Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Pháp luật về hoạt động cho vay Thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.65 KB, 46 trang )

TÓM LƯỢC
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã thực hiện rất nhiều đường lối đổi
mới cơ chế kinh tế. Quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được những
thành tựu nổi bật. Nhưng quá trình đó càng đi vào chiều sâu và bề rộng thì càng bộc
lộ rõ những vấn đề mới cần giải quyết. Tự do, năng động, sáng táo, nhạy bén là
thuộc tính khách quan và là yêu cầu của nền kinh tế thị trường, nhưng gắn liền với
nó là gian lận kinh doanh, thương mại… Hơn nữa, trong giai đoạn này nước ta đã
thực sự hội nhập vào nền kinh tế quốc tế thì càng cần thiết đòi hỏi Nhà nước phải có
một khung pháp lý Thương mại hoàn chỉnh để điều chỉnh các hoạt động đó đúng
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đang chuyển
sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu
công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, ngân hàng là ngành kinh tế chủ
chốt quan trọng, chi phối và có sự ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các ngành
kinh tế khác. Nhận thức được vị trí và vai trò của mình, các Ngân hàng thương mại
(NHTM) ở nước ta đang từng bước khẳng định sự lớn mạnh của mình trong mọi
phương diện hoạt động, đặc biệt là hoạt động cho vay nhằm phục vụ đắc lực về vấn
đề vốn cho sự phát triển của các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
Là một sinh viên chuyên ngành luật thương mại cùng những kết quả thu
được trong quá trình thực tập tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Đầu tư và phát
triển Việt Nam chi nhánh Quảng Ninh, em quyết định lựa chọn đề tài: "Pháp luật về
hoạt động cho vay - Thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu
tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quảng Ninh." làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp.

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Th.s Nguyễn Phụng Dương, giảng viên Bộ môn
Luật Căn bản, Khoa Kinh tế - Luật, trường Đại học Thương Mại trong thời gian qua
1



đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình viết và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp
này.
Em xin cảm ơn Ban lãnh đạo cùng các anh chị cán bộ công nhân viên
trong Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh
Quảng Ninh đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em nắm bắt thông tin để thực hiện đề
tài.
Với thời gian thực tập và nghiên cứu có hạn, cùng khả năng của bản thân còn
hạn chế, bài viết của em không tránh khỏi gặp phải một số thiếu sót. Em rất mong
có được sự góp ý, đánh giá của thầy cô để nội dung bài khóa luận này được hoàn
chỉnh hơn, góp một phần nào đó vào giải quyết vấn đề nhằm hoàn thiện hơn hệ
thống pháp luật về hoạt động cho vay của NHTM.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Trần Huyền Trang

MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT

2


NHTM

Ngân hàng Thương mại

NHNN


Ngân hàng nhà nước

TCTD

Tổ chức tín dụng

BLDS

Bộ Luật dân sự

BIDV

Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Đầu tư và Phát
triển Việt Nam

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới

HĐTD

Hợp đồng tín dụng

NĐ-CP

Nghị định chính phủ

3



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Trong thời đại mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, dịch vụ ngân hàng
là một trong những động lực quan trọng để phát triển quốc gia nói chung và kinh tế
nói riêng. Hầu hết các quốc gia trên thế giới, tổ chức tín dụng đóng vai trò vô cùng
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Nền kinh tế Việt Nam trong những
năm gần đây luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao so với khu vực. Với mức độ tăng
trưởng như hiện nay, nhu cầu vốn cho nền kinh tế là hết sức lớn. Thêm vào đó, mỗi
doanh nghiệp đều muốn được thể hiện và khẳng định vị trí của mình trên thương
trường, muốn thắng được đối thủ cạnh tranh đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải có
được ba yếu tố đó là: Vốn; Lao động; Khoa học công nghệ, trong đố có thể nói Vốn
là yếu tố nền tảng hình thành nên hai yếu tố còn lại. Nếu có vốn thì mỗi doanh
nghiệp sẽ mua được máy móc thiết bị xây dựng nhà xưởng... Đồng thời họ cũng
thuê được lao động, đào tạo được đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn ngày càng
cao hơn. Nhưng rõ ràng là với số vốn tự có của mình thì bản thân mỗi doanh nghiệp
sẽ không thể đảm bảo được tất cả các mối quan hệ kinh tế, chính vì thế mà trong
nguồn vốn của doanh nghiệp luôn tồn tại hai nguồn chính đó là Nợ và Vốn chủ sở
hữu. Trong điều kiện hiện nay, đầu tư nước ngoài chưa đạt được mức kế hoạch,
ngược lại ở nhiều nơi có dấu hiệu giảm sút thì chủ trương dựa vào nguồn vốn trong
nước đang được thực hiện triệt để. Tuy nhiên, các kênh huy động vốn từ nội lực
kinh tế còn hạn hẹp. Thực tế cho thấy phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam năng
lực tài chính còn yếu kém, hoạt động chủ yếu dựa trên nguồn vốn vay từ các Tổ
chức tín dụng. Từ đó khẳng định tín dụng ngân hàng trong giai đoạn hiện nay sẽ
còn tiếp tục là một kênh cung cấp vốn quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế
càng phát triển, doanh số cho vay của các ngân hàng thương mại càng tăng nhanh
và loại hình cho vay càng trơ nên vô cùng đa dạng ở hầu hết các nước phát triển
hàng đầu thế giới, cho vay của các ngân hàng thương mại đã chuyển dần từ cho vay
ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Khu vực cho vay ngắn hạn nhường chỗ cho thị
trương tài chính- tiền tệ cung ứng. Ngược lại ở hầu hết các nước đang phát triển,
cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ

thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có những tác nhân chủ yếu
như tình hình tăng trưởng, lạm phát…) Ở một số nước phát triển cho tới nay, khi
một ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường
xuyên của nó là cho ai vay, và đầu tư vào đâu. Ở những nước này, đối tương cho
vay là điều làm bận tâm nhiều hơn, nếu không nói là vấn đề quan trọng nhất. Trong
khi đó ở các nước phát triển tình hình lại ngược lại. Vấn đề đặt ra cho các ngân
4


hàng không phải vấn đề cho ai vay, mà lợi tức có cao không và an toàn không. Cho
vay của ngân hàng thương mại, nói rộng ra là tín dụng ngân hàng thương mại, là
một lĩnh vực phức tạp và thường xuyên cập nhật theo những biến chuyển của môi
trường kinh tế. Vì vậy, nếu muốn có một nền kinh tế ổn định, đòi hỏi quốc gia phải
có hệ thống ngân hàng vững mạnh. Muốn vậy, Chính phủ phải thiết lập được hệ
thống pháp luật chặt chẽ để đảm bảo được hành lang an toàn cho hệ thống ngân
hàng.
Chính vì vậy, em lựa chọn đề tài: "Pháp luật về hoạt động cho vay - Thực
tiễn thực hiện tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Quảng Ninh." nhằm nghiên cứu những quy định cơ bản của pháp luật
Việt Nam về hoạt động cho vay của ngân hàng, cũng như thực tiễn thực hiện pháp
luật về hoạt động cho vay tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam - chi nhánh Quảng Ninh để từ đó đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về hoạt động cho vay.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Hiện nay, ở Việt Nam, liên quan đến lĩnh vực cho vay và một số lĩnh vực tín
dụng ngân hàng liên quan trực tiếp đến hoạt động cho vay đã có nhiều công trình
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Một số công trình tiêu biểu như:
- TS. Phạm Văn Tuyết, TS. Lê Kim Giang (2012), “Hợp đồng tín dụng và
biện pháp bảo đảm tiền vay”, NXB Tư pháp.
- TS. Ngô Quốc Kỳ (2005), “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân
hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, NXB Tư pháp.

- Th.S Nguyễn Thị Hồng Thúy (2008), “Pháp luật về hợp đồng tín dụng ngân
hàng ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật kinh tế- ĐH Quốc gia Hà Nội
- Th.S Nguyễn Thị Minh Chi (2004), “Pháp luật về bảo lãnh thực hiện hợp
đồng tín dụng- thực trạng và phương hướng hoàn thiện“, Luận văn Thạc sỹ luật
học- ĐH Luật Hà Nội
- Th.S Trần Thu Thuỷ (2003), “Chế định bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân
hàng- Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ luật học- ĐH Quốc gia Hà Nội
- Nguyễn Thị Thuỳ Dương, TS. Nguyễn Minh Hằng hướng dẫn (2011),
“Pháp luật về hợp đồng tín dụng ngân hàng- Thực trạng áp dụng trong lĩnh vực dầu
khí tại Việt Nam”, Khoá luận tốt nghiệp- ĐH Luật Hà Nội
- TS. Nguyễn Văn Tuyến, “Vấn đề hiệu lực của giao dịch thương mại của
Ngân hàng Thương mại”, Tạp chí Luật học số 2-2005.
- Tác giả Phạm Văn Đàm (2011), “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện
hợp đồng tín dụng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, Số 11-2011
- Luận văn Th.S Luật Nguyễn Thị Thu Thủy với người hướng dẫn là Phó
GS.TS Lê Thị Thu Thủy: "Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam". Luận văn tập trung nghiên
5


cứu một cách có hệ thống và đầy đủ các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt
động cho vay của NHTM đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thông qua việc
nghiên cứu thực trạng pháp luật về cho vay khối doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các
NHTM của Việt Nam, gắn với việc so sánh với pháp luật, chính sách cho vay doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại một số nước khác trên thế giới để từ đó rút ra những bất cập
của pháp luật trong lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, đề xuất những biện pháp hỗ trợ đặc
thù trong hoạt động cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta, hoàn thiện quy
định pháp luật hiện hành, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao
hiệu quả và năng lực hoạt động, xứng đáng với vai trò của nó trong nền kinh tế.
Ngoài ra còn một số bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí ngân hàng như:

Đoàn Thái Sơn (2007), “Bất cập của pháp luật về bảo vệ quyền chủ nợ của tổ chức
tín dụng”, Tạp chí ngân hàng số 10/2007, Phan Thị Thu Hà (2006), “Rủi ro tín dụng
của ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam – cách tiếp cận từ tính chất sở hữu”
Tạp chí ngân hàng số 24/2006...
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay ngân hàng. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu đề tài pháp luật về hoạt động cho vay vẫn còn là cấp thiết, bởi lẽ các quy
định pháp luật về vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập chưa phù hợp với thực tiễn và
thông lệ quốc tế trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng. Bên cạnh đó, các đề tài nghiên
cứu cũng hầu như chưa đi sâu nghiên cứu thực tiễn tại một ngân hàng cụ thể để có
cái nhìn thực tế, khách quan hơn.
Vì vậy, em quyết định lựa chọn đề tài này với mong muốn góp phần làm rõ
hơn những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cho vay của ngân hàng, chỉ ra những
bất cập của việc thực hiện các quy định đó trong thực tiễn tại Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Quảng Ninh, từ đó đề ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng ở
Việt Nam hiện nay.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Hoạt động cho vay là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận trực tiếp cho NHTM, đồng
thời cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro. Hoạt động này luôn được đặt trong
mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ và bản thân các NHTM bởi nó ảnh hưởng
lớn đến sự tồn tại và phát triển của NHTM cũng như đảm bảo cung ứng vốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, việc bảo đảm an
toàn cho nó đang là vấn đề hết sức bức bối tại hầu hết các NHTM trên thế giới nói
chung và tại Việt Nam nói riêng. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên bài khóa
luận sẽ muốn đi sâu nghiên cứu đề tài về cho vay để có thể tìm hiêủ thêm về bản
chất và hoạt động của hoạt động chứa đầy những yếu tố rủi ro bất ngờ này.
6



Cùng với việc tham khảo các đề tài, kế thừa tổng hợp, thông qua tìm hiểu thực
trạng tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh
Quảng Ninh cùng với sự hướng dẫn tận tình chu đáo của Th.S Nguyễn Phụng
Dương tác giả quyết định chọn đề tài: "Pháp luật về hoạt động cho vay - Thực tiễn
thực hiện tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi
nhánh Quảng Ninh".
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài khóa luận lấy đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành về hoạt động cho vay của ngân hàng trong các văn bản Luật chuyên
ngành như: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Luật các Tổ chức tín dụng
2010…và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
- Các vấn đề liên quan đến hoạt động cho vay nảy sinh trong thực tế để phản
ánh một cách rõ ràng và chính xác nhất những gì đã làm được và những gì còn tồn
tại trong quá trình áp dụng pháp luật vào thực tiễn các tình huống xảy ra.
Mục tiêu nghiên cứu
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận sự cần thiết phải có một hệ thống pháp luật thống
nhất và chặt chẽ để quản lí hoạt động cho vay của NHTM trong bối cảnh nước ta đã
ra nhập WTO, sự hội nhập kinh tế đứng trước rất nhiều cơ hội và thách thức.
- Phản ánh thực trạng tình hình pháp luật về hoạt động cho vay của NHTM.
Tìm ra những ưu điểm đồng thời nhìn nhận lại những điểm hạn chế trong hệ thống
pháp luật hiện hành
- Nêu lên thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động cho vay của Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Quảng Ninh.
- Những thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp trong quá trình áp dụng pháp
luật về hoạt động cho vay. Từ đó đề xuất những giải pháp để giải quyết các vấn đề
phát sinh trong quá trình hoạt động.
Phạm vi nghiên cứu
- Bài khóa luận tập trung nghiên cứu những lý luận cơ bản và các quy định
hiện hành về hoạt động cho vay của NHTM trong các văn bản pháp luật Việt Nam

như: Luật các tổ chức tín dụng 2010, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010
và Quy chế cho vay 2001 được sửa đổi, bổ sung bởi quyết định 127/2005/QĐNHNN ngày 3/2/2005.
- Không gian: Thực tế áp dụng vấn đề trên tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Quảng Ninh.
- Thời gian: từ khi luật các tổ chức tín dụng 2010, luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam 2010, quy chế cho vay 2001 được sửa đổi, bổ sung bởi quyết định
127/2005/QĐ-NHNN ngày 3/2/2005 , những quy định liên quan kí kết và thực hiện
hợp đồng tín dụng .... được ban hành và có hiệu lực.
7


Với việc giới hạn phạm vi nghiên cứu trên sẽ ta giúp dễ dàng hơn trong việc
xác định vấn đề nghiên cứu đồng thời chỉ rõ đề tài, tập trung nghiên cứu và phân
tích nhằm đưa ra những nhận định khách quan, phân tích, đánh giá để tìm ra những
giải pháp giúp hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Chủ yếu là nghiên cứu các văn bản Quy
phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của NHTM: Luật các tổ chức tín dụng
2010, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 và Quy chế cho vay 2001 được
sửa đổi, bổ sung bởi quyết định 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3/2/2005.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tình huống: phân tích, đánh giá những
tình huống phát sinh trong thực tiễn và đưa ra một số kiến nghị, đề xuất liên quan
tới quy định pháp luật về hoạt động cho vay nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề
nêu trên.
- Ngoài ra khóa luận sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu so sánh,
thống kê, quy nạp, diễn dịch.
Bên cạnh đó, khóa luận còn sử dụng các nguồn bài nghiên cứu, sách báo để
tạo nền tảng cơ sở cho việc nghiên cứu về hoạt động cho vay để tạo được tính mới
và tính cấp thiết cho khóa luận.
Dù là sử dụng phương pháp nào để xây dựng các nội dung của đề tài thì các

phương pháp nghiên cứu vẫn được thực hiện trên nền tảng cơ sở quan điểm chủ
nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở lý luận khoa học của ngành về
pháp luật những quy định, đồng thời vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng
và nhà nước về quy định pháp luật điều chỉnh trong hoạt động cho vay cùng các chế
tài trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục cần thiết thì bài khóa luận có
những nội dung chính sau đây:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cho vay và các quy
định pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động cho vay và thực tiễn thực hiện
tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh
Quảng Ninh
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay
tại Ngân hàng Thương mại

8


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO
VAY VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát chung về hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại
1.1.1 Khái niệm về hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại
Cho vay là hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội loài
người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Khái niệm cho vay, theo
định nghĩa chung nhất được hiểu là việc một người thỏa thuận để cho người khác
được quyền sử dụng tài sản của mình (vật cùng loại) trong một thời gian nhất định
với điều kiện có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình đối với người đó.
Theo quy định của pháp luật, cho vay được định nghĩa tại khoản 16 Điều 4

Luật các tổ chức tín dụng 2010 “cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho
vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục
đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn
trả cả gốc và lãi”.
Cho vay theo quy định của pháp luật hoạt động cho vay chính là một trong
những hình thức cấp tín dụng của các NHTM hiện nay, và là một hoạt động mang
tính chất nghề nghiệp kinh doanh các NHTM. Khi thực hiện hoạt động cấp tín dụng
cho khách hàng của mình, các NHTM sẽ giao cho khách hàng một khoản tiền nhất
định hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền nhất định để sử dụng theo
hợp đồng tín dụng đã được kí kết giữa các bên để khách hàng sử dụng trong một
khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc là hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Hợp đồng tín dụng ngân hàng “phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng
vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo
đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các
bên thoả thuận” (Điều 17 Quy chế cho vay 2001 được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết
định 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3/2/2005.)
1.1.2 Đặc điểm về hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại
Thứ nhất: chủ thể của hoạt động cho vay
Trong hoạt động cho vay thì luôn luôn xuất hiện hai bên chủ thể tham gia
vào hoạt động cho vay đó là chủ thể đi vay và chủ thể cho vay. Trong quan hệ cho
vay này thì chủ thể cho vay chính là các NHTM được phép cấp tín dụng theo quy
định của pháp luật, và chủ thể đi vay là các khách hàng có nhu cầu vay vốn tại các
NHTM.
Thứ hai: hình thức pháp lí của hoạt động cho vay
Hình thức pháp lí của việc cho vay chính là hợp đồng tín dụng, ghi nhận sự
thỏa thuận giữa NHTM với khách hàng có nhu cầu vay vốn tại các NHTM. Pháp
9


luật quy định các chủ thể khi tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng phải thỏa

thuận bằng văn bản các quyền và nghĩa vụ của mình. Quy định này nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên. Bởi vì hợp đồng tín dụng ngân hàng là cơ sở
pháp lý cho việc giải quyết tranh các chấp của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Hợp đồng tín dụng ngân hàng được ký kết dưới các hình thức pháp lý là văn
bản bao gồm cả văn bản viết và văn bản điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. Dù
hợp đồng tín dụng ngân hàng ký kết dưới hình thức nào trên đây đều có giá trị pháp
lý ngang nhau và đều là chứng cứ trong quá trình giao dịch (Khoản 1 Điều 124
BLDS 2005 và Điều 11, 12, 13 Luật Giao dịch điện tử 2005).
Các điều khoản cụ thể trong hợp đồng tín dụng ngân hàng phải đảm bảo xác
định cụ thể quyền và nghĩa vụ của bên cho vay và bên đi vay. Khi các bên thỏa
thuận cụ thể về quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng thì các bên phải thực
hiện đúng các điều mà mình đã cam kết. Nếu một trong hai bên vi phạm cam kết
gây thiệt hại cho bên kia, họ phải có trách nhiệm bồi thường cho bên bị vi phạm.
Như vậy, khi xảy ra tranh chấp thì hợp đồng tín dụng ngân hàng là cơ sở để quy
trách nhiệm cho các bên.
Hợp đồng tín dụng là loại hợp đồng ưng thuận. Hợp đồng tín dụng ngân
hàng có thể được công chứng, chứng thực phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các
bên. Tính chất ưng thuận của hợp đồng tín dụng ngân hàng được thể hiện rõ trong
quy định tại khoản 16, Điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, theo đó cấp tín
dụng (cho vay) là việc tổ chức tín dụng giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo
thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Như vậy Luật đã khẳng định đó
là tính chất ưng thuận.
Thứ ba: mục đích của hoạt động cho vay
Mục đích của hoạt động cho vay là nhằm sinh lời. Tính chất sinh lợi của hoạt
động cho vay của ngân hàng luôn được biểu hiện qua tỷ số chênh lệch giữa lãi suất
cho vay và lãi suất huy động vốn của NHTM, TCTD. Lãi suất cho vay luôn cao hơn
lãi suất huy động vốn và sự chênh lệch này luôn phụ thuộc vào cung cầu về vốn trên
thị trường tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể. NHTM, TCTD hoạt động theo các

quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định của pháp luật có liên quan
nên mục đích tìm kiếm lợi nhuận không chỉ là điều tất yếu mà còn là động lực giúp
NHTM, TCTD duy trì hoạt động kinh doanh của mình.
1.1.3 Phân loại hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng hiện nay có thể phân loại dựa vào
nhiều tiêu chí khác nhau:
1.1.3.1. Theo thời hạn cho vay
10


- Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay đến một năm và được sử dụng để bổ
sung, bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu tiêu dùng
ngắn hạn của các cá nhân.
- Cho vay trung hạn: Thời hạn cho vay từ 1 đến 5 năm. Tín dụng trung hạn
chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết
bị, công nghệ, mở rộng kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời
gian thu hồi nhanh. Bên cạnh đó, nó còn được dùng để đầu tư tài sản lưu động
thường xuyên của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp mới thành lập.
- Cho vay dài hạn: Thời hạn cho vay trên 5 năm. Loại tín dụng này dùng để
đáp ứng nhu cầu đầu tư dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận
tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
1.1.3.2. Theo mục đích sử dụng vốn
- Cho vay bất động sản: là loại hình cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản như nhà ở, đất đai hay bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dich vụ.
- Cho vay công nghiệp, thương mại, dịch vụ: Loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
- Cho vay nông nghiệp: Loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất nông
nghiệp như mua phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao
động, nguyên nhiên liệu…

- Cho vay cá nhân: Loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng cá nhân
như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay, ngân hàng còn thực hiện các khoản
cho vay để trang trải chi phí thông thường của đời sống qua phát hành thẻ tín dụng.
- Cho các định chế tài chính khác vay: hình thức phổ biến nhất cho vay trên
thị trường liên ngân hàng.
- Cho thuê: Cho thuê của các định chế tài chính bao gồm thuê vận hành, thuê
và mua lại, thuê tài chính. Tài sản cho thuê thường là bất động sản và động sản chủ
yếu là máy móc thiết bị.
1.1.3.3. Theo phương thức hoàn trả
- Cho vay trả góp: Loại hình cho vay mà việc hoàn trả vốn và lãi theo định
kỳ. Loại cho vay này thường áp dụng cho các khoản vay có thười gian dài như cho
vay bất động sản, cho vay tiêu dùng đối với những tài sản có giá trị cao. Ngoài ra,
hình thức này còn áp dụng cho một số loại cho vay có hình thái giá trị nhỏ như cho
vay đối với những nhà kinh doanh nhỏ (cho vay chợ), cho vay tài trợ trang thiết bị
nông nghiệp.
- Cho vay phi trả góp: cho vay thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thỏa thuận.

11


- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu: chẳng hạn như hình thức thấu chi, cho vay
qua thẻ tín dụng.
1.1.3.4. Theo hình thức cho vay
- Thấu chi: là hình thức cho vay gắn liền sử dụng tài khoản tiền gửi vãng lai
của cá nhân hoặc danh nghiệp thông qua việc sử dụng số dư trong một hạn mức cho
phép, với một thời hạn, phí do ngân hàng quy định.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Cho vay để tạo thuận lợi cho thanh toán
của khách hàng
- Chiết khấu giấy tờ có giá: như kỳ phiếu thương mại, các chứng chỉ tiền gửi,


- Cho vay tiêu dùng cá nhân: là hình thức cho vay ngắn và trung hạn với lãi
suất thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Việc trả nợ thường được trả hàng
tháng với số tiền cố định. Cho vay tiêu dùng cá nhân thường là cho vay để mua
phương tiện đi lại hoặc du lịch hoặc cho vay đối với sinh viên. Đối với những khách
hàng tốt, ngân hàng còn cấp cho khách hàng một tập séc để rút tiền.
- Tín dụng tuần hoàn: là hình thức tín dụng mà khách hàng được vay một
khoản tiền cố định, khi hoàn trả sẽ được vay lại.
- Tín dụng thuê mua: cho vay dưới hình thức cho thuê tài sản mà khách hàng
cần sử dụng, sau một thời gian khách hàng có thể mua lại tài sản này.
- Tín dụng nhà ở: Bao gồm cho vay thanh toán, cho vay tiết kiệm nhà ở, cho
vay tự do.
- Mua các khoản nợ của doanh ngiệp: hình thức phổ biến nhất của factoring
là mua các hóa đơn bán hàng của doanh nghiệp.
1.1.4 Vai trò của hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại
- Hoạt động cho vay góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa - hiện đại hóa
Phần lớn nguồn vốn của nhiều thành phần trong kinh tế đi vay từ ngân hàng
để bắt tay vào ngành thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn (Ví dụ: kinh tế ngoài
quốc doanh chiếm tới trên 70%). Do vậy bằng các chính sách cho vay, định hướng
chung của nhà nước góp phần tạo cho nền kinh tế một cơ cấu kinh tế hợp lý, cân
đối.
Bằng những công cụ tín dụng mà ngân hàng có thể cho vay ưu đãi những
nghành nghề cần thiết để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước trong từng giai đoạn cụ thể.
- Hoạt động cho vay góp phần điều hòa cung – cầu dịch vụ, hàng hóa
Doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh, hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh
mà thiếu vốn thì doanh nghiệp phải vay vốn của ngân hàng. Nhưng doanh nghiệp
chỉ thu được lợi nhuận cũng như có khả năng trả nợ ngân hàng khi doanh nghiệp

12



tiêu thụ được hết số sản phẩm hàng hoá đã sản xuất ra, hay phải có một bộ phận
những người tiêu dùng mua và có khả năng mua sản phẩm đó.
Về phía người tiêu dùng, với một mức thu nhập nhất định, họ không thể có đủ
số tiền để mua hàng hoá mình muốn. Họ chỉ đủ khả năng mua sau một thời gian dài
tích luỹ. Đó là nguyên nhân dẫn đến chu kì tuần hoàn và luân chuyển vốn của doanh
nghiệp bị ngưng trệ. Doanh nghiệp sẽ không thu hồi đủ tiền để thực hiện vòng quay
sản xuất.
Do đó, ngân hàng cho doanh nghiệp vay sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thì
sẽ có nhiều hàng hoá. Ngân hàng cho người tiêu dùng vay sẽ thoả mãn nhu cầu
hàng hoá. Như vậy hoạt động cho vay của ngân hàng đã góp phần điều hoà cung cầu sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cho nền kinh tế.
- Hoạt động cho vay góp phần điều tiết và phân phối các nguồn vốn
Vốn sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế vận động liên tục và biểu hiện
các hình thức khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất, tạo thành chu kì
tuần hoàn và luân chuyển vốn được thể hiện dưới dạng tiền tệ. Trong quá trình đó,
để duy trì hoạt động liên tục, đòi hỏi nguồn vốn của doanh nghiệp luôn tồn tại đồng
thời ở ba giai đoạn: dự trữ - sản xuất - lưu thông. Từ đó xảy ra hiện tượng thừa thiếu
vốn tạm thời: tại một thời điểm nhất định có những đơn vị kinh tế có vốn tiền
tệ nhàn rỗi và có những đơn vị thiếu vốn. Hiện tượng này xảy ra thường xuyên và
phổ biến trong bất kì nền kinh tế nào, làm nảy sinh nhu cầu ngày càng bức thiết phải
giải quyết được vấn đề điều hoà vốn. NHTM với vai trò là một trung gian tài chính
đứng ra tập trung phân phối lại tiền tệ, điều hoà cung - cầu vốn cho các doanh
nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không bị
gián đoạn.
- Hoạt động cho vay góp phần giúp các thành phần kinh tế mở rộng ứng
dụng công nghệ mới
Với những doanh nghiệp trang bị trình độ kĩ thuật còn thấp kém, công nghệ
lỗi thời, thiếu đồng bộ làm giảm ưu thế của các doanh nghiệp, làm cho các doanh
nghiệp đó kém phát triển. Thông qua vốn vay của ngân hàng, doanh nghiệp dùng

đồng vốn này để đầu tư, tìm kiếm những công nghệ hiện đại, đổi mới dây truyền
sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm thoả mãn nhu cầu
trong và ngoài nước. Như vậy hoạt động cho vay mở rộng ứng dụng công nghệ mới
vào các doanh nghiệp, thông qua đó giúp doanh nghiệp sản xuất ngày càng có hiệu
quả, mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Hoạt động cho vay mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng và thúc đẩy các
hoạt động khác của ngân hàng
Cho vay là một trong những hoạt động lớn của ngân hàng. Ở các nước phát
triển, doanh thu từ hoạt động này thường chiếm 70%, hay đến 90% doanh thu
13


của ngân hàng, ở các nước đang phát triển. Hiện nay 80% doanh thu của các NHTM
là từ hoạt động tín dụng, mà hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn.
Nhờ có hoạt động cho vay, mà các đơn vị kinh tế có thể vay của ngân hàng
để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được
không những đủ tiền trả cho ngân hàng mà còn có tiền gửi vào ngân hàng, nghĩa là
làm tăng hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Mặt khác, khi sản xuất kinh doanh
phát triển, xã hội phát triển thì các hoạt động dịch vụ của ngân hàng cũng phát triển
1.2 Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về hoạt động cho
vay của Ngân hàng Thương mại
1.2.1 Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về hoạt động cho vay của Ngân
hàng Thương mại
Những quy định pháp luật về cho vay là những quy định của luật pháp về các
quan hệ phát sinh giữa các bên khi tham gia vào hoạt động cho vay của NHTM. Các
quy định này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay, bởi vì nó chi phối tính
chất, quy mô, phạm vi giao dịch, trạng thái rủi ro và an toàn trong hoạt động của
NHTM nói chung và hoạt động cho vay của NHTM nói riêng. Vì lẽ đó, các tổ chức
tín dụng và khách hàng vay trong quan hệ vay vốn thường ưu tiên lựa chọn biện
pháp bảo đảm thế chấp tài sản. Đây cũng là những biện pháp bảo đảm nghĩa vụ

được áp dụng phổ biến nhất trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng. Tuy nhiên, để xử lý tốt mối quan hệ lợi ích giữa các bên trong biện
pháp thế chấp tài sản, điều rất quan trọng là phải nhận diện đúng đặc trưng pháp lý
của loại hợp đồng phù hợp với mối quan hệ đó và đảm bảo được quyền lợi và nghĩa
vụ của các bên trong quan hệ đó. Đặt trong quan hệ cho vay thì hợp đồng tín dụng
là hợp đồng phù hợp nhất.
Hợp đồng tín dụng ngân hàng được ký kết nhằm bổ sung thiếu hụt vốn của doanh
nghiệp và cho vay phuc vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân. Như vậy hợp đồng tín dụng
ngân hàng được ký kết nhằm mục đích kinh doanh của NHTM, TCTD cho vay và
các doanh nghiệp, có thể là cho tiêu dùng cá nhân.
Mặt khác, hợp đồng tín dụng ngân hàng được ký kết giữa một bên chủ thể bắt
buộc là NHTM, TCTD để thực hiện hoạt động tín dụng ngân hàng. Hoạt động tín
dụng ngân hàng là hoạt động kinh doanh đặc thù, kinh doanh đồng vốn, quyền sử
dụng các khoản tiền tệ. Do vậy, hợp đồng tín dụng ngân hàng chịu sự điều chỉnh
của pháp luật hợp đồng nói chung, và Luật NHNN, Luật các TCTD và các văn bản
liên quan. Chính vì vậy mà giữa luật chung và luật chuyên ngành phải có nguyên
tắc áp dụng chung, tránh chồng chéo, mâu thuẫn. Theo đó, trong cùng một tình
huống đặt ra, nếu luật chuyên ngành có quy định thì ưu tiên áp dụng quy định của

14


luật chuyên ngành, nếu luật chuyên ngành không có quy định hoặc quy định không
cụ thể, rõ ràng thì mới áp dụng quy định của luật chung.
1.2.2 Nội dung pháp luật điều chỉnh về hoạt động cho vay của Ngân hàng
Thương mại
Căn cứ vào quy định tại điều 17 của Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN: "Việc
cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín
dụng..."Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy
định của Bộ luật Dân sự 2005. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường

hợp chủ thể tham gia ký kết hợp đồng tín dụng là bên cho vay là các TCTD. Hợp
đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa TCTD (bên cho vay) với tổ chức,
cá nhân có đủ những điều kiện do pháp luật quy định (bên vay). Căn cứ vào hợp
đồng, TCTD chuyển giao một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất
định, với điều kiện hoàn trả cả gốc và lãi. Không những hoạt động cho vay của
TCTD nói chung và NHTM nói riêng ngoài việc tuân thủ các quy định chung của
pháp luật mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng, cụ thể ở đây là hợp
đồng tín dụng. Từ đó có thể khẳng định rằng chủ thể, nội dung, hình thức, vấn đề hiệu
lực, trách nhiệm pháp lý... mọi khía cạnh mà quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động
cho vay cũng chính là các quy định pháp luật điều chỉnh về hợp đồng tín dụng.
Chủ thể của hợp đồng tín dụng
Bên cho vay
Trong quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, bên cho vay
thông thường là tổ chức tín dụng có đủ những điều kiện do pháp luật quy định.
Ngoài ra, các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng nếu được NHNN cho
phép thực hiện hoạt động tín dụng thì cũng có thể là bên cho vay và cũng phải thỏa
mãn các điều kiện chủ thể giống như đối với bên cho vay là NHTM.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở thành
chủ thể cho vay phải thoả mãn các điều kiện sau:
- Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.
- Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
- Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.
- Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng
với khách hàng.
Đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành chủ
thể cho vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn các điều kiện
như có giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và
có người đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động cho vay là hoạt
động ngân hàng đươc phép thực hiện.



15


Việc pháp luật quy định những điều kiện này đối với bên cho vay không chỉ
góp phần hạn chế, loại trừ những tổ chức tín dụng không đủ tiêu chuẩn kinh doanh
trên thương trường, góp phần lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng và bảo về quyền
lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, mà còn là căn cứ để các luật gia hay các thẩm
phán, trọng tài viên tiến hành thẩm định và đánh giá một cách khách quan vấn đề
hiệu lực pháp lí của hoạt động tín dụng.
Bên vay
Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên tắc,
những điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay trong mọi
hợp đồng tín dụng):
- Bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với tổ
chức là pháp nhân hay không phải là pháp nhân thì phải có người đại diện hợp pháp
có đủ năng lực và thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó khi ký kết hợp đồng tín dụng;
- Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.
Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện riêng sau (những điều kiện này chỉ
có tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các bên thoả thuận
rõ trong hợp đồng tín dụng):
- Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết;
- Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả;
- Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của người
thứ ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.
Tóm lại, việc pháp luật quy định các điều kiện chủ thể đối với bên cho vay và
bên đi vay trong hợp đồng tín dụng, ngoài mục đích thiết lập trật tự, kỷ cương trong
hoạt động tín dụng còn có ý nghĩa là giải pháp nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt
động kinh doanh của tổ chức tín dụng.

• Hình thức của hợp đồng tín dụng
HĐTD là loại hợp đồng ưng thuận nên pháp luật quy định tại thời điểm phát
sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng chính là thời điểm các bên đã thoả thuận xong
các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên, đóng dấu (nếu có) và được
lập thành văn bản.
• Nội dung của hợp đồng tín dụng
Căn cứ vào điều 51 luật các TCTD quy định về nội dung của HĐTD: “Việc cho
vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về
điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình
thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác
được các bên thỏa thuận.”
• Giao kết hợp đồng tín dụng
Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng
16


Khi một chủ thể muốn thiết lập một hợp đồng tín dụng (HĐTD), thì ý muốn
đó phải thể hiện ra bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Chỉ có như vậy, phía
đối tác mới có thể nhận biết được ý muốn của họ và từ đó mới có thể đi đến giao kết
hợp đồng. Đề nghị giao kết HĐTD là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới
hình thức văn bản chính thức gửi bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong muốn
giao kết HĐTD.
Để chủ thể mà mình muốn giao kết HĐTD biết được nguyện vọng giao kết
HĐTD của mình, chủ thể đề nghị giao kết (thông thường là các tổ chức cá nhân có
nhu cầu vay vốn) phải gửi cho bên được đề nghị (thông thường là các TCTD,
NHTM) văn bản đề nghị giao kết HĐTD, tức đơn xin vay, kèm các giấy tờ, tài liệu
chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng vốn để
TCTD, NHTM xem xét, thẩm định. Về bản chất pháp lý, hành vi này của bên vay
được xem là một đề nghị giao kết HĐTD và các tài liệu bên vay gửi cho TCTD,
NHTM được coi như bằng chứng đề nghị giao kết HĐTD.

Trong thực tiễn, TCTD, NHTM không chỉ đóng vai trò thụ động trong việc
tiếp nhận đề nghị vay vốn của khách hàng mà đôi khi còn chủ động đưa ra đề nghị
giao kết HĐTD cho khách hàng để lựa chọn những khách hàng có đủ uy tín và năng
lực trả nợ. Đây là một phương thức giao dịch cho vay mang tính hiện đại và trên
thực tế luôn được các NHTM, TCTD ở các nước phát triển sử dụng. Tuy nhiên, đối
với hầu hết các NHTM, TCTD ở Việt Nam, phương thức giao dịch này vẫn còn mới
mẻ, chưa được sử dụng phổ biến ngoại trừ ở một số Ngân hàng liên doanh và chi
nhánh Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Các Ngân hàng cổ phần đã bắt đầu tiên
phong trong việc áp dụng phương thức này nhằm chủ động tìm kiếm thị trường,
tăng cường khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường tín dụng của mình ở trong và
ngoài nước.
Thẩm định hồ sơ tín dụng
Hồ sơ tín dụng tốt phải đảm bảo các yếu tố sau: Các thông tin cơ bản về doanh
nghiệp xin vay; thông tin tài chính hiện tại; lịch sử tài chính; thông tin về mục đích
vay vốn; thoả thuận hoàn trả khoản vay; các dự toán về hoạt động sản xuất kinh
doanh trong tương lai và vốn hoạt động; các thông tin cụ thể về giao dịch tín dụng
với doanh nghiệp; bản sao của mọi quan hệ có liên quan đến doanh nghiệp xin vay.
Thẩm định hồ sơ tín dụng là một thủ tục pháp lý bắt buộc đối với tất cả các
TCTD, NHTM khi thực hiện hoạt động cho vay. Thẩm định hồ sơ tín dụng là tất cả
những hành vi mang tính nghiệp vụ- pháp lý do TCTD, NHTM thực hiện nhằm
kiểm tra và xác định các điều kiện vay vốn, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay
hay không đối với khách hàng. Bản báo cáo này phải được gửi cho người có thẩm
quyền quản lý để quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay đối với khách hàng.
17


Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng
bằng văn bản và phải nêu rõ những căn cứ từ chối cho vay.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng
Chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD là hành vi pháp lý do bên chấp nhận đưa

ra dưới dạng một văn bản chính thức gửi cho bên đề nghị giao kết hợp đồng, với nội
dung thể hiện sự đồng ý giao kết HĐTD.
Trong giai đoạn này, TCTD, NHTM và bên vay vốn thỏa thuận và ký kết
HĐTD thông qua quá trình thương lượng, đàm phán trực tiếp để soạn thảo từng
điều khoản của HĐTD. Thời điểm giao kết HĐTD là thời điểm người đại diện có
thẩm quyền của bên cuối cùng trực tiếp ký tên vào văn bản HĐTD.
Trong thực tiễn ký kết HĐTD ở Việt Nam, các TCTD, NHTM thường đưa ra
hợp đồng mẫu với các điều khoản chủ yếu, khách hàng chỉ đóng vai trò là người
nghiên cứu, xem xét các điều khoản đó. Nếu khách hàng chấp nhận việc giao kết
HĐTD, chỉ cần ký tên vào văn bản hợp đồng mẫu đã được soạn thảo sẵn. Kể từ khi
các bên đã ký đầy đủ vào văn bản HĐTD, HĐTD chính thức có hiệu lực pháp luật.



Thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng

Thực hiện hợp đồng tín dụng là mục đích của việc giao kết hợp đồng tín
dụng. Đây là giai đoạn quan trọng nhất, bởi lẽ chỉ khi nào hợp đồng tín dụng được
thực hiện nghiêm chỉnh thì quyền và lợi ích hợp pháp của các bên mới được thoả
mãn và bảo đảm. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, xuất phát từ nhu cầu
bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, các bên thường quan tâm đặc biệt đến những vấn
đề sau:
- Thoả thuận áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng, trong đó chủ yếu là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cho tổ
chức tín dụng. Thoả thuận này nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên chủ nợ là tổ chức
tín dụng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, nếu bên vay không thực hiện
được nghĩa vụ trả nợ tiền vay khi đến hạn và không được tổ chức tín dụng cho gia
hạn nợ thì tài sản bảo đảm tiền vay có thể được xử lý theo thoả thuận của các bên
hoặc theo quy định của pháp luật.
- Thoả thuận việc gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ. Thoả thuận này

nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho bên vay trong việc xử dụng vốn vay và trên cơ sở
đó giúp bên vay thanh toán nợ cho tổ chứ tín dụng. Trong quá trình thực hiện hợp
đồng tín dụng, đôi khi gặp những khó khăn khiến cho bên vay không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay đúng hạn. Việc gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn

18


trả nợ phải được các bên ghi rõ trong hợp đồng tín dụng và coi đó là sự sửa đổi điều
khoản về thời hạn trả nợ tiền vay.
Quy trình thực hiện hợp đồng tín dụng thông thường bao gồm các bước sau:
- Kiểm tra, giám sát khoản vay
Hoạt động kiểm tra, giám sát khoản vay bao gồm: Kiểm tra xem mục đích
vay vốn có phù hợp với đăng ký kinh doanh hay không; kiểm tra tính hợp pháp của
mục đích vay vốn, giám sát quá trình sử dụng vốn vay có đúng với mục đích vay
vốn hay không…
- Xử lý rủi ro của các khoản vay có vấn đề
Khoản vay có vấn đề bao gồm khoản vay đã quá hạn và khoản vay tuy chưa
đến hạn nhưng khách hàng có nguy cơ không trả được nợ do mất khả năng thanh
toán, do thua lỗ hoặc doanh nghiệp có biểu hiện vi phạm pháp luật như lừa đảo, trốn
thuế. Xử lý khoản vay có vấn đề chính là áp dụng các biện pháp khác nhau để thu
hồi nợ. Việc xử lý này dựa trên nguyên tắc cơ bản là tận dụng hết lượng tiền mặt
sẵn có, buộc doanh nghiệp bán sản phẩm hay cung cấp dịch vụ ở mức giá hợp lý để
tạo nhu cầu có khả năng thanh toán bằng tiền mặt và nhất là cần tận dụng hết tài sản
có của doanh nghiệp, tìm cách chuyển hoá nhanh tất cả loại tài sản đó thành tiền
mặt tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng.
- Thanh lý hợp đồng tín dụng
+ Tất toán khoản vay: khi khách hàng trả nợ, cán bộ tín dụng tiến hành phối
hợp với bộ phận kế toán đối chiếu, kiểm tra về số tiền trả nợ gốc, lãi, phí… để tất
toán khoản vay.

+ Thanh lý hợp đồng tín dụng: Thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng theo
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký kết; khi bên vay trả xong nợ gốc và lãi thì
hợp đồng tín dụng đương nhiên hết hiệu lực và các bên không cần lập biên bản
thanh lý hợp đồng. Trường hợp bên vay yêu cầu, cán bộ tổ chức tín dụng soạn thảo
biên bản thanh lý hợp đồng trình trưởng phòng tín dụng kiểm soát và trưởng phòng
tín dụng trình lên lãnh đạo ký biên bản thanh lý.
+ Thực hiện xử lý rủi ro bảo đảm tiền vay: Các bên thoả thuận về việc thực
hiện các phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
- Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
Bảo đảm tiền vay là việc NHTM, TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng
ngừa rủi ro tạo cơ sở pháp lý và kinh tế để thu hồi nợ đã vay. Tín dụng là một trong
những hoạt động chính, cơ bản mang lại lợi nhuận chủ yếu của NHTM, TCTD.
Kinh doanh tín dụng luôn gắn liền rủi ro tín dụng, ngoài việc xác định khả năng
thanh toán của người đi vay thì việc xác định tài sản thế chấp của người đi vay có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Chính vì vậy, phải có tài sản thế chấp để vay vốn ngân
hàng. Các biện pháp thường được sử dụng là: bảo lãnh, cầm cố, thế chấp.
19


Thế chấp tài sản trong quan hệ HĐTD ngân hàng được hiểu là việc một cá
nhân hay pháp nhân dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm cho
khoản vay tại NHTM, TCTD. Thế chấp tài sản phải làm thành văn bản dưới hình
thức hợp đồng thế chấp tài sản, phải được cơ quan công chứng Nhà nước chứng
thực. Trong hợp đồng đó phải ghi rõ khối lượng, giá trị tài sản thế chấp, thời hạn thế
chấp, phương thức xử lý tài sản thế chấp…Nếu số tiền phát mại tài sản thế chấp
không đủ để trả nợ thì phỉa tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng các nguồn tài sản
khác. Nếu bên đi vay không trả nợ, NHTM, TCTD có quyền khởi kiện bên vay
trước pháp luật.
Cầm cố trong quan hệ HĐTD ngân hàng là việc người đi vay dùng số động
sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo cho khoản tiền vay. Về phía NHTM,

TCTD, hoạt động dịch vụ cầm cố là một hình thức cho vay mà bên có tài sản cầm
cố phải giao vật cầm cố là tài sản của mình cho bên nhận cầm cố quản lý, để làm
vật bảo đảm nghĩa vụ trả nợ khi người có tài sản cầm cố hoặc người bảo lãnh không
trả được nợ. Cũng như thế chấp, việc cầm cố phải được lập thành văn bản và phải
được cơ quan Công chứng Nhà nước chứng thực.


Vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng

Trong thực tế, khi thực hiện HĐTD có thể xảy ra những tranh chấp nhất định
do hành vi vi phạm của một trong các bên giao kết HĐTD mà các bên không thể tự
thương lượng, hòa giải được. Tranh chấp phát sinh từ HĐTD là tình trạng pháp lý
của quan hệ HĐTD, trong đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với
nhau về những quyền, nghĩ vụ hoặc lợi ích phát sinh từ HĐTD.
Vấn đề giải quyết các tranh chấp liên quan đến HĐTD có ảnh hưởng đến hoạt
động cho vay của NHTM, TCTD. Do đó, tiến hành giải quyết các tranh chấp này
một cách nhanh chóng và đúng pháp luật sẽ đảm bảo quyền lợi của các bên tham
gia HĐTD. Đồng thời, hỗ trợ cho sự phát triển của hoạt động vay vốn ngân hàng.
Theo pháp luật Việt Nam, các tranh chấp phát sinh từ HĐTD sẽ được giải
quyết bằng cơ chế thương lượng hòa giải hoặc cơ ché tài phán.
Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế thương lượng hòa giải giữa các bên
tranh chấp: Khi phát sinh tranh chấp từ HĐTD, các bên có quyền gặp nhau trao đổi,
thương lượng để giải tỏa các xung đột, bất đồng, trên tinh thần tôn trọng và hiểu
biết lẫn nhau. Quy định này nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên và giúp
các bên tránh được những chi phí không cần thiết do phải theo kiện tại Tòa án.
Trong trường hợp thương lượng không có kết quả hoặc một trong các bên thiếu
thiện chí thì các bên có quyền đưa tranh chấp ra xét xử tại một cơ quan tài phán
theo quy định của pháp luật.
20



Giải quyết tranh chấp từ HĐTD bằng cơ chế tài phán: Để tiến hành giải quyết
tranh chấp phát sinh từ HĐTD, các bên tranh chấp cần phải xác định được việc giải
quyết tranh chấp tại cơ quan tài phán nào. Thực tế ở Việt Nam có hai loại cơ quan
tài phán có thẩm quyền giải quyết tranh chap là trọng tài và Tòa án. Việc phân định
thẩm quyền tài phán giữa các cơ quan này được áp dụng theo nguyên tắc: Trọng tài
thương mại có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng trọng tài với những tranh
chấp phát sinh từ HĐTD được ký kết giữa TCTD, NHTM với khách hàng mà các
bên thỏa thuận yêu cầu giải quyết khi có tranh chấp. Với các tranh chấp từ HĐTD
nhưng các bên không có thỏa thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp thì về nguyên
tắc, những tranh chấp đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố
tụng dân sự.
1.3 Một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật điều chỉnh về hoạt động cho
vay của Ngân hàng Thương mại
Chính vì quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay cũng là những quy
định pháp luật điều chỉnh về HĐTD nên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật điều
chỉnh hoạt động cho vay và hợp đồng tín dụng đều là một.
- Nguyên tắc tự nguyện
Theo nguyên tắc này một hợp đồng tín dụng ngân hàng được hình thành phải
hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện thoả thuận giữa các chủ thể (tự do ý chí), không do
sự áp đặt ý chí của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Mọi sự tác động làm mất tính tự nguyện
của các bên trong quá trình ký kết đều làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng.
Quyền tự do hợp đồng bao gồm những nội dung chính sau:
+ Tự do lựa chọn đối tác
+ Tự do thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng
+ Tự do lựa chọn thời điểm giao kết hợp đồng
- Nguyên tắc cùng có lợi, hợp tác trung thực và ngay thẳng
Trong nền kinh tế thị trường mỗi bên tham gia vào quan hệ hợp đồng đều
xuất phát từ lợi ích riêng của mình. Khi ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng các
bên cùng nhau thoả thuận những điều khoản hợp đồng có lợi nhất cho cả hai bên,

nhưng phải dựa trên cơ sở hợp tác trung thực và ngay thẳng, không được lừa dối
chèn ép bên yếu thế.
- Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
Các chủ thể hợp đồng tín dụng ngân hàng hoàn toàn bình đẳng với nhau về
quyền và nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể bao giờ cũng tương xứng với
nhau, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Quan hệ hợp đồng chỉ
hình thành khi các bên thống nhất ý chí với nhau về các điều khoản hợp đồng.

21


Khi quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng đã hình thành, các bên đều có nghĩa
vụ thực hiện đúng những điều đã cam kết trong hợp đồng. Bên nào không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm trước bên kia.
- Nguyên tắc không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội
Trong quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng các bên tham gia ký kết hợp
đồng có quyền tự do thoả thuận các điều khoản của hợp đồng. Pháp luật hợp đồng
tôn trọng ý chí của các bên. Tuy nhiên ý chí của các bên chỉ được tôn trọng nếu ý
chí đó phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội. Điều 128 BLDS 2005 quy định:
“Điều 128. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội
Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.”
- Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản
Khi tham gia quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng các bên phải dùng chính
tài sản của mình để đảm bảo việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Các bên có thể

dùng tài sản của mình để cầm cố, thế chấp hoặc nhờ người khác bảo lãnh về tài sản
để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Nguyên tắc này có ý nghĩa trong việc đảm
bảo lợi ích kinh tế của các bên trong quan hệ hợp đồng.

22


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU
TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI NHÁNH QUẢNG NINH
2.1 Tổng quan về Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam chi nhánh Quảng Ninh và các nhân tố ảnh hưởng tới việc thực hiện
quy định pháp luật về hoạt động cho vay tại chi nhánh
2.1.1 Tổng quan về Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam - chi nhánh Quảng Ninh.
Sơ lược về ngân hàng
- Tên đầy đủ: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam - Chi nhánh Quảng Ninh
- Tên giao dịch quốc tế: Joint Stock Commercial Bank for Investment and
Development of Vietnam
- Tên gọi tắt: BIDV
- Địa chỉ: Trụ sở chính: Tháp BIDV, 35 Hàng Vôi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
Điện thoại: 04.2220.5544 - 19009247. Chi nhánh Quảng Ninh: số 737, đường Lê
Thánh Tông, Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Fax: 04. 2220.0399
- Email:
Ngân hàng BIDV là ngân hàng thương mại lâu đời nhất Việt Nam. Chi nhánh
Quảng Ninh của ngân hàng BIDV được thành lập theo Nghị định số 233/NĐ-TCTCCB ngày 27/5/1957 của Bộ Tài Chính, là một trong những chi nhánh đầu tiên được
thành lập, trong quá trình hoạt động và trưởng thành ngân hàng chi nhánh Quảng Ninh
đã mang nhiều tên gọi khác nhau theo hệ thống và phù hợp với từng thời kỳ xây dựng,

phát triển của đất nước cũng như từng thời kỳ phát triển của Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chặng đường phát triển của ngân hàng BIDV
chi nhánh Quảng Ninh qua mỗi thời kì lịch sử, từng bước trưởng thành đều gắn với sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của địa phương, gắn với chức năng nhiệm vụ của
ngành, của hệ thống cùng với kết quả lao động hết mình của các thế hệ cán bộ Ngân
hàng BIDV chi nhánh Quảng Ninh qua các thời kì.
Ngành nghề kinh doanh của ngân hàng
- Về hoạt đông ngân hàng: Ngân hàng BIDV chi nhánh Quảng Ninh là một
ngân hàng có kinh nghiệm hàng đầu cung cấp đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
hiện đại và tiện ích.
- Về hoạt động bảo hiểm: Ngân hàng cung cấp các sản phẩm Bảo hiểm nhân
thọ, phi nhân thọ được thiết kế phù hợp trong tổng thể các sản phẩm trọn gói của ngân
hàng BIDV tới khách hàng.
- Về hoạt động đầu tư tài chính: Ngân hàng BIDV chi nhánh Quảng Ninh góp
vốn thành lập doanh nghiệp để đầu tư các dự án
23


Chức năng nhiệm vụ của ngân hàng
Trong thời kỳ đất nước đang tiến hành Công Nghiệp Hóa – Hiện Đại Hóa,
chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, ngân hàng BIDV chi nhánh Quảng Ninh là một trong những ngân
hàng thương mịa có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của toàn tỉnh.Vì vậy, ngân
hàng BIDV chi nhánh Quảng Ninh thực hiện những chức năng sau:
- Chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách nhà nước, các quy định trong luật
NHNN và luật các tổ chức tín dụng.
- Nhận vốn ủy thác từ các chương trình tài trợ Quốc gia, nhận tiền gửi thanh
toán, tiền gửi tiết kiệm loại không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng đồng Việt Nam và
đồng ngoại tệ của các tổ chức kinh tế, xã hội, các doanh nghiệp, cá nhân trong và
ngoài nước.

- Mở tài khoản và nhận tiền gửi: Mở tài khoản bằng đồng Việt Nam và đồng
ngoại tệ. Nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn với nhiều hình thức tiết kiệm
phong phú, đa dạng như: tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bậc thang...
- Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế về mậu
dịch và phi mậu dịch
- Mua bán chuyển đổi ngoại tệ, Séc du lịch, chi trả kiều hối.
- Cho vay: Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam và đồng
ngoại tệ, cho vay hợp vốn đối với các dự án lớn, có thời gian hoàn vốn dài, cho vay
trả góp, cho vay tiêu dung, chiếu khấu bộ chứng từ.
- Dịch vụ thẻ ATM và Ngân hàng điện tử: Phát hành, thanh toán ATM; phát
hành, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế Visa, Master Car
- Dịch vụ Ngân hàng điện tử: Internet Banking, Phone banking, Mobile
- Dịch vụ khác: đại lý chứng khoán, tư vấn đầu tư, tài trợ thương mại, thẩm
định dự án, thu chi hộ ngân quỹ, giử hộ tài sản quý
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới việc thực hiện quy định pháp luật về hoạt
động cho vay của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Quảng Ninh
Nguồn vốn
Vốn kinh doanh của một ngân hàng thực chất là tiền gửi của người ký thác. Quy
mô nguồn vốn của một NHTM quyết định đến quy mô của khối lượng tín dụng mà
ngân hàng đó có thể phát ra, ảnh hưởng đến số lượng rủi ro mà ngân hàng có thể chấp
nhận. Một ngân hàng có quy mô lớn có thể phát ra một khối lượng tín dụng lớn với kỳ
hạn dài hơn nhưng đi kèm theo đó là rủi ro cũng nhiều hơn. Mục đích lớn nhất của
ngân hàng là lợi nhuận. Do vậy, tất cả các ngân hàng đều xem xét đến yếu tố quan
trọng này,các chính sách tín dụng thường tìm cách nâng cao tỉ phần sinh lợi của tài
sản,đặc biệt là nâng cao khả năng cung cấp tín dụng. Các ngân hàng có nhu cầu lớn
hơn về lợi nhuận thường áp dụng chính sách cho vay năng động hơn so với các ngân
24


hàng không xem lợi nhuận là quan trọng nhất. Chẳng hạn như các ngân hàng này sẽ

cho vay vốn với khối lượng lớn hơn, mức lãi suất cao hơn so với cho vay ngắn hạn
mặc dù biết là mình có nguy cơ gặp phải rủi ro nhiều hơn.
Tính ổn định của các khoản ký thác
Ngân hàng luôn xem xét sự biến động của các khoản ký thác khi quyết định
chính sách cho vay. Khi các khoản ký thác ổn định ngân hàng có thể hoạch định chính
sách tín dụng mà ở đó quy mô thơì hạn tín dụng được ổn định, tỉ phần sinh lợi của tài
sản co cũng có thể được hoạch định cao hơn. Tuy nhiên nếu sự ký thác không ổn định
thì buộc các ngân hàng phải xem xét đến tính sử dụng của các khoản ký thác,luôn luôn
phải dự trữ hiện kim và dự trữ thứ cấp để đảm bảo thanh toán khi cần thiết.
Điều kiện kinh tế
Điều kiện kinh tế được coi là một yếu tố khách quan thể hiện sự tăng trưởng hay
trì trệ của nền kinh tế. Một nền kinh tế đang ở trong một hoàn cảnh ổn định thuận lợi ,
sức mua cao, xuất khẩu dễ dàng cho phép ngân hàng bành chướng tín dụng, thực hiện
một chính sách cho vay tự do. Ngược lại, với một nền kinh tế bị trì trệ lệ thuộc vào
các biến động thời vụ và chu kỳ thì tín dụng sẽ bị co hẹp lại. Các khoản ký thác trong
nền kinh tế không ổn định thường chao đảo , biến động mạnh so với các khoản ký thác
trong một nền kinh tế ổn định, điều kiện kinh tế có thể thể hiện qua toàn bộ hoạt động
kinh tế cũng có thể thể hiện ở các ngành kinh tế, lĩnh vực kinh tế.
Chính sách tiền tệ và chính sách tài chính
Chính sách tiền tệ và tài chính của Nhà nước bao gồm các chính sách như dự
trữ pháp định, chính sách chiết khấu, chính sách thị trường mở…Những chính sách này
mang tính cưỡng chế của pháp luật, áp dụng lên toàn bộ nền kinh tế nên ngân hàng
buộc phải tuân theo. Nếu các chính sách tài chính tiền tệ được mở rộng thì hệ thống
NHTM được cấp thêm vốn dự trữ, khả năng cho vay của ngân hàng được gia tăng.
Ngược lại, khi Nhà nước muốn hạn chế tín dụng, sử dụng chính sách thắt chặt thì buộc
ngân hàng cũng phải hạn chế tín dụng.
Khả năng và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên
Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu để vạch ra các chính sách
kinh doanh của ngân hàng nói chung và chính sách tín dụng nói riêng. Tùy thuộc vào
khả năng chuyên môn, khả năng quản lý của nhân viên mà ngân hàng mở rộng tín

dụng vào những phạm vi mà nhân viên của mình có thể quản lý được. Bởi lẽ, cho vay
luôn đi liền với những rủi ro nếu như các nhân viên không đủ trình độ, khả năng đánh
giá sự trung thực của các hồ sơ khách hàng, tính khả thi của các dự án xin vay thi sẽ
đem lại rủi ro rất lớn cho hoạt động của ngân hàng.
Nhu cầu của khu vực phục vụ
Ngân hàng muốn được cấp giấy phép hoạt động thì cần phải đáp ứng phục vụ
được nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Tại khu vực mà nền kinh tế chủ yếu là trồng
25


×