từ kèm theo đúng với những thỏa thuận trước đó.

23


1.3. Nguyên tắc xác định pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của người bán trong hợp
đồng mua bán hàng hóa

Nguyên tắc tiền đề và quan trọng nhất trong việc lựa chọn pháp luật điều chỉnh
nghĩa vụ của người bán là sự thỏa thuận của các bên. Đối với các hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, ưu tiên lựa chọn pháp luật quốc gia, trong trường hợp điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Bộ luật này thì áp
dụng quy định của điều ước quốc tế đó. Nếu trong hợp đồng thỏa thuận có dẫn chiếu
đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật của nước đó được áp dụng và việc
áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam; trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp Việt Nam thì áp
dụng pháp luật Việt Nam [8].
Đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, việc lựa chọn pháp luật điều
chỉnh nghĩa vụ của người bán được các chủ thể làm hợp đồng đề cập khá thông
thoáng. Trong quá trình đàm phán và thực hiện giao kết các chủ thể lựa chọn nguồn
luật chung là Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật thương mại 2005 điều chỉnh các mọi
vấn đề liên quan đến nghĩa vụ của người bán. Bên cạnh đó, bên bán và bên mua đều
rất linh hoạt trong việc vận dụng những quy định của pháp luật chuyên ngành khác để
cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của các chủ thể nhằm giải quyết những mâu thuẫn trong
hệ thống pháp luật cũng như đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của người bán được theo
đúng tinh thần luật định.

8[] Nguồn: Điều 759, Bộ luật Dân sự 2005 và Điều 5, Luật thương mại 2005

24


Kết luận chương 1
Trong nền kinh tế thị trường nào thì các quy luật kinh tế của sản xuất và lưu thông
hàng hóa đều được phản ánh và tác động một cách khách quan thông qua cơ chế thị
trường. Bàn tay vô hình của thị trường đã tạo mối quan hệ ràng buộc giữa người bán
và người mua. Trong thị trường tự do kinh doanh ấy, người bán bao giờ cũng muốn
bán giá cao, người mua thì muốn mua giá thấp. Bởi vậy, cần có sự thống nhất ý chí,

thỏa thuận và bình đẳng giữa người mua và người bán.
Qua những lý luận khái quát về khái niệm, đặc điểm vai trò của hợp đồng mua bán
hàng hóa cùng những lý luận về khái niệm, đặc điểm, tìm hiểu các quy định pháp luật
về nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa có thể thấy răng pháp
luật về nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa đã có nhiều bước
tiến đáng kể và giải quyết được những thiếu sót trước kia chưa giải
quyết được.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn tồn tại nhiều hạn chế về mặt lý thuyết ảnh hưởng trực
tiếp trong quá trình áp dụng thực tiễn pháp luật về quyền của người bán trong hợp
đồng mua bán hàng hóa được đề cập chi tiết tại Chương 2: “Thực trạng pháp luật và
thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong
hợp đồng tại Công ty CP Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang”.

25


×