Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Nghiên cứu bệnh đơn bào đường máu Leucocytozoon ở đàn gà của tỉnh Thái Nguyên và biện pháp phòng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.63 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP ĐẠI HỌC

“NGHIÊN CỨU BỆNH ĐƠN BÀO ĐƯỜNG MÁU LEUCOCYTOZOON Ở
ĐÀN GÀ CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ”
Mã số: ĐH2012-TN03-13

Chủ nhiệm đề tài: GS. TS. NGUYỄN THỊ KIM LAN

THÁI NGUYÊN, NĂM 2014

-1-


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP ĐẠI HỌC

“NGHIÊN CỨU BỆNH ĐƠN BÀO ĐƯỜNG MÁU LEUCOCYTOZOON Ở
ĐÀN GÀ CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN
VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ”
Mã số: ĐH2012-TN03-13

Chủ nhiệm đề tài: GS. TS. NGUYỄN THỊ KIM LAN
Người tham gia thực hiện: TS. NGUYỄN VĂN QUANG
TS. LÊ MINH


ThS. DƯƠNG THỊ HỒNG DUYÊN

Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài
(ký, họ tên, đóng dấu)

THÁI NGUYÊN, NĂM 2014

-2-


DANH SÁCH NHỮNG THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI VÀ
ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH

1. Danh sách những thành viên tham gia nghiên cứu đề tài:
- TS. Nguyễn Văn Quang
- TS. Lê Minh
- ThS. Dương Thị Hồng Duyên
2. Đơn vị phối hợp chính
- Trung tâm Chẩn đoán thú y trung ương

-3-


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là nước có hơn 70% dân số làm nông nghiệp với hai ngành sản xuất
chính: trồng trọt và chăn nuôi. Trong đó, chăn nuôi đã và đang trở thành ngành mũi nhọn
trong sản xuất nông nghiệp, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Trong những năm gần đây, chăn nuôi gia cầm đang chiếm một vị trí quan trọng và

luôn được quan tâm hàng đầu vì nó có khả năng đáp ứng nhanh nhu cầu thực phẩm phục
vụ cho con người.
Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, tổng đàn gia cầm tại thời điểm 18/12/2013 là
314,7 triệu con, tăng 2,04% so với cùng thời điểm năm 2012. Số lượng gà là 231,8 triệu
con, tăng 3,6% so với thời điểm cùng kỳ năm 2012 trong đó có trên 80% là gà thả vườn.
Sản lượng thịt gia cầm hơi giết thịt tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2012 [52].
Nguyễn Duy Hoan và cs. (1999) [2] cho biết: hiệu quả của việc chăn nuôi gia cầm
nhanh hơn và cao hơn so với ngành chăn nuôi khác. Thịt và trứng gia cầm là thực phẩm
có giá trị dinh dưỡng cao, tương đối đầy đủ và cân bằng về các axit amin thiết yếu, đồng
thời dễ chế biến, dễ ăn, ngon miệng, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng ở mọi lứa
tuổi.
Vì những ưu thế nói trên, chăn nuôi gia cầm ngày càng có những bước phát triển
vượt bậc về cả số lượng và chất lượng, đóng vai trò không thể thiếu trong sự phát triển
kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo ở các địa
phương.
Ở nước ta hiện nay, các hộ gia đình chăn nuôi gà chủ yếu với số lượng ít, chuồng
trại đơn giản; những gia đình chăn nuôi gà bán công nghiệp và công nghiệp vẫn còn ở
quy mô nhỏ. Vấn đề vệ sinh thú y trong chăn nuôi gà vẫn chưa được coi trọng, dịch bệnh
thường xảy ra, gây trở ngại cho việc phát triển chăn nuôi, gây thiệt hại kinh tế cho nhiều
gia đình và cơ sở chăn nuôi gà.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2002) [12]: ngành chăn nuôi gia cầm ở nước
ta còn gặp một số trở ngại do dịch bệnh thường xảy ra, trong đó trước hết phải kể đến

-4-


bệnh ký sinh trùng. Đàn gia cầm thường nhiễm ký sinh trùng với tỷ lệ cao, diễn ra quanh
năm, bất kể mùa vụ và thời tiết nào. Hàng năm, thiệt hại kinh tế do bệnh ký sinh trùng
gây ra chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng thu nhập của ngành.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới, có thảm thực vật và

hệ động vật phong phú, đa dạng, thích hợp cho nhiều loài ký sinh trùng phát triển, ký
sinh và gây bệnh. Trong các bệnh ký sinh trùng ở gà, có những bệnh do nhóm đơn bào
ký sinh gây ra, chúng chiếm đoạt chất dinh dưỡng, tiết độc tố, gây ra những biến đổi
bệnh lý làm cho gà gầy yếu, chậm lớn, giảm mạnh sức sản xuất thịt, trứng. Đặc biệt, một
số bệnh đơn bào cũng gây ra các “ổ dịch cấp tính”, làm cho gà chết nhanh, với tỷ lệ cao
không kém các bệnh truyền nhiễm, trong đó có bệnh đơn bào đường máu Leucocytozoon.
Theo Shane S. M. (2005) [49], Leucocytozoon thuộc nhóm nguyên sinh động vật,
thuộc bộ huyết bào tử trùng (Heamosporidia) ký sinh trong máu và cơ quan nội tạng của
nhiều loài gia cầm, trong đó gà là loài mẫn cảm nhất, đặc biệt là gà được nuôi theo
phương thức chuồng hở hoặc bán chăn thả.
Bệnh do các loài đơn bào Leucocytozoon ký sinh trong hồng cầu (đôi khi thấy trong
bạch cầu), gây ra xuất huyết, tan vỡ hồng cầu, dẫn đến thiếu máu và ỉa chảy phân xanh màu lá
cây, làm gà chết với tỷ lệ cao tới 30 - 50% (Phạm Sỹ Lăng, Tô Long Thành, 2006 [14]).
Thái Nguyên là tỉnh trung du miền núi phía Bắc có điều kiện thuận lợi cho chăn
nuôi gà, đặc biệt chăn nuôi gà thả vườn. Việc phòng bệnh bằng vacxin đã được người
dân thực hiện khá nghiêm ngặt. Tuy nhiên, nhiều đàn gà vẫn xuất hiện các triệu chứng
như ỉa phân màu xanh lá cây, mặt tái, gà thiếu máu, gầy yếu. Mổ khám thấy chất chứa
trong diều, dạ dày, ruột có màu xanh, gan sưng to, lách sưng, xuất huyết, cơ đùi xuất
huyết. Các xét nghiệm vi sinh vật cho thấy, gà không mắc bệnh truyền nhiễm. Do đó,
việc chẩn đoán chính xác các đàn gà này mắc bệnh gì để có biện pháp phòng chống phù
hợp là vấn đề cấp thiết.
Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu bệnh đơn bào
đường máu Leucocytozoon ở đàn gà của tỉnh Thái Nguyên và biện pháp phòng trị”.
2. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài để có những kết luận khoa học về đặc điểm dịch tễ, lâm sàng,
biện pháp phòng trị bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại một số địa phương thuộc tỉnh

-5-



Thái Nguyên, từ đó có cơ sở khoa học để xây dựng quy trình phòng trị bệnh đơn bào
Leucocytozoon cho gà có hiệu quả cao.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở để khuyến cáo người chăn nuôi gà áp dụng các biện
pháp phòng trị bệnh đơn bào Leucocytozoon, nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon
cho gà, hạn chế thiệt hại do Leucocytozoon gây ra, góp phần nâng cao năng suất chăn
nuôi, thúc đẩy chăn nuôi gà nói riêng và chăn nuôi gia cầm nói chung phát triển.

-6-


Phần 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Ký sinh trùng là những sinh vật sống trong hoặc trên cơ thể một sinh vật khác (ký
chủ), chiếm đoạt chất dinh dưỡng của ký chủ mà nó ký sinh. Trong phân loại học, dựa
theo cấu trúc cơ thể của ký sinh trùng mà người ta chia những ký sinh trùng động vật ra
làm 3 ngành: nguyên trùng, giun sán và tiết túc. Trong đó, nguyên trùng là ký sinh trùng
đơn bào (protozoa), cơ thể chỉ gồm một tế bào, thường ký sinh trong máu (Trypanosoma,
Histomonas, Leucocytozoon…) hoặc trong ruột ký chủ (cầu trùng) (Dương Công Thuận,
1995 [27]).
Bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra có ở nhiều nước trên thế giới. Đơn bào
Leucocytozoon lưu hành phổ biến trên đàn gà ở một số nước Châu Á: ở Trung Quốc
(7,1%), Thái Lan (13 - 18%), Malaysia (15 - 31%).
Leucocytozoon ký sinh trong hồng cầu gà (đôi khi ký sinh trong bạch cầu, tùy theo
loài), làm tan vỡ hồng cầu, gây thiếu máu và gây chết gà với tỷ lệ cao, ảnh hưởng đến thu
nhập của người chăn nuôi gà. Bệnh cũng được phát hiện ở nhiều loài chim hoang dã.
1.1.1. Đặc điểm của đơn bào Leucocytozoon ký sinh ở gà
1.1.1.1. Vị trí của đơn bào Leucocytozoon trong hệ thống phân loại nguyên bào

Đơn bào nói chung là những nguyên sinh động vật không có khí quan di động,
thân thể khi thì trần và có thể biến dạng được, khi thì có màng bọc và có hình dạng nhất
định. Đơn bào sống ký sinh ở các tế bào, các mô hay dịch thể, có thể suốt đời hoặc những
giai đoạn đầu của nó. Chúng tự nuôi dưỡng bằng cách thẩm thấu dinh dưỡng chiếm đoạt
của ký chủ qua bề mặt cơ thể.
Các loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon ký sinh trong máu của nhiều loài gia
cầm, thủy cầm, chim và nhiều loài chim hoang dã. Gà là vật chủ cảm thụ đơn bào
Leucocytozoon mạnh nhất. Bệnh được Ziemann phát hiện lần đầu tiên vào năm 1898. Từ
đó đến nay, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về bệnh.
Theo Levine N. D. (1985) [38], Leucocytozoon gây bệnh cho gà có vị trí trong hệ
thống phân loại như sau:
Ngành Protozoa
Lớp Sporozoa

-7-


Bộ Haemosporidia
Họ Leucocytozoidae
Giống Leucocytozoon
Loài L. caullergyi (Mathis et Leger, 1909)
L. sabrazeis (Mathis et Leger, 1910)
L. simondi (Mathis et Leger, 1910)
L. smithi (Laveran et Lucet, 1905)
L. andrewsi (Atchley, 1951)
L. schufneri (Prowazek, 1912)
L. schoutedeni (Rodham Pons et Bequaert, 1913)
Đến nay, các nhà khoa học đã phát hiện 107 loài Leucocytozoon spp. ký sinh và gây
bệnh cho gà, gà tây, vịt, ngỗng và nhiều loài chim hoang dã.
1.1.1.2. Đặc điểm hình thái các loài Leucocytozoon ở gà

Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8]: cơ thể đơn bào thường do một tế bào
rất nhỏ cấu thành, tổ chức của đơn bào gồm màng tế bào, chất nguyên sinh, hạt hoặc
nhân tế bào.
Đơn bào Leucocytozoon ký sinh ở hồng cầu, bạch cầu, các nội tạng của gà và các
loài chim ở hai dạng: dạng tiểu thể hình dùi trống, hoặc hình thoi nhọn hai đầu với kích
thước từ 15 - 20 µm, dạng bào tử hình trứng với kích thước từ 20 - 25 µm.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [13] cho biết: các loài Leucocytozoon spp. có nhiều
hình dạng khác nhau trong quá trình phát triển ở ký chủ cũng như ở ký chủ trung gian.
Kích thước của chúng thay đổi tuỳ thuộc dạng và loài đơn bào Leucocytozoon.
- Dạng bào tử (Sporozoit): hình thuẫn, hình elip nhọn 2 đầu, kích thước 10 - 15 µm.
Thể này thấy ở tuyến nước bọt của dĩn (véc tơ truyền đơn bào Leucocytozoon).
- Dạng tiểu thể (Merozoit): hình tròn, hình trứng, kích thước 15 - 20 µm.
- Dạng giao tử (Schizont): hình elip, thon nhỏ 2 đầu, kích thước 20 - 45 µ m.
- Dạng đại giao tử (Macrogametocyt): hình đa giác, gần tròn, kích thước 350 - 400
µm.
- Dạng tiểu phối tử (Microgametocyt): hình thuẫn, hình trứng, kích thước 20 - 25
µm.

-8-


Theo Phạm Sỹ Lăng và Tô Long Thành (2006) [14]; Phạm Sỹ Lăng và cs (2008)
[15], hai loài L. caullergyi và L. sabrazeis có hình dạng gần giống nhau, chỉ khác về tính
chất gây bệnh. Chúng có dạng hình cầu, hình bầu dục, hình lưỡi liềm; kích thước 20 x 5
µm, không có sắc tố khi nhuộm Giemsa, ký sinh ở hồng cầu của gà, gà rừng.
1.1.1.3. Vòng đời của Leucocytozoon ở gà
Saif Y. M. (2003) [47] cho rằng: giai đoạn sinh bào tử diễn ra trên vật chủ trung
gian và có thể được hoàn thành sau 3 - 4 ngày. Noãn nang phát triển và có thể tìm thấy
trong đường tiêu hóa của dĩn trong vòng 12 giờ sau khi dĩn hút máu. Sau đó các noãn
nang này di chuyển đến tuyến nước bọt của dĩn, có thể tìm thấy noãn nang ở tuyến nước

bọt dĩn sớm nhất sau khi dĩn hút máu gà bệnh 18 ngày.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [13] cho biết: các loài Leucocytozoon có vòng đời rất
phức tạp, cần vật chủ trung gian là các loài dĩn thuộc giống Simulium spp. và Culiloides
spp. Tuỳ đặc điểm thời tiết khí hậu của các vùng sinh thái khác nhau mà thành phần loài
dĩn cũng thay đổi.
Sau khi xâm nhập vào dĩn do dĩn hút máu gà bệnh, các tiểu thể (Merozoit) phát triển
qua một số giai đoạn ở vách dạ dày thành noãn nang để thành thể bào tử (Sporozoit). Thể bào
tử chuyển lên tuyến nước bọt của dĩn sau thời gian phát triển khoảng 25 ngày. Khi dĩn hút máu
các loài vật chủ (gà, các loài gia cầm khác và chim hoang dã) sẽ truyền mầm bệnh vào máu.
Các bào tử từ máu xâm nhập vào các tế bào nội quan như: gan, lách, phổi, thận, tổ
chức cơ để trở thành giao tử (Schizont). Các giao tử vào hồng cầu phát triển thành tiểu
thể (Merozoit), giao tử thể (Gametocyt), đại giao tử (Marcrogametocyt) và tiểu giao tử
(Mircrogametocyt).
Khi dĩn hút máu gia cầm bệnh, vào cơ thể dĩn, các tiểu thể lại phát triển thành
noãn nang (Oocyst), rồi bào tử (Sporozoit) trong vách dạ dày dĩn và vòng đời lại được lặp
lại.
Tác giả Lê Minh Thành [56] cho biết vòng đời của Leucocytozoon bao gồm các
giai đoạn như sau:
* Giai đoạn ở tế bào chủ:
Gia cầm bị dĩn - ký chủ trung gian truyền bệnh đốt và truyền mầm bệnh (các bào
tử Sporozoit) vào cơ thể. Khi vào cơ thể gia cầm, mầm bệnh theo máu tới gan, lách, thận,
não… Tại đây, chúng xâm nhập vào các tế bào của ký chủ và bắt đầu sinh sản vô tính

-9-


DANH SÁCH NHỮNG THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI VÀ
ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH

1. Danh sách những thành viên tham gia nghiên cứu đề tài:

- TS. Nguyễn Văn Quang
- TS. Lê Minh
- ThS. Dương Thị Hồng Duyên
2. Đơn vị phối hợp chính
- Trung tâm Chẩn đoán thú y trung ương

-3-


Khi dĩn hút máu gia cầm, các thoi trùng theo tuyến nước bọt vào máu của gia cầm
và bắt đầu vòng đời mới.

\

Hình 1.1. Sơ đồ vòng đời đơn bào Leucocytozoon ở gà
Tuy nhiên, Lê Văn Năm (2011) [19] lại cho rằng: chu kỳ phát triển sinh học của
Leucocytozoon gồm 2 giai đoạn chính. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn phát triển trong cơ
thể ký chủ trung gian truyền bệnh và giai đoạn hai là giai đoạn phát triển trong cơ thể vật
chủ:
* Giai đoạn phát triển trong cơ thể ký chủ trung gian truyền bệnh (dĩn). Đây là
giai đoạn hình thành bào tử nang (Sporogony), giai đoạn này kết thúc trong vòng 3 - 4
ngày. Vì trong máu của gia cầm bệnh đã có sẵn giao tử đực và giao tử cái, hoặc hợp tử
của Leucocytozoon, nên ngay sau khi hút máu gia cầm bệnh, các tế bào máu chứa mầm
bệnh bị dịch tiêu hóa của ký chủ trung gian (dĩn) làm tan vỡ và giải phóng ra các giao tử
và các hợp tử. Chúng nhanh chóng bám vào thành dạ dày và chui vào các tế bào niêm
mạc dạ dày, ruột của dĩn. Ở đó chúng bắt đầu phát triển thành bào tử nang (Oocyst). Toàn
bộ quá trình này chỉ diễn ra trong vòng 12 giờ kể từ thời điểm dĩn hút máu gia cầm bệnh
lần cuối.

- 11 -



Trong mỗi bào tử nang bắt đầu có quá trình sinh trưởng và phát triển thành 4 thoi
trùng (Sporozoit). Các thoi trùng này nhanh chóng lớn lên và di hành đến cư trú trong
tuyến nước bọt của ký chủ trung gian truyền bệnh. Chỉ có các thoi trùng này mới có khả
năng truyền bệnh. Ký chủ trung gian truyền bệnh cho gia cầm thụ cảm thông qua việc hút
máu của gia cầm bệnh, sau đó hút máu của gia cầm khỏe và truyền nước bọt kèm theo
thoi trùng gây bệnh vào cơ thể gia cầm khỏe. Như vậy, kể từ khi dĩn hút máu gia cầm
bệnh lần cuối đến lúc có khả năng truyền bệnh phải mất 18 ngày.
* Giai đoạn phát triển của Leucocytozoon trong cơ thể gia cầm thụ cảm. Ngay sau
khi thoi trùng theo nước bọt của ký chủ trung gian truyền bệnh xâm nhập vào cơ thể gia
cầm, chúng lột xác và hình thành nên các thể phân lập trung gian (Merozoit), các thể
phân lập trung gian này bám ngay vào các tế bào máu và theo máu đi khắp cơ thể. Từ
đây, chúng phát triển theo hai hướng:
Hướng thứ nhất: Chúng chui vào và ký sinh trong các tế bào máu, sinh trưởng và
phát triển theo phương thức tự nhân đôi để tạo ra các thể phân lập thế hệ 1 (Schizont - 1).
Các Schizont thế hệ 1 này lớn lên nhanh chóng và tiết ra một chất làm tan hồng cầu, chất
đó được gọi là chất kháng hồng cầu (anti- erythrocyte). Dưới tác động cơ học của nhiều
thể phân lập đã sinh ra trong mỗi hồng cầu, và dưới tác động của chất kháng hồng cầu,
một số lượng lớn hồng cầu bị phá vỡ và giải phóng ra nhiều thể phân lập thế hệ 1, đây là
nguyên nhân chính dẫn đến thiếu máu, tăng Hemobilirubin, máu trở nên loãng, nhớt và
khó đông. Các thể phân lập thế hệ 1 lập tức tấn công và ký sinh tiếp vào các tế bào hồng
cầu mới, chúng lớn lên và lại nhân đôi để hình thành thể phân lập thế hệ 2 (Schizont - 2),
cứ tiếp tục như vậy chúng hình thành thể phân lập thế hệ 3 (Schizont - 3) thì dừng lại và
bắt đầu hình thành các giao tử (Gametocyt). Giao tử đực có kích thước nhỏ gọi là
Microgametocyt và giao tử cái có kích thước lớn hơn gọi là Macrogametocyt. Kết thúc
giai đoạn sinh sản vô tính và bắt đầu giai đoạn sinh sản hữu tính.
Giai đoạn sinh sản hữu tính xảy ra trong các tế bào hồng cầu. Giao tử đực chui
vào giao tử cái để thụ tinh và hình thành nên hợp tử. Hợp tử được bọc bởi một màng và
được gọi là bào tử, có kích thước trung bình 5,5 - 14,5 µm. Sau đó, chúng phát triển

thành các bào tử hình thoi, có kích thước lên đến 45 µm. Chỉ có các thoi trùng này mới
có khả năng lây truyền thông qua côn trùng hút máu gia cầm bệnh và truyền thoi trùng
gây bệnh cho gia cầm khỏe.

- 12 -


Hướng thứ hai: Sau khi các thoi trùng theo máu di hành khắp các nơi trong cơ thể,
một phần chúng cư trú tại các cơ quan như lách, thận, phổi, gan, dạ dày tuyến, dạ dày cơ,
ruột non, buồng trứng, ống dẫn trứng và não. Tại đây, chúng lột xác và chui vào ký sinh
trong các tế bào nội mô, tế bào lưới và đại thực bào của các cơ quan kể trên của gia cầm
thụ cảm. Trong các tế bào đó chúng bắt đầu sinh trưởng, lớn lên và sinh sản theo phương
thức tự nhân đôi, làm vỡ nát các tế bào của các cơ quan nội tạng ký chủ. Sau đó chúng
phát triển và tạo nên thể phân lập cực đại gọi là Megaloschizont với kích thước lên đến
400 µm và làm tắc nhiều mao mạch của các cơ quan ký chủ. Để tiếp tục phát triển, trong
mỗi Megaloschizont hình thành nên 2 thể phân lập trung gian Merozoit, chúng lớn lên và
rời khỏi Megaloschizont, rời khỏi tế bào của cơ quan ký chủ, chui vào các tế bào máu để
ký sinh và quá trình phát triển được tiếp tục lặp lại như hướng thứ nhất - kết thúc giai
đoạn sinh sản vô tính trong các tế bào nội mô ở các cơ quan nội tạng của gia cầm thụ
cảm.
* Tính chuyên biệt của Leucocytozoon
Theo Johannes Kaufmann (1996) [36] mỗi loài Leucocytozoon chỉ ký sinh trong
một hoặc một số ký chủ nhất định.
1.1.2. Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà
1.1.2.1. Những thiệt hại kinh tế do bệnh Leucocytozoon gây ra
Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà không gây thành ổ dịch lớn nguy hiểm, ít làm
cho gà chết đột ngột và chết hàng loạt (trừ trường hợp đặc biệt). Song, đơn bào này đã
gây tác hại nghiêm trọng, làm cho sự sinh trưởng và phát triển của gà bị ngừng trệ, cơ thể
gầy còm, thiếu máu, khả năng tăng trọng giảm, số lượng và chất lượng của thịt, trứng
giảm, dẫn đến năng suất chăn nuôi giảm thấp.

Olsen O. W. (1986) [43] cho biết: ngoài gà (tỷ lệ nhiễm cao và mắc bệnh nặng nhất),
vịt nhiễm Leucocytozoon cũng thường bị bệnh ở thể nặng, các triệu chứng lâm sàng thể hiện
rõ rệt, tỷ lệ tử vong cao.
Theo Shane S. M. (2005) [49], Leucocytozoonosis thường gặp ở các nước nhiệt
đới, đặc biệt là ở những nơi mà các trang trại nằm gần ao, hồ. Đàn gia cầm mắc bệnh
giảm mạnh tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ chết cao có thể lên đến 100% nếu không được chữa
trị kịp thời.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [13] cho rằng: gà bị bệnh đơn bào đường máu
Leucocytozoon ở thể cấp tính có thể chết đột ngột do xuất huyết các nội quan và thiếu

- 13 -


máu cấp. Gà mái giảm đẻ hoặc ngừng đẻ, kém ăn, giảm tăng trọng và gầy yếu nhanh.
Gà mắc bệnh sẽ chết sau 3 - 6 ngày với tỷ lệ tới trên 50% số gà bị bệnh.
Lê Văn Năm (2011) [19] cho biết: tại một số địa phương như Bắc Giang, Thái
Nguyên, Bắc Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc, bệnh đơn bào Leucocytozoon xuất hiện ở hầu
hết các đàn gà nuôi thả vườn với tỷ lệ giao động từ 40 - 70%, gây thiệt hại vô cùng to lớn
cho người chăn nuôi.
1.1.2.2. Dịch tễ học bệnh Leucocytozoon ở gà
Lê Đức Quyết và cs (2009) [21] cho biết: tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như: tuổi gia cầm, giống, địa hình, vùng sinh thái, phương thức chăn
nuôi...
Theo Lê Văn Năm (2011) [19] bệnh do Leucocytozoon gây ra có tính chu kỳ rõ rệt,
phụ thuộc vào mùa sinh sản và phát triển của côn trùng hút máu truyền bệnh.
Loài gây bệnh và động vật mắc bệnh
Trong tự nhiên, gà, gà rừng, chim trĩ và các loài chim thuộc bộ gà (Galliformes)
đều có thể bị bệnh. Bệnh từ gà nhà có thể truyền lây sang gà rừng qua ký chủ trung gian
và ngược lại.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2005 [13]; 2010 [17]) cho rằng: có 4 loài đơn bào giống

Leucocytozoon chủ yếu ký sinh và gây bệnh cho gà:
* L. caulleryi (Mathis et Leger, 1909)
Loài này ký sinh và gây bệnh cho gà nhà, gà rừng ở các nước thuộc Đông và
Đông Á: Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, các bang thuộc khu vực Bắc Mỹ.
Vật chủ trung gian của L. caulleryi là các loài dĩn thuộc giống Culicoides như: C.
arakava, C. circumscriptus, C. odibilis.
* L. sabrazeis (Mathis et Leger, 1910)
Loài này ký sinh và gây bệnh cho gà và chim hoang dã ở các nước Đông Nam Á:
Philippine, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam.
Vật chủ trung gian của L. sabrazeis: các loài dĩn Culicoides spp. và Simulium spp.
* L. simondi (Mathis et Leger, 1910)
L. simondi ký sinh và gây bệnh cho vịt nhà và vịt trời, ngỗng nhà và ngỗng trời,
các loài thuỷ cầm nuôi và hoang dã ở Mỹ, Canada, các nước vùng Balkan và Việt Nam.
Vật chủ trung gian: các loài dĩn Simulium spp.

- 14 -


* L. smithi (Laveran et Lucet, 1905)
Loài này ký sinh ở gà tây tại các bang thuộc vùng Đông Mỹ (Bắc Dakota,
Nebraska), CHLB Đức, các nước vùng Balkan...
Vật chủ trung gian của L. smithi là các loài dĩn Simulium spp.
Lương Văn Huấn và Lê Hữu Khương (1997) [4] cho biết, loài L. caullergyi có đặc
điểm như sau: cơ thể đơn bào hơi tròn, kích thước 15,0 - 15,5 µm. Tế bào vật chủ cũng
tròn, kích thước 20 µm. Ở trong cơ thể dĩn - KCTG, Zygot có dạng tròn đường kính 14
µm, sau đó kéo dài, kích thước 21 µm, chúng xuyên qua vách ruột tạo thành Oocyst hình
gần tròn, kích thước 4 - 14 x 5-14 µm. Oocyst phát triển thành thoi trùng (Sporozoit). Các
thoi trùng đến tuyến nước bọt của dĩn có kích thước 7 - 11 x 1 - 2 µm.
Tuổi mắc bệnh: gà ở các lứa tuổi đều bị bệnh, tuổi gà càng cao tỷ lệ và cường độ
nhiễm bệnh càng tăng.

Mùa vụ: gà mắc bệnh ở tất cả các mùa trong năm, nhưng nhiễm nhiều và nặng ở
vụ Hè và vụ Xuân.
Điều kiện vệ sinh thú y: điều kiện vệ sinh thú y đối với chuồng trại và khu vực
xung quanh chuồng trại, dụng cụ và môi trường chăn nuôi là một trong những yếu tố có
ảnh hưởng lớn tới khả năng nhiễm bệnh Leucocytozoon của gà. Điều này có liên quan
mật thiết với sự tồn tại và phát triển của các loài dĩn hút máu - ký chủ trung gian truyền
bệnh.
Yếu tố stress: các yếu tố strees như chuồng trại chật chội, khí hậu ẩm, thấp, thức
ăn kém dinh dưỡng... đóng vai trò thúc đẩy mức độ và tốc độ lây lan bệnh Leucocytozoon
ở gà.
1.1.2.3. Cơ chế sinh bệnh của bệnh Leucocytozoon
Bệnh lây truyền từ gà bệnh sang gà khoẻ qua đường máu nhờ vật chủ trung gian là
các loài dĩn thuộc họ Culicoides spp. và Simulium spp… Dĩn hút máu của gà bệnh có đơn
bào ký sinh trong máu. Vào cơ thể dĩn, đơn bào phát triển qua 3 giai đoạn, cuối cùng
thành bào tử nằm ở tuyến nước bọt của dĩn. Khi dĩn mang mầm bệnh hút máu gà khoẻ,
bào tử sẽ được truyền cho gà khoẻ và gây bệnh cho gà.
Các bào tử xâm nhập vào các tế bào nội quan như: gan, lách, phổi, thận, tổ chức
cơ để trở thành bào tử (Schizont); các bào tử vào hồng cầu phát triển thành tiểu thể
(Merozoit), giao tử thể (Gametocyt), đại giao tử (Marcrogametocyt) và tiểu giao tử

- 15 -


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là nước có hơn 70% dân số làm nông nghiệp với hai ngành sản xuất
chính: trồng trọt và chăn nuôi. Trong đó, chăn nuôi đã và đang trở thành ngành mũi nhọn
trong sản xuất nông nghiệp, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Trong những năm gần đây, chăn nuôi gia cầm đang chiếm một vị trí quan trọng và

luôn được quan tâm hàng đầu vì nó có khả năng đáp ứng nhanh nhu cầu thực phẩm phục
vụ cho con người.
Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, tổng đàn gia cầm tại thời điểm 18/12/2013 là
314,7 triệu con, tăng 2,04% so với cùng thời điểm năm 2012. Số lượng gà là 231,8 triệu
con, tăng 3,6% so với thời điểm cùng kỳ năm 2012 trong đó có trên 80% là gà thả vườn.
Sản lượng thịt gia cầm hơi giết thịt tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2012 [52].
Nguyễn Duy Hoan và cs. (1999) [2] cho biết: hiệu quả của việc chăn nuôi gia cầm
nhanh hơn và cao hơn so với ngành chăn nuôi khác. Thịt và trứng gia cầm là thực phẩm
có giá trị dinh dưỡng cao, tương đối đầy đủ và cân bằng về các axit amin thiết yếu, đồng
thời dễ chế biến, dễ ăn, ngon miệng, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng ở mọi lứa
tuổi.
Vì những ưu thế nói trên, chăn nuôi gia cầm ngày càng có những bước phát triển
vượt bậc về cả số lượng và chất lượng, đóng vai trò không thể thiếu trong sự phát triển
kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo ở các địa
phương.
Ở nước ta hiện nay, các hộ gia đình chăn nuôi gà chủ yếu với số lượng ít, chuồng
trại đơn giản; những gia đình chăn nuôi gà bán công nghiệp và công nghiệp vẫn còn ở
quy mô nhỏ. Vấn đề vệ sinh thú y trong chăn nuôi gà vẫn chưa được coi trọng, dịch bệnh
thường xảy ra, gây trở ngại cho việc phát triển chăn nuôi, gây thiệt hại kinh tế cho nhiều
gia đình và cơ sở chăn nuôi gà.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2002) [12]: ngành chăn nuôi gia cầm ở nước
ta còn gặp một số trở ngại do dịch bệnh thường xảy ra, trong đó trước hết phải kể đến

-4-


thường của đàn gà. Bệnh bỗng dưng bùng phát lẻ tẻ khi gặp các yếu tố strees bất lợi, với
các triệu chứng điển hình như: đột nhiên ho hoặc hắt hơi, mào, tích tái nhợt, ộc máu ra
miệng, mũi, đôi khi ở cả hậu môn rồi chết. Một số khác lại có triệu chứng lừ đừ hoặc có
triệu chứng thần kinh, nhảy sốc lên rồi rơi xuống nền, dãy dụa và chết. Cả hai trường hợp

trên đều do dập vỡ gan, hoặc xuất huyết não bởi sự phát triển quá mạnh của các
Leucocytozoon trong các cơ quan đó.
Số gà chết như mô tả trên không sảy ra ồ ạt, nhưng tăng dần qua mỗi ngày. Nếu không
được chẩn đoán đúng và điều trị kịp thời, tỷ lệ chết sẽ rất cao.
- Thể cấp tính:
Đây là thể bệnh phổ biến nhất và gắn liền với thời tiết ẩm ướt do mưa phùn kéo
dài. Khí hậu ẩm thấp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, sinh sôi, nảy nở của ký
chủ trung gian truyền bệnh.
Trong những đàn gà mắc bệnh ở thể này, lúc đầu chỉ thấy một số ít gà có biểu hiện
sốt cao, mào thâm tái, sau vài ngày trở nên trắng bệch. Khi cắt tiết gà thấy máu rất loãng,
khó đông.
Gà bị bệnh giảm ăn, ít vận động, đi lại không vững. Gà bị tiêu chảy, phân có màu
xanh đậm.
Gà bệnh gầy sút nhanh, yếu dần và rất khó thở, thở khò khè, phải vươn cổ ra để
thở. Nếu độ ẩm không khí cao, chuồng nuôi ẩm thấp thì gà bệnh càng khó thở và rất dễ
chết. Tuy nhiên, gà chết không ồ ạt, nhưng tỷ lệ chết tăng dần qua mỗi ngày. Lúc đầu gà
chỉ chết vào ban đêm, về sau chết bất kỳ lúc nào, tỷ lệ chết có thể lên đến 70%. Bệnh
nặng hơn nếu gà bị bệnh ghép với CRD, Newcastle...
Ở gà mái: triệu chứng thường thấy là giảm sản lượng trứng, đồng thời khối lượng
trứng của gà bệnh cũng giảm rõ rệt, vỏ trứng mềm, dễ vỡ, hoặc ngược lại vỏ rất dầy. Khi
cho ấp trứng của những đàn gà đẻ bị mắc bệnh Leucocytozoon thì tỷ lệ ấp nở giảm, gà mới
nở bị chết yểu trong 3 - 5 ngày đầu chiếm tỷ lệ rất cao.
- Thể á cấp tính:
Đây là thể bệnh được chuyển sang từ thể cấp tính, ở những gà có sức đề kháng tốt
hoặc ở gà trên 1 năm tuổi. Bệnh thường thấy ở gà đang vào thời kỳ đẻ tốt nhất. Bệnh
cũng có thể xảy ra ở thủy cầm, hoang cầm và ít thấy ở gia cầm khác nuôi trên cạn. Gà

- 17 -



bệnh sốt cao, giảm ăn, tiêu chảy, ho hen, chết rải rác. Tỷ lệ chết ngày càng tăng và có thể
lên đến 30 - 40 % tổng đàn.
- Thể mạn tính:
Đây là thể bệnh thường gặp ở gà bị nhiễm số lượng Leucocytozoon ít.
Ngoài ra, các loài chim hoang dã, gia cầm sống sót sau khi mắc bệnh hoặc những
gia cầm, thủy cầm được chăn nuôi quảng canh cũng có thể bị bệnh ở thể mạn tính.
Bệnh có những biểu hiện không rõ ràng, gà vẫn ăn uống bình thường, đôi khi
giảm ăn tức thời. Các triệu chứng như ủ rũ, động kinh hoặc đi lại không vững đều ngắt
quãng, không xuất hiện liên tục. Gà bệnh thiếu máu, lờ đờ, tỷ lệ chết không đáng kể
nhưng chúng mang mầm bệnh trong nhiều năm và trở thành nguồn bệnh tiềm tàng nguy
hiểm.
Nguyễn Văn Sửu (2012) [22] cho biết: gà bị bệnh do Leucocytozoon sp. gây ra
đều có triệu chứng chung như phân xanh màu lá cây, mắt đỏ, mào tích tái, chân khô và ít
vận động, sốt…
* Bệnh tích bệnh Leucocytozoon
Mổ khám gà bệnh thấy: xuất huyết đỏ sẫm ở tất cả các phủ tạng (tim, lách, phổi, thận) và
tổ chức cơ. Đôi khi cũng có các điểm hoại tử trắng trên mặt gan giống như bệnh tụ huyết trùng
gia cầm. Ngoài ra, có thể thấy bệnh tích ở đường tiêu hóa như: niêm mạc đường tiêu hoá bị tổn
thương và xuất huyết.
Olsen O. W. (1986) [43] cho biết: gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở cường độ
nặng, có các bệnh tích điển hình thì tỷ lệ tử vong cao. Các cơ quan nội tạng ký chủ có số
lượng đơn bào ký sinh khác nhau. Các đơn bào ký sinh trong các cơ quan được bao bọc
bởi một lớp do tế bào lympho và bạch cầu đơn nhân lớn tạo nên thể Megaloschizont.
Theo Lâm Thị Thu Hương (2005) [6], khi mổ khám và quan sát bằng mắt thường,
thấy trên cơ thể gà có những nốt mầu trắng đục hay vàng, đỏ hoặc chuyển sang đen, có
kích thước từ 0,2 - 0,5 mm, đôi khi lên đến 1 mm. Những nốt này là bệnh tích do một
giai đoạn phát triển của đơn bào L. caulleryi gây ra. Đơn bào Leucocytozoon được phát
hiện ở nhiều vị trí trên cơ thể gà. Một gà có thể nhiễm Leucocytozoon cùng lúc trên 6 cơ
quan phủ tạng. Sự nhiễm Leucocytozoon thường gặp nhiều nhất ở các cơ quan như phổi,
gan, thận, mô cơ.

Khi mổ khám 56 gà bị bệnh Leucocytozoon tại Thái Nguyên, Nguyễn Văn Sửu
(2012) [22] cho biết: tỷ lệ xuất hiện bệnh tích là 51/56, chiếm 90,07%. Hầu hết gà mổ

- 18 -


khám đều có những bệnh tích đặc trưng của bệnh như: máu loãng, khó đông, tổ chức cơ
nhạt, các cơ quan nội tạng như gan, lách, thận sưng, xuất huyết.
Lê Văn Năm (2011) [19] cho biết: bệnh tích đại thể của bệnh do đơn bào
Leucocytozoon gây ra ở gà rất điển hình, được quan sát thấy trong nhiều cơ quan nội tạng
như: gan, lách, thận, tim, phổi, ruột non, não, buồng trứng và ống dẫn trứng...Những biến
đổi đại thể ở các cơ quan nội tạng như sau:
Gan: sưng to, mềm nhũn và dễ vỡ, trên bề mặt gan thấy nhiều điểm trắng. Đây là
kết quả của các thể phân lập của Leucocytozoon ở gan tạo nên, làm ròn, xốp và tắc nghẽn
các mao mạch, dẫn đến xuất huyết tràn lan, thậm chí vỡ mao mạch, dẫn đến vỡ gan, chảy
máu vào xoang bụng.
Lách: sưng to, ròn, dễ vỡ, trên bề mặt lách có nhiều điểm xuất huyết hoặc hoại tử.
Thận: sưng to, xuất huyết.
Buồng trứng và ống dẫn trứng: buồng trứng bị viêm, thoái hóa; ống dẫn trứng
sưng, dầy lên và có nhiều điểm xuất huyết.
Tim: tim to, cơ tim dầy lên nhưng trương lực cơ bị giảm, cơ trở nên mềm nhão.
Phổi: sung huyết nặng.
Ruột non, dạ dày tuyến, dạ dày cơ: viêm tăng sinh, dầy lên, đôi khi thấy các điểm
hoại tử hoặc nốt loét.
Não: các đại hợp bào phát triển ở não gây tắc nghẽn các mao mạch, dẫn đến bị
phù nề, sung huyết và xuất huyết não.
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [11] cho biết: gà bị bệnh Leucocytozoon có bệnh tích
chủ yếu là: xuất huyết gan, lách, thận, phổi, cơ; gan, thận và lách sưng to có thể gấp 2 – 3
lần so với bình thường. Tỷ lệ cơ quan có Leucocytozoon ký sinh biến động từ 17,39% –
78,26%.

1.1.2.5. Chẩn đoán bệnh Leucocytozoon
* Với gà còn sống
Nguyễn Xuân Bình và cs (2002) [1] cho biết: hiện nay có nhiều bệnh mới ở gia
cầm có triệu chứng lâm sàng và bệnh tích giống nhau, nhưng nguyên nhân gây bệnh lại
khác nhau, làm cho việc chẩn đoán lâm sàng và điều trị bệnh dễ bị sai lầm, gây nên
những tổn thất đáng kể cho chăn nuôi. Do vậy, để chẩn đoán một cách chính xác bệnh có

- 19 -


phải do ký sinh trùng đường máu Leucocytozoon gây ra hay không, người ta thường sử
dụng kết hợp các phương pháp chẩn đoán để mang lại hiệu quả cao hơn.
Chẩn đoán lâm sàng: gà lứa tuổi 1 - 3 tháng chết đột ngột, các phủ tạng đều
bị xuất huyết; ỉa chảy, phân xanh có lẫn máu làm cho gà chết với tỷ lệ cao.
Chẩn đoán xét nghiệm: lấy mẫu máu và phủ tạng, dàn tiêu bản, nhuộm Giemsa và
soi kính để tìm đơn bào gây bệnh.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [16] cho rằng: có thể sử dụng phương pháp làm tiêu
bản máu, dàn mỏng, nhuộm Giemsa, kiểm tra dưới kính hiển vi tìm ký sinh trùng, và sử
dụng phương pháp ngưng kết trên gel thạch để phát hiện kháng thể kháng Leucocytozoon
spp.
Lê Đức Quyết và cs (2009) [21] cho biết: gần đây, các phương pháp huyết thanh
học cũng đã được áp dụng để chẩn đoán bệnh như phương pháp Latex - agglutination,
phương pháp khuyếch tán trên thạch.
Chẩn đoán phân biệt:
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2009) [10] cho biết: cần chẩn đoán phân biệt với
bệnh tụ huyết trùng gia cầm. Triệu chứng và bệnh tích của bệnh đơn bào đường máu ở
gia cầm cũng giống như bệnh tụ huyết trùng gia cầm. Nhưng bệnh đơn bào đường máu
chỉ làm chết gà ở lứa tuổi 1 - 3 tháng. Tuy nhiên, bệnh tụ huyết trùng làm gà chết ở tất cả
các lứa tuổi. Bệnh tụ huyết trùng gia cầm điều trị bằng Streptomycin có hiệu quả nhưng
bệnh do đơn bào đường máu điều trị bằng Streptomycin lại không có hiệu quả.

Theo Lê Văn Năm (2011) [19], cần chẩn đoán phân biệt bệnh do đơn bào
Leucocytozoon gây ra với các bệnh sau:
Bệnh Marek: không có các biến đổi ở gan, lách, thận phổi ở gà dưới 45 ngày tuổi và
trên 1 năm tuổi. Bệnh Marek không có ở thủy cầm và ít gặp ở hoang cầm.
Bệnh bạch huyết (Leucosis): bệnh ít gặp ở gia cầm dưới 6 tháng tuổi. Bệnh có rất
nhiều thể khác nhau như Leucosis dạng võng mô, Leucosis hồng cầu, Leucosis tủy
xương, Leucosis limfo. Mỗi thể bệnh khác nhau chúng lại có những đặc điểm riêng khác
biệt.
Bệnh sốt rét gà: các biểu hiện về dịch tễ và lâm sàng của bệnh sốt rét gà rất giống
với bệnh do Leucocytozoon gây ra. Tuy nhiên, khi mổ khám thì bệnh sốt rét gà không có
những biểu hiện giống như bệnh Leucocytozoon. Gan của gà bị sốt rét có màu xanh đen
hoặc đen, kích thước nhỏ hơn bình thường, túi mật căng chứa đầy mật.

- 20 -


bệnh ký sinh trùng. Đàn gia cầm thường nhiễm ký sinh trùng với tỷ lệ cao, diễn ra quanh
năm, bất kể mùa vụ và thời tiết nào. Hàng năm, thiệt hại kinh tế do bệnh ký sinh trùng
gây ra chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng thu nhập của ngành.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới, có thảm thực vật và
hệ động vật phong phú, đa dạng, thích hợp cho nhiều loài ký sinh trùng phát triển, ký
sinh và gây bệnh. Trong các bệnh ký sinh trùng ở gà, có những bệnh do nhóm đơn bào
ký sinh gây ra, chúng chiếm đoạt chất dinh dưỡng, tiết độc tố, gây ra những biến đổi
bệnh lý làm cho gà gầy yếu, chậm lớn, giảm mạnh sức sản xuất thịt, trứng. Đặc biệt, một
số bệnh đơn bào cũng gây ra các “ổ dịch cấp tính”, làm cho gà chết nhanh, với tỷ lệ cao
không kém các bệnh truyền nhiễm, trong đó có bệnh đơn bào đường máu Leucocytozoon.
Theo Shane S. M. (2005) [49], Leucocytozoon thuộc nhóm nguyên sinh động vật,
thuộc bộ huyết bào tử trùng (Heamosporidia) ký sinh trong máu và cơ quan nội tạng của
nhiều loài gia cầm, trong đó gà là loài mẫn cảm nhất, đặc biệt là gà được nuôi theo
phương thức chuồng hở hoặc bán chăn thả.

Bệnh do các loài đơn bào Leucocytozoon ký sinh trong hồng cầu (đôi khi thấy trong
bạch cầu), gây ra xuất huyết, tan vỡ hồng cầu, dẫn đến thiếu máu và ỉa chảy phân xanh màu lá
cây, làm gà chết với tỷ lệ cao tới 30 - 50% (Phạm Sỹ Lăng, Tô Long Thành, 2006 [14]).
Thái Nguyên là tỉnh trung du miền núi phía Bắc có điều kiện thuận lợi cho chăn
nuôi gà, đặc biệt chăn nuôi gà thả vườn. Việc phòng bệnh bằng vacxin đã được người
dân thực hiện khá nghiêm ngặt. Tuy nhiên, nhiều đàn gà vẫn xuất hiện các triệu chứng
như ỉa phân màu xanh lá cây, mặt tái, gà thiếu máu, gầy yếu. Mổ khám thấy chất chứa
trong diều, dạ dày, ruột có màu xanh, gan sưng to, lách sưng, xuất huyết, cơ đùi xuất
huyết. Các xét nghiệm vi sinh vật cho thấy, gà không mắc bệnh truyền nhiễm. Do đó,
việc chẩn đoán chính xác các đàn gà này mắc bệnh gì để có biện pháp phòng chống phù
hợp là vấn đề cấp thiết.
Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu bệnh đơn bào
đường máu Leucocytozoon ở đàn gà của tỉnh Thái Nguyên và biện pháp phòng trị”.
2. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài để có những kết luận khoa học về đặc điểm dịch tễ, lâm sàng,
biện pháp phòng trị bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại một số địa phương thuộc tỉnh

-5-


Leucocytozoon gây ra. Tác giả cho biết thêm, hiện nay bệnh ký sinh trùng đường máu
thường bị bội nhiễm và ghép với nhiều bệnh khác. Do đó, cần phải phối hợp các phác đồ
điều trị thì mới có hiệu quả điều trị cao.
1.2. Tình hình nghiên cứu về bệnh Leucocytozoon
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Theo Hoàng Thạch (2004) [23], nếu nhiễm Leucocytozoon ở cường độ nhẹ thì chưa
thấy biến đổi gì ở các cơ quan nội tạng, nhưng nếu nhiễm vừa và nặng (3 - 6 ký sinh trùng
trên 1 vi trường) thì xuất hiện sự thoái hoá, biến màu, thậm chí hoại tử từng đám nhỏ; nếu
kéo dài thì tăng sinh, làm giảm chức năng hoạt động hoặc bị phá hủy, rõ nhất là gan và lách.

Lâm Thị Thu Hương và cs (2005) [6] cho biết: tần suất xuất hiện các nang
Leucocytozoon trên một số cơ quan phủ tạng của gà như sau: ở cơ là 96,22%, phổi là
92,45%, thận là 86,80%, gan là 81,13%.
Theo Lê Đức Quyết và cs (2009) [21]: tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố như: tuổi gia cầm, giống, địa hình, vùng sinh thái, phương thức chăn
nuôi… Kết quả nghiên cứu của tác giả về Leucocytozoon ở gà tại một số tỉnh Nam Trung
Bộ như sau:
Tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon chung là 13,29%, cụ thể ở Phú Yên tỷ lệ nhiễm là
20%, Bình Định 9,54%, Khánh Hoà 12,04%.
Tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon cao ở vùng núi (27,34%) và thấp ở vùng đồng bằng
(12,46%).
Tỷ lệ lưu hành Leucocytozoon ở gà địa phương là 12,46%, cao hơn nhiều so với
gà ngoại (7,61%).
Tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon cao nhất là ở gà giai đoạn > 6 tuần tuổi (15,6%), kế
đến là ở độ tuổi 4 - 6 tuần (13,5%) và thấp nhất là ở độ tuổi dưới 4 tuần (7,6%).
Bằng phương pháp nhuộm Giemsa và định loại đơn bào Leucocytozoon ký sinh
trên đàn gà ở một số tỉnh Nam Trung Bộ (căn cứ vào hình thái, vị trí, màu sắc, kích thước
của các giao tử Gametocyt ký sinh trong máu gà), tác giả cũng đã xác định có 2 loài ký
sinh trên đàn gà là L. caullergyi và L. sabrazesi.
Khi khảo sát tình hình nhiễm ký sinh trùng đường máu trên gà thịt tại hai tỉnh
Vĩnh Long và Sóc Trăng, Nguyễn Hữu Hưng (2011) [5] cho biết: đàn gà thịt nhiễm ký
sinh trùng đường máu với tỷ lệ khá cao (30,47%). Trong đó tỷ lệ nhiễm ở Vĩnh Long là

- 22 -


32,38% và ở Sóc Trăng là 28,22%. Tác giả cũng cho biết gà Tam Hoàng có tỷ lệ nhiễm
cao hơn hai giống Newlohman và Brown AAA. Gà nuôi nuôi theo kiểu chuồng hở tỷ lệ
nhiễm cao hơn so với kiểu chuồng kín.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Trong 91 con chim sẻ ở thung lũng Jordan (Israel) được xét nghiệm máu, người ta
đã xác định được tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon là 79% [53].
Ở một số gà con 9 - 20 ngày tuổi tại Stewart Island, đã phát hiện 100% số mẫu xét
nghiệm dương tính với đơn bào Leucocytozoon [54].
Ở Liên Xô (cũ), Nikitin N. K. và Artemenko M. N. (1927) đã kiểm tra máu chim
trời ở Ucrain và tìm thấy Leucocytozoon ở 7% số chim (dẫn theo Orlov F. M, 1975,
[20]).
Sehgal R. N., và cs (2006) [48], đã xét nghiệm máu của 148 gà ở làng Uganda và
Cameroon, xác định được tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon schoutedeni là 18,3%.
Peter Shurulinkov và Vassil Golemansky (2003) [46] đã phát hiện có 6 loài
Leucocytozoon trong máu của 9/ 17 loài chim được nghiên cứu.
Huchzermeyer F. W. và Sutherland B. (1978) [35] lần đầu tiên đã phát hiện được
Leucocytozoon smithi ở phía Bắc Châu Phi, tác giả cho rằng Simulium nigritarse là ký
chủ trung gian của ký sinh trùng này.
Morii T. và cs (1984) [39] đã thử nghiệm lây nhiễm những thoi trùng
Leucocytozoon được chiết từ tuyến nước bọt của dĩn, kết quả cho thấy: các thoi trùng
được phân lập vào ngày thứ 2 sau khi dĩn hút máu gia cầm bệnh thì không gây nhiễm
được cho gà. Các thoi trùng được phân lập vào ngày thứ 3 thì có khả năng gây nhiễm cho
gà.
Morii T. và cs (1986) [40] đã phân lập các thoi trùng từ tuyến nước bọt của
Culicoides arakawa và gây bệnh cho gà. Kết quả thấy thoi trùng xuất hiện trong ngoại vi
máu gà vào ngày thứ 15 và không còn vào ngày thứ 26 sau khi gây nhiễm. Kháng nguyên
hòa tan được tìm thấy trong huyết thanh của gà gây nhiễm trong khoảng 10 - 17 ngày,
kháng thể tương đồng xuất hiện ở ngày thứ 17 sau gây nhiễm.
Nakamura K. và cs (2001) [42] đã nghiên cứu ảnh hưởng có hại của Leucocytozoon đến
khả năng sản xuất trứng của gà, thậm chí có thể làm gà ngừng đẻ. Tác giả đã phát hiện thấy một
số lượng lớn thể phân liệt thế hệ 2 trong buồng trứng và ống dẫn trứng của gà bệnh, gây
phù và làm giảm áp lực của các mô lân cận các mô có đơn bào ký sinh.

- 23 -



Steele E. J. và cs (2001) [50] cho biết: sự phát triển của Leucocytozoon smithi có
những nét tương đồng với sự phát triển của các loài Plasmodium và Haemoproteus trong
ký chủ trung gian.
Bằng phương pháp PCR để định loại đơn bào ký sinh ở gà, Hellgren O. và cs
(2004) [34] đã tìm thấy 22 loài ký sinh trùng khác nhau, gồm 4 loài Haemoproteus, 8 loài
Plasmodium và 10 loài Leucocytozoon trong 6 loài chim tước mà tác giả nghiên cứu.
Shane S. M. (2005) [49] cho biết: việc kết hợp Clopidol anticoccidial trong thức
ăn chăn nuôi với các hàm lượng khác nhau từ 125 - 250 ppm đã làm giảm tỷ lệ nhiễm
Leucocytozoonosis ở gà tây tại Hoa Kỳ.
Omori S. và cs (2008) [44] đã phân tích bộ gen của Leucocytozoon caulleryi. Kết
quả đã mô tả được bộ gen nhiễm sắc thể của L. caulleryi với chiều dài 5.959 bp.
Tully T. N. và cs (2009) [51] cho rằng: việc sử dụng Chloriquine (250 mg/ 120 ml
nước uống trong 1 - 2 tuần) hoặc pyrimethamine có thể điều trị được bệnh do
Leucocytozoon gây ra. Có thể sử dụng kết hợp pyrimethamine (1 ppm) với
salfadimethoxin (10 ppm) trong thức ăn chăn nuôi để phòng bệnh do L. caulleryi và sử
dụng Clopidol (0,0125 - 0,025%) trong thức ăn để phòng bệnh do L. smithi gây ra ở gà
và gà tây.
Nghề chăn nuôi vịt tại các bán đảo phía Bắc của Michigan - Seney đã bị ngừng trệ
do đơn bào Leucocytozoon gây bệnh làm chết một số lượng lớn vịt, gây thiệt hại nghiêm
trọng về kinh tế cho người chăn nuôi [57].
Mullen G. R., Durden L. (2009) [41] cho biết: gà tây nuôi trên đồng cỏ Attwater
đã bị tấn công bởi ký sinh trùng đường máu thuộc giống Leucocytozoon, gây thiệt hại
nghiêm trọng cho chăn nuôi.
Omori S. và cs (2010) [45] đã sử dụng phương pháp phân tích, đếm tế bào dòng
chảy, tách Leucocytozoon để xác định sự có mặt của đơn bào trong máu. Phương pháp
này có thể xác định được những mẫu máu bị nhiễm ký sinh trùng đường máu mà các
phương pháp thông thường khác không tìm thấy được.
Hill A. G. và cs (2010) [33] sử dụng phương pháp PCR để kiểm tra 107 mẫu máu

chim cánh cụt mắt vàng từ 4 khu vực khác nhau ở phía Nam đảo Oamaru. Kết quả thấy,
83% số mẫu kiểm tra dương tính với Leucocytozoon.

- 24 -


Có thể sử dụng kết hợp pyrimethamine (1 ppm) với salfadimethoxin (10 ppm)
trong thức ăn chăn nuôi để phòng bệnh do L. caulleryi và và sử dụng Clopidol (0,0125 –
0,025%) trong thức ăn để phòng bệnh do L. smithi gây ra [55].

- 25 -


×