Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Khóa luận tốt nghiệp ảnh hưởng của các chất điều hòa sinh trưởng thực vật lên quá trình phát sinh hình thái cây hoa huệ hương (polianthes tuberosel) in vitro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.06 KB, 53 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ
TP. HCM

Ngành:

CÔNG NGHỆ SINH HỌC

Chuyên ngành: CÔNG NGHỆ SINH HỌC THỰC VẬT

Giảng viên hướng dẫn: Th.S. Trịnh Thị Lan
Anh

i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Sinh viên thực hiện
MSSV: 0811110049

: Lê Ngọc Mỹ
Lớp: 08CSH2

TP. Hồ Chí Minh, 2011

MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................................ii
DANH MỤC BẢNG..............................................................................................................ii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.............................................................................................v
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................7
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ..........................................................................41
4.1. Kết luận.........................................................................................................42
4.2. Đề nghị......................................................................................................... 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................43
PHỤ LỤC.............................................................................................................................47

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Khảo sát ảnh hưởng của HgCl 2 0,1% ở các mức thời gian khác
nhau

đến

hiệu

quả

ii

khử

trùng

mẫu

cấy.


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


.....................................................................................................
28
Bảng 2.2. Khảo sát ảnh hưởng của việc kết hợp HgCl 2 0,1% và Ca(OCl)2
15%
đến
hiệu
quả
khử
trùng
mẫu
cấy.
.....................................................................................................
29
Bảng 2.3. Khảo sát ảnh hưởng của kinetin lên khả năng phát sinh hình
thái
của
mẫu
cấy
.....................................................................................................
29
Bảng 2.4. Khảo sát ảnh hưởng của BA đến khả năng phát sinh hình thái
của
mẫu
nuôi
cấy.
.....................................................................................................
29
Bảng 2.5. Khảo sát ảnh hưởng kết hợp của BA và các auxin khác nhau
lên khả năng phát sinh hình thái của mẫu cấy.

.....................................................................................................
30
Bảng 3.1. Ảnh hưởng HgCl2 0,1% ở các mức thời gian khác nhau đến
hiệu quả khử trùng mẫu cấy sau 4 tuần nuôi cấy
.....................................................................................................
32
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của việc kết hợp HgCl2 0,1% trong 15 phút và
Ca(OCl)2 15% đến hiệu quả khử trùng mẫu sau 4 tuần nuôi
cấy.
.....................................................................................................
33
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của kinetin lên khả năng phát sinh hình thái của
mẫu
cấy
sau
8
tuần
nuôi
cấy
.....................................................................................................
35

iii


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Bảng 3.4. Ảnh hưởng ảnh hưởng của BA đến khả năng phát sinh hình
thái của mẫu nuôi cấy sau 8 tuần nuôi cấy
.....................................................................................................

37
Bảng 3.5. Ảnh hưởng kết hợp của BA và các auxin khác nhau lên khả
năng phát sinh hình thái của mẫu cấy sau 8 tuần nuôi cấy
.....................................................................................................
40

DANH MỤC HÌNH
Hình
1.1.
Polianthes
tuberose
L.
................................................................................................................
13
Hình
2.1.
Hoa
Huệ
Hương
................................................................................................................
26
Hình
2.2.
Củ
hoa
Huệ
Hương
................................................................................................................
26
Hình 3.1. Mẫu phát sinh hình thái trên môi trường MS + 30g/l saccaroza

+
9
g/l
agar
+
2mg/l
Kinetin
......................................................................................................
36
Hình 3.2. Mẫu phát sinh hình thái trên môi trường MS + 30g/l saccaroza
+

9

g/l

agar
iv

+

4mg/l

BA


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

......................................................................................................
39

Hình 3.3. Mẫu phát sinh hình thái trên môi trường MS + 30g/l saccaroza
+ 9 g/l agar + 0,25mg/l IBA + 4mg/l BA
......................................................................................................
41
Hình 3.4. Mẫu phát sinh hình thái trên môi trường MS + 30g/l saccaroza
+ 9 g/l agar + 0,25mg/l 2,4D + 4mg/l BA
......................................................................................................
41
Hình 3.5. Mẫu phát sinh hình thái trên môi trường MS + 30g/l saccaroza
+ 9 g/l agar + 0,25mg/l α-NAA + 4mg/l BA
......................................................................................................
42
Hình 3.6. Mẫu phát sinh hình thái trên môi trường MS + 30g/l saccaroza
+ 9 g/l agar + 0,25mg/l IAA + 4mg/l BA
......................................................................................................
42

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

v


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

MS:
BA:
IBA:
α-NAA:
2,4-D:


Murashige and Skoog, 1962
Benzyl adenin
Indol butyric acid
α-naphtyl acetic acid
2,4 diclorophenoxy acetic acid

IAA:

Indol acetic acid

vi


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây hoa Huệ Hương (Polianthes tuberose L.) là cây hoa cắt cành thuộc nhóm thân
thảo, thích cường độ ánh sáng cao và cho hoa quanh năm. Hoa Huệ Hương được nhập
vào nước ta từ rất lâu. Cây hoa Huệ Hương được trồng phổ biến tại vùng Nam Trung Bộ
đem lại thu nhập khá cao cho người trồng và chính là cây xóa đói giảm nghèo cho vùng
chuyên canh loài cây này.
Hiện nay, việc canh tác cây hoa Huệ thường chủ yếu được nhân giống bằng kỹ
thuật nhân giống truyền thống, chủ yếu là lấy củ trồng. Với phương pháp nhân giống này
dễ lây lan các mầm bệnh có sẵn trong củ, đặc biệt là bệnh virus làm giảm năng suất và
phẩm chất hoa, khiến cho giống hoa này ngày càng thoái hóa.
Trong những năm gần đây, bệnh hại trên cây hoa Huệ Hương xuất hiện nhiều, đặc
biệt trong đó có một bệnh rất khó trị là bệnh chai bông. Tác nhân gây bệnh hiện vẫn chưa
xác định được. Bệnh xuất hiện trên diện rộng làm ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất
hoa. Bệnh không làm cho cây chết ngay nhưng làm cho chồi, củ, hoa kém phát triển, làm

thất thu nguồn thu nhập của nông dân. Các triệu chứng bệnh do virus được mô tả bởi
Horner và Person (1988), Chen và Chang (1998) gần giống các biểu hiện ở cây hoa Huệ
Hương ở Nam Trung Bộ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tạo nguồn giống sạch bệnh
cung cấp cho nhân dân?
Phương pháp nhân giống in vitro với rất nhiều ưu điểm, tạo được cây con trẻ hóa
và sạch bệnh nên tiềm năng sinh trưởng, phát triển và năng suất cao, khắc phục được
nhược điểm của phương pháp nhân giống truyền thống, khôi phục lại phẩm chất vốn có
của giống. Đồng thời hệ số nhân của phương pháp nhân giống này cao đáp ứng được nhu
cầu về số lượng giống có chất lượng cao, ổn định đáp ứng được nhu cầu sản xuất trên
quy mô rộng. Cho đến nay kĩ thuật nuôi cấy mô đã được nghiên cứu ứng dụng rất có hiệu
quả trong việc nhân giống hàng loạt các loại cây trồng tạo ngân hàng cây giống sạch
bệnh, khỏe mạnh cho năng suất cao, phẩm chất tốt cung cấp cho sản xuất.

2. Mục đích nghiên cứu

7


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Xác định được ảnh hưởng của các chất đều hòa sinh trưởng thực vật lên quá trình
phát sinh hình thái trong quy trình nhân giống cây hoa Huệ Hương bằng kỹ thuật nuôi
cấy mô tế bào, làm cơ sở cho việc hình thành quy trình nhân giống in vitro cây hoa Huệ
Hương, góp phần giải quyết những khó khăn của thực tiễn sản xuất hoa.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Cây hoa Huệ Hương là đối tượng mới của sản xuất cây giống bằng phương pháp
nuôi cấy mô ở nước ta. Xuất phát từ yêu cầu khó khăn của thực tiễn, nhằm khắc phục
hiện tượng chai bông trên cây hoa Huệ Hương, một giống hoa Huệ quý mang lại hiệu quả
cao cho nông dân. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu xây dựng quy trình nhân giống in vitro

cây hoa Huệ đã được tiến hành thử nghiệm.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài đã đưa ra được các minh chứng về tác động của phương pháp khử trùng đến
tỷ lệ sống của mẫu cây, tác động của chất điều tiết sinh trưởng đến khả năng phát sinh
hình thái.
Kết quả nghiên cứu đề tài có thể sử dụng nghiên cứu trong nuôi cấy mô tế bào cây
hoa. Góp phần sản xuất cây giống có hiệu quả cao, chất lượng tốt, ứng dụng vào sản xuất
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành sản xuất cây hoa Huệ.

5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất điều hòa sinh trưởng thực vật đến quá trình
phát sinh hình thái của mầm ngủ trên củ hoa Huệ Hương. Sử dụng các chất điều hòa sinh
trưởng thực vật như: kinetin, BA, IBA, α-NAA, 2,4-D, IAA.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nhân giống cây bằng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào
Là phương pháp nuôi cấy mô tế bào trong môi trường dinh dưỡng nhân tạo trong
điều kiện vô trùng và tái sinh chúng thành cây con.

8


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Nhân giống bằng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào là phương pháp mới bổ sung cho
các kỹ thuật nhân giống truyền thống nhiều kỹ thuật tiến bộ, có thể khắc phục được
những hạn chế của các phương pháp nhân giống truyền thống.

1.2. Lịch sử nuôi cấy mô tế bào thực vật

Năm 1838, trên cơ sở những nghiên cứu độc lập, hai nhà bác học người Đức là
Schleiden và Schwamn cùng khởi xướng học thuyết tế bào. Học thuyết này cho rằng tế
bào là đơn vị cấu trúc và chức năng của sinh vật, vì vậy có khả năng tồn tại độc lập.
Gottlibe Haberlandt là người đầu tiên đề xuất phương pháp nuôi cấy mô tế bào
thực vật vào năm 1902 để chứng minh học thuyết về tính toàn năng của tế bào. Theo ông
mỗi tế bào của bất kỳ cơ thể nào đều mang toàn bộ hệ thống di truyền cần thiết và đầy đủ
thông tin của sinh vật đó, khi gặp điều kiện thích hợp, mỗi tế bào đều có thể phát triển
thành cơ thể hoàn chỉnh. Ông tiến hành thí nghiệm với tế bào khí khổng và các tế bào đã
được biệt hóa về chức năng khác nhưng không thành công. Điều đó đã giảm sự tin tưởng
của các nhà khoa học đối với phương pháp nuôi cấy mô tế bào trong thời gian dài.
Đến năm 1922 học trò của Gottlibe Haberlandt là Kotte và Robbinss đã làm lại thí
nghiệm của ông. Họ đã lấy đỉnh sinh trưởng của rễ cây hòa thảo nuôi cấy trong môi
trường có khoáng, đường, đầu rễ đã sinh trưởng mạnh và tạo ra hệ rễ nhỏ và cả rễ phụ.
Tuy nhiên sự sinh trưởng chỉ tồn tại trong một thời gian mặc dù chuyển sang môi trường
mới.
Năm 1934, bắt đầu giai đoạn thứ 2 trong lịch sử nuôi cấy mô tế bào thực vật khi
White đã nuôi cấy thành công đầu tiên rễ cà chua trên môi trường lỏng có chứa đường,
muối khoáng, dịch chiết nấm men. Các thí nghiệm tiếp theo ông thay thế dịch chiết nấm
men bằng hỗn hợp 3 vitamin nhóm B : thiamin (B1), nicotinic acid (B3), pyridioxin (B6).
Sau đó ít lâu Went và Thimann tìm ra chất kích thích sinh trưởng đầu tiên là IAA.
Năm năm sau Gautheret đã thông báo về sự tái sinh của cây cà rốt, đây cũng là lần
đầu tiên sự phát triển của mô sẹo không bị giới hạn. Bằng cách thêm IAA vào môi trường
nuôi cấy, ông có thể kích thích sự phát triển của mô đã biệt hóa trên vết cắt của bề mặt
mẫu cấy vô trùng. Sau này người ta mới thấy rằng callus có thể trực tiếp nuôi cấy vô thời
hạn. Đến năm 1948, Steward xác nhận tác dụng của nước dừa trên mô sẹo cà rốt. Trong
thời gian này nhiều chất sinh trưởng thuộc nhóm auxin được tổng hợp như
naphthylacetiic acid (NAA), 2,4-Diclophenoxyacetic acid (2,4D). Nhiều tác giả nhận
9



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

thấy cùng với nước dừa, NAA và 2,4 D đã giúp tạo mô sẹo gây phân chia tế bào thành
công ở nhiều đối tượng thực vật trước đó khó nuôi cấy.
Năm 1955, Miller và Skoog đã xác định vai trò của chất kích thích sinh trưởng là
6-Furfuryl aminopurin (kinetin). Việc phát hiện ra chất kích thích sinh trưởng, vitamin và
nước dừa là những bước tiến quan trọng trong giai đoạn thứ 2.
Năm 1957, Miller và Skoog đã công bố các kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của
tỷ lệ auxin/kinetin trong môi trường nuôi cấy đối với sự hình thành cơ quan, tỷ lệ
auxin/kinetin thấp, mô sẹo có khuynh hướng tạo chồi, ngược lại tỷ lệ auxin/kinetin tăng,
mô sẹo có khuynh hướng tạo rễ. Hiện nay, những kết quả này cũng được quan sát thấy
trên nhiều loại cây khác nhau và đóng góp nhiều vào việc điều khiển quá trình sinh
trưởng, phát triển và phát sinh cơ quan của mô tế bào trong nuôi cấy. Thành công của
Miller và Skoog đã mở đầu cho giai đoạn thứ ba của lịch sử nuôi cấy mô tế bào thực vật.
Những thành công trên là cơ sở bùng nổ ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy mô tế báo
thực vật trong sản xuất. Morel và Martin đã phát triển kỹ thuật nuôi cấy đỉnh sinh trưởng
để tạo giống sạch bệnh ở khoai lang và hoa lan. Chính hai nhà khoa học này đã mở đầu
cho một hướng mới của nuôi cấy mô tế bào thực vật, đó là vi nhân giống.
Từ những năm 1960, ngoài các hướng trên, nuôi cấy bao phấn và hạt phấn, nuôi
cấy tế bào đơn và tế bào trần được phát triển mạnh. Các kỷ thuật lai soma bằng dung hợp
tế bào trần và kỷ thuật chuyển gen được phát triển và thu được những thành tựu đáng kể.
Chúng ta đang bước vào giai đoạn thứ 4 của nuôi cấy mô tế bào thực vật. Đó là
giai đoạn nuôi cấy mô tế bào được ứng dụng mạnh mẽ vào thực tiễn chọn giống, sản xuất
các chất thứ cấp có hoạt tính sinh học và vao nghiên cứu lý luận di truyền thực vật bậc
cao.

1.3. Cơ sở lý luận của nuôi cấy mô tế bào thực vật
Cơ sở lý luận của phương pháp nuôi cấy mô tế bào in vitro là học thuyết về tính
toàn năng (totipotence) của tế bào. Theo Haberlandt G. (1902), nhà thực vật người Đức,
tất cả các tế bào của cây đều mang toàn bộ lượng thông tin di truyền của cơ thể, khi gặp

điều kiện thích hợp, mỗi tế bào đều có khả năng tái sinh và phát triển thành cá thể hoàn
chỉnh. Thực tế đã chứng minh được khả năng tái sinh một cơ thể thực vật hoàn chỉnh từ
một tế bào riêng rẽ. Hàng trăm loài cây trồng đã được nhân giống trên qui mô thương mại

10


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

bằng cách nuôi cấy trong môi trường nhân tạo vô trùng và tái sinh chúng thành cây với
hệ số nhân giống vô cùng lớn (Murashige, 1980).
Quá trình phát sinh hình thái trong nuôi cấy in vitro thực vật thực chất là kết quả
của các quá trình phân hóa và phản phân hóa. Tất cả các tế bào trong các cơ quan khác
nhau của cơ thể thực vật đều bắt nguồn từ tế bào phôi sinh. Sự chuyển tế bào phôi sinh
thành các tế bào chuyên hóa để đảm nhiệm các chức năng khác nhau được gọi là sự phân
hóa tế bào. Còn quá trình phản phân hóa thì ngược lại với quá trình phân hóa, có nghĩa là
tế bào đã phân hóa thành mô chức năng không hoàn toàn mất đi khả năng phân chia mà ở
điều kiện thích hợp chúng có thể trở về dạng phôi sinh và tái phân chia.
Bản chất của quá trình này là một quá trình hoạt hóa, ức chế các gen. Trong quá
trình phát triển cá thể, ở từng thời điểm nhất định đều có một số gen nhất định được hoạt
hóa cho ta tính trạng mới, một số gen khác lại bị đình chỉ hoạt động. Điều này xảy ra theo
một chương trình đã được mã hóa trong cấu trúc phân tử DNA của mỗi tế bào khiến quá
trình sinh trưởng phát triển của cơ thể thực vật luôn được hài hòa. Mặt khác, khi nằm
trong khối mô bình thường, tế bào luôn bị chi phối bởi các tế bào xung quanh. Khi tế bào
được tách riêng rẽ, tác dụng ức chế của các tế bào xung quanh không còn nữa thì các gen
được hoạt hóa và quá trình phân hóa sẽ xảy ra theo một quá trình định sẵn.

1.4. Ưu, nhược điểm của phương pháp nhân giống in vitro
Phương pháp nhân giống in vitro có khả năng khắc phục được nhiều trở ngại mà
những phương pháp nhân giống khác thường gặp. Sau đây là những ưu điểm chính :

- Cây con được trẻ hóa và sạch bệnh, vì vậy có tiềm năng sinh trưởng, phát triển và năng
suất cao.
- Tạo cây con đồng nhất về mặt di truyền, bảo tồn được các tính trạng đã chọn lọc.
- Tạo được dòng thuần của các cây tạp giao.
- Tạo được cây có genotip mới (đa bội, đơn bội).
- Bảo quản và lưu giữ tập đoàn gen.
- Có khả năng sản xuất quanh năm.
- Có thể nhân nhanh nhiều cây không kết hạt trong những điều kiện sinh thái nhất định
hoặc hạt nảy mầm kém.
- Hệ số nhân giống cực kì cao (thường đạt được ở các loài cây khác nhau trong phạm vi
từ 36 - 1012/năm), rút ngắn thời gian đưa một giống mới vào sản xuất đại trà.
11


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Trong công tác giống cây trồng, vấn đề được quan tâm hàng đầu là chất lượng và
số lượng giống. Bằng phương pháp nuôi cấy đỉnh sinh trưởng, người ta đã tạo ra được
những giống cây hoàn toàn sạch virus. Limasset và Cornel (1945) đã chứng minh được
rằng, nồng độ virus trong thực vật giảm dần ở bộ phận gần đỉnh sinh trưởng, riêng đỉnh
sinh trưởng thì hoàn toàn sạch virus (Morel và Martin, 1952). Nguyên nhân của hiện
tượng này là:
- Đỉnh sinh trưởng không có hệ mô dẫn, làm cho virus và vi sinh vật không có khả năng
thâm nhập.
- Đỉnh sinh trưởng là nơi sinh tổng hợp của auxin nên hàm lượng auxin khá cao, auxin có
tác dụng ức chế sinh sản của virus.
- Quá trình phân chia của tế bào phôi sinh (ở đỉnh sinh trưởng) không kéo theo sự phân
chia của virus.
Về phương diện hệ số nhân, nhân giống in vitro là phương pháp không gì có thể so
sánh kịp, kể cả phương pháp nhân giống bằng hạt. Nuôi cấy in vitro có thể coi là một

cuộc cách mạng về hệ số nhân.
Nhược điểm chính của phương pháp nuôi cấy in vitro là đòi hỏi trang thiết bị đắt tiền và
kỹ thuật cao nên chỉ có hiệu quả đối với những cây có giá trị cao hoặc khó nhân giống
bằng phương pháp khác (Nickell, 1973). Ngoài ra, phương pháp này còn có những bất lợi
sau:
- Mặc dù số lượng cây giống thu được có thể rất cao nhưng cây con có kích thước nhỏ,
đòi hỏi phải có chế độ chăm sóc đặc biệt ở giai đoạn sau ống nghiệm.
- Cây có thể có những đặc tính không mong muốn.
- Khả năng tạo đột biến tăng.
- Khả năng tái sinh có thể bị mất đi do cấy truyền callus hay huyền phù tế bào nhiều lần.
- Cây giống có thể bị nhiễm bệnh đồng loạt.
Tuy vậy phương pháp nhân giống in vitro ngày càng được sử dụng rộng rãi để
phục vụ cho những mục đích sau:
- Nhân nhanh và duy trì các cá thể đầu dòng tốt để cung cấp hạt giống các loại cây trồng
khác nhau như cây lương thực có củ, cây rau, cây hoa, cây cảnh và cây dược liệu thuộc
nhóm cây than thảo.

12


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

- Nhân nhanh và kinh tế các kiểu gen quí hiếm của giống cây lâm nghiệp và gốc ghép
trong nghề trồng cây ăn quả, cây cảnh thuộc nhóm than gỗ.
- Nhân nhanh ở điều kiện vô trùng và cách ly tái nhiễm kết hợp với làm sạch virus.
- Bảo quản và lưu giữ các tập đoàn giống nhân giống vô tính và các loài giao phấn trong
ngân hàng gen.

1.5. Kỹ thuật nuôi cấy in vitro
Kỹ thuật nuôi cấy in vitro có thể chia thành các bước sau:

- Lựa chọn đối tượng (cây trồng, giống, bộ phận cây) thích hợp.
Nguyên liệu sử dụng cho nuôi cấy mô tế bào thực vật có thể là bất cứ bộ phận nào
của cây: các đoạn của rễ, thân, các phần của lá (cuống lá, phiến lá…), các cấu trúc của
phôi như lá mầm, trụ trên, trụ dưới lá mầm, hạt phấn, noãn… thậm chí cả mẫu thân ngầm
hay cơ quan dự trữ dưới mặt đất (củ, căn hành…) cũng được dùng cho nuôi cấy.
- Khử trùng mẫu và tiến hành nuôi cấy.
Nguyên liệu để nuôi cấy in vitro được chọn từ những cá thể ưu tú của loài, khỏe
và sạch bệnh, nhưng ít nhiều đều có nhiễm vi sinh vật và nấm tùy thuộc vào sự tiếp xúc
của chúng với môi trường xung quanh. Có một số bộ phận như phôi trong hạt, mô trong
quả, dòng lúa non… ít bị nhiễm vi sinh vật hơn các bộ phận khác, ngược lại các bộ phận
nằm dưới mặt đất như rễ, củ, thân ngầm, có lượng vi khuẩn và nấm rất cao. Phương pháp
thông dụng nhất hiện nay để loại bỏ hệ vi sinh vật khỏi vật liệu nuôi cấy là sử dụng các
hóa chất có hoạt tính diệt khuẩn và nấm.
Khả năng tiêu diệt nấm và vi sinh vật của hóa chất khử trùng phụ thuộc vào nồng
độ, thời gian xử lý và mức độ xâm nhập của chúng vào các ngõ ngách trên bề mặt của mô
cấy. Để làm tăng hiệu quả, người ta thường nhúng mẫu vào ethanol 70 - 80% trong 30
giây, sau đó mới xử lý bằng dung dịch diệt khuẩn. Đối với những mẫu có bề mặt được
bao phủ lớp sáp, muốn đạt được kết quả tốt nhất cần cho them vào dung dịch khử trùng
vài giọt Tween 20, Tween 80 hay teapol…vì các chất này làm tăng tính bám dính của hóa
chất khử trùng. Với các mẫu quá bẩn phải rửa kỹ bằng nước xà phòng và để dưới vòi
nước chảy từ 20 đến 30 phút sẽ có tác dụng làm giảm đáng kể hệ vi khuẩn khỏi mẫu cấy.
Tác nhân khử trùng, ngoài tác dụng diệt vi sinh vật còn ảnh hưởng đến mô cấy vì
vậy việc lực chọn loại hóa chất phải căn cứ vào mức độ nhiễm khuẩn và độ mẫn cảm của
từng mẫu. Trong số các hóa chất hay được sử dụng để khử trùng thì Calcium hypoclorite
13


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

và natri hypoclorite là hay được sử dụng hơn cả vì có tính độc thấp đối với mô được xử

lý, không gây ức chế sinh trưởng và hiệu quả diệt khuẩn tốt. Nồng độ của Calcium
hypoclorit và natri hypoclorit tương ứng thường là 5 - 15% và 0,5 - 2% trong thời gian 15
- 30 phút. Tuy nhiên, những chất này không bền nên trong thực tế HgCl 2 cũng hay được
dùng để thay thế.
- Xác định điều kiện nuôi cấy (môi trường dinh dưỡng, nhiệt độ, ánh sáng) để điều khiển
quá trình phát triển nuôi cấy theo định hướng.
Thành công của phương pháp nuôi cấy in vitro phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện
nuôi cấy. Nhu cầu dinh dưỡng cho sự sinh trưởng và phát triển tối ưu của các loài là
không giống nhau, ngay cả giữa các bộ phận trong cùng một cơ thể cũng ít nhiều khác
nhau. Sự lựa chọn môi trường nuôi cấy bao gồm cả chất lượng và số lượng hóa chất sử
dụng đóng vai trò quyết định đối với bản thân sự phân hóa và chiều hướng phân hóa của
tế bào.
Cho đến nay, đã có nhiều loại môi trường dinh dưỡng được tìm ra : môi trường
Murashige và Skoog (1962), môi trường Linsmaer và Skoog (1963), môi trường
Gamborg (1968), môi trường Knop (1974)… Đây là những môi trường cơ bản và sẽ được
cải tiến thành nhiều loại môi trường khác nhau phù hợp với mỗi đối tượng nghiên cứu và
mục đích thí nghiệm. Trong số đó, môi trường MS (Murashige và Skoog, 1962) được
đánh giá là phù hợp nhất cho đa số các loài thực vật và chính Murashige (1974) đã dung
môi trường này để nuôi cấy nhiều loài cây trồng.
Thành phần chủ yếu của tất cả các loại môi trường gồm những nhóm chất sau :
muối khoáng đa lượng và vi lượng (muối chloride, nitrate, sulphate, chất tham gia điều
chỉnh sự phân hóa của rễ, chồi…
Các auxin đều có hiệu quả sinh lý ở nồng độ thấp, thường được sử dụng với nồng
độ từ 10-1 M đến 10-6 M tùy theo từng chất, mục đích và đối tượng nghiên cứu. Auxin
được thêm vào môi trường nuôi cấy sẽ kết hợp với auxin nội sinh để điều khiển chiều
hướng và cường độ các quá trình sinh trưởng. Hàm lượng auxin thấp sẽ kích thích sự
phân hóa rễ, ngược lại ở hàm lượng cao sẽ phát động sự tạo mô sẹo.
Các auxin thường được sử dụng trong nuôi cấy mô là IBA (indol butyric acid), αNAA (a-naphtylacetic acid), 2,4-D (2,4 diclorophenoxy acetic acid), IAA (indool acetic
acid).
14



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Cytokinin là nhóm phytohormone dẫn xuất của adenine, có vai trò sinh lý tương tự
nhau. Cytokinin liên quan chặt chẽ với phân bào, duy trì sự trẻ hóa các cơ quan, làm giảm
ưu thế ngọn, kích thích sự phân hóa chồi từ mô sẹo nuôi cấy… Nồng độ cytokinin cao
kìm hãm sự hình thành và phát triển của rễ.
Các cytokinin thường được sử dụng trong nuôi cấy là kinetin, BAP (benzylaminopurin)
với nồng độ 10-4 - 10-7 M.
Nhiều tác giả đã tổng kết rằng sự biệt hóa cơ quan thực vật in vitro là kết quả tác
động qua lại giữa hai nhóm auxin và cytokinin. Cân bằng tỷ lệ auxin/cytokinin nếu
nghiêng về phía auxin sẽ kích thích sự hình thành rễ, ngược lại nếu cân bằng này nghiêng
về phía cytokinin sẽ thúc đẩy sự tạo chồi. Ở tỷ lệ trung gian, mô sẹo được hình thành.
Đây là nguyên tắc chung để điều khiển quá trình phát sinh hình thái của mô nuôi cấy. Các
mô khác nhau có phản ứng không giống nhau. Vì vậy, với từng loại mô và từng giai đoạn
sinh trưởng khác nhau, việc tìm được tổ hợp nồng độ auxin/cytokinin thích hợp có ý
nghĩa quan trọng.
- Đưa những cây tái sinh được trở lại điều kiện tự nhiên.
Đây là giai đoạn quan trọng bao gồm việc huấn luyện cây in vitro thích nghi với
điều kiện thay đổi nhiệt độ, độ ẩm, sự mất nước, sâu bệnh và chuyển từ trạng thái di
dưỡng sang tự dưỡng hoàn toàn. Quá trình thích nghi ở đây được hiểu là quá trình thay
đổi đặc điểm sinh lý và giải phẫu của cây in vitro. Thời gian tối thiểu cho sự thích nghi là
2 - 3 tuần.

1.6. Các hướng nhân giống vô tính in vitro
Khả năng thành công của nuôi cấy mô tế bào phụ thuộc chủ yếu vào trạng thái tuổi
của tế bào. Tế bào càng gần trạng thái phôi sinh bao nhiêu, khả năng nuôi cấy thành công
càng cao. Như vậy tế bào phôi thường cò triển vọng nhất rồi đến tế bào các đỉnh sinh
trưởng đang ở trạng thái hoạt động (đỉnh ngọn, chóp rễ) và sau đó là tế bào ở trạng thái

ngủ nghỉ (chồi nách).

15


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Trong nhân giống in vitro, cây non có thể được tái sinh từ các điểm sinh trưởng có
sẵn trong các bộ phận (phôi, đỉnh chồi, chồi nách) hoặc từ những mô có khả năng hình
thành điểm sinh trưởng phụ. Có hai phương pháp tái sinh cây con:
+ Tái sinh trực tiếp từ đỉnh sinh trưởng, phôi, ngọn, chồi hay chồi nách.
+ Tái sinh cây gián tiếp thông qua giai đoạn hình thành mô sẹo.
Tái sinh trực tiếp từ mẫu nuôi cấy là quá trình phát động những điểm sinh trưởng
đã tồn tại sẵn trong mô nuôi cấy phân chia và tái sinh thành cây. Các điểm sinh trưởng
này bao gồm các tế bào phôi sinh chứa 2n nhiễm sắc thể đặc trưng cho loài. Cây con tạo
ra theo con đường này hoàn toàn đồng nhất về mặt di truyền và duy trì được những tính
trạng của cây mẹ.
Trong hướng tái sinh gián tiếp, mẫu nuôi cấy không tái sinh thành cây ngay mà
phát triển thành khối mô sẹo (callus). Có thể thấy ngay là hệ số nhân của hướng này vô
cùng lớn. Từ một khối mô sẹo có thể tạo ra khối lượng lớn cây giống trong một thời gian
ngắn thong qua kỹ thuật tạo phôi soma hoặc chế ra hạt giống nhân tạo. Nhiều cây tái sinh
từ mô sẹo có thể rất khác với cây mẹ về mặt di truyền. Nguyên nhân của hiện tượng này
là do trong quá trình phát sinh và phát triển của mô sẹo, thường xuất hiện những tế bào
đột biến mang số nhiễm sắc thể không giống với tế bào ban đầu hoặc chứa những đột
biến gen do hiện tượng nội nguyên phân. Nội nguyên phân là hiện tượng nhân đôi nhiễm
sắc thể không kèm theo sự phân bào trong thực tế và là hiện tượng tự nhiên trong cơ thể
thực vật, nhưng tăng lên dưới ảnh hưởng của các thành phần của môi trường dinh dưỡng
và điều kiện cũng như phướng pháp nuôi cấy, nhất là khi cấy chuyển nhiều lần. Đột biến
tuy không có lợi cho việc duy trì nguyên trạng những đặc tính di truyền trong quá trình
tạo giống nhưng lại chính là đối tượng tìm kiếm trong quá trình cải tạo giống. Ngoài việc

cung cấp những đột biến tự nhiên, mô sẹo còn là đối tượng lý tưởng để tạo ra những đột
biến nhân tạo bằng các tác nhân gây đột biến hoặc công nghệ gen.
Vì vậy, trong nhân giống in vitro, để nhân nhanh những cá thể đã chọn lọc người
ta thường tái sinh cây theo hướng trực tiếp, còn mục tiêu của tái sinh gián tiếp là tạo ra
nhiều biến dị để phục vụ cho việc chọn lọc và cải tạo giống cây trồng.

1.7. Quy trình nhân giống in vitro
Quy trình nhân giống được chia làm 5 giai đoạn:
1.7.1. Lấy mẫu và xử lý mẫu
16


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Đây là giai đoạn quan trọng quyết định vi nhân giống. Khả năng nhiễm bệnh của
mẫu phụ thuộc vào cách lấy mẫu, xử lý mẫu trong điều kiện khử trùng. Mỗi cây đều có
ngưỡng nhiệt độ và độ ẩm phù hợp khi bảo quản và xử lý mẫu. Với cây nhiệt đới và á
nhiệt đới thì nhiệt độ 25oC, độ ẩm 75% là điều kiện giữ mẫu thích hợp, tỷ lệ nhiễm bệnh
thấp.
1.7.2. Tái sinh mẫu nuôi cấy
Mục đích của giai đoạn này là tái sinh các cơ quan từ mẫu nuôi cấy. Mẫu thường
là chồi đỉnh, chồi nách hay lát cắt đốt thân tùy thuộc đối tượng và mục đích nghiên cứu.
Quan trọng nhất là cần chú ý đến trạng thái sinh lý của mẫu. Khả năng thành công của
nuôi cấy mô, tế bào phụ thuộc chủ yếu vào trạng thái tuổi của tế bào, càng gần trạng thái
phôi sinh bao nhiêu thì nuôi cấy càng có khả năng thành công bấy nhiêu. Như vậy, tế bào
phôi thường có triển vọng nhất rồi đến tế bào đỉnh sinh trưởng đang hoạt động (đỉnh
ngọn, đầu rễ), sau đó là tế bào ở trạng thái ngủ (chồi nách).
1.7.3. Nhân nhanh chồi
Đây là giai đoạn đánh giá tính ưu việt của phương pháp vi nhân giống. Môi trường
ở giai đoạn này được bổ sung điều hòa sinh trưởng thực vật (cytokinin, auxin) tăng thời

gian chiếu sáng lên 16 giờ/ngày, cường độ ánh sáng tối thiểu là 1000 lux. Ánh sáng tím là
thành phần kích thích phân hóa mạnh, nhiệt độ thích hợp từ 20 - 30oC.
1.7.4. Tái sinh rễ
Khi chồi đạt đến một kích thước nhất định, mẫu được chuyển sang môi trường tạo
rễ. Môi trường này thường được bổ sung auxin (IBA, α-NAA, 2,4-D) ở liều lượng thích
hợp. Tuy nhiên, ở một số cây như chuối thì sự hình thành rễ tốt hơn ở môi trường không
có chất điều hòa sinh trưởng.
1.7.5. Đưa cây in vitro ra vườn ươm
Ở giai đoạn này, cây được chuyển từ trạng thái dị dưỡng sang tự dưỡng. Vì vậy
cần phải huấn luyện cho cây thích nghi với sự biến đổi của môi trường, đồng thời thay
đổi những đặc điểm sinh lý và giải phẫu của cây con.

1.8. Sơ lược về đối tượng nghiên cứu
1.8.1. Nguồn gốc

17


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Cây hoa Huệ Hương có tên khoa học là Polianthes tuberose L. Đây là loài hoa cắt
cành, thuộc nhóm cây thân thảo, cho hoa quanh năm, nở hoa vào ban đêm, có nguồn gốc
chủ yếu từ Mexico và hiện đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới.
Loài hoa này đã được du nhập vào nước ta từ rất lâu và được trồng phổ biến tại
một số tỉnh thuộc vùng Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
1.8.2. Phân loại
Trong hệ thống phân loại thực vật học, cây

hoa


Huệ Hương là cây thuộc:
- Ngành: Plantae (Thực vật)
- Lớp: Monocotyledonae (Một lá mầm)
- Bộ: Liliales (Hành)
- Họ: Amarylidaceae (Thủy Tiên)
- Chi: Polianthes
- Loài: Polianthes tuberose L.
Theo kết quả thống kê trên thế giới

thì

hiện tại ở Mexico có khoảng 12 loài hoa Huệ
Hương.
Hình 1.1. Polianthes tuberose L.
Riêng ở Việt Nam hiện nay, dựa vào đặc điểm của hoa thì chia thành 2 giống, chủ
yếu là huệ đơn và huệ kép.
- Huệ đơn hay còn gọi là huệ xẻ: cây thấp, mảnh khảnh, cách hoa nhỏ, bông chỉ có một
lớp cánh nhưng hương thơm rất đậm.
- Huệ kép hay còn gọi là huệ tứ diện: cây cao, hoa dày và bông dài hơn huệ đơn nhưng
hương thơm kém hơn.
1.8.3. Đặc điểm thực vật học
1.8.3.1. Thân
Huệ thuộc cây thân thảo, thân hành hay còn gọi là thân giả được kết bởi các bẹ lá
xếp chồng lên nhau, bẹ lá trước xếp phủ lên bẹ lá sau. Thân thẳng đứng không phân
nhánh vươn lên thành ngồng hoa cao khoảng 0,8 - 1m.
1.8.3.2. Lá

18



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Cây hoa huệ có lá đơn mọc quanh gốc, xanh và dài, cuống lá gốc rộng và to thành
hình như cái bao bao lấy củ, giữa phiến lá và bẹ lá không phân biệt rõ ràng. Chiều dài lá
khoảng 20 - 30cm, bề rộng của lá từ 0,5 - 1cm.
1.8.3.3. Hoa
Cây hoa huệ là cây cho hoa quanh năm, nhưng hoa nở chủ yếu vào mùa hè còn
mùa đông tỷ lệ ra hoa ít, hoa nhỏ và bông nắng hơn.
Hoa huệ có màu trắng, bao hoa hình phễu, thường tỏa hương vào ban đêm. Hoa có vị
ngọt, hơi chát, thơm, không độc. Cành hoa thường dài, ở nách mỗi lá có 2 hoa màu trắng,
có tràng đơn hay tràng kép, nhị gắn giữa ống, bầu dưới 3 ô.
1.8.3.4. Củ và rễ
Cây huệ có bộ rễ chùm phát triển mạnh, rễ phân bố chủ yếu ở lớp đất mặt 1-15cm.
Có 2 loại rễ: rễ mọc từ củ mẹ ban đầu gọi là rễ sơ cấp và rễ mọc từ củ con gọi là rễ thứ
cấp, củ huệ thực chất chính là thân ngầm của cây huệ.
1.8.4. Yêu cầu ngoại cảnh của cây hoa Huệ Hương
1.8.4.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố vật lý có ảnh hưởng lớn đến thời gian sinh trưởng, phát triển
cũng như khả năng phân hóa hoa của cây hoa Huệ Hương.
Cây hoa Huệ Hương là cây ưa nhiệt độ mát mẻ (20 - 25 oC), nhưng chịu nóng tốt,
phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, cho hoa tốt vào mùa hè. Tuy vậy, khi
nhiệt độ mùa hè quá cao kéo dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng sinh trưởng của
cây, chất lượng hoa và nhất là sâu bệnh phá hại mạnh.
Trước khi phân hóa hoa và lúc cây có 5 - 6 lá cần nhiệt độ mát mẻ (15 - 22 oC) nếu không
tỷ lệ nở hoa sẽ rất thấp và chất lượng hoa kém.
1.8.4.2. Ánh sáng
Cây hoa Huệ Hương là cây ưa sáng mạnh. Giai đoạn đầu sau khi trồng, cây sống
chủ yếu nhờ vào nguồn dinh dưỡng từ củ. Khi cây ra lá, cây sử dụng chất dinh dưỡng từ
quá trình quang hợp. Trong thời kỳ phân hóa mầm hoa nếu không cung cấp đủ ánh sáng
thì tỷ lệ ra hoa thấp, hoa nhỏ.

Ngoài ra, nếu thiếu ánh sáng cây hoa Huệ Hương rất dễ bị nhiễm bệnh. Trong điều
kiện ngày ngắn, ánh sánh yếu thì ảnh hưởng mạnh đến sự sinh trưởng phát triển của cây.
Cường độ ánh sánh cũng là yếu tố ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phân hóa mầm hoa.
19


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Nếu cường độ chiếu sáng dưới 3500 lux thì cường độ quang hợp và sự thoát hơi nước
giảm, cây mọc vống, cành lá yếu. Do đó khi trồng ở vụ đông cần đảm bảo chế độ chiếu
sáng phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phân hóa mầm hoa, hoa tự dài đồng thời
tăng chất lượng hoa. Số giờ chiếu sáng thích hợp cho cây hoa huệ sinh trưởng và phát
triển tốt từ 12 - 16 giờ và cường độ ánh sáng khoảng 6000 lux.
1.8.4.3. Nước
Cây hoa Huệ Hương là cây rễ củ nên khi nảy mầm cũng như quá trình sinh trưởng
cần phải có đủ nước. Các giai đoạn sinh trưởng khác nhau thì có nhu cầu về nước khác
nhau. Sau khi trồng vài ngày, rễ mầm nhú ra và phát triển thì yêu cầu đất xung quanh củ
phải đủ ấm, vì vậy trước khi trồng nên tưới nước. Khi cây mọc nếu đất quá khô thì phải
tưới nước ngay. Trong suốt thời kỳ sinh trưởng, cây hoa Huệ Hương cần rất nhiều nước,
đặc biệt là ở giai đoạn có 3 - 7 lá, đây là thời kỳ cây có nhu cầu về nước lớn, nếu thiếu
nước cây sẽ sinh trưởng chậm ảnh hưởng đến khả năng phân hóa của hoa.
1.8.4.4. Đất
Cây hoa Huệ Hương có thể trồng trên bất cứ loại đất nào, tuy vậy cây chỉ sinh
trưởng tốt, cho hoa đẹp trên loại đất hơi kiềm (pH = 6 - 7), có cấu trúc mịn, giữ ẩm tốt.
Tuy vậy, cây hoa Huệ Hương không thích hợp ở nơi quá trũng, chua.
Cây hoa Huệ Hương có thể trồng trên các loại đất có thành phần cơ giới sau:
- Đất cát pha có độ tơi xốp cao, độ hổng lớn, thoáng khí, ngấm nước tốt nhưng có độ phì
kém. Do đó, khi trồng hoa Huệ Hương trên loại đất này cần phải bón nhiều phân hữu cơ
để bổ sung dinh dưỡng cho cây.
- Đất thịt nhẹ, thoát nước tốt, giàu dinh dưỡng là loại đất trồng thích hợp đối với cây hoa

Huệ Hương. Nếu đất quá ẩm, rễ rất dễ bị thối, vì thế vào mùa mưa cần chống úng, tháo
nước kịp thời không để ruộng bị ngập úng.
Mặc khác hoa Huệ Hương cũng là cây rất mẫn cảm với các loại muối kim loại
nặng. Đặc biệt là loại đất có hàm lượng chì cao, rễ cây sinh trưởng kém, cây phát triển
chậm và khả năng ra hoa kém. Chính vì vậy trước khi trồng hoa huệ cần chú ý đến các
biện pháp canh tác đất.
1.8.5. Kỹ thuật trồng và chăm sóc
1.8.5.1. Chuẩn bị giống

20


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Theo phương pháp canh tác truyền thống, cây huệ trồng bằng củ, vì vậy khi cây có
nhiều lá úa vàng thì bới củ, tách nhẹ nhàng từng củ, chọn những củ có kích thước đạt tiêu
chuẩn sau đó cắt bỏ lá và rễ tiến hành phơi nắng 2 - 3 ngày cho lá héo rồi đem bảo quản
nơi thoáng mát, cao ráo, sau 2 - 3 tháng có thể đem trồng trở lại. Trong thời gian bảo
quản nên thường xuyên kiểm tra tránh hiện tượng củ bị thối.
Trong những năm gần đây, xuất hiện bệnh chai bông trên diện rộng, vì vậy để
phòng trừ bệnh chai bông trên cây hoa Huệ Hương cần tiến hành các bước sau:
- Không sử dụng củ bị nhiễm bệnh hoặc lấy củ từ những ruộng đã bị nhiễm bệnh trước đó
làm củ giống.
- Phơi củ trong vòng 1 - 1,5 tháng trước khi đem ra trồng.
- Nên thay đổi chân đất sau mỗi vụ trồng hoặc luân canh cây hoa Huệ Hương với một
loại cây trồng khác.
- Khi phát hiện thấy có triệu chứng bệnh cần loại bỏ cây bệnh ra khỏi ruộng, phơi khô và
đốt bỏ. Khi không có củ giống sạch bệnh, có thể chọn củ ở cây không có triệu chứng
bệnh và tiến hành phơi nắng kĩ từ 1-1,5 tháng, sau đó xử lý củ với nước nóng khoảng 56 57oC.
Quy trình xử lý củ Huệ Hương bằng nước nóng để phòng trừ bệnh chai bông gồm

các bước sau:
- Bước 1: Chuẩn bị củ Huệ Hương để xử lý.
Sau khi thu hoạch, đem phơi củ trong 1 - 1,5 tháng, chọn những củ có đường kính
từ 3 cm trở lên để xử lý.
- Bước 2: Xử lý củ Huệ Hương bằng nước nóng.
Đổ nước nóng và nước lạnh vào trong một thùng nhựa với tỷ lệ 6:5, rồi điều chỉnh
để nhiệt độ nước trong thùng khoảng 56 - 57oC thì bắt đầu cho củ vào nước. Lượng nước
xử lý cần gấp 6 - 7 lần lượng củ xử lý. Sau đó đậy nắp thùng khoảng 15 phút và lại chỉnh
cho nước trở lại nhiệt độ 56 - 57oC bằng cách đổ thêm một ít nước sôi từ từ khuấy đều, và
ngâm củ trong thùng đậy kín trong 15 phút nữa.
- Bước 3: Sau khi xử lý xong, củ được rải đều và phơi khô trong 2 ngày sau rồi đem trồng
ra ruộng.
1.8.5.2. Chuẩn bị đất

21


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Nên chọn nơi trảng nắng, luống trồng liên tiếp rộng khoảng 1,2 m và sâu 0,5m để
có thể giữ nước tốt. Luống đất nên bố trí dọc theo hướng mặt trời để cây nhận ánh sáng
tốt và đồng đều. Trước khi trồng nên bón phân lót và phun xịt các loại thuốc diệt nấm và
mầm bệnh.
1.8.5.3. Chăm sóc
Trong canh tác cây hoa Huệ Hương yếu cầu về nước rất là quan trọng, phải
thường xuyên tưới nước đồng thời phải xớt đất và làm cỏ giúp cho bộ rễ phát triển tốt.
Phân bón thường sử dụng để bón cho cây là hỗn hợp (Ure, lân và Kali), sau khi trồng
được khoảng 2 - 3 năm cây hoa Huệ Hương bắt đầu bị thoái hóa: sinh trưởng chậm, cho
hoa ít và chất lượng kém. Do đó phải nhổ lên phân loại củ và trồng lại trên một diện tích
khác.

Trong thời gian trồng và thu hoạch cần tiến hành trừ cỏ, xới đất, bón phân, tưới
nước, phun thuốc…, thường xuyên để tránh lây lam nguồn sâu bệnh hại.
Khi trừ cỏ phải tiến hành theo nguyên tắc trừ sớm, trừ khi cỏ còn non và trừ sạch,
có thể trừ cỏ bằng tay hoặc bằng thuốc.
Trong quá trình trồng, nên bón phân với số lượng ít và chia thành nhiều đợt như
bón lót, bón thúc. Ngoài cách bón vào đất còn có thể phun lên lá để bổ sung dinh dưỡng,
hỗ trợ cho quá trình ra hoa và chống rụng nụ hoa. Trong thời kì phân hóa mầm hoa cần
bón thêm phân đạm, khi ra nụ và sau khi ra hoa cần bón thêm lân và kali.
1.8.6. Vấn đề sâu bệnh trên cây hoa Huệ Hương
Trên cây hoa Huệ Hương, sâu thường gặp là rệp sáp, nhện đỏ và nhất là tuyến
trùng.
Bệnh gây hại trên cây hoa Huệ Hương được chia thành hai nhóm:
- Nhóm bệnh không truyền nhiễm, do ngoại cảnh không phù hợp thường gặp nhất là thối
xám, thối gốc, đốm lá, gỉ sắt… có thể phòng trị bằng các loại thuốc hóa học.
- Nhóm bệnh truyền nhiễm chủ yếu là do vi sinh vật ký sinh gây ra bao gồm : vi khuẩn,
xạ khuẩn, nấm, mycoplasma, virus,… thường rất khó trị, nhất là bệnh do virus gây ra rất
dễ lây lan và phát tán thành dịch, gây hại nghiêm trọng và truyền từ đời này sang đời
khác, đặc biệt là ở nhóm cây nhân giống vô sinh (bằng củ) như cây huệ. Virus không thể
phòng chống hay tiêu diệt bằng hóa chất như vi khuẩn, nấm,, sâu bệnh, cách duy nhất để
loại bỏ virus là phải tách chúng ra khỏi cây bị bệnh, trả lại cho cây cuộc sống bình
22


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

thường khỏe mạnh. Vì vậy, biện pháp làm sạch virus phải luôn được kết hợp với biện
pháp duy trì tính sạch bệnh.
Sau khi trồng khoảng 1 tháng, ở cây hoa Huệ Hương thường bị nhện đỏ phá hại
nặng trên lá, từ 3 - 4 tháng trở đi cây dễ bị rệp sáp phá hại nên có thể phòng trị bằng các
loại thuốc sau : Nissorun, Kelthan 20 EC, Comite, Basudin 10H. Khoảng tháng 9 - 10,

khi trời mưa kéo dài huệ dễ bị úng thối lá, thối củ thì có thể khắc phục hiện tượng này
bằng các loại thuốc như: Anuil, Topsin, Ridomol…
1.8.7. Giá trị kinh tế
Với đặc điểm sinh thái dễ thích nghi với vùng khí hậu nhiệt đới như ở nước ta
đồng thời yêu cầu trồng và chăm sóc không quá khắt khe nên Huệ Hương được trồng khá
phổ biến và đem lại thu nhập rất cao cho người dân.
Trong những năm gần đây, cây hoa Huệ Hương đem lại thu nhập cao cho người
dân các tỉnh phía Nam như Tiền Giang, Đồng Tháp… Đặc biệt, tại các tỉnh Nam Trung
Bộ như Bình Định, Khánh Hòa, từ khu người dân mở rộng diện tích và nâng cao kỹ thuật
canh tác, cây hoa huệ đã trở thành cây trồng chính, đem lại thu nhập cao và trở thành cây
xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, thu nhập từ cây hoa Huệ Hương ở đồng bằng song Cửu
Long bình quân từ 150 - 200 triệu/ha và ở Nam Trung Bộ là 80 - 150 triệu/ha.
Ngoài giá trị sử dụng thông thường như trên, gần đây người ta còn sử dụng một số
bộ phận của cây làm thuốc chữa bệnh và chế ra các loại dầu thơm.
Hiện nay, một số nghiên cứu về loài hoa này đã tìm ra một số thành phần hóa học có liên
quan đến việc sản xuất ra các loại dầu thơm, nước hoa quý… được chiết xuất từ các bộ
phận như hoa, sáp hoa… trong đó loại tinh dầu tuyệt đối thu được khi chiết xuất từ hoa
như alcol benzil chiếm 0,7%, benzoat metal (4,5%), antranilat metal (8,0%),
metilisoeugenol (10%), benzoate benzil (24%). Ngoài ra, n-alkan chiếm tỷ lệ không nhỏ
tới 42% trong sáp hoa cũng là một thành phần hóa học quan trọng trong việc chế xuất các
loại nước hoa, dầu thơm.
Bên cạnh đó, cây hoa Huệ Hương còn có công dụng trong y học, bộ phận được sử
dụng là củ. Trong tinh dầu củ huệ có chứa thành phần sapogenin, sapogenin bao gồm
hecogenin, tigogenin là loại hợp chất được chiết xuất để bào chế ra một số loại thuốc quý.
Từ lâu trong nhân gian người dân đã biết sử dụng cây hoa Huệ Hương để làm thuốc chữa
23


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


một số bệnh đơn giản. Ở Ấn Độ người ta đã dùng củ phơi khô, tán thành bột để làm thuốc
trị liệu, hoặc ở Vũng Tàu người dân nơi đây đã dùng củ để chữa bệnh sốt rét.
Ở một số nơi, dân gian còn dùng củ để chữa bệnh hóc xương bằng cách đem giã
nát củ, vắt lấy nước rồi nhỏ vào họng của người bị hóc xương sau 1 - 2 phút sẽ khỏi.

1.9. Tình hình sản xuất hoa huệ trong nước
Du nhập vào nước ta từ rất lâu và được trồng rộng rãi trong cả nước, nhưng cây
hoa Huệ Hương được trồng phổ biến hơn cả ở miền Nam và Nam Trung Bộ. Trong
những năm gần đây, diện tích canh tác cây hoa Huệ Hương ngày càng được mở rộng và
đem lại thu nhập cao cho người trồng.
Theo thống kê hiện nay, trên địa bàn các tỉnh Đồng bằng song Cửu Long có diện
tích trồng huệ lớn hơn cả. Trung bình các tỉnh có khoảng 500 - 1000 ha canh tác cây hoa
Huệ Hương, khi thu hoạch có thể thu nhập từ 150 - 200 triệu/ha.
Do cây này dễ trồng, chi phí đầu tư thấp, ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thời tiết và
đặc biệt hơn là hoa huệ cho thu hoạch tới 14 tháng/vụ nên trong điều kiện thuận lợi
thường cho thu nhập cao.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn các tỉnh vùng Nam Trung Bộ bắt đầu đẩy
mạnh canh tác cây hoa Huệ Hương, đặc biệt là ở Bình Định và Khánh Hòa. Ở Bình Định,
cây hoa Huệ Hương dần trở thành cây trồng chính. Theo đánh giá của người dân nơi đây,
trong điều kiện thuận lợi mỗi ha bình quân cho thu nhập trên 80 - 120 triệu đồng.
Mặc dù vậy, hiện nay việc canh tác cây huệ đang gặp nhiều khó khăn, do bị sâu
bệnh hại phá hoại nhiều, trong đó có một bệnh rất khó trị là bệnh chai bông. Hiện nay
bệnh phá hoại rất mạnh, có thể làm giảm đến 60% năng suất cây trồng. Chính vì vậy,
năng suất hoa Huệ Hương trên nhiều vùng có xu hướng không ổn định và chất lượng hoa
thì giảm đáng kể.
Hiện nay, bệnh chai bông đang là nguyên nhân chính làm cho giảm năng suất và
phẩm chất hoa trên các vùng chuyên canh, đặc biệt ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Triệu
chứng bệnh thể hiện:
- Trên lá: trước khi ra hoa, trên lá của cây con bị nhiễm bệnh thường xuất hiện các đường
gân sọc màu nâu đỏ kéo dài từ bẹ lá đến chóp lá, lá có thể bị xoắn.

- Trên bông: nếu bị nhiễm nặng, bông sẽ bị cai không trỗ được hoặc bông bị đen thui và
khô, bẹ lá hầu như bị thâm màu nâu đỏ.
24


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

- Trên thân: khi bị nhiễm bệnh, thân bị lùn, vỏ thân có những chai sần dày đặc.
Theo phương pháp nhân giống truyền thống, đối với hoa Huệ Hương, nguồn vật
liệu ban đầu để sản xuất hoa thương phẩm là củ giống, chất lượng củ giống đóng vai trò
quan trọng, nó ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển và chất lượng của hoa sau này.
Củ tái sinh theo phương pháp thông thường dựa trên nguyên lý chung là ở phía
trong các nách lá có một chồi ngủ (chồi nách), các chồi này khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ
phát triển thành chồi bên.
Nhìn chung, phương pháp này đơn giản, dễ làm và chi phí đầu tư không cao
nhưng có rất nhiều nhược điểm: hệ số nhân thấp, thường làm thoái hóa giống, gâu bệnh
hàng loạt ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng hoa.

CHƯƠNG 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Địa điểm thực hiện đề tài
- Phòng Công nghệ Sinh học thuộc Trung tâm nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học
Công nghệ - Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Định.
25


×