Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Hợp tác quốc tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.42 KB, 40 trang )

TÓM LƯỢC
Pháp luật về bảo vệ môi trường là một công cụ hữu hiệu để quản lý và bảo vệ
môi trường. Trong thời gian qua, pháp luật về bảo vệ môi trường ở nước ta từng bước
được xây dựng và hoàn thiện góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh các quan hệ xã
hội liên quan trực tiếp tới lĩnh vực môi trường. Do vậy, việc nghiên cứu để “Một số
vấn đề pháp lý về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Hợp tác quốc tế- Việt Nam” sẽ góp
phần củng cố và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường toàn diện, đồng bộ và phù
hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của nước ta hơn.
Khóa luận tập trung phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ môi
trường của Việt Nam thông các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ
đó nêu ra những thực trạng còn tồn tại trong hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường
cũng như những thuận lợi, khó khăn, hạn chế còn mắc phải trong việc thực thi pháp
luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp Công
ty cổ phần Hợp tác quốc tế- Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, người viết đưa
ra một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường
ở Việt Nam hiện nay. Nội dung của bài khóa luận tóm lược qua các phần như sau:
Trong Chương 1 người viết muốn cung cấp các kiến thức lý luận giúp cho người
đọc có cái nhìn tổng quan về vấn đề bảo vệ môi trường, pháp luật bảo vệ môi trường
nói chung và bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng. Đối
với chương 2 khóa luận tập trung đánh giá về thực trạng pháp luật về vấn đề bảo vệ
môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó rút ra được những khó khăn
trong việc áp dụng và thi hành các quy định pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường của
các doanh nghiệp. Sau khi đánh giá thực trạng về việc áp dụng pháp luật hợp đồng lao
động, khóa luận cũng đã nghiên cứu một cách chi tiết và đưa ra được các kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề bảo vệ môi
trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại Chương 3.

i



LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế, không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong thời gian
thực tập tại Công ty cổ phần hợp tác quốc tế- Việt Nam và với những kiến thức đã
được học tại trường cùng với sự nghiên cứu tình hình thực tế, với sự giúp đỡ nhiệt tình
của các cô chú, anh chị cán bộ trong công ty và hướng dẫn chỉ bảo sát sao nhiệt tình
của thầy giáo hướng dẫn Th.s Phạm Minh Quốc. Em đã rút ra được những tồn tại và
khó khăn từ đó mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nhỏ bé vào việc quy
định pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty cổ phần hợp tác quốc tế- Việt Nam nói riêng và hệ thống pháp luật Lao động nói
chung. Tuy nhiên, do thời gian có hạn, với vốn kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên
bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ đạo, đóng góp ý
kiến của thầy cô giáo và những người quan tâm đến vấn đề này nhằm hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Minh Quốc đã tận tâm hướng dẫn em
và giúp em hoàn thành khóa luận này.
Sau cùng, em xin kính chúc thầy cô Khoa Kinh tế - Luật và thầy Phạm Minh
Quốc dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là
truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Trân trọng!

Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Huyền

ii


MỤC LỤC
TÓM LƯỢC..............................................................................................................................................i

1.1 Khái quát chung về bảo vệ môi trường và pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.....................................................................................................6
1.1.1 Khái niệm về bảo vệ môi trường và bảo vệ môi trường trong hoạt động kinh doanh sản
xuất của doanh nghiệp...................................................................................................................6
1.1.2 Pháp luật về bảo vệ môi trường và khung pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ............................................................................................7
1.1.3 Vai trò của pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.....................................................................................................................................................9
1.2 Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.............................................................................................................................10
1.2.1 Quá trình hình thành pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường
trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng............................................................................10
Các văn bản quy phạm pháp luật khác ........................................................................................11
1.2.2 Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường trong
hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng.....................................................................................11
Các quy định của Hiến pháp.........................................................................................................12
Hệ thống Luật, Pháp lệnh.............................................................................................................12
1.2.3 Một số nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng...............................................13
1.3 Một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật bảo vệ môi
trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng......................................14
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI CÔNG TY CP HỢP
TÁC QUỐC TẾ- VIỆT NAM......................................................................................................................16
2.1 Đánh giá tổng quan pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. .......................................................................................................................16
2.2 Thực trạng các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp..................................................................................................................17
c) Quy định về thiết chế thực thi pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường.......................................19
d) Quy định về xử lý vi phạm ..........................................................................................................20

e) Những nội dung còn thiếu hoặc cần hướng dẫn chi tiết .................................................................21
f) Hiệu lực thi hành trong thực tế thấp ...............................................................................................21
2.3 Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất
kinh doanh tại Công ty CP Hợp tác quốc tế- Việt Nam......................................................................22
2.3.1. Những hoạt động đã đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật về bảo vệ môi trường
trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty CP Hợp tác quốc tế- Việt Nam.........................22

iii


2.3.2 Những tồn tại trong việc áp dụng pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất
kinh doanh tại công ty cổ phân tác quốc tế Việt Nam..................................................................24
CHƯƠNG III:.........................................................................................................................................27
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH NÓI CHUNG VÀ TẠI CÔNG TY CP HỢP TÁC QUỐC TẾ- VIỆT NAM.
.............................................................................................................................................................27
Giai đoạn trước khi đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp................................29
Xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn (quy chuẩn) môi trường đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh
trong hoạt động sản xuất.................................................................................................................30

iv


DANH MỤC VIẾT TẮT
1. MT
2. Luật BVMT
3. Công ty CP
4. BTNMT

: Môi trường

: Luật Bảo vệ môi trường
: Công ty cổ phần
: Bộ Tài nguyên môi trường

v


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Ô nhiễm môi trường và bảo vệ môi trường hiện đang là một vấn đề thời sự được
quan tâm không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi toàn cầu. Một trong
những nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường là hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp không có ý thức bảo vệ môi trường trên toàn thế giới.
Chính vì vậy mà việc ban hành và thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường hết sức có ý
nghĩa không chỉ đối với từng quốc gia mà còn có ý nghĩa trên bình diện quốc tế. Đặc
biệt trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp, pháp luật bảo
vệ môi trường đóng vai trò hết sức quan trọng trong nâng cao ý thức và trách nhiệm
bảo vệ của doanh nghiệp. Việc hiểu biết đầy đủ pháp luật về bảo vệ môi trường trong
sinh hoạt nói chung và pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh
doanh nói riêng sẽ có ý nghĩa rất lớn cho các cá nhân, tổ chức trong xã hội xác định
được các trách nhiệm pháp lý của mình trước tình trạng ô nhiễm môi trường và bảo vệ
môi trường.
Trong thời gian thực tập tại Công ty CP Hợp tác quốc tế- Việt Nam, qua quá
trình tìm hiểu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bản thân người viết
nhận thấy tại công ty còn tồn tại một số vấn đề cặp liên quan đến trách nhiệm bảo vệ
môi trường. Từ những nhận thức và thực trạng nêu trên, người viết đã chọn chủ đề
“Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Công ty CP Hợp tác quốc tế- Việt Nam” để làm
đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.

Vấn đề bảo vệ môi trường và pháp luật về bảo vệ môi trường ngày càng được xã
hội quan tâm chú trọng. Điều này được thể hiên qua việc đã có nhiều công trình
nghiên cứu trong nước và ngoài nước về vấn đề đã được tiến hành trong thời gian qua.
Trong phạm vi giới hạn các công trình nghiên cứu trong nước, có thể kể đến một số
công trình nghiên cứu như sau:


Các luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp:

-

Nguyễn Thị Tố Uyên, “ Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong

lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam 2013”, Luận án tiến sĩ.
1


- Đinh Phương Quỳnh , “ Pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam: Thực trạng
– Giải pháp”, Luận văn thạc sĩ.
• Các bài viết trên báo, tạp chí:
- Bùi Đức Hiển, “ Hoàn thiện về pháp luật bảo vệ môi trường”, (Trên tạp chí,
số, trang…), Viện Nhà nước và Pháp luật.
- Phạm Hữu Nghị, “ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội (1/2002).
- Trần Thắng Lợi, “ Trách nhiệm pháp lý về môi trường ở một số nước”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp số 3/2004.
- Nguyễn Thị Tố Uyên, “Một số vấn đề về tội phạm môi trường ở Việt Nam”,
Tạp chí Dân chủ số 10/2010.
- Nguyễn Thị Tố Uyên , “Trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
ở Việt Nam” Tạp chí Dân chủ số 7/2011.

- Nguyễn Thị Tố Uyên, “ Hoàn thiện các quy định trách nhiệm hành chính
tronglĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ số 4 (241).
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến các khía cạnh pháp lý về bảo
vệ môi trường, trách nhiệm pháp lý của các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường ở nước ta đồng thời cũng đã chỉ ra được những bất cập của pháp luật trong lĩnh
vực này. Kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên là có cơ sở lý luận quan trọng
cũng như là nguồn tài liệu hết sức có ý nghĩa để đề tài “ Một số vấn đề pháp lý về bảo
vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và thực tiễn áp
dụng tại Công ty CP Hợp tác quốc tế- Việt Nam” tiếp tục triển khai.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu:
Với những lý do lựa chọn đề tài cũng như những nền tảng lý luận có liên quan
đến đề tài nêu trên, đề tài “Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ môi trường trong hoạt
động sản xuất kính của doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Công ty CP Hợp tác
quốc tế- Việt Nam” được xác lập với những vấn đề nghiên cứu sau:
-Các quan điểm lý luận về bảo vệ môi trường và pháp luật Việt Nam hiện nay về
môi trường trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Những hạn chế bất cập trong pháp luật Việt Nam hiện nay về bảo vệ môi
trường trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2


- Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật về
bảo vệ môi trường trong sản xuất kinh doanh, cũng như những bất cập còn tồn tại
trong sản xuất kinh doanh cũng như bất cập còn tồn tại trong quá trình trình thực hiện
pháp luật về bảo vệ môi trường của Công ty CP Hợp tác quốc tế- Việt Nam.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đề tài .
4.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này được xác định gồm:
- Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

- Thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường trong sản
xuất kinh doanh tại Công ty CP Hợp tác quốc tế- Việt Nam.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Với vấn đề nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu như đã nêu trên, mục tiêu của
khóa luận nhằm làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu đã đặt ra gồm :
- Làm sáng tỏ nội dung lý luận về bảo vệ môi trường và pháp luật về bảo vệ môi
trường trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở Việt Nam.
- Chỉ ra được những hạn chế bất cập còn tồn tại của pháp luật về bảo vệ môi
trường trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở Việt Nam.
- Nêu ra được những khó khăn và hạn chế bất cập đang tồn tại trong việc thực
hiện các quy định pháp luật về bảo vệ bất cập đang tồn tại trong những việc thực hiện
các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường trong sản xuất kinh doanh của Công ty
CP Hợp tác quốc tế- Việt Nam.
Từ việc làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu nêu trên, khóa luận còn hướng tới
mục tiêu đề xuất được các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống các quy định
pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường trong sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, đồng thời nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về lĩnh
vực này tại Công ty CP Hợp tác quốc tế- Việt Nam.
4.3 Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đề tài này được nghiên cứu trong phạm vi hệ thống bảo vệ môi trường và các
văn bản pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Luật bảo vệ môi trường năm 2014 về trách
nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh nói

3


chung và thông qua những hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty CP Hợp tác
quốc tế- Việt Nam nói riêng trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường và các văn bản pháp luật có liên quan. Như vậy, khóa luận tập trung nghiên cứu
những quy định của pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở phân tích những hạn chế của hệ thống quy
phạm pháp luật hiện nay, từ đó thấy được những bất cập hiện có để đưa ra những kiến
nghị giúp hoàn thiện pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu và đối tượng nêu trên, bài làm dựa trên sự tìm tòi, nghiên cứu trên
tinh thần khách quan từ thực tế môi trường sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung và thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của các Công ty CP
Hợp tác quốc tế- Việt Nam nói riêng qua các quy định của pháp luật quy định chi tiết,
cụ thể về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường. Dựa vào kết
quả đó, khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Tổng hợp và phân
tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp logic… Dưới đây là các phương
pháp được sử dụng chủ yếu trong quá trình nghiên cứu đề tài.
+ Phương pháp thu thập thông tin: Mục đích của việc thu thập thông tin làm cơ
sở lý luận khoa học hay luận cứ để đi sâu vào pháp luật về bảo vệ môi trường trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thu thập các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật và các tài liệu tổng
quan quy định về bảo vệ môi trường nói chung, và bảo vệ môi trường trong hoạt động
sản xuất kinh doanh nói riêng như Luật bảo vệ môi trường năm 2014, Luật thuế bảo vệ
môi trường năm 2012… Các văn bản pháp luật có liên quan có liên quan từ đó đưa ra
một số nội dung pháp lý về vấn đề môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Thu thập thông tin, số liệu có liên quan đến bảo vệ môi trường trong sản xuất
kinh doanh của Công ty CP Hợp tác quốc tế- Việt Nam. Để làm rõ thực trạng áp dụng
pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất tại công ty.
+ Phương pháp phân tích – tổng hợp: Dựa trên cơ sở các tài liệu đã thu thập
được, người viết đi phân tích, đánh giá nội dung các quy định của pháp luật về môi
trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh và thực trạng áp dụng chúng trong sản

4



xuất kinh doanh của Công ty CP Hợp tác quốc tế- Việt Nam. Từ những kết quả đã
phân tích tổng hợp lại để có nhận thứ đúng đắn và đầy đủ, tìm ra được bản chất, quy
luật vận động của pháp luật về hoạt động sản xuất kinh doanh và đề xuất giải pháp
hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp.
6. Kết cấu đề tài
Chương I. Một số lý luận cơ bản về pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương II. Thực trạng pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng về bảo vệ môi trường tại công ty cổ
phần quốc tế- Việt Nam.
Chương III. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần quốc tế - Việt Nam.

5


CHƯƠNG I:
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1.1 Khái quát chung về bảo vệ môi trường và pháp luật bảo vệ môi trường
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.1 Khái niệm về bảo vệ môi trường và bảo vệ môi trường trong hoạt động
kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp.
Môi trường là một khái niệm có nội hàm rộng. Môi trường gồm toàn bộ những
điều kiện tự nhiên và xã hội. Tại khoản 1 điều 3 LBVMT 2014 có nêu: “Môi trường
bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người có ảnh hưởng
đến đời sống sản xuất và sự tồn tại phát triển của con người và sinh vật.” Theo đó,
môi trường chính là không gian sống của con người và các loài sinh vật; là nơi cung

cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người; là nơi
chứa đựng các phế chất thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất
của mình; là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh
vật trên Trái Đất; là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp;
phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc
phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý
và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học trong quá trình sinh sống
và hoạt động sản xuất của con người. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ sự sống của
chúng ta.
Theo quy định tại Khoản 3,Điều 3, Luật bảo vệ môi trường 2014, " Hoạt động
bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng
ngừa, hạn chếtác động xấu đối với môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục
ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường và cải thiện môi trường; khai thác,
sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học".
Bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là các
hoạt động của cá nhân, tổ chức trong quá trình sản xuất kinh doanh đồng dưới sự điều
chỉnh của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm đảm bảo môi trường sống được
bảo vệ tốt nhất. Bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động
6


có trách nhiệm không chỉ một cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh trên một địa bàn
nhất định mà đó là hoạt động nhân rộng, được thực hiện thường xuyên và liên tục trên
sự liên kết chặt chẽ của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính phủ
đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường nhằm xử lý, răn đe
những tổ chức, cá nhân có hành vi làm tổn hại đến môi trường, rồi các công nghệ xử lý
rác thải, phát minh khoa học ra đời nhằm giảm thiểu những tác động đến môi trường
1.1.2 Pháp luật về bảo vệ môi trường và khung pháp luật về bảo vệ môi trường
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Pháp luật về bảo vệ môi trường là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện nhăm điều
chỉnh các vấn đề môi trường theo mục tiêu định hướng cụ thể.
Pháp luật về bảo vệ môi trường là những khuôn mẫu, chuẩn mực để các cá nhân,
tổ chức trong xã hội áp dụng và thực hiện theo , giúp cho mọi chủ thể trong xã hội đều
có thể tìm được cách cư xử phù hợp với ý chí, mong muốn của nhà nước và giúp nhà
nước quản lý xã hội, thiết lập và giữ gìn môi trường tốt hơn.
Pháp luật bảo vệ môi trường được xây dựng khá nhiều văn bản pháp luật và văn
bản dưới luật như Luật Bảo vệ môi trường, Luật thuế bảo vệ môi trường, các thông tư,
nghị định…Việc ban hành các văn bản đó đều có chung mục đích là bảo vệ môi
trường sống xung quanh chúng ta.
+ Luật Bảo vệ môi trường.
Có rất nhiều quan điểm khi định nghĩa về luật Bảo vệ môi trường. Luật môi trường
(với tư cách là một ngành luật độc lập) là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình các chủ thể có hành vi khai
thác, sử dụng hoặc tác động đến một hoặc nhiều thành phần môi trường [Từ điển giải
thích thuật ngữ luật học, Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
2000, Tập Luật kinh tế, Luật môi trường, Luật tài chính, ngân hàng, trang 175]
+ Luật Thuế bảo vệ môi trường.
Luật Thuế bảo vệ môi trường đã được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2010 và
chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2012, Hoạt động bảo vệ môi trường
luôn là một trong những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Thực
chất, thuế bảo vệ môi trường được xác định là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm

7


hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường.
+ Các văn bản dưới luật về bảo vệ môi trường.
Trên thực tế, ở nước ta trong những năm gần đây, trong hoạch định và tổ chức

xây dựng các văn bản pháp luật, các nhà quản lý, nhà làm luật đều rất quan tâm đến
vấn đề bảo vệ môi trường. Trong phạm vi và đối tượng điều chỉnh cụ thể trong từng
văn bản pháp luật, các quan hệ về bảo vệ môi trường với luật chuyên ngành đã được
xử lý một cách hài hoà và ngày càng mang tính khả thi cao. Đối tượng điều chỉnh của
pháp luật môi trường là các quan hệ xã hội trong quá trình tác động giữa xã hội, con
người và môi trường. Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật
chung và văn bản pháp luật chuyên ngành khác có quy định về nghĩa vụ bảo vệ môi
trường mà các chủ thể phải thực hiện nhằm góp phần vào việc bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, môi trường trong sạch và phát triển bền vững. Các văn bản này điều chỉnh các
nhóm quan hệ sau:
+ Nhóm quan hệ hình thành trong hoạt động quản lý nhà nước đối với môi
trường thuộc phạm vi điều chỉnh chủ yếu của Luật Bảo vệ môi trường và các luật có
liên quan;
+ Nhóm quan hệ về phòng, chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi
trường, phòng chống sự cố môi trường. kiểm soát các hoạt động ảnh hưởng đến môi
trường thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Bảo vệ môi trường và hệ thống các văn bản
có liên quan;
+ Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng các thành phần môi
trường thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về tài nguyên;
+ Nhóm quan hệ về giải quyết tranh chấp môi trường, xử lý vi phạm pháp luật
môi trường thuộc phạm vi điều chỉnh của các ngành luật dân sự, hình sự, hành chính;
+ Nhóm quan hệ về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường.
Trên cơ sở việc điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội chủ yếu kể trên, pháp luật
bảo vệ môi trường được cấu thành bởi một số chế định căn bản sau:
- Chế định về quản lý nhà nước về môi trường
- Chế định đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường . Chế

định về phòng, chống, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường.
- Chế định bảo vệ các thành tố môi trường, các nguồn tài nguyên.


8


- Chế định về quan hệ quốc tế trong việc bảo vệ môi trường

1.1.3 Vai trò của pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường có vai trò quan trọng trong việc hạn
chế các vi phạm môi trường, đều này được thể hiện ở khía cạnh sau:
Pháp luật trong vấn đề bảo vệ môi trường quy định các biện pháp xử phạt mà các
chủ thể phải gánh chịu khi thực hiện hành vi khai thác và sử dụng các yếu tố của môi
trường không đúng theo quy định của Pháp luật, chính vì vậy đây là công cụ điều tiết
các hành vi của các chủ thế vi phạm có tác dụng rất lớn trong việc định hướng quá
trình khai thác môi trường theo tiêu chuẩn nhất định qua, đó sẽ hạn chế những tác hại
và ngăn chặn được sự suy thoái về môi trường.
Pháp luật trong vấn đề bảo vệ môi trường quy định các biện pháp mang tính
trừng phạt (về vật chất và tinh thần), có tác dụng răn đe các chủ thể vi phạm pháp luật
qua đó định hướng các hành vi khai thắc và sử môi trường một cách hiệu quả.
Pháp luật trong vấn đề bảo vệ môi trường có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra cơ
chế áp dụng pháp luật cho các tổ chức bảo vệ môi trường, cụ thể thông qua các quy
phạm pháp luật này được nhà nước trao cho các cơ quan chức năng các thẩm quyền áo
dụng biện pháp trừng phạt trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Pháp luật trong vấn đề bảo vệ môi trường có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra cơ
chế áp dụng pháp luật cho các tổ chức bảo vệ môi trường, cụ thể thông qua các quy
phạm pháp luật này nhà nước trao cho các cơ quan chức năng các thẩm quyền áp dụng
biện pháp trừng phạt trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Vai trò trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn thể hiện ở việc ban hành các biện
pháp bồi thường thiệt hại (chủ yếu được quy định ở pháp luật trách nhiệm dân sự)
Thông qua đó giúp các bên liên quan giải quyết được các tranh chấp môi trường.
Với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những tác

động ảnh hưởng tới môi trường khá lớn vì vậy vấn đề ban hành pháp luật về vấn đề
bảo vệ môi trường trong sản xuất kinh doanh lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn nhằm
bảo vệ môi trường hơn.

9


1.2 Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1 Quá trình hình thành pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ
môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng.
Mặc dù pháp luật về bảo vệ môi trường là một vấn đề còn mới nhưng các văn
bản có liên quan đến bảo vệ môi trường cho thấy vấn đề bảo vệ môi trường đã từng
bước được hoàn chỉnh và khẳng định là một vấn đề hệ trọng và ngày càng được quan
tâm, được thể chế hoá vào hầu hết các ngành luật.
- Luật bảo vệ môi trường năm 2014
Trước năm 1986, chính sách về bảo vệ môi trường, phòng chống ô nhiễm, kiểm
soát suy thoái môi trường hầu như chưa được đề cập cụ thể.
Trong bối cảnh tại thời điểm năm 1993, việc nhà nước ta sớm ban hành Luật Bảo
vệ môi trường đầu tiên cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với công
tác bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 gồm có 55 điều được chia
làm 7 chương, quy định những vấn đề có tính cốt lõi nhất trong công tác bảo vệ môi
trường. Tuy nhiên, qua hơn 12 năm thực hiện, đạo luật đã bộc lộ nhiều bất cập trước
những bước phát triển mới trong đời sống kinh tế, xã hội, đòi hỏi phải có sự sửa đổi
toàn diện. Đáp ứng yêu cầu này, tại kỳ họp thứ 8 (Khóa XI), Quốc hội đã thông qua
Luật Bảo vệ môi trường mới (LBVMT 2014 ), thay thế cho Luật Bảo vệ môi trường
năm 1993. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 ra đời bổ sung LBVMT 2014 được
quốc hội thông qua ngày 23/06/2014. Đồng thời trong giai đoạn này, nhà nước ta cũng
ban hành hàng loạt đạo luật và Pháp lệnh quan trọng về tài nguyên và môi trường.
Trong đó hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã được chú trọng hơn bởi

tính chất đặc thù của hoạt động này tác động tới môi trường khá lớn.
- Luật thuế bảo vệ môi trường 2012.
Luật Thuế bảo vệ môi trường đã được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2010 và
chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2012, Hoạt động bảo vệ môi trường
luôn là một trong những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Thực
chất, thuế bảo vệ môi trường được xác định là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm
hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường.
Luật thuế bảo vệ môi trường quy định 8 nhóm sản phẩm hàng hóa hiện nay đang

10


chịu sự điều chỉnh của Luật Thuế Bảo vệ môi trường. Đó là xăng, dầu, mỡ nhờn; than
đá; dung dịch hydro - chloro - fluoro - carbon (HCFC); túi ni lông thuộc diện chịu
thuế; thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng; thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử
dụng; thuốc bảo quản lâm sản thuộc loại hạn chế sử dụng; thuốc khử trùng kho thuộc
loại hạn chế sử dụng. Như vậy, không phải bất cứ doanh nghiệp nào khi tham gia hoạt
động sản xuất kinh doanh đều chịu sự điều chỉnh của loại luật này.
-

Các văn bản quy phạm pháp luật khác

Ban hành kèm với Luật là các nghị định, thông tư nghị quyết hướng dẫn thi hành,
thực hiện một cách cụ thể và rõ ràng theo tầng thời kỳ sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn
luật về bảo vệ môi trường.
Để thực hiện các Luật, Pháp lệnh, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài
nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành hữu quan đã ban hành nhiều văn bản hướng
dẫn có nội dung quy định về bảo vệ môi trường.
Các văn bản này tập trung vào giải quyết các nội dung chính sau: quy định hệ
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường Việt Nam; quy định quy trình

đánh giá tác động môi trường; quy định về giấy phép môi trường; quy định về thanh
tra môi trường; quy định về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường; quy định về các thiết chế bảo vệ môi trường (tổ chức, bộ máy, phân
công nhiệm vụ giữa các cơ quan bảo vệ môi trường)…
Kết quả rà soát cho thấy, hiện có hơn 90 Nghị định của Chính phủ, hơn 50 Quyết
định và 30 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, cùng hàng trăm thông tư, chỉ thị, quyết
định của các Bộ, ngành đã ban hành có nội dung liên quan trực tiếp tới công tác bảo vệ
môi trường.
1.2.2 Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi
trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng.
Các quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường nằm trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật ở nhiều tầm hiệu lực pháp luật khác nhau từ Hiến pháp đến các văn
bản của các Bộ, ngành (chưa kể các văn bản của chính quyền địa phương). Các quy
định ban hành rộng rãi và có sự liên kết nhau chặt chẽ với nhau từ chiều dọc tới chiều
ngang, từ hoạt động bảo vệ môi trường nói chúng tới hoạt động bảo vệ môi trường
trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng đều chịu tác động dưới quy định

11


của pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường.
-

Các quy định của Hiến pháp.

Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật,
Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã có những quy định mang
tính nguyên tắc về bảo vệ môi trường.
Điều 29 Hiến pháp đã quy định nghĩa vụ “bảo vệ môi trường” - một loại nghĩa vụ
pháp lý của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội.

-

Hệ thống Luật, Pháp lệnh.

Ở tầm Luật và Pháp lệnh, việc bảo vệ môi trường được quy định bởi Luật Bảo vệ
môi trường (ban hành năm 1993 và được thay thế bởi Luật Bảo vệ môi trường năm
2014) và các văn bản có liên quan. Hiện nay có 33 Luật và 22 Pháp lệnh có nội dung
liên quan tới công tác bảo vệ môi trường.
Trong hệ thống các Luật, Pháp lệnh về bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi
trường có thể coi là đạo luật trung tâm trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 gồm 136 điều được chia làm 15
chương quy định 14 nhóm vấn đề quan trọng sau đây:


Phạm vi, đối tượng điều chỉnh, nguyên tắc, chính sách về bảo vệ môi trường

của Việt Nam;


Tiêu chuẩn môi trường;



Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết

bảo vệ môi trường;


Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên;




Các biện pháp bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch

vụ; Các yêu cầu và biện pháp bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư;


Bảo vệ môi trường biển, nước sông và các nguồn nước khác;



Quản lý chất thải;



Các biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm và

phục hồi môi trường;


Quan trắc và thông tin về môi trường;



Nguồn lực bảo vệ môi trường;

12





Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường: thực hiện điều ước quốc tế về môi

trường; bảo vệ môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá;
mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường;


Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước (Chính phủ, Bộ Tài nguyên và

Môi trường, các Bộ, ngành khác, Ủy ban nhân dân các cấp), Mặt trận tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên về bảo vệ môi trường.


Thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và bồi thường thiệt hại

về môi trường.
Bên cạnh Luật Bảo vệ môi trường, Luật Thuế bảo vệ môi trường, hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn có các đạo luật, pháp lệnh về bảo vệ
các thành tố môi trường (còn gọi là các đạo luật, pháp lệnh về tài nguyên). Ngoài ra,
quy định về nghĩa vụ bảo vệ môi trường hoặc nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp
luật về bảo vệ môi trường đối với các tổ chức, cá nhân còn nằm rải rác trong nhiều đạo
luật khác. Hơn nữa, một số đạo luật, pháp lệnh còn quy định cụ thể việc xử lý vi phạm
pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật về môi trường hay một số đạo luật, pháp lệnh
có những nội dung quan trọng liên quan đến vấn đề tài chính trong bảo vệ môi trường.
1.2.3 Một số nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và
bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng, các chính sách thương
mại, tài nguyên và môi trường có vai trò hỗ trợ lẫn nhau, nhằm thúc đẩy phát triển bền
vững và thực sự nó đang nỗ lực giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tếxã hội và bảo vệ môi trường. Do đó, một quốc gia để đạt được mục tiêu trở thành một
nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, bền vững, cần khai thác và sử dụng hợp

lý các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tự nhiên. Trong xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá
thương mại, các nước đang phát triển rất quan tâm tới việc chống lại và loại bỏ khả
năng tiếp cận thị trường của các sản phẩm nhập khẩu vào nước họ mà không tuân thủ
các quy trình sản xuất, các sản phẩm không phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường.
Việc tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ hỗ
trợ cho hoạt động động tiêu thụ của doanh nghiệp và từ đó góp phần nâng cao hiệu quả
kinh doanh.
Từ những đánh giá tổng quan về pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường, khái
13


quát lại, thành tựu trong công tác xây dựng hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường
được thể hiện tập trung ở những điểm sau:
Một là, hệ thống pháp luật quy định về bảo vệ môi trường ở nước ta từ năm 1993
đến nay đã phát triển cả nội dung lẫn hình thức, điều chỉnh tương đối đầy đủ các yếu
tố tạo thành môi trường.
Hai là, các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tương đối đầy đủ các thành
phần môi trường, nội dung các quy định đã cụ thể hoá tương đối kịp thời và đầy đủ các
chủ trương của Đảng cũng như những cam kết quốc tế về môi trường mà Việt Nam là
thành viên.
Ba là, bên cạnh việc tích cực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường, Việt Nam đã từng bước tham gia các điều ước quốc tế về môi trường…
Việc gia nhập các công ước này là tiền đề quan trọng cho việc hội nhập của pháp luật
Việt Nam với những tiêu chuẩn và quy phạm của pháp luật quốc tế.
Bốn là, chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được tập trung vào
một đầu mối thống nhất là Bộ Tài nguyên và Môi trường là đúng hướng, tuy nhiên vẫn
chưa triệt để. Bởi việc quản lý tài nguyên vẫn còn nằm rải rác ở một số bộ, ngành, điều
này dẫn tới cơ chế phối hợp trong quản lý nhà nước chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả.
1.3 Một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và
pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp nói riêng.
1.3.1 Nguyên tắc Nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền con người được sống trong
một môi trường trong lành
Quyền được sống trong môi trường trong lành là quyền được sống trong một môi
trường không bị ô nhiễm, đảm bảo cuộc sống được hài hòa với tự nhiên. Dưới góc độ
pháp lý, quyền được sống trong môi trường trong lành chính là quyền được sống trong
một môi trường đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn và quy chuẩn về môi trường do Nhà nước
công bố hoặc ban hành. Qua hoạt động của nguyên tắc này dẫn tới trách nhiệm của
nhà nước phải đảm bảo những biện pháp cần thiết để bảo vệ và cải thiện chất lượng
môi trường nhằm đảm bảo cho người dân có được môi trường sống trong lành. Đồng
thời cũng tạo các cơ sở pháp lý cho người dân bảo vệ quyền được sống trong môi
trường của mình thông qua những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như các

14


quyền khiếu nại, tố cao, quyền tự do cư trú, quyền được bồi thường thiệt hại, quyền
tiếp cận thông tin…
1.3.2 Nguyên tắc phát triển bền vững.
Theo khoản 4, điều 3 Luật Bảo vệ môi trường phát triển bền vững được định
nghĩa là: Phát triển để đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại
đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ trương lại nên trên cơ sở kết hợp chặt
chẽ hài hòa giữa tăng trường kinh tê, bảo đảm tiến bộ và bảo vệ môi trường. Nói cách
khác, phát triển bền vững chính là phát triển trên cơ sở duy trì được mục tiêu và cơ sở
vật chất của quá trình phát triển. Muốn vật cần phải có sự tiếp cần mang tính chất ài
hòa giữa các mục tiêu kinh tế - xã hội- môi trường.
1.3.3 Nguyên tắc phòng ngừa.
Phòng ngừa luôn được coi là phương châm của hoạt động bảo vệ moi trường.
thực tế đã chứng minh, chi phí bỏ ra để khắc phục hậu quả bao giờ cũng lớn hơn rất
nhiều so với chi phí phòng ngừa cho dù đó là một sự cố kỹ thuật hay dịch bênh…Hơn

thế nữa, đối với một số hậy quả do ô nhiễm môi trường thì không thể khắc phục được,
có có thể bằng nguyên tắc phòng ngừa.
Bên cạnh đó tại điều Điều 4, Chương I của Luật Bảo vệ môi trường có quy định
cụ về nguyên tắc bảo vệ môi trường như sau:
1. Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến
bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước; bảo vệ môi trường quốc gia phải gắn với
bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu.
2. Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ
quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
3. Hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng ngừa là chính kết
hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.
4. Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa, lịch
sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
5. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách
nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy định của
pháp luật.

15


CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI CÔNG TY CP HỢP
TÁC QUỐC TẾ- VIỆT NAM.
2.1 Đánh giá tổng quan pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Mặc dù bảo vệ môi trường là một vấn đề còn khá mới mẻ nhưng các văn bản có
liên quan đến bảo vệ môi trường cho thấy vấn đề bảo vệ môi trường đã từng bước
được hoàn chỉnh và khẳng định là một vấn đề hệ trọng và ngày càng được quan tâm,

được thể chế hoá vào hầu hết các ngành luật. Trong công tác xây dựng hệ thống pháp
luật về bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động
sản xuất kinh doanh được thể hiện ở những điểm nổi bật sau:
Một là, hệ thống pháp luật quy định về bảo vệ môi trường ở nước ta từ năm 1993
đến nay đã phát triển cả nội dung lẫn hình thức, điều chỉnh tương đối đầy đủ các yếu
tố tạo thành môi trường.
Hai là, các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tương đối đầy đủ các thành
phần môi trường, nội dung các quy định đã cụ thể hoá tương đối kịp thời và đầy đủ các
chủ trương của Đảng cũng như những cam kết quốc tế về môi trường mà Việt Nam là
thành viên.
Ba là, bên cạnh việc tích cực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường, Việt Nam đã từng bước tham gia các điều ước quốc tế về môi trường…
Việc gia nhập các công ước này là tiền đề quan trọng cho việc hội nhập của pháp luật
Việt Nam với những tiêu chuẩn và quy phạm của pháp luật quốc tế.
Bốn là, chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được tập trung vào
một đầu mối thống nhất là Bộ Tài nguyên và Môi trường là đúng hướng, tuy nhiên vẫn
chưa triệt để. Bởi việc quản lý tài nguyên vẫn còn nằm rải rác ở một số bộ, ngành, điều
này dẫn tới cơ chế phối hợp trong quản lý nhà nước chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được nêu trên, từ thực trạng tổ chức thi hành
các văn bản pháp luật về quản lý nhà nước và việc bảo vệ môi trường cho thấy tình
trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường đang có xu hướng gia tăng, đa dạng sinh học trên

16


đất liền và dưới nước bị suy giảm; không khí và nguồn nước đang bị cạn kiệt dần về
lượng, suy giảm về chất.... Việc quy định như vậy dẫn đến tình trạng khó áp dụng và
vận dụng trong thực tiễn. Có thể chỉ ra những yếu kém chính của hệ thống pháp luật
về môi trường là:
Thứ nhất, các quy định của Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản quy phạm

pháp luật về tài nguyên thiên nhiên hoặc điều chỉnh các hoạt động của con người trong
quá trình sản xuất, kinh doanh còn những điểm trùng lặp, mâu thuẫn khiến cho quá
trình áp dụng pháp luật gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các quy phạm về bảo vệ
môi trường trong các văn bản quy phạm pháp luật còn khá chung chung, đặc biệt là
trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác rất mờ nhạt, khó thực hiện.
Thứ hai, thiếu thiết chế thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường, cơ chế bảo đảm
thực thi pháp luật quốc gia cũng như thực hiện các cam kết quốc tế, điều ước quốc tế
về môi trường chưa cao.
Thứ ba, các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường liên quan đến
từng thành phần môi trường hay điều chỉnh những hoạt động của con người lên môi
trường được ban hành chưa đồng bộ, còn chậm cả về mặt thời gian ban hành và nội
dung của các quy định.
Thứ tư, những quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không có biện pháp xử lý
thích hợp đối với người vi phạm nên không được thực hiện.
Thứ năm, chưa có đủ các văn bản quy phạm pháp luật để huy động sự tham gia, đóng
góp của mọi tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi trường. Với các văn bản quy phạm pháp
luật hiện nay thì việc bảo vệ môi trường dường như chỉ là việc của các cơ quan quản lý chứ
chưa thực sự trở thành “sự nghiệp của toàn dân” như các văn bản của Đảng.
2.2 Thực trạng các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc ban hành các pháp luật về bảo vệ môi trường là những bước tiến lớn trong
quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường nước ta đáp ứng các yêu cầu mới
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích cực, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế.
Tuy nhiên, một trong những vấn đề về mặt pháp lý mà pháp luật về bảo vệ môi
trường vẫn chưa giải quyết được chính là việc xác định vị trí của các đạo luật này

17



trong hệ thống pháp luật và xử lý mối quan hệ giữa các đạo luật này với các đạo luật
có liên quan trong đó có các đạo luật về tài nguyên (Luật Đất đai, Luật Tài nguyên
nước, Luật Khoáng sản v.v.) và các đạo luật có liên quan khác (chẳng hạn như Bộ luật
Dân sự, Luật Doanh nghiệp v.v.).
Thực tế quá trình áp dụng pháp luật về vệ môi trường cũng cho thấy, do thiếu
quy phạm xử lý mối quan hệ giữa pháp luật về bảo vệ môi trường và các đạo luật có
liên quan mà trong trường hợp có sự chồng lấn, mâu thuẫn giữa các quy định trong
Luật Bảo vệ môi trường (hoặc các văn bản hướng dẫn luật này) với các quy định trong
các đạo luật khác (hoặc các văn bản hướng dẫn các đạo luật này) thì việc chọn quy
phạm nào để áp dụng cho hợp lý có khá nhiều lúng túng, vướng mắc:
a) Quy định về đánh giá tác động môi trường
Các quyết định, nhị quyết trong thời gian gần đây quy định về vấn đề này như:
Quyết định Số: 589/QĐ-TTg về việc phê duyệt điều chỉnh định hướng phát triển thoát
nước đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn 2050; Nghị định
số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ: Về quản lý chất thải và phế liệu; Nghị định số
80/2014/NĐ-CP của Chính phủ: Về thoát nước và xử lý nước thải Mục đích cơ bản
của đánh giá tác động môi trường là đảm bảo gắn sự phát triển kinh tế, xã hội với việc
bảo vệ môi trường, hay nói cách khác là bảm đảm tính bền vững của các dự án đầu tư.
Đồng thời giúp các nhà quản lý xem xét nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là công
nghệ xử lý chất thải và giám sát môi trường. Có thể nói, đánh giá tác động môi trường
là công cụ pháp lý hữu hiệu của nhà nước nhằm phòng, chống suy thoái, ô nhiễm và
sự cố môi trường. Các quy định về đánh giá tác động môi trường đóng vai trò rất quan
trọng trong hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung. Pháp luật về đánh giá
tác động môi trường được đặc biệt quan tâm xây dựng, phát triển và tổ chức thực hiện
trong thời gian qua. Đặc biệt là những năm của thập kỷ 90 của thế kỷ trước.
b) Quy định về phân định thẩm quyền nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường.
Luật Bảo vệ môi trường chưa có quy định rõ ràng giữa quản lý nhà nước về bảo
vệ môi trường với quản lý nhà nước về khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài
nguyên thiên nhiên như rừng, nước, khoáng sản, dầu khí, thuỷ sản… Do đó, nhiều

trường hợp còn xảy ra sự chồng chéo chức năng, thẩm quyền giữa các Bộ Tài nguyên

18


và Môi trường với các Bộ, ngành quản lý các thành phần môi trường khác có các hoạt
động quản lý liên quan đến môi trường.
Sự “chồng chéo ngang” về chức năng, thẩm quyền có thể nhìn nhận khi các hoạt
động khai thác tài nguyên thiên nhiên do các bộ, ngành quản lý khác quy định. Dù
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 (tại Điều 121) đã cố gắng cụ thể hóa việc phân định
trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường giữa các Bộ, ngành nhưng ngay cả
như vậy, thì việc xảy ra chồng lấn cũng là điều khó tránh. Cụ thể Chương XIII Luật
Bảo vệ môi trường năm 2014 không quy định rõ vai trò của Bộ Tài nguyên và Môi
trường trong việc giúp Chính phủ chủ trì, thống nhất các hoạt động quản lý nhà nước;
không quy định trách nhiệm các bộ, ngành cần phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi
trường thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong ngành, lĩnh vực mình quản lý.
c) Quy định về thiết chế thực thi pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường.
Hiện tại, hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trực thuộc
cấp tỉnh và huyện đã được quy định tại Nghị định 13/2008/NĐ - CP ngày 04/02/và
Nghị định 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ, Quyết định số
45/2003/QĐ-TTg ngày 2/4/2003 về việc thành lập Sở Tài nguyên và Môi trường, đổi
tên Sở Khoa học, Công nghệ và môi trường thành Sở Khoa học và Công nghệ thuộc
Uỷ ban nhân dân, thành phố trực thuộc trung ương; Thông tư số 03/2008/TTLTBTNMT-BNV Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ
quan chuyên môn về tài nguyên và môi trường thuộc Ủy ban nhân dân các cấp v.v.Tuy
đã được quan tâm củng cố và tăng cường nhưng so với yêu cầu của công tác bảo vệ
môi trường trong giai đoạn hiện nay, hệ thống thiết chế bảo vệ môi trường còn phải
tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Một trong những giải pháp để củng cố hệ thống
thiết chế về bảo vệ môi trường là thành lập thêm các thiết chế mới để mở rộng mạng
lưới thiết chế bảo vệ môi trường.
Đáp ứng yêu cầu này, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 (Điều 123) quy định

việc thành lập thêm tổ chức chuyên môn về bảo vệ môi trường thuộc các Bộ, ngành,
các tổng công ty nhà nước, các khu công nghiệp v.v.
Tuy nhiên, để triển khai các quy định này, nhiều nội dung cần phải được làm rõ
như cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, lực lượng nhân sự cho các tổ chức kể
trên.

19


d) Quy định về xử lý vi phạm
Các chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường được quy
định khá đầy đủ và đồng bộ bao gồm chế tài hành chính, chế tài dân sự, chế tài hình sự
(Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự và Nghị định số 117/2009/NĐ-CP…). Các quy định
này luôn được xem là căn cứ pháp lý quan trọng để ngăn ngừa và xử lý các vi phạm
pháp luật bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập trong các quy định
về các chế tài.
- Mặc dù Bộ luật Hình sự Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2009 được thông qua

và có hiệu lực nhưng chưa có hành vi nào quy định tại Chương XVII bị truy tố. Việc
thực hiện 10 điều luật của Chương XVII Bộ luật hình sự 2009 sửa đổi bổ sung Bộ luật
Hình sự năm 1999 đang gặp rất nhiều khó khăn, có thể nói là chưa được thực hiện.
Các chế tài hình sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường vẫn chỉ nằm trên giấy.
- Mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường theo

Nghị định số 117/2009/NĐ-CP vẫn phù hợp với thực tế, chưa đủ răn đe đối với các đối
tượng vi phạm pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường, chồng chéo với các văn bản quy
phạm pháp luật khác như 04/2008/TTBTNMT, việc dẫn chiếu tới các văn bản khác
không cụ thể...Điều này khiến các đơn vị quản lý nhà nước gặp nhiều khó khăn khi sử
dụng Nghị định 117/2009/NĐ-CP, còn đối với các doanh nghiệp thì lại rất khó thực
hiện đúng. Việc xử lý các vi phạm pháp luật về môi trường, các quy định hay gặp sự

mâu thuẫn chồng chéo nhất chính là các quy định xử lý hành chính. Cụ thể, trong các
Nghị định về xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi gây ảnh hưởng xấu tới môi
trường, tình trạng cùng hành vi tương tự nhau nhưng mức xử phạt quy định khác nhau
trong các văn bản khác nhau vẫn còn tồn tại.
- Pháp luật về trách nhiệm dân sự (bồi thường thiệt hại về môi trường) trong lĩnh

vực bảo vệ môi trường còn quá chung chung, thiếu cụ thể và khó áp dụng trên thực tế.
Tình trạng dẫn chiếu vòng vẫn chưa được giải quyết như “bồi thường thiệt hại theo
quy định pháp luật”, trong khi môi trường ngày càng bị ô nhiễm, suy thoái, mặc dù
Điều 628 Bộ Luật Dân sự và Luật Bảo vệ môi trường đã có quy định về vấn đề này.
- Chưa có quy định rõ ràng để phân biệt giữa trách nhiệm khắc phục, phục hồi

môi trường theo pháp luật về hành chính và trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo pháp
luật về dân sự.

20


×